1
Hơn mười ngày sau khi đại đội bộc phá bị đuổi khỏi thôn trấn, một buổi tối, chị Phán Đệ dúi đứa trẻ bọc trong chiếc áo quân phục cũ vào lòng mẹ. Chị nói:
Hơn mười ngày sau khi đại đội bộc phá bị đuổi khỏi thôn trấn, một buổi tối, chị Phán Đệ dúi đứa trẻ bọc trong chiếc áo quân phục cũ vào lòng mẹ. Chị nói:
- Mẹ, cho mẹ đấy!
Chị Phán Đệ ướt lướt thướt, bộ quần áo mỏng dính chặt trên người, cặp vú đồ sộ nặng trĩu mê hoặc con mắt tôi. Mái tóc chị bốc hơi ngùn ngụt, tỏa mùi men rượu. Núm vú đỏ hồng phập phồng sau lần áo lót. Tôi rất muốn xông tới ngoạm vào bầu vú chị, vuốt ve bầu vú chị, nhưng không dám. Chị Phán Đệ tính nết dữ dằn, hơi tí là bạt tai. Chị không hiền như chị Cả. Bạt tai thì bạt, tôi phải sờ được vú chị. Tôi nấp sau cây lê, cắn chặt môi dưới chờ đợi.
- Đứng lại! - Mẹ quát to - Quay lại tao bảo!
Chị Phán Đệ giương to mắt nhìn mẹ, nói:
- Mẹ, đều là con gái của mẹ, mẹ nuôi hộ các chị ấy, thì cũng phải nuôi hộ con.
- Tao nợ nần gì mày? - Mẹ giận dữ gào lên - Chúng mày đẻ xong là quẳng về đây, con chó nó cũng không thế?
- Mẹ ơi - Khi chúng con gặp vận, mẹ đều được thơm lây. Giờ đây gặp hạn ngay cả con của con cũng không được nhờ vả chút gì hay sao? Mẹ ơi, phải công bằng chứ!
Từ trong bóng tối, tiếng cười của chị Cả vọng ra, nghe ơn lạnh xương sống. Chị thản nhiên nói:
- Em Năm, hãy bảo cái thằng Tưởng là có ngày chị sẽ giết nó?
- Chị Cả - Phán Đệ nói - Chị vui mừng hơi sóm đấy! Thằng chồng Hán gian Sa Nguyệt Lượng của chị có chết cũng chưa hết tội. Tôi khuyên chị hãy cụp đuôi lại, dùng có lồng lên, nếu không, chẳng ai cứu nổi chị!
- Đừng cãi nhau nữa! - Mẹ thét to.
Mặt trăng muộn đỏ quạch, trườn lên nóc nhà, soi rõ những người đàn bà trong sân, mặt nhuốm đỏ như bôi máu. Mẹ buồn bã lắc đầu, vừa khóc núc nở vừa nói:
- Tao không hiểu tiền oan nghiệp chướng gì mà đẻ ra những của nợ này!... Chúng mày cút đi, đi cho khuất mắt tao!
Lai Đệ như một bóng ma màu xanh chạy vào chái tây, và cứ lảm nhảm một mình trong đó như đang nói chuyện với Sa Nguyệt Lượng. Chị Lãnh Đệ như mộng du từ ngoài đầm trở về, trong tay một xâu ếch kêu ộp oạp. Chị trèo qua tường phía nam, vào trong sân.
- Trông kìa! - Mẹ lầu bầu - Đứa thì điên, đứa thì dở người! Thế này thì làm sao mà sống được?
Mẹ cúi xuống, đặt đứa con chị Năm dưới đất rồi đi vào trong nhà. Đứa bé khóc oe oe, mẹ không thèm ngoảnh lại. Mẹ đá thằng Tư Mã Lương đang đứng bên cửa, phát đánh bốp vào đầu Sa Tảo Hoa.
- Chúng mày là những của nợ? Sao không chết cả đi!
Rủa xong, mẹ đi vào buồng ngủ, đóng cửa đánh sầm, tôi nghe thấy tiếng đồ đạc loảng xoảng. Và cuối cùng là một tiếng bịch nặng nề như bao lương thực bị rớt, tôi đoán rằng đó là tiếng bà Lã nằm vật trên giường sau khi trút hết cơn điên. Tôi không trông thấy cái dáng mẹ nằm trên giường, nhưng hai tay dang rộng, bàn tay xương xầu tấy đỏ, đầy những vết nứt nẻ. Bên tay trái là đứa con của Lãnh Đệ rất có thể bị câm, bên tay phải là hai đứa con xinh đẹp điên điên khùng khùng của chị Chiêu Đệ. ánh trăng chiếu trên đôi môi nhọt nhạt của mẹ, đôi vú mệt mỏi nằm bẹp trên xương ngực. Bên cạnh mẹ, chỗ đứa con gái nhà Tư Mã, vốn là chỗ của tôi, nhưng giờ đây bà Lã nằm dạng hai chân, nên chỗ đó đã bị lấn chiếm.
Ngoài sân, trên lối đi còn thấp hơn cả hai bên, đứa con bọc trong chiếc áo quân phục cũ của chị Phán Đệ, khóe ngằn ngặt. Không ai hỏi một câu. Mẹ đẻ ra nó là Phán Đệ hùng hổ nói qua cửa sổ buồng mẹ:
- Mẹ phải nuôi nó hộ con, con và Lỗ Lập Nhân sớm muộn sẽ trở về!
Mẹ đấm xuống chiếu, gầm lên:
- Nuôi hộ mày hả? Tao thì vứt nó, cái đứa con hoang của mày ấy, xuống sông cho ba ba nó ăn quẳng xuống giếng cho ếch nhái nó đớp, quẳng vào chuồng phân cho giòi bọ nó đục!
- Tùy mẹ - Chị Phán Đệ nói - Dù sao nó là con của con, mà con lại là con của mẹ, suy cho cùng, mẹ vẫn có trách nhiệm!
Nói xong, Phán Đệ toàn thân run bắn, cúi nhìn đứa con trên lối đi rồi loạng choạng chạy ra cổng. Khi chạy qua chái tây thông với gian giữa, chị vấp phải ngưỡng cửa ngã chúi. Cái vấp đau nhưng chị lồm cồm bò dậy, hai tay ôm chặt cặp vú bị thương, chửi vọng vào chái tây:
- Đồ đĩ, hãy đợi đấy?
Lai Đệ trong chái tây cuối khúc khích. Trong bóng tối, tôi đưa tay sờ vú chị, chị nhổ nước bọt vào mặt tôi rồi bỏ đi. Sáng sớm hôm sau, chúng tôi thấy mẹ đang huấn luyện con dê trắng cho con chị Phán Đệ nằm ngửa trong cái sọt mà bú.
Những buổi sáng mùa xuân năm một nghìn chín trăm bốn mươi sáu, quang cảnh trong sân nhà Thượng Quan náo nức chết cười. Mặt trời chưa lên, ánh sáng ban mai bàng bạc. Lúc này thôn xóm còn đang ngủ, chim én còn đang nói mê trong tổ, những con dế còn đang gảy đàn trong hang ấm sau bếp, trâu bò nhai lại bên máng cỏ, Tư Mã Khố đang ngáy trong nách chị Hai... thì mẹ đã thức dậy, rên rỉ xoa bóp những ngón tay đau nhức rồi mò mẫm tìm áo khoác, vất vả gập cánh tay tê dại cài khuy nách. Xong xuôi, mẹ ngáp dài, xoa mặt, mở mắt, thò chân xuống giường tìm giày. Tìm thấy giày, mẹ xuống giường, người lắc lư, lại ngáp một cái nữa, cúi xuống kéo gót giày để xỏ chân vào, ngồi xuống ghế đẩu, đưa mắt nhìn một lượt những khuôn mặt chúng sinh. Rồi mẹ ra sân lấy gáo múc nước từ ang vào chậu. òa, một gáo, òa, hai gáo, mỗi lần đều bốn gáo, đôi khi năm gáo. Rồi mẹ bê chậu nước đến chuồng, cho dê uống nước. Năm con dê cái, ba đen hai trắng, mặt dài ngoẵng, sừng cong như lưỡi liềm, cằm dài có râu dài. Chúng chụm đầu vào nhau, uống nước soàm soạp trong chậu. Mẹ cầm chổi vun phân dê lại rồi quét hết vào chuồng, xúc đất ngoài ngõ trải đều lên, lấy lược gỗ chải lông cho lũ dê. Trở lại lấy nước rửa thật sạch vú cho từng con. Lũ dê khoan khoái kêu be be. Lúc này, mặt trời đã nhô lên đỉnh núi, ánh hồng và ánh đỏ đuổi sạch màu bàng bạc của sớm mai. Mẹ trở vào nhà cọ chảo, đổ nước vào, lớn tiếng gọi:
- Niệm Đệ, Niệm Đệ, dậy đi!
Mẹ đổ kê và đậu xanh vào chảo, khuấy đều, cuối cùng bỏ thêm một nắm đậu vàng, lại khuấy. Đậy nắp chảo, cho củi vào lò, đánh diêm, mùi lưu huỳnh, bà nội mắt trắng đã ngồi trong nói, mẹ than thở. Lách tách, cây đậu đang cháy, mùi thơm xộc vào mũi. Tạch, một hạt đậu còn sót, nổ trong ngọn lửa
- Niệm Đệ đã dậy chưa?
Tư Mã Lương mắt nhắm mắt mở từ căn buồng phía đông đi ra sân, ra nhà xí ống khói tỏa khói xanh. Niệm Đệ đang ở sân, thùng chạm nhau lịch kịch, chị sắp ra sông lấy nước. Be, dê kêu? Oa, Lỗ Thắng Lợi khóc! Tư Mã Phượng, Tư Mã Hoàng thì thầm. Hai con trai của Tiên Chim ậm ọe. Tiên Chim lười nhác đi ra cổng. Lai Đệ chải đầu bên cửa sổ. Đàn ngựa hí vang trong ngõ, đó là đám kỵ binh cho ngựa ra sông uống nước. Đàn la đi ngang qua ngõ, chúng ra sông uống nước trở về. Chuông xe đạp kính cong, trung đội xe đạp đang luyện tập. Mẹ sai Tư Mã Lương:
- Cháu đun bếp cho bà!
- Kim Đồng, dậy đi, dậy ra sông rửa mặt!
Mẹ bê năm cái sọt đan bằng nhành liễu như hình cái ghế ra, đặt năm đứa trẻ xuống ghế, ở tư thế nằm ngửa. Mẹ ra lệnh cho Sa Tảo Hoa:
- Thả đàn dê ra!
Sa Tảo Hoa chạy con cón, hai chân khẳng khiu, tóc rối bù, mắt mọng vì ngái ngủ, bước vào chuồng dê. Lũ dê lắc sừng tỏ vẻ thân thiện, thè lưỡi liếm đất bám trên gối nó.
Nó nắm tay đấm yêu lên đầu con dê, mắng:
- Đồ cộc đuôi!
Nó tháo bỏ thùng chạc ở cổ dê, vỗ tai dê, nói:
- Đi ra, mày là của Lỗ Thắng Lợi!
Con dê của Lỗ Thắng Lợi vui vẻ vẫy đuôi nhanh nhẹn gõ móng, chạy ào đến bên sọt của Lỗ Thắng Lợi. Thắng Lợi nằm chổng bốn vó lên trời, chờ đợi. Con dê dạng hai chân sau, bước lùi mấy bước để bầu vú sát mặt con bé. Đầu vú dê tìm miệng con bé, miệng con bé tìm đầu vú dê, động tác thuần thục, chuẩn xác. Núm vú con dê to và dài là thế, mà Lỗ Thắng Lợi đớp gọn trong miệng, y hệt một con cá quả tham ăn. Con dê của thằng Câm anh, của thằng Câm em, của Tư Mã Phượng, của Tư Mã Hoàng lần lượt đến bên chủ của mình, cùng một động tác như nhau tiếp cận miệng lũ trẻ, thành thạo và lặng lẽ. ánh nắng vàng óng trùm lên khung cảnh cho trẻ bú đầy xúc động. Lũ dê cong lưng? lim dim mắt, râu dưới cằm rung rung.
- Bà ơi, nước sôi... rồi? - Tư Mã Lương nói.
- Để sôi một lúc nữa mẹ đang rửa mặt ngoài sân.
Lửa liếm nhanh đáy chảo. Cái bếp này đã được bác cấp dưỡng của đại đội bộc phá cải tạo lại. Tư Mã Lương chỉ mặc quần đùi, cởi trần. Nó rất gầy, cặp mắt u sầu. Niệm Đệ gánh nước về, thùng nước nhún nhẩy theo đòn gánh. Chị đang để lại tóc, đã dài chấm lưng, đầu bím buộc dây ni lông theo thời thượng. Lũ dê nhất loạt đổi bên vú cho lũ trẻ.
- Ăn cơm thôi! - Mẹ bảo.
Sa Tảo Hoa ngả bàn, Tư Mã Lương lấy đũa bát. Mẹ múc cháo, một bát hai bát ba bát bốn bát năm bát sáu bát bảy bát. Sa Tảo Hoa và Ngọc Nữ lấy ghế ngồi. Niệm Đệ bón cháo cho bà Lã. Lai Đệ và Lãnh Đệ cầm bát của mình đi tới tự múc mỗi người một bát. Mẹ không nhìn nhưng lầu bầu:
- Khi ăn thì chẳng điên chút nào!
Hai chị bê cháo ra vườn ăn. Niệm Đệ nói:
- Nghe nói trung đoàn mười bảy thuộc trung đội tám sắp đánh đến đây!
Tôi quì trước mặt mẹ để ti sữa. Mẹ bị vướng phải quay mặt sang bên để ăn cháo.
- Mẹ nuông chiều nó quá đấy, nó định bú cho đến khi lấy vợ chắc? - Niệm Đệ nói.
- Có người bú tí mẹ đến lúc lấy vợ đấy- Mẹ nói - Đó là bố Bảo Tài ở ngõ Tây, bú tí mẹ đến lúc lấy vợ.
Tôi đổi bên vú.
- Kim Đồng, mẹ cũng rộng lượng cho đến ngày còn đủ sữa cho con!
- Mẹ đã nếm trải đủ mùi gian khổ, vậy mà sữa mẹ vẫn nhiều? - Khi nào quả thật không đủ sẽ kiếm cho nó một con dê - Chị Niệm Đệ nói.
- Niệm Đệ em hận chị!
- Cơm xong, đi chăn dê, kiếm ít hành dạ và rau săng, làm bữa trưa.
Mẹ dặn dò xong, bữa sáng kết thúc.
Lỗ Thắng Lợi nhích từng tí trên bãi cỏ, mông lết trên cỏ mịn như nhung. Mục tiêu của nó là con dê trắng đang đỏng đảnh bút từng ngọn cỏ non, khuôn mặt dài được rửa sạch bằng sương sớm có những nét ngạo mạn của tiểu thư quí tộc. Thời đại nhốn nháo, bãi cỏ im lìm. Những đóa hoa muôn màu điểm xuyết đây đó, bãi cỏ thật là đẹp, mùi thơm làm ta mê man. Chúng tôi chạy đã thấm mệt, nằm bò xung quanh chị Niệm Đệ. Tư Mã Lương nhai nhánh cỏ trong miệng, nhựa cỏ xanh dính hai bên mép. Mắt nó đồng tử màu vàng, lóe lên những tia trắng đục. Dáng dấp và động tác nhai cỏ khiến nó trở thành con cào cào khổng lồ. Cào cào cũng ăn cỏ, khi nhai cỏ, cũng ứa nước xanh ở mép. Sa Tảo Hoa đang quan sát một con kiến kềnh. Con kiến đứng trên ngọn cỏ mao, đang phân vân tìm lối xuống. Mũi tôi chạm phải một cụm hoa nhỏ xíu màu vàng, mùi thơm của nó khiến tôi chỉ muốn hắt hơi, quả nhiên tôi đã hắt xì hơi rõ to. Chị Niệm Đệ nằm ngửa mặt, ở giữa chúng tôi, bị cái hắt hơi của tôi làm giật mình. Chị trố mắt liếc xéo tôi, tỏ ra không bằng lòng, bĩu môi, nhíu mũi, rồi lại nhắm mắt. ánh nắng mặt trời khiến chị hết sức khoan khoái. Hai gò má hơi cao, trắng mịn, không một nếp nhăn, lông mi dầy, môi trên mọc đầy lông tơ, cằm hơi dô một cách nghịch ngợm, vành tai chỉ có ở các cô gái nhà Thượng Quan, tròn đầy và trắng trẻo. Chị mặc chiếc áo ngoài bằng đoạn trắng của chị Chiêu Đệ cho, áo khép hai vạt đính khuy uyên ương là mốt thịnh hành đương thời, bím tóc to bằng con lệch thả trước ngực. Điều cần nhắc đến là cạp vú của chị. Vú chị không lớn nhưng chỉ nhìn cũng biết chúng rắn câng không nhão không xệ, vì vậy tuy cô chủ của chúng ở tư thế nằm ngửa mà chúng vẫn nhọn hoắt, trắng mịn giữa khe hở của hai vạt áo. Tôi bỗng nảy ra một ý muốn khó cưỡng lại, đó là lấy cọng cỏ chọc vú chị nhưng không dám. Chị Niệm Đệ xưa nay vẫn mặt trăng mặt trời với tôi, chị ghét cay ghét đắng chuyện tôi vẫn còn bú tí, chòng ghẹo chị thì chẳng khác sờ mông cọp. Tôi đấu tranh tư tưởng quyết liệt. Đứa nhai cỏ vẫn nhai cỏ, đứa chơi với kiến vẫn chơi với kiến, đứa bò lết vẫn bò lết. Con dê trắng như mụ quí tộc, con dê đen như bà quả phụ. Chúng ăn không ngon miệng vì thức ăn nhiều, không biết nên ăn món nào, cỏ nhiều không biết nên ăn cỏ nào. Hắt xì! Thì ra dê cũng biết hắt hơi, mà lại hắt hơi rõ kêu. Bầu sữa của chúng đã đầy. Trời đã gần trưa, tôi ngắt một cọng cỏ đuổi chó, quyết tâm sờ mông hổ. Không ai để ý đến tôi. Tôi khẽ buồn cọng cỏ vào giữa khe áo do vú đội lên. Trong tai tôi có tiếng ong ong, cảm thấy tim đập như con thỏ nhảy trong ngực. Cọng cỏ đã chạm vào lần da. Chị không phản ứng gì, chẳng lẽ chị đang ngủ? Ngủ thì sao lại không có tiếng ngáy? Tôi xoay xoay cọng cỏ, chị giơ tay gãi ngực, không mở mắt ra.
Chắc chị cho rằng có con kiến bò giữa khe vú. Tôi chọc cọng cỏ sâu hơn nữa và ngoáy. Chị đập tay trên ngực đanh bốp một cái, bàn tay chạm cọng cỏ của tôi, chị rút nó ra. Chị nhìn cọng cỏ, trở mình ngồi dậy nhìn tôi, mặt đỏ bùng. Tôi ngoác miệng cười với chị.
- Đồ đốn mạt - chị mắng - Mẹ làm hư mày rồi?
Chị dúi đầu tôi xuống cỏ, phát hai cái vào mông tôi. - Mẹ nuông chiều mày nhưng tao thì không - Chị trợn mắt quát - Đời mày rồi cũng chết treo dưới vú mẹ...
Tư Mã Lương hốt hoảng nhả cọng cỏ ra. Sa Tảo Hoa thôi không quan sát lũ kiến. Chúng nhìn tôi, không hiểu có chuyện gì xảy ra, đồng thời lại nhìn chị Niệm Đệ. Tôi khóc lên hai tiếng, hoàn toàn chỉ là hình thức vì tôi đã vớ bở. Chị đứng lên, dùng đầu hất bím tóc ra sau lưng vẻ ngạo nghễ. Lỗ Thắng Lợi đã bò đến bên con dê của nó, nhưng con dê không chịu, cứ né tránh, ngay cả lúc nó đã túm được núm vú, con dê quay lại húc con bé ngã lăn ra. Nó khóc như tiếng dê, không hiểu là khóc hay là gọi. Tư Mã Lương thì cắm cổ bỏ chạy làm kinh động những con cào cào có cánh trong màu hồng và mấy con chim chích màu vàng nhạt. Sa Tảo Hoa ngắt những bông tú cầu mịn như nhung. Tôi ngượng nghịu đứng lên, đi theo chị Niệm Đệ, đấm thùm thụp vào mông chị, vừa ăn vạ:
- Đấy nhé, chị đánh em, chị dám đánh em.
Mông chị rắn chắc, tôi đấm mà thấy đau những ngón tay. Chị mất hết kiên nhẫn, quay lại nhe răng trợn mắt, gầm gừ như chó sói. Tôi sợ toát mồ hôi, chợt hiểu rằng, mặt người và mặt thú chỉ là hai mặt của một đồng tiền. Chị túm tóc tôi đẩy một cái thật mạnh, tôi ngã ngửa trên bãi cỏ. Chị tóm lấy sừng con dê trắng, con dê chỉ chống cự lấy lệ. Lỗ Thắng Lợi nhanh nhẹn bò tới nằm ngửa dưới bụng con dê, cố ngóc đầu lên để ngậm đúng đầu vú, hai chân cũng đạp ngược dần lên bụng con dê. Chị Niệm Đệ vuốt ve cái tai của con dê, nó vẫy đuôi tỏ ý thuần phục. Tôi đói bụng, trong lòng buồn rũ. Tôi hiểu ra rằng, những ngày sống dựa vào mẹ không còn lâu nữa, phải tìm ra một loại thức ăn cho mình. Tôi lập tức nghĩ đến những sợi miến ngoằn ngoèo như những con giun mà lợm giọng chỉ muốn nôn ọe, và tôi đã ọe khan hai tiếng. Chị Niệm Đệ ngẩng lên nghi ngờ nhìn tôi:
- Mày sao thế hả? - chị hỏi bằng một giọng ngán ngẩm.
Tôi xua tay, tỏ ý không thể trả lời chị. Tôi lại nôn khan mấy tiếng nữa. Chị rời con dê, bảo tôi:
- Kim Đồng, lớn lên rồi em sẽ như thế nào?
Tôi nhất thời không hiểu ý tứ trong câu nói của chị. Chị nói:
- Chị thấy em nên thử ăn sữa dê xem sao?
Tôi nhìn Lỗ Thắng Lợi đang mút vú dê chùn chụt, trong bụng có phần suy nghĩ.
- Em định để mẹ chết à? - Chị lắc vai tôi, hỏi - Em có biết cái gì biến thành sữa không? Sữa tức là máu! Em đang hút máu của mẹ! Nghe lời chị, ti sữa dê đi!
Tôi nhìn chị, gật đầu gượng gạo. Chị túm lấy con dê đen của thằng câm lớn, bảo tôi:
- Lại đây, mau lên? Chị vỗ vỗ lưng con dê cho nó đứng yên - Lại đây!
Chị nhìn tôi bằng ánh mắt khích lệ. Tôi do dự, tiến lên một bước rồi lùi lại hai bước. Lại đây, chui vào bụng dê, học cách nó chui ấy!
Tôi nằm ngửa tì gót xuống cỏ đầy người trườn đi.
- Câm lớn, câm lớn, lùi mấy bước nào - Chị Niệm Đệ vừa nói vừa đẩy lùi con dê đen.
Tôi nhìn thấy bầu trời Cao Mật trong vắt, những con chim nhỏ màu vàng kim bay trong nàng, lượn vòng, cất tiếng hót vui tai. Nhưng tầm nhìn của tôi lập tức bị che khuất, bầu vú màu phấn hồng của con dê đã treo lủng lẳng trên mặt tôi. Hai đầu vú to như hai con đại trùng đung đưa tìm miệng tôi. Chúng chạm vào môi tôi, sự cọ xát khiến môi tôi tê tê như chạm vào một dòng điện nhỏ, tôi mê đi trong một cảm giác sung sướng. Trước kia tôi cứ cho rằng đáu vú của dê rất mềm, không co giãn, mềm như bông, ngậm trong miệng lập tức biến thành hồ nhão. Giờ đây tôi mới biết chúng rất cứng, cứng mà dẻo, sức co dãn vào loại ưu việt, chẳng kém vú mẹ tôi chút nào. Trong khi va chạm, tôi cảm thấy một làn hơi ấm thấm ướt môi tôi, sữa có mùi gây gây khiến tôi không thích, nhưng trong cái mùi gây đó có mùi thơm, mùi thơm của hoa dại trộn lẫn mùi nhựa cây mọc trên đồng cỏ. Tôi mềm lòng, hé mở hàm răng cắn chặt, dòng sữa dê tia thẳng vào họng tôi, nhảy múa trong vòm miệng, tôi tức thở nhả đầu vú ra, nhưng đầu vú khác lập tức thay thế, sữa của nó tia càng mạnh hơn...
Con dê ve vẩy đuôi, rời tôi một cách thanh thản. Tôi ứa nước mắt. Mùi gây gây phảng phất trên mặt, tôi buồn nôn. Miệng thơm mùi cỏ và hoa dại, tôi không nôn nữa. Chị Sáu kéo tôi đứng dậy, bế tôi xoay một vòng. Tôi trông thấy khuôn mặt chị nổi lên những đốm đỏ vì vui sướng.
Mắt chị đen láy như hòn cuội vừa vớt dưới nước lên. Chị xúc động nói:
- Thằng ngốc, em được cứu rồi!...
- Mẹ ơi, mẹ! chị Sáu phấn khởi gọi to - Kim Đồng ăn được sữa dê rồi! Kim Đồng ăn được sữa dê rồi!
Trong nhà vọng ra tiếng chát bụp.
Mẹ vút chiếc chày cán bột dính đầy máu tươi lên mép lò há miệng thở hồng hộc, bộ ngực đồ sộ phập phồng dữ dội.
Bà Lã nằm sõng sượt trên đống cho cạnh bếp, đầu vỡ toác chẳng khác cái hột đào bị dập vỡ.
Chị Tám Ngọc Nữ ngồi co rúm ở cửa bếp, tai chị bị mất một mẩu như bị chuột gặm, chỗ rách không gọn, máu nhỏ từng giọt, nhuộm đỏ má và ngực chị. Chị khóc ti tỉ, cặp mắt thong manh mọng nước.
- Mẹ, mẹ đánh chết bà nội rồi! - chị Sáu kinh hoảng kêu lên.
Mẹ đưa tay rờ vết nút trên đầu bà nội, rồi như bị điện giật mẹ ngồi phịch xuống đất.
Chúng tôi với tư cách là khách mời đặc biệt leo lên đèo Trâu Nằm, xem Tư lệnh Tư Mã Khố và thanh niên Mỹ Bác-bít biểu diễn kỹ thuật bay. Hôm ấy có gió dông nam, nắng đẹp. Tôi cưỡi la chung với chị Lai Đệ. Chị Chiêu Đệ thì cưỡi chung với Tư Mã Lương. Tôi ngồi phía trước, chị Lai Đệ vòng tay ôm ngực tôi Chị Chiêu Đệ ngồi trước, Tư Mã Lương chỉ níu dưới nách áo chị, không sao ôm vòng cái bụng to tướng đang mang thai cửa chị. Đội ngũ chúng tôi men theo đuôi, leo dần lên sống lưng núi Trâu Nằm mọc đầy cỏ lau sắc cạnh và cây bồ công anh nở hoa vàng. Những con la chở chúng tôi tỏ ra nhẹ nhõm.
Tư Mã Khố và Bác-bít cưỡi ngựa vượt lên trước chúng tôi. Hai người tỏ ra vô cùng phấn chấn. Tư Mã Khố còn giơ nắm tay lên huơ huơ với chúng tôi. Trên đỉnh núi có một tốp người mặc quần áo vàng hét lên gì đó với những người ở dưới. Tư Mã Khố giơ cái roi ngắn vụt cho con ngựa lai liền hai roi, con ngựa từng bước trèo lên đèo. Ngựa của Bác-bít theo sau. Bác-bít ngồi trên lưng ngựa rất giống tư thế ngồi trên lưng lạc đà, dù lắc lư đến mấy, phần thân của anh ta vẫn thẳng đơ. Hai chân dài ngoẵng, bàn đạp gần như sát mặt đất, con ngựa kẹp giữa hai chân trông vừa thương hại vừa buồn cười, vậy mà nó chạy rất nhanh.
- Chúng mình cũng phải nhanh lên! - Chị Hai nói.
Chị dùng gót chân thúc vào bụng con la. Chị là thủ lĩnh của đoàn khách, đường đường là Tư lệnh phu nhân, ai dám không tôn trọng? Đám đại biểu dân chúng, những nhân vật nổi tiếng của địa phương đi phía sau, tuy thở phì phò nhưng không một ai ca thán. Con la của tôi và chị Lai Đệ theo sát con la của chị Chiêu Đệ và Tư Mã Lương, cặp vú lẩn sau lần áo choàng đen cọ vào lưng tôi, khiến tôi nhớ lại trò chơi vỡ lòng bên máng cỏ, tôi cảm thấy rất vui.
Lên tới đỉnh núi, gió mạnh hơn. Lá cờ do hướng gió bay phần phật, dải cờ màu đỏ múa lượn trong gió như cái đuôi con gà gấm. Hơn chục lính khuân vác các thứ trên lưng lạc đà xuống. Những con lạc đà mặt mày đau khổ, đuôi và khuỷu chân dính phân lỏng. Cỏ vùng Cao Mật vỗ béo những con la của chi đội Tư Mã Khố, vỗ béo bò dê của dân trong vùng, nhưng lại làm khổ những con lạc đà Chúng không quen thủy thổ, gầy lõ đít, chân như que củi, cái bướu trên lưng rắn chắc là thế mà nay nhăn nheo, xẹp lại như cái túi vải.
Bọn lính trải rộng một tấm thảm cực lớn trên mặt đất. Tư Mã Khố ra lệnh:
- Dìu bà đến đây? Bọn lính dìu Chiêu Đệ với cái bụng to tướng, bế Tư Mã Lương, rồi đỡ Lai Đệ, cậu Kim Đồng, dì Ngọc Nữ xuống đất. Chúng tôi là khách quí đuợc ngồi trên thảm, còn những người khác thì đứng đằng sau. Tiên Chim cứ thập thò đằng sau, chị Hai giơ tay vẫy, chị giấu mặt sau lưng Tư Mã Đình. Tư Mã Đình bị đau răng, tay ôm má sưng vù. Chỗ chúng tôi ngồi tương đương với đầu trâu, phía trước là mặt. Con trâu này cố ý rúc đầu vào ngực, mặt nó là vách đá cheo leo, ở độ cao năm trăm thước so với mặt biển. Gió lướt trên đầu thổi về hướng thôn trấn, những đám mây mỏng như sương lơ lửng trên bầu trời. Tôi tìm ngôi nhà của tôi nhưng lại tìm thấy khối nhà bảy lớp sân của nhà Tư Mã. Tháp chuông nhà thờ, vọng gác kết cấu gỗ trông nhỏ bé như đồ chơi. Cánh đồng, dòng sông, ao đầm, vạt cỏ, những vạt cỏ khảm gương là những ao chuôm. Có một đàn ngựa chỉ to bằng con dê, một đàn la chỉ to bằng con chó, cả hai đàn đều là gia súc của nhà Tư Mã. Có sáu con dê chỉ to bằng con thỏ, đó là đàn dê nhà tôi. Con dê trắng to nhất trong đàn là con dê của tôi, con dê mà theo lời yêu cầu của mẹ, chị Hai cử phó quan phụ trách quân nhu của anh rể, phó quan quân nhu cử người đi Kỳ Mông mua về. Đúng bên con dê trắng của tôi là một bé gái, đầu nó bé hơn quả bóng nhỏ bằng da. Nhưng tôi biết đó không phải cô gái nhỏ, mà là một cô gái lớn, đầu cô ta lớn hơn quả bóng da. Đó là chị Niệm Đệ. Hôm nay chị chăn dê rất xa. Chị đi xa thế không phải vì lũ dê, mà vì chị. Chị cũng muốn xem biểu diễn. Tư Mã Khố và Bác-bít đã xuống ngựa từ lâu. Hai con ngựa đang đi lại thung dung trên đầu trâu, tìm ăn cỏ linh lăng hoa tía. Bác-bít đến bên bờ vục nhìn xuống hình như đang ước lượng độ cao, một thái độ trang nghiêm hiện trên khuôn mặt trẻ thơ của anh ta. Anh ta hết cúi nhìn vực thẳm, lại ngẩng lên nhìn trời. Trời xanh ngắt, không còn gì phải tính toán chi li nữa. Anh ta lim dim mắt, giơ một tay lên hình như để ước lượng sức gió. Tôi cho anh ta làm như vậy là thừa, cờ bay phấn phật, áo bị thổi phồng lên, diều hâu bị lật cánh xoay như chong chóng, vậy thì còn giơ tay làm gì? Trong khi Bác-bít làm như vậy, Tư Mã Khố đi theo anh ta từng bước chân và cứ tự nhiên lặp lại những động tác của anh ta. Nét mặt Tư Mã Khố cũng rất căng thẳng, nhưng tôi cảm thấy anh ta chỉ làm ra vẻ thế thôi.
- Được rồi? - Bác-bít giọng cứng nhắc - Nào, bắt đầu!
- Được rồi - Tư Mã Khố giọng cứng nhắc - Nào, bắt đầu!
Các binh sĩ khênh hai cái bọc đến, mở một cái ra. Đó là một tấm lụa rộng mênh mông, phía dưới là những dây màu trắng.
Bác-bít chỉ huy bọn lính buộc dây vào ngực vào mông Tư Mã Khố. Buộc xong, anh ta kéo những sợi dây xem đã chắc chưa. Tiếp theo, anh ta mở tấm lụa ra, bảo đám lính cầm lấy hai góc. Gió thốc tới, tấm lụa hình chữ nhật loạt soạt căng phồng lên. Các binh sĩ bỏ tay ra, tấm vải phồng lên như một cánh buồm hình cánh cung, kéo căng tất cả những sợi đây, kéo theo Tư Mã Khố. Tư Mã Khố muốn đứng lên nhưng không đứng được, lăn lông lốc như một con lừa đang tắm khan. Bác-bít chạy đến sau lưng anh ta, túm lấy sợi thùng ở sau lưng, bảo:
- Giữ chặt sợi dây này, đây là dây điều khiển.
Tư Mã Khố như chợt tỉnh, cất giọng chửi:
- Tiên sư nhà mi, Bác-bít, định hại ông hả?...
Chị Hai chồm dậy đuổi theo Tư Mã Khố. Mới chạy được vài bước, Tư Mã Khố đã lăn xuống mép vực, tiếng chửi cũng ngừng bặt. Bác-bít gào to:
- Kéo sợi dây bên trái, kéo đi, đồ ngu!
Chúng tôi chạy ra mép vục, cả chị Tám cũng chạy theo. Chị bước đi loạng choạng, chị Cả vội giữ lại. Tấm lụa đã biến thành một đám mây trắng như bông, lắc lư, bồng bềnh trôi đi. Tư Mã Khố ở phía dưới, giãy giụa như con cá mắc câu. Bác-bít gọi với theo:
- Giữ cho ổn định, đồ ngu! Chú ý động tác tiếp đất.
Đám mây trắng bay theo chiều gió, vừa bay vừa hạ độ cao, cuối cùng hạ xuống bãi cỏ xa tít, màu trắng lóa mắt trùm lên cỏ xanh.
Chúng tôi há hốc miệng, nín thở, mắt dõi theo mảng màu trắng cho đến khi nó tiếp đất mới thở ra một hơi. Nhưng tiếng khóc của chị Hai khiến chúng tôi lúng túng. Sao chị lại khóc? Chắc hẳn chị không vì vui mà khóc, mà vì buồn. Tôi nghĩ ngay đến chuyện Tư Mã Khố bị ngã chết. Thế là mọi người chú mục vào mảng trắng trên bãi cỏ, mong chuyện thần kỳ xảy ra. Chuyện thần kỳ đã xảy ra thật: Mảng trắng động đậy, nhô cao, một vật đen chui ra, đứng dậy. Anh ta khua cả hai tay về phía chúng tôi, tiếng reo vọng lên đình núi, chúng tôi đồng thanh hoan hô.
Bác-bít đỏ mặt, chóp mũi bóng lộn như thoa một lớp đầu. Anh ta tự buộc dây cho mình, cõng cái bọc trắng lên lưng, đứng lên co giãn hai cánh tay, chậm rãi lùi lại. Chúng tôi đều nhìn vào anh ta. Anh ta không thèm nhìn ai, mặt vác lên nhìn về phía trước. Anh ta đi giật lùi đến mười mấy bước thì dừng lại, nhắm mắt, môi run run, chắc là cầu nguyện. Cầu nguyện xong, anh ta mở mắt, cất bước chạy, khi chạy ngang qua chỗ tôi, anh ta duớn người lên một cái rồi như một mũi tên lao vào khoảng không. Trong một thoáng, tôi có cảm giác không phải anh ta rơi xuống, mà là vách đá dâng lên, đồng cỏ dâng lên. Đột nhiên một đóa hoa trắng nở bung ra, lần đầu tiên tôi trông thấy một đóa hoa lớn đến như thế nở giữa trời xanh và đồng cỏ. Chúng tôi vỗ tay hoan hô. Bông hoa từ từ trôi, bên dưới là Bác-bít bình ổn như một quả cân bằng sắt. Rất nhanh, quả cân tiếp đất, rơi đúng chỗ đàn dê nhà tôi. Đàn dê chạy tán loạn. Quả cân chỉ di chuyển một đoạn ngắn, bông hoa trắng đã xẹp lại, chỉ còn như một cái phao khổng lồ, trùm lên người Bác-bít, đồng thời trùm luôn cả Niệm Đệ. Niệm Đệ hoảng hốt kêu lên, trước mắt chỉ là một màu trắng, chị trông thấy nụ cười nở bừng trên khuôn mặt hồng hào của Bác-bít. Đúng là thiên thần giáng thế Chị nghĩ. Chị ngước nhìn anh ta, trong lòng rộn lên niềm kính phục và ngưỡng mộ.
Mọi người đều chạy đến bên bờ vực nhìn xuống.
- Hôm nay mới được chứng kiến chuyện lạ như thế này? - Ông chủ hiệu nhà đòn Hoàng Thiên Phúc nói - Thiên thần, lão sống đã bảy mươi tuổi, giờ mới được xem thiên thần giáng thế!
Thầy giáo Tần, từng dạy ở trường tư thục, vừa vuốt râu vừa nói:
- Tư lệnh Tư Mã từ nhỏ đã khác người, khi là học sinh của tôi, tôi đã biết ông ấy sẽ làm nên chuyện!
Những người có vai vế trong trấn đứng xung quanh thầy giáo Tần và ông chủ nhà đòn đều ca ngợi Tư Mã Khố băng những lời lẽ khác nhau, tán thưởng kỳ tích vừa được chứng kiến.
- Các vị không thể tưởng tượng ông ấy khác người như thế nào đâu? - Thầy Tần cao giọng át cả những lời bàn tán, tỏ ra thầy có mối quan hệ đặc biệt với nhà Tư Mã- Ông ấy bỏ hai con cóc vào trong cái bô đi tiểu của tôi. Còn nữa, ông ấy sửa lại lời thánh hiền. Thánh nhân nói: Nhân chi sơ, tính bản thiện, tính dễ gần, thói dễ xa, nếu không dạy, thiện tiêu ma. Ông ấy sửa lại ra sao, cái vị không đoán nổi đâu. Ông ấy sửa là: Nhân chi sơ, nói lăng nhăng, chó không dạy, mèo không học, tẩu thuốc nồi chảo xào trứng gà, thầy giáo xực, học trò ngó...Ha ha ha...
Thầy Tần cười ha hả, vênh váo nhìn mọi người xung quanh.
Giữa khi ấy, một tiếng kêu thất thanh vang lên, tiếng kêu như tiếng chó con sục tìm vú mẹ, càng giống tiếng kêu của con hải âu năm xưa theo đoàn thuyền đến bãi sông Thuồng Luồng. Thầy giáo Tần sững người nụ cười vụt tắt, vẻ vênh váo cũng tan biến. Mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía có tiếng kêu. Đó là chị ba Lãnh Đệ, nhưng những nét đặc trung của chị Ba không còn nữa. Giờ đây chị đã nhập vào trạng thái Tiên Chim, mũi khoằm xuống, con người chuyển sang màu vàng, cổ rụt giữa hai vai, tóc biến thành lông mao, hai tay biến thành hai cánh. Chị giương hai cánh, miệng kêu như chim, chạy theo sườn dốc rồi lao xuống vực. Tư Mã Đình giơ tay túm lấy chị nhưng không trúng, chỉ giữ lại được một mẩu vạt áo. Khi chúng tôi chợt tỉnh, thì đã thấy chị bay - tôi thích nói là chị bay, mà không nói là rơi. Đám cỏ dưới vực tung lên một làn bụi nhỏ.
Chị Hai khóc đầu tiên. Tôi không thoải mái khi nghe chị khóc. Tiên Chim ba xuống vực là chuyện bình thường, sao lại khóc? Tiếp theo, chị Cả, con người điên điên khùng khùng, coi trời bằng vung, cũng khóc, thậm chí chị Tám không hề nhìn thấy gì, không hiểu đầu đuôi ra sao, nhưng bằng vào sự mẫn cảm, cũng khóc òa lên. Chị Tám khóc, kèm theo những lời như trong cơn mê sảng, những lời cầu xin cho chị được khóc cho đã. Về sau, chị nói với tôi, chị nghe rõ tiếng rơi rất gọn của chị Ba, còn tôi khi ấy chỉ nhìn thấy những giọt nước mắt tuôn ra như suối của chị. Đám người đang ồn ào, bỗng tất cả ngây ra như phỗng, mặt băng giá, mắt như có màng bao phủ. Chị Hai gọi đám lính dắt la lại, không cần ai giúp, chị ôm cái cổ vừa ngắn vừa thô của con la, trèo lên, dùng gót chân thúc cho nó chạy. Tư Mã Lương chạy theo được hai bước thì một binh sĩ xốc nách nó đặt lên lưng con ngựa của Tư Mã Khố.
Chúng tôi như một đám lính thất trận thất thểu xuống núi. Lúc này, Bác-bit còn đang bận làm gì đó với chị Niệm Đệ dưới đám mây trắng? Trên đường xuống núi, tôi vắt óc tưởng tượng ra cảnh tượng Bác-bit và chị Niệm Đệ dưới cái dù. Tôi mường tượng Bác-bit quì bên chị, tay cầm nhánh cỏ đuôi chó với những túm lông, cà vào vú chị như trước đây tôi đã từng làm. Còn chị thì nằm đuổi thăng, mắt nhắm, miệng rên lên khoan khoái như con chó cái gãi ngứa. Trông kìa, hai chân chị giơ lên, cái đuôi quệt trái quệt phải trên cỏ, chị đã dâng hiến cho thằng cha Bác-bit trời đánh? Vậy mà cách đây không lâu, tôi lấy cọng cỏ chọc chị, chị gần như đánh dập đít tôi. Nghĩ tới đây, trong lòng tôi đầy uất hận, cũng không hoàn toàn là uất hận, mà là một tình cảm ngang trái như những ngọn lửa đốt cháy tim tôi.
- Đồ chó cái! - tôi chửi, đồng thời hai tay xiết chặt như đang bóp cổ chị.
Chị Lai Đệ ngoảnh lại, hỏi:
- Em làm sao thế!
Vì vội xuống núi, đám lính đặt tôi lên sau lưng chị. Tôi ôm chặt hai bầu vú lạnh ngắt của chị, áp mặt vào tấm lưng gầy guộc của chị, miệng lẩm bẩm:
- Bác-bit, Bác-bit, tên giặc Mỹ Bác-bit, hắn đã phủ lên người chị Sáu rồi! Chúng tôi đi một vòng dài lê thê mới đến chỗ thảm cỏ Tư Mã Khố và Bác-bit đã tháo gỡ xong dây nhợ trên người. Cả hai đầu cúi gằm, trước mặt là bãi cỏ xanh mượt và dầy. Chị Ba như khảm trên đám cỏ, nằm ngửa, mình lún trong bùn. Xung quanh chị, bùn bắn tung tóe cùng với những khóm cỏ bật rễ. Dáng dấp của loài chim không còn thấy trên khuôn mặt chị. Mắt mở hé, nét mặt bình thản, phảng phất nụ cười, hai tia mắt hồi quang như xuyên vào ngực tôi. Sắc mặt chị trắng bợt, trán và môi bôi một lớp phấn trắng. Máu rỉ ra từ lỗ mũi, lỗ tai và hai bên mép. Một con kiến càng màu đỏ hốt hoảng chạy trên mặt chị. Đây là nơi những người chăn súc vật rất ít đến, cỏ hoa mặc sức mọc, ong bướm không sợ người, mùi mục rữa vấn vương đây đó. Trước mặt mười mấy thước là vách đá dựng đứng màu nâu, chân lõm vào thành một đầm nước đen kịt. Những giọt nước từ vách đá rơi xuống tí tách.
Chị Hai chồm tới, quì bên chị Ba, gọi:
- Em Ba, em Ba, em Ba!
Chị luồn tay dưới đầu chị Ba định nâng dậy, nhưng cổ chị Ba như biết co giãn vươn dài ra, chẳng khác con thiên nga đã chết. Chị Hai lập tức để đầu chị Ba lại chỗ cũ, kéo tay, nhưng tay chị Ba dàn hồi như cao su Chị Hai khóc rống lên, vừa khóc vừa gào:
- Em Ba ơi, em Ba, em như thế này mà đi hay sao?
Chị Cả không khóc, cũng không gào. Chị quì bên chị Ba, ngẩng nhìn mọi người xung quanh, nhìn mà không nhìn vào đâu. Tôi nghe chị thở dài, thấy chị quài tay sang bên ngắt một bông tú cầu to bằng quả trứng gà, cầm bông hoa lau máu trên mắt, mũi, tai cho chị Ba.
Lau xong, chị đưa bông hoa lên mũi ngửi rồi lại ngửi, tôi trông thấy một nét cười quái đản lẽ ra không nên có trên mặt chị, còn ánh mắt thì chỉ người nào đang chìm đắm trong một tâm thức nào đó mới có ánh mắt như thế. Tôi mơ hồ cảm thấy rằng, qua bông hoa tú cầu đỏ tía, tinh thần siêu phàm thoát tục của chị Ba đã chuyền sang chị Lai Đệ.
Tôi để ý nhất chị Sáu. Chị rẽ đám dông, chậm rãi bước tới bên thi thể chị Ba. Chị không quì cũng không khóc, chỉ im lặng cúi đầu, hai tay vặn bím tóc, mặt hết đỏ lại trắng nhợt, y như chị đã làm điều sai trái gì đó. Nhưng chị đã là một cô gái bước vào thời kỳ sung mãn, tóc đen nhánh, mông vổng lên như buộc khóm hồng mao vào đốt xương cùng. Chị mặc chiếc áo dài bằng lụa trắng của chị Chiêu Đệ cho, chiếc áo mở kích rất cao, lộ ra cặp dùi thon dài. Chị đi chân đất, bắp chân có những vết xước do cỏ lau để lại, vạt sau còn in dấu vết của cỏ non và hoa dại bị đổ nát, xanh có, đỏ có...
Sự suy nghĩ của tôi chợt nhảy sang cái dù đã trùm lên chị và Bác-bit, nhánh cỏ đuôi chó, cái đuôi cỏ đầy lông tơ... Mắt tôi như mắt ruồi trâu, dính vào ngực chị. Hai núm vú như hai hạt anh dào nhô lên sau lần áo. Tôi ứa nước miếng, tôi khao khát được nâng bầu vú lên để ngậm miệng vào đấy. Tôi khao khát được quì trước những bầu vú đẹp đẽ trên đời này, được làm đứa con trung thành của chúng...Chính giữa chỗ nổi cộm trên áo còn lưu một vết ố như nước bọt của chó. Trong lòng tôi cuộn đau, hình dung sống động đến nỗi như phơi bày trước mắt cái cảnh Bác-bit cắn xé bầu vú chị Sáu, cặp mắt xanh biếc của hắn ngước nhìn lên cằm chị, còn chị thì vuốt ve mái tóc bạch kim của hắn. Chính bàn tay đã từng phát vào mông tôi đau điếng, mà tôi chỉ mới chọc khẽ nhánh cỏ vào ngực chị, còn hắn thì đang cắn chị. Nỗi đau không chính đáng khiến tôi tê liệt trước cái chết của chị Ba, cảm thấy rối bời trước tiếng khóc của chị Hai. Tiếng khóc của chị Tám như tiếng của đất trời, khiến người ta nhớ lại vẻ đẹp mê hồn của chị Ba khi còn sống, những hành vi khác người quỉ khóc thần sầu của chị. Bác-bit tiến lên mấy bước, tôi nhìn càng rõ đôi môi của hắn đỏ mọng khiến tôi không ưa chút nào, và khuôn mặt hồng hào, trên má phủ một lớp lông tơ. Những sợi lông mi trắng, cái mũi cao, cái cổ dài đều khiến tôi không thích. Hắn ngả hai tay làm như định cho chúng tôi thứ gì đó nói:
- Rất tiếc rất tiếc, đây là điều tôi không thể ngờ!...
Hắn nói một tràng tiếng Tây mà chúng tôi không thể hiểu, rồi lại nói mấy câu tiếng Trung Quốc:
- Đây là chứng hoang tưởng, cô ta tưởng mình là chim nhưng cô ta không phải là chim!...
Những người đứng bên bắt đầu bàn tán. Tôi đoán họ chỉ xoay quanh mối quan hệ giữa Tiên Chim và Hàn Chim, có lẽ còn bàn đôi câu về Tôn Bất Ngôn hoặc đề cập đến hai đứa con trai. Tôi không thích nghe từng câu, mà cũng không sao nghe được từng câu, tai tôi có tiếng vo ve, mấy con ong đất đang bay, chúng có tổ cực lớn trên vách đá, phía dưới tổ có một con sơn miêu ngồi chồm hổm, trước mặt nó là con chuột chũi hai chân trước phát triển quá cỡ, béo mập, hai mắt ti hí rất gần nhau. Quách Phúc là ông thầy cúng của thôn, biết lên đồng, biết trừ tà, hai mắt ti hí gần sát nhau, có biệt hiệu là Chuột Chũi. Ông ta bước ra khỏi đám đông, nói:
- Thưa ông trẻ, người thì đã chết rồi, có khóc cũng không sống lại được! Trời nóng nực nên khênh về ngay để nhập liệm, chôn cất cô ấy mồ yên mả đẹp.
Không hiểu dây mơ rễ má ra sao mà ông ta gọi Tư Mã Khố bằng ông trẻ? Tôi không rõ, và cũng không ai biết vì sao ông ta gọi Tư Mã Khố bằng ông trẻ? Tư Mã Khố gật đầu, xoa xoa tay, nói:
- Mẹ kiếp, mất cả hứng!
Chuột Chũi đứng phía sau chị Hai, đảo cặp mắt ti hí, giọng làm ra vẻ rầu rĩ:
- Bà trẻ, người chết thì đã chết, còn phải nghĩ đến người sống. Bà trẻ đang bụng mang dạ chửa, khóc lóc quá, ốm ra đấy thì nguy. Với lại bà dì đâu phải người thường! Dứt khoát bà không phải người thường, bà vốn là Tiên của các loài chim, vì ăn bàn đào của Tây vương mẫu bị đày xuống trần, giờ đây niên hạn đã hết, bà lại trở về cõi tiên. Mọi người thử nghĩ coi, ai cũng thấy bà rơi xuống vục nhẹ nhàng như không, yên ngủ cùng trời đất, người trần mắt thịt làm sao ung dung thanh thản như thế!
Chuột Chũi nói những chuyện trên trời dưới đất, vực chị Hai đứng dậy.
Chị Hai núc nở:
- Em Ba, em chết thảm quá!
- Thôi, thôi - Tư Mã Khố sốt ruột xua tay về phía chị Hai - Đừng khóc nữa. Người như cô ấy, sống chịu tội sống, chết thành Tiên.
Chị Hai nói:
- Tại anh cả, bày ra cái thí nghiệm người bay.
Tư Mã Khố nói:
- Tôi chẳng đã bay rồi đấy sao? Chuyện tày trời này, phụ nữ các người không hiểu được! Tham mưu Mã, khiêng cô ấy về, mua quan tài khâm liệm cho cô ấy. Phó quan Lưu, cuộn dù đem lên núi, ta và cố vấn Bác-bit phải bay lần nữa.
Chuột Chũi xốc chị Hai dậy, oai vệ bảo mọi người:
- Tất cả giúp một tay!
Chị Cả vẫn quì mà ngửi bông hoa dính máu chị Ba. Chuột Chũi nói:
-Thưa bà Cả, bà đừng nên đau xót quá, bà Ba trở về cõi Tiên, ta phải vui mới phải.
Chuột Chũi chưa nói hết câu, chị Cả đã ngẩng lên mỉm cười bí hiểm nhìn ông ta. Ông ta lúng búng trong miệng không dám nói tiếp, vội vã lẫn vào đám dông. Chị Cả giơ cao bông tú cầu vừa cười vừa đứng lên, bước qua thi thể Tiên Chim, đăm đăm nhìn Bác-bit, cặp mông uốn éo sau lần áo dài đen, thái độ nôn nóng chẳng khác người ta mót đi tiểu. Chị tiến lên, vứt bông tú cầm trong tay, ôm choàng lấy cổ Bác-bit, ép sát vào người hắn, miệng lảm nhảm như nói mê sảng:
- Chết rồi?... đau xót quá!
Bác-bit gỡ mãi mới thoát khỏi vòng tay chị, mặt đầy mồ hôi, tiếng tây xen lẫn tiếng địa phương:
Chị Cả mắt đỏ như mắt chó điên, miệng lảm nhảm những lời dâm đãng, chồm tới định ôm Bác-bit. Hắn né, né mãi rồi nấp sau lưng chị Sáu. Chị Sáu trở thành cái bình phong mà chị không muốn. Chị Sáu cứ xoay tròn chẳng khác con cún định rũ bỏ cái lục lạc mà lũ trẻ tinh nghịch buộc vào đuôi nó, chạy quanh đến nỗi mắt tôi nảy đom đóm, chỉ thấy những cái mông vổng lên, những bộ ngực ưỡn ra, những cái gáy trắng mịn, những bộ mặt đầy mồ hôi, những cẳng chân vụng về. Tôi đầu váng mắt hoa, tâm trí rối bời. Tiếng quát tháo của chị Cả, tiếng kêu của chị Sáu, tiếng thở của Bác-bit, những cặp mắt ngây dại của đám đông. Thái độ cười cợt của bọn lính, những cái miệng há ra, những cái cằm rung rung. Đàn dê thủng thẳng đi về nhà, đi đầu là con dê của tôi với bầu sữa lặc lè. Đàn ngựa, đàn la bóng mượt. Những con chim kêu thất thanh lượn vòng trên đầu chúng tôi, chắc chắn có trứng hoặc chim non trong đám cỏ. Cỏ mục. Những bông hoa dại bị xéo gãy cổ. Cuối cùng, chị Hai túm được áo chị Cả. Chị Cả cố giằng ra, hai tay vươn về phía Bác-bit, miệng tuôn ra những câu còn hạ lưu hơn. Chiếc áo dài đen bị rách toạc, lộ ra mảng vai và lưng. Chị Hai vọt tới trước mặt, đánh chị Cả một bạt tai. Chị Cả không giằng ra nữa, nước bọt sùi hai bên mép, mắt đờ đẫn. Chị Hai tát liên hồi, ngày càng mạnh. Chị Cả đổ máu mũi, đầu gục xuống như bông hướng dương, ngã sóng soài trên cỏ.
Chị Hai mệt mỏi ngồi thở trên bãi cỏ rất lâu. Tiếng thở chuyển thành tiếng khóc, hai tay vỗ đầu gối như đánh nhịp cho tiếng khóe của chị.
Tư Mã Khố không giấu được niềm vui trên khuôn mặt. Mắt anh ta nhìn như đóng đinh vào mảng lưng để lộ của chị Cả, thở dồn dập, hai tay cà vào quần làm như tay bị dính chất keo rửa không sạch.
Chương 3 (tiếp)
3
Lúc chạng vạng tối, tiệc rượu được cử hành sau hôn lễ, trong nhà thờ. Hơn chục bóng đèn treo dưới xà nhà, gian đại sảnh sáng như ban ngày.
Trong khu vườn nhỏ của mặt trước giáo đường, máy nổ đang chạy xình xịch, dòng điện bí ẩn phát ra từ cỗ máy chảy qua dây điện tới bóng đèn, phát ra ánh sáng dụ dỗ bọn thiêu thân. Những con thiêu thân chạm phải bóng đèn là bị chết cháy, rơi xuống đầu các sĩ quan của Chi đội Tư Mã và các nhân sĩ hương nhân của thị trấn. Tư Mã Khố mặc quân phục, mặt bóng loáng, từ ghế chủ tọa đứng dậy, đăng hắng mấy tiếng, nói to:
- Thưa anh em, thưa các vị hương thân. Hôm nay tổ chức bữa tiệc rượu này mừng lễ thành hôn của ông bạn tôn quí Bác-bit kết duyên cùng cô em Niệm Đệ của tôi. Đây là niềm vui lớn, đề nghị mọi người vỗ tay hoan nghênh.
Đám đông nhiệt liệt vỗ tay. Ngồi bên cạnh Tư Mã Khố là anh chàng thanh niên Mỹ Bác-bit mặc lễ phục trắng, túi ngực cài hoa đỏ, mặt tươi cười. Tóc hắn được thoa một lớp đầu lạc, bóng lộn như có con chó vừa thè lưỡi liếm vào đấy. Bên cạnh Bác-bit là chị Niệm Đệ. Chị mặc bộ váy màu trắng, hở cổ để lộ quá nửa cặp vú. Nước bọt tứa ra trong miệng tôi. Nhưng tôi phát hiện môi chị Tám khô như vỏ củ hành. Lúc ban ngày, lúc cử hành hôn lễ, tôi và Tư Mã Lương nâng gấu váy sau của chị Niệm Đệ như nâng cái đuôi của con gà rừng. Trên đầu chị cài hai bông nguyệt quế, mặt thoa phấn. Phấn son cũng không giấu được vẻ đắc ý và niềm vui trên mặt chị. Chị chẳng ra sao cả, Tiên Chim chết chưa nguội thây, chị đã cưới ngay người Mỹ.
Tôi rất buồn, mặc dù Bác-bit tặng tôi con dao nhọn có chuôi nhựa, nhưng tôi buồn. Đèn điện là đồ tồi, ánh sáng xuyên qua váy, nhìn rõ hai núm vú hồng hồng của chị, trở thành mục tiêu của mọi người. Tôi biết, cánh đàn ông đều nhìn vào đấy, vậy mà chúng không biết, cứ rung rinh hoài. Tôi muốn chửi, nhưng chửi ai bậy giờ? Chửi thằng khốn Bác-bit? Đêm nay chúng sẽ bị thằng khốn chiếm làm của riêng. Bàn tay nhơm nhớp mồ hôi của tôi mân mê con dao nhọn trong túi. Giả dụ tôi xông lên rạch phăng váy, cắt lấy hai bầu vú thì sự thể sẽ ra sao nhỉ? Tư Mã Khố còn mải diễn thuyết nữa không? Bác-bit còn tỏ ra xúc động nữa không? Chị Niệm Đệ còn cảm thấy hạnh phúc nữa không? Tôi sẽ giấu hai bầu vú đi, nhưng giấu ở đâu? Không ổn, lũ chuột sẽ ăn mất. Giấu ở hốc tường, lũ chuột sẽ tha đi, giấu trên chạc cây, lũ cú vọ sẽ mổ mất...
Có người khẽ chọc vào sườn tôi. Đó là Tư Mã Lương. Hắn mặc lễ phục màu trắng, tay nâng bó hoa dại rất to, tặng chị Niệm Đệ. Hắn ăn mặc y hệt tôi. Hắn bảo:
- Cậu ngồi xuống đi, chỉ mỗi cậu là đứng!
Tôi nặng nề ngồi xuống ghế băng, nhớ lại mình đứng dậy từ lúc nào và vì sao mà đứng dậy. Sa Tảo Hoa cũng mặc rất đẹp. Nó tặng chị Niệm Đệ một bó hoa dại rất to. Nhân lúc mọi người đang lắng nghe Tư Mã Khố diễn thuyết, lúc mọi người đang chú mục vào ngực chị Niệm Đệ, lúc mọi người đang ngửi mùi rượu thịt, Sa Tảo Hoa liền giơ tay nhón lấy một miếng thịt rồi giả vờ lau nước mũi, nó đút vội miếng thịt vào miệng.
Tư Mã Khố tiếp tục diễn thuyết. Anh ta nâng cốc rượu, thứ rượu vang mua tận Đại Trạch đem về, màu hồng lên trong cốc pha lê, nâng hồi lâu mà không cảm thấy mỏi. Anh ta nói:
- Ông Bác-bit là từ trên trời rơi xuống, trời rơi xuống một ông Bác-bit? Về thuật phi hành của ông, các vị đều đã được mục kích. Ông làm cho đèn phát sáng, như trên đầu chúng ta đây...
Anh ta chỉ các bóng đèn điện trên xà nhà, đám đông tạm thời rời mắt khỏi cặp vú tròn trặn đầy ma lực của chị Niệm Đệ, nhìn bóng điện sáng chói:
- Đây là diện, lấy cắp từ chỗ ông Thiên Lôi. Chi đội du kích của chúng tôi từ khi có Bác-bit, có thể nói thuận buồm xuôi gió. Bác-bit có phúc tướng, nhiều tài nghệ tuyệt vời, lát nữa ông sẽ mở rộng tầm mắt cho các vị...
Anh ta quay lại chỉ lên cái bục, xưa kia là bục giảng của mục sư Malôa, sau đó là bục giảng của cô Đường những khi lên lớp cho các nữ du kích chống Nhật, phía sau cái bục là bức tường có căng một tấm phông bằng vải trắng. Chúng tôi cảm thấy lóa mắt, không dám nhìn lâu.
- Với vị thiên tài này, chúng tôi quyết không nhả. Sau khi kháng chiến thắng lợi, chúng tôi hết sức nhiệt tình giữ Bác-bit ở lại, đây cũng là lý do vì sao tôi chủ trương gả cô em vợ đẹp hơn Tiên cho Bác-bit. Giờ đây, tôi đề nghị, để chúc mừng hạnh phúc của ông Bác-bit và cô Niệm Đệ, mọi người hãy cạn chén!...
Mọi người ào ào đứng dậy chạm cốc, ngửa cổ uống cạn.
Niệm Đệ giơ bàn tay đeo nhẫn cầm cốc rượu lên, chạm cốc với Bác-bit, rồi với Tư Mã Khố, với Chiêu Đệ. Chiêu Đệ vừa sinh con, chưa lại người, mặt nhợt nhạt, hai bên má nổi quầng đỏ. Tư Mã Khố nói:
- Cô đâu chú rể phải uống cho ra trò, đề nghị giao bôi!
Rồi hướng dẫn Bác-bit và Niệm Đệ ngoắc tay nhau mà uống hết chén rượu. Mọi người vỗ tay vui vẻ. Tiếp đó là cười nói ầm ĩ, những đôi đũa múa may, những cái miệng nhai ngấu nghiến, những giọng lè nhè, mỡ bóng nhẫy trên môi trên má. Bàn chúng tôi có tôi, Tư Mã Lương, Sa Tảo Hoa, chị Tám và mấy tiểu yêu không rõ từ đâu tới. Ngoại trừ tôi, tất cả đều ăn. Tôi không ăn, chỉ quan sát. Sa Tảo Hoa là người đầu tiên bỏ đũa, tay trái vớ lấy cái đùi gà, tay phải nhón luôn cái móng lợn, ngoạm một miếng đùi gà lại một miếng móng lợn. Tôi phát hiện ra rằng, để tập trung tinh lực, lúc nhai chúng nhắm mắt lại như chị Tám. Chị Tám hai má đỏ hây, môi mọng, còn đẹp hơn cô đâu. Nhưng tôi thấy buồn khi thấy lũ trẻ tranh nhau ăn thịt, tức là ăn xác động vật.
Chị Sáu lấy Bác-bit, mẹ không tán thành. Chị Sáu nói:
- Mẹ, mẹ đánh chết bà nội, con giữ bí mật cho mẹ chuyện ấy đấy nhé!
Mẹ lập tức nhũn như con chi chi, không nói gì nữa. Thái độ im lặng khiến mẹ như tàu lá héo, mẹ không hỏi gì đến chuyện hôn nhân của chị Sáu, khiến chị phấp phỏng mất mấy hôm.
Lúc này tiệc rượu chuyển sang trạng thái tự nhiên, không còn chuyện bắt mối làm quen giữa bàn nọ với bàn kia, mà bàn nào biết bàn ấy, mỗi bàn là một trung tâm, rượu chảy như suối, thức ăn hết món nọ tiếp món kia, những người phục vụ mặc áo trắng chạy gằn từ bàn này sang bàn khác, cao giọng xướng tên món ăn: Đầu sư tử xào đây, chim câu rán đây, gà tần đây...
Mâm chúng tôi toàn những kiện tướng ăn bốc.
- Chân giò đây!
Một đĩa thịt giò vừa đặt xuống bàn, những bàn tay đẫy mỡ nhất tề vươn tới. Bỏng thì thổi phù phù như rắn hổ mang, nhưng không ai chịu bỏ cuộc, lại nhón tiếp. Miếng thịt rơi ra bàn, lập tức có người nhặt lên bỏ vào miệng nuốt đánh ực không chậm trễ, ứa cả nước mắt. Trong khoảnh khắc, da hết đằng da, thịt hết đằng thịt, trên đĩa chỉ còn lại vài cái xương. Cũng lại giành nhau xương để gặm sụn. Người không giành được thì ngẩn ngơ mút ngón tay. Bụng chúng căng như quả bóng, hai chân lẻo khoẻo buông thõng dưới ghế một cách thảm hại. Chúng ợ hơi, bụng lục ục như mèo gừ. Món cá quế đây, một người phục vụ bụng to chân ngắn, mặc áo đuôi tôm trắng bong, bê chiếc mâm gỗ, trên mâm là một đĩa sứ, trong đĩa sứ là một con cá lớn rán vàng. Hàng chục người phục vụ cao bằng nhau, cùng mặt áo đuôi tôm, cùng bê mâm gỗ, cùng những đĩa sứ, cùng những con cá to rán vàng, trông chẳng khác một dãy cột điện. Người phục vụ đặt đĩa cá lên bàn của chúng tôi, nháy mắt với tôi. Tôi cảm thấy người này hơi quen. Cái miệng méo, một mắt nhắm một mắt mở, mũi đầy những nếp nhăn. Cái kiểu nháy mắt này mình đã thấy ở đâu nhỉ? Phải chăng trong tiệc cưới của Lỗ Lập Nhân và Phán Đệ ở đại đội bộc phá.
Con cá quế trong đĩa với những nhát khía đầy mình, rưới đầy nước sốt màu da cam, con mắt mờ đục ẩn dưới đám lá hành xanh mơn mởn, cái đuôi hình tam giác thò ra ngoài đĩa một cách thảm hại như đang run rẩy. Những ngón tay nhờn mỡ lại thò ra. Tôi không đành lòng nhìn cảnh xâu xé con cá quế, quay mặt đi.
Bác-bit và chị Niệm Đệ từ bàn chủ tọa đứng dậy, trong tay mỗi người là một cái ly chân cao đầy rượu vang đỏ, tay không cầm ly thì khoác vào nhau. Họ trông thật trang nhã, dịu dàng tiến lại bàn chúng tôi. Những ánh mắt đều dán vào con cá quế, khổ thân con cá, nó đã bị xâu xé hết một bên, lộ ra những xương dăm màu xanh nhạt. Nửa còn lại của con cá bị xâu xé chỉ trong chớp mắt. Trước mặt mỗi đứa là một mảng thịt của con cá, chẳng ra hình thù gì, bốc hơi nghi ngút. Bọn trẻ tham lam như những con cá nhỏ, lùa hết vào miệng rồi mới bắt đầu nhai. Trên đĩa chỉ còn lại cái đầu cá to sụ, một cái đuôi thanh tú, mỏng tanh, khoảng giữa là bộ xương vẫn dính liền các đốt. Chiếc khăn bàn trắng tinh đầy vết bẩn, chỉ có góc của tôi là còn sạch, một cốc rượu vang vẫn đặt ngay ngắn ở chính giữa.
- Các bạn nhỏ thân mến - Bác-bit chìa cốc rượu đến trước mặt tôi, thái độ thân mật - Cùng cạn chén nào!
Vợ anh ta cũng chìa cốc rượu đến trước mặt tôi, bàn tay chị ngón cong ngón thẳng như một đóa hoa lan, chiếc nhẫn vàng lấp lánh trên đóa hoa đó. Phần vú lộ ra có màu men sứ. Tim tôi đập thình thịch.
Bọn trẻ ngồi cùng bàn với tôi miệng nhét đầy cá, rối rít đứng lên. Má, mũi, thậm chí trên trán nhoe nhoét mỡ. Tư Mã Lương ngồi bên tôi vội vàng nuốt chủng miếng cá, kéo góc khăn bàn lên lau miệng. Hai bàn tay tôi trắng và thon, bộ lễ phục của tôi không một vết bẩn, mái tóc tôi vàng rực. Dạ dày tôi chưa bao giờ tiêu hóa xác chết, răng tôi chưa bao giờ nhai rau cỏ. Những ngón tay nhờn mỡ lóng ngóng câm cốc rượu chạm vào cốc rượu của Bác-bit. Chỉ có tôi đứng bên bàn mê mẩn nhìn cặp vú của chị Niêm Đệ. Hai tay tôi bám chặt mép bàn, cố gắng kìm chế để từ bỏ ý nghĩ - sờ vú chị.
Bác-bit ngạc nhiên nhìn tôi:
- Sao cậu không ăn không uống gì cả?
Chị Niệm Đệ tạm thời không làm bộ làm tịch, trở về với thái độ chị Sáu hàng ngày. Chị đưa bàn tay rảnh rỗi xoa gáy tôi, nói với anh chồng mới toanh:
- Em trai của em một nửa là thần tiên, nó không ăn mặn!
Mùi nước hoa sực nức trên người chị Sáu khiến tôi tâm thần rối loạn, tay tôi đã phản lại ý chí của tôi. Tôi chộp vào ngực chị. Cái áo lụa của chị sao mà trơn thế!
Chị Sáu kinh hoảng kêu lên, hắt ly rượu vào mặt tôi. Chị Sáu mặt đỏ như gấc. Chị vuốt lại chỗ áo bị tôi làm nhàu, khẽ mắng:
- Đồ khốn!
Rượu vang chảy trên mặt tôi, trước mắt tôi là một màu hồng trong suốt. Cặp vú chị Sáu như hai quả khí cầu màu hồng ngay trước mắt tôi, chính xác hơn là hiện ra trong óc tôi.
Tôi né tránh bàn tay hộ pháp của Bác-bit, căm hờn nhìn khuôn mặt vừa hài hước vừa xấu xa của hắn. Nỗi đau khổ trong lòng tôi không thể nói bằng lời. Cặp vú của chị Sáu, trắng mịn, được chế tác bằng ngọc thạch, bảo bối bậc nhất của thế gian, đêm nay sẽ rơi vào tay tên quỉ Mỹ, mặc cho hắn sờ nắn, mặc cho hắn vầy vò. Bầu vú của chị Sáu, trắng như cục bột, chứa đầy mật ngọt, đi khắp chân trời góc biển không tìm đâu ra của quí như thế, đêm nay sẽ rơi vào miệng tên quỉ Mỹ, mặc cho hắn ngậm, mặc cho hắn mút, hắn sẽ ti cạn sữa, bầu vú chị chỉ còn là cái túi da lép kẹp. Hơn nữa, điều mà tôi không thể nén giận được, là chị Sáu lại rất tự nguyện. Này, chị Niệm Đệ, tôi lấy cọng cỏ chọc chị một cái, chị đét tôi hai cái; tôi sờ vú chị một cái, chị hắt rượu đầy mặt tôi! Vậy mà Bác-bit sờ chị, cắn chị thì chị lại tiếp nhận một cách vui vẻ! Vậy còn gì là công bằng trên đời này! Các vị là đồ bần tiện, sao không hiểu nỗi khổ tâm của tôi? Trên đời này, không ai hiểu bầu vú, yêu bầu vú, biết bảo vệ bầu vú như tôi! Vậy mà các người coi nó như một thứ giẻ rách. Tôi khóc vì tủi thân.
Bác-bit nhún vai, làm xấu trên mặt một cái, khoác tay chị Niệm Đệ sang bàn khác. Người phục vụ bê đến một tô canh nổi lềnh bềnh trứng rán thái chỉ, còn có thứ gì đó mảnh như sợi tóc. Bọn trẻ cùng mâm học tập bàn bên, dùng thìa múc canh. Chúng ra sức múc phần đặc, làm canh bắn tung tóe. Chúng đưa thìa canh lên miệng, vừa thổi vừa húp từng tí một. Tư Mã Lương huých tôi một cái, bảo:
- Cậu ăn một chút đi, ngon lắm, không kém gì sữa dê!
- Không - tôi nói - tao không ăn!
- Vậy cậu ngồi xuống đi, họ đang nhìn cậu đấy! Nó lại nói.
Tôi nhìn ra xung quanh như khiêu khích, chẳng có ai nhìn tôi, Tư Mã Lương thông báo sai. Tôi trông thấy giữa các bàn đều có hơi nước bốc lên, đến gần bóng đèn thì biến thành sương mù và tan đi, bóng người mờ ảo, mùi rượu khiến tôi choáng váng. Vợ chồng Bác-bit đã trở về bàn chủ tọa. Tôi trông thấy chị Niệm Đệ ghé sát tai chị Chiêu Đệ nói gì đó. Nói gì nhỉ? Liệu có liên quan đến tôi không? Chiêu Đệ gật đầu, Niệm Đệ không ghé sát Chiêu Đệ nữa, trở lại trạng thái nghiêm trang như cũ. Chị múc một thìa canh đưa lên miệng nếm thử, rồi khoan khoái húp tiếp. Niệm Đệ mới kết bạn với Bác-bit chưa đầy một tháng mà đã như một người khác, ra vẻ dài các. Cách đây một tháng, chị còn húp cháo oàm oạp, vậy mà thay đổi nhanh thế!
Tôi nghĩ mãi mà chưa có câu trả lời. Người phục vụ đem món ăn chính đến, có sủi cảo có mì sợi loằng ngoằng như con giun đã làm tan biến cái thú ẩm thực của tôi, còn có bánh mì trắng điểm những chấm xanh đỏ. Tôi đã ngán khi phải miêu tả mọi người ăn uống ra sao, cảm thấy buồn buồn, bụng đói. Chắc là mẹ sốt ruột lắm, lại còn con dê của tôi nữa. Hỏi vì sao tôi không bỏ về, tôi định về thì không ai ngăn được, vì chỗ tôi ngồi rất gần cổng chính của nhà thờ. Nhưng vì Tư Mã Khố đã tuyên bố, tiệc xong, Bác-bit sẽ giới thiệu để mọi người biết thế nào là văn minh vật chất và văn hóa của phương Tây. Tôi biết anh ta định chiếu phim, nghe nói là những hình người biết nói, biết cử động. Đó là lời chị Hai khi mời mẹ đến dự tiệc cưới. Mẹ lại nói rằng, cách đây hai mươi năm, mẹ đã từng xem người Đức đem nó đến chiếu để quảng cáo cho phân hóa học, một loại bột trắng dựng trong bao tải xác rắn, nghe nói bón ruộng có thể tăng sản lượng lương thực nhưng không ai tin. Mùa màng là phải nhờ vào phân chuồng. Người Đức cho không phân hóa học, nhân dân đem nó đổ xuống hồ ao. Mùa hè năm ấy, sen trong hồ mọc như điên, vừa mập vừa dày đặc, nhưng hoa thì lại không có, hoặc rất ít. Rất may là dân chúng không bị lừa, người Đức đến đây định hại ta, phân hóa học chẳng qua chỉ là thứ thuốc độc, chỉ tốt lá, không ra hoa, tất nhiên làm gì có hạt.
Tiệc cưới rồi cũng kết thúc. Những người phục vụ khênh những cái sọt tới, nhặt nhạnh ào ào bát đũa mâm chén cho vào sọt. Bưng đổ đi là những mảnh vỡ. Hơn chục binh sĩ nhanh nhẹn cũng phụ giúp cuộn tròn các khăn bàn rồi đem đi. Những người phục vụ trải khăn bàn mới, bày lên rượu vang và dưa hấu, dưa chuột, lê. Lại có cà phê Braxin thơm một mùi thơm kỳ lạ mà màu sắc thì như nước nâu, hết hồ nọ đến bình kia, đếm không xuể; hết cốc nọ đến cốc kia, tính không hết. Khách khứa đã ăn no, lại ngồi xuống, dẩu môi ra mà nếm, mà thử, do dự một thoáng, rồi uống cà phê như uống thuốc bắc, nhíu mày nhăn mặt, từng người từng người, từng cốc từng cốc. Các binh sĩ khiêng đến một chiếc bàn, trên đặt cỗ máy phủ vuông vải đỏ.
Tư Mã Khố vỗ tay nói:
- Buổi chiếu phim sắp bắt đầu, anh em, hãy hoan nghênh ông Bác-bit cho chúng ta xem một môn tuyệt kỹ.
Bác-bit đứng dậy trong tiếng vỗ tay, cúi chào cử tọa rồi bước đến bên chiếc bàn kéo vuông vải ra: một cỗ máy kỳ lạ, gớm ghiếc lồ lộ trước mặt mọi người. Những ngón tay của Bác-bit thoăn thoắt trên những bánh răng lớn, bánh răng con. Bụng cỗ máy phát ra những tiếng rào rào, một luồng ánh sáng sắc như dao đột nhiên rọi thẳng lên mặt tường phía tây của nhà thờ. Mọi người vỗ tay rào rào, tiếp theo là tiếng dịch ghế ầm ầm. luồng ánh sáng trắng ấy như gắn chặt trên khuôn mặt Chúa Giêsu tạc bằng gỗ táo, khiến bức tượng thiêng liêng không còn rõ mặt mũi, chỗ hốc mắt mọc cây cỏ linh chi nhỏ xíu. Bác-bit là tín đồ trung thành đạo Cơ đốc, đòi bằng được làm lễ cưới ở nhà thờ. Ban ngày, cỏ linh chi mọc trên hốc mắt Chúa chúng kiến cuộc nhân duyên giữa Bác-bit và Niệm Đệ, ban đêm dùng linh quang của dòng điện soi mắt Chúa, khiến cỏ linh chi bốc khói trắng. Luồng ánh sáng đi chuyển xuống dưới, từ mặt xuống ngực, từ ngực xuống bụng, từ bụng xuống chỗ kín mà người Trung Quốc tạc thành một cái lá sen, cho xuống đến các đầu ngón chân. Cuối cùng, luồng sáng rọi vào chiếc phông trắng hình chữ nhật có viền đen, chui vào trong viền, dán ra một chút rồi đứng yên. Lúc này, tôi nghe tiếng máy chạy như tiếng giọt gianh khi trời mưa. Tắt đèn! Bác-bit nói to.
Một tiếng tách, các bóng đèn tắt phụt, chúng tôi đột nhiên chìm trong bóng tối, nhưng luồng sáng phát ra từ cỗ máy của Bác-bit càng sáng hơn, càng trắng hơn. Từng đám côn trùng bay trong luồng sáng đó. Một con thiêu thân bay chập choạng, trên màn ảnh, hình ảnh của nó lập tức được phóng to lên nhiều lần. Thấy đám đông hoan hô, tôi cũng buột miệng hùa theo. Đúng là tôi được xem diện ảnh rồi. Lúc này, một cái đầu nhô lên trong cột ánh sáng, đó là đầu của Tư Mã Khố. Hai vành tai anh ta trông rõ từng tia máu. Anh ta quay mặt về phía nguồn sáng nên mặt như bẹt lại, trắng nhợt như tờ giây nến. Trên màn ảnh hiện lên cái đầu mỏng dính của anh ta. Lại một trận vỗ tay, tôi cũng vỗ theo.
- Ngồi xuống, ngồi xuống! Bác-bit bực bội quát. Lúc đó, một bàn tay ló ra trong luồng sáng, cái đầu Tư Mã Khố chìm xuống. Trên tường có những tiếng lụp búp, màn ảnh nhấp nhoáng những chấm đen như là đang nổ súng. Âm nhạc vọt ra từ hai cái hộp hai bên màn ảnh, hơi giống tiếng nhị, tiếng sáo; không phải, âm thanh này bèn bẹt, dài lê thê, chẳng khác những sợi miến tòi ra từ khung vắt miến sợi.
Từng hàng chữ, to có, nhỏ có, chạy trên màn ảnh từ trên xuống dưới. Chúng tôi vỗ tay. Người ta có câu: Nước chảy về chỗ thấp. Nhưng những chữ Tây này thì ngược lại từ thấp chảy lên cao, chúng chảy ra ngoài màn hình, lên tường rồi mất hút trong bóng tối. Ngày mai, nếu phá bức trong của nhà thờ, liệu có thể moi được những chữ ấy ra không nhỉ? Tôi đang nghĩ vớ vẩn như vậy thì trên màn ảnh xuất hiện một dòng sông nước chảy ào ào, bờ sông có cây, trên cây có chim, những con chim đang nhảy nhót, kêu chiêm chiếp. Tôi há hốc miệng, ngây như phỗng quên cả vỗ tay. Sau đó xuất hiện một người đeo súng, áo mở phanh để lộ bộ ngực vạm vỡ mọc đầy lông.
Anh ta ngậm điếu thuốc ở miệng, điếu thuốc đang tỏa khói, tất nhiên mũi anh ta phà khói thuốc ra, trời ạ, kỳ lạ thật! Một con gấu chó từ trong rừng chui ra, chạy tới vồ anh ta. Trong nhà thờ vang lên tiếng kêu thét của phụ nữ và tiếng lên cò súng rôm rốp. Một người xuất hiện trong cột ánh sáng, lại là Tư Mã Khố. Anh ta rút súng bắn con gấu chó. Nó rách nát phía trên lưng người trên màn ảnh.
- Ngồi xuống, ngồi xuống! Đồ ngu, đây là phim? Bác-bit thét to.
Sau khi Tư Mã Khố ngồi xuống, con gấu chó đã chết trên màn ảnh, máu chảy đỏ lòm trên ngực, người đi săn ngồi bên cạnh con gấu, đang nạp đạn vào súng.
- Mẹ kiếp, bắn giỏi thật! - Tư Mã Khố kêu to.
Người đi săn trên màn ảnh ngẩng đầu lên, nói một câu gì đó mà tôi nghe không hiểu, rồi anh ta cười một tiếng tỏ vẻ khinh miệt. Anh ta hất súng lên vai, đút ngón tay vào miệng huýt lên một tiếng chói tai, tiếng huýt đội lại từ các bức tường nhà thờ. Một cỗ xe ngựa men theo con đường đất dọc bờ sông chạy tới, người đánh xe rất ngổ ngáo nhưng hơi đần. Cái tay vịn trông quen quá, hình như đã trông thấy ở đâu. Một người đàn bà đứng trên thùng xe, tóc dài bay bay nhưng không rõ màu tóc, khuôn mặt rộng, lưỡng quyền cao, cặp mắt tuyệt đẹp, lông mi cong cong và cứng như râu mèo, miệng rất rộng, môi mọng. Tôi có cảm tưởng người đàn bà này rất phóng đãng. Hai bầu vú nhảy tưng tung như hai con thỏ bị tóm đuôi. Chị ta phóng thẳng xe về phía tôi. Tôi bàng hoàng, môi tê tê, hai bàn tay đầy mồ hôi. Tôi đứng vụt dậy, nhưng lập tức có một bàn tay ấn đầu tôi xuống buộc tôi ngồi xuống ghế. Ngoảnh nhìn lại, đó là một người lạ, miệng mở to. Sau lưng anh ta chật ních những người là người, bịt kín cả cổng chính. Có vài người gần như đánh đu trên khung cửa. Ngoài đường tiếng người ồn ào, có rất nhiều người đang lách vào trong.
Người phụ nữ dùng xe, bám dóng xe nhảy xuống. Chị ta vén váy, để lộ bắp chân tường ngần, gọi to, chắc chắn là gọi người đàn ông kia. Gọi, chạy. Quả nhiên là gọi người đàn ông. Anh ta bỏ mặc con gấu, vứt súng, chạy về phía người phụ nữ. Mặt, mắt, miệng, răng trắng, ngực phập phồng của người phụ nữ. Mặt, lông mày rậm, mắt diều hâu, râu quai nón xanh biếc, vết sẹo bóng loáng cắt đôi lông mày và trán người đàn ông. Lại khuôn mặt người phụ nữ, lại khuôn mặt người đàn ông. Bàn chân đã đá tung giày đi của người phụ nữ. Sau đó, người phụ nữ nhào vào lòng người đàn ông. Vú chị ta bị ép bẹp. Miệng người đàn ông bịt chặt miệng người phu nữ. Rồi, miệng chị ở ngoài, miệng anh ở trong, rồi lại đôi chỗ. Hừ hừ, đó là tiếng rên của người phụ nữ. Lại còn tay của chị ta, ôm cổ ôm eo thì không nói làm gì, lại còn sờ soạng lẫn nhau, cuối cùng, hai người lăn lông lốc trên thảm cỏ xanh, lúc thì nam ở trên, lúc thì nữ ở trên, cứ thế mà lăn, được một dặm thì không lăn nữa. Bàn tay lông lá của người đàn ông thọc vào ngực áo của người đàn bà, chụp lấy một bên vú. Tôi thấy trong lòng đau nhói, những giọt nước cay xè ứa ra khỏi mắt tôi. Một tia sáng trắng, trên màn ảnh không thấy gì nữa. Tách một cái, đèn điện bật sáng, mọi người thở hồng hộc. Trong nhà thờ đầy ắp người, ngay cả trên cái bàn trước mặt tôi, cũng ngồi đầy những trẻ con cởi truồng. Bác-bit đứng bên cỗ máy như một vị thần. Bánh xe vẫn còn chạy, cuối cùng, xạch một tiếng, dùng hẳn. Tư Mã Khố nhảy dựng lên, cười lớn:
- Đ. bà nó, chưa đã, chưa đã, chiếu lại!
4
Tối ngày thứ tư, địa điểm chiếu phim chuyển đến chỗ sân phơi rộng lớn của nhà Tư Mã. Toàn thể sĩ quan, binh lính Chi đội Tư Mã và gia quyến của Tư lệnh đều ngồi ở vị trí danh dự, vị trí vàng. Những nhân vật tai mắt của thị trấn ở vị trí bạc, dân chúng thì đứng ở vị trí đồng hoặc sắt. Phía bên kia của màn ảnh dựng rất cao là đầm sen. Sau đầm sen, những người già yếu hoặc tàn tật đứng ngồi lố nhố. Họ xem phim trên mặt sau của màn hình, xem luôn cả những người xem phim.
Đây là một ngày lịch sử của Cao Mật. Nhớ lại, đó là một ngày không bình thường. Buổi trưa, không khí ngột ngạt, mặt trời đen lại, cá trên sông ngửa bụng lên, chim trên trời rơi thẳng đứng. Chú lính dựng cột chiếu phim bị trúng thử, ôm bụng lăn lộn dưới đất, nôn mật xanh mật vàng, đó là điều không bình thường. Hơn chục con rắn cạp nia rồng rắn kéo qua phố, đó là điều không bình thường. Những con giang trong đầm bay lên đậu trên cây đầu thôn, hết đàn nọ đến đàn kia, gãy cả cành, những đôi cánh vỗ, những cái cổ như cổ rắn, những cặp chân dài thẳng đuỗn, đó là điều không bình thường. Người khỏe nhất trong thôn là Trung Đại Đởm bê mười mấy cái trục lúa bằng đá quẳng xuống đầm, đó là điều không bình thường. Khoảng giữa chiều, một toán người lấm lem từ nơi khác tới. Họ ngồi trên đê Thuồng Luồng ăn một thứ bánh mỏng như giấy cùng với củ cải. Hỏi họ đến đây để làm gì, họ nói họ đến xem phim, hỏi họ làm sao biết có chiếu phim, họ nói tiếng lành đồn xa, đó là điều không bình thường! Mẹ phá bỏ thường lệ, kể một chuyện cười về chàng rể ngốc cho chúng tôi nghe, đó là điều không bình thường! Nước sông Thuồng Luồng đỏ như máu, đó là điều không bình thường! Lúc hoàng hôn, muỗi tập trung thành đàn như một đám mây trên sân đập lúa, đó là điều không bình thường. Lúc chạng vạng tối, ráng chiều đỏ như lửa, biến ảo thiên hình vạn trạng, đó là điều không bình thường? Những đóa hoa sen nở muộn trong đầm hiện lên như những linh vật trên trời, đó là điều không bình thường! Sữa của con dê của tôi có mùi tanh, đó là điều không bình thường!
Buổi chiều, ăn sữa xong, tôi cùng Tư Mã Lương chạy như bay đến sân phơi. Phim đã choán hết tâm trí tôi. Chúng tôi chạy ngược nắng chiều, mặt nhuốm đỏ. Những phụ nữ tay xách ghế, tay bế con, những ông già chống gậy, đều là những mục tiêu để chúng tôi vượt. Ông mù Từ Tiên Nhi có giọng hát rè rè vô cùng cảm động, sinh sống bằng nghề hát rong, tay chống cây gậy dài, lệch người mà đi rất nhanh. Bà chủ hiệu dầu ăn, người đàn bà chỉ có một vú, hỏi ông ta:
- Ông mù, đi đâu mà tất bật thế!
Ông mù đáp:
- Tôi mù, chị cũng mù sao?
Ông già Đỗ Bạch Kiểm làm nghề đánh cá, quanh năm mặc áo tơi, tay xách chiếc đôn bện bằng cỏ bồ, nói xen vào:
- Ông mù, ông thì xem phim gì?
Ông mù cả giận, chửi:
- Lão mặt trắng kia, sao dám bảo ta mù, ta nhắm mắt nhìn nhân tình thế thái đấy chứ!
Ông vung gậy quật đánh vút một cái, suýt nện gãy cẳng chân khẳng khiu của ông lão đánh cá. Ông Đỗ định quật lại một đòn, nhưng Phương-Nửa-Mặt - bị gấu liếm mất nửa mặt khi đào sâm ở núi Trường Bạch, can:
- Ông Đỗ, ông đánh nhau với ông mù chẳng hóa ra quên mất mình là ai hay sao? Là hàng xóm, tắt lửa tối đèn có nhau, bỏ qua cho nhau những chuyện vặt ở núi Trường Bạch, chưa nói đến gặp một người cùng làng, ngay cả cùng huyện cũng đã sướng lắm rồi!
Đủ các loại người kéo về sân phơi nhà Tư Mã. Hãy nghe, bên bàn ăn của các gia đình đều nói về sự nghiệp của Tư Mã Khố, trong câu chuyện của các bà các cô đều nói đến chị em nhà Thượng Quan. Chúng tôi phơi phới như cánh én, tinh thần lâng lâng, chỉ muốn phim cứ chiếu mãi.
Phía trước cỗ máy của Bác-bit là chỗ của tôi và Tư Mã Lương. Khi chúng tôi ngồi vào chỗ của mình, ráng chiều đỏ rực vẫn chưa tắt hẳn, gió đêm lành lạnh đem tới mùi tanh. Trước mặt chúng tôi còn một khoảng trống đã được khoanh lại bằng vạch vôi. Anh chàng đánh thuê Lung Hán Quốc, tay cầm cây gậy bằng gỗ ngô đồng, đuổi những người dân tràn vào vạch vôi. Miệng sặc sụa hơi rượu, kẽ răng còn dính thức ăn, mắt giương như mắt bọ ngựa, thẳng tay vụt bay chiếc nơ đỏ trên đầu cô mắt hiếng từng có quan hệ xác thịt với tay phó quan quản trị của Chi đội. Cô mặc chiếc áo lót bằng lụa của viên phó quan tặng, miệng vẫn còn mùi khói thuốc lá của viên phó quan. Cô ta vừa phủi vừa cúi nhặt chiếc nơ, thuận tay bốc một nắm cát ném giữa mặt Lưng Hán Quốc. Hán Quốc quẳng cây gậy, nhổ đất cát trong miệng ra, vừa lấy tay dụi mắt vừa chửi:
- Con hiếng, đồ giẻ rách! Tao thì đ. con gái của mẹ mày! Tao thì đ. em gái của thằng anh mày?
Triệu Giáp làm nghề bán vỏ bếp lò vốn nhanh miệng, nói khẽ:
- Lung Hán Quốc, sao anh cứ quanh co thế! Anh đ. thẳng cô hiếng không được sao?
Triệu Giáp nói chưa dứt lời, một chiếc ghế đẩu bằng gỗ hòe đã quật vào vai anh ta. Triệu Giáp kêu ối một tiếng, quay lại. Người đánh anh ta là thằng Gật, anh trai của cô hiếng. Anh ta mặt mày vàng võ, tóc rẽ giữa, đường ngôi thẳng tắp, bóng như một vết sẹo. Anh ta mặc chiếc áo ngoài màu tàn thuốc, rộng thùng thình. Tóc chải đầu bóng, mắt lươn.
- Anh ta tằng tịu với cô em ruột- Tư Mã Lương khẽ bảo tôi như vậy.
Tù đâu mà Tư Mã Lương biết được điều bí mật ấy?
- Cậu ạ bố cháu bảo ngày mai tử hình viên phó quan quản trị tài vụ - Tư Mã Lương nói khẽ.
- Vậy thằng Gật có bị bắn không? - Tôi hỏi khẽ.
Thằng Gật từng chửi tôi là đồ con lai, tôi thù anh ta. Tư Mã Lương nói:
- Để cháu nói với bố cháu, bắn bỏ cái đồ ấy đi!
- Phải, bắn bỏ cái đồ ấy đi - tôi nói cho hả giận.
Lung Hán Quốc hai mắt ướt nhèm, vung gậy loạn xạ vì không trông thấy gì. Triệu Giáp giằng lấy chiếc ghế đẩu trong tay thằng Gật quẳng ra xa.
Thằng Gật giơ những móng tay như vuốt chim ưng chộp lấy cổ họng Triệu Giáp. Triệu Giáp túm lấy tóc thằng Gật. Hai người quần nhau dịch dần ra chỗ trống mà Chi đội Tư Mã để chừa ra, không ai khuyên giải được. Cô hiếng nhảy ra, định xông vào giúp anh trai, nhưng mấy lần đều đấm nhầm vào lưng thằng Gật. Cô hiếng chộp đúng thời cơ, như một con dơi lướt tới sau lưng Triệu Giáp, luồn tay dưới háng túm lấy hạ bộ của anh ta. Quan Lưu Tinh, một tay biết võ, lớn tiếng khen:
- Giỏi! Đó là miếng trẩy đào dưới lá.
Triệu Giáp rú lên, gập người lại như con tôm, chân tay mềm nhũn, mặt vàng ệnh trong cảnh nhập nhoạng tối. Cô hiếng dùng sức vặn một cái, hùng hổ:
- Định đ. kia mà, bà đang đợi mày đấy?
Triệu Giáp mềm nhũn, ngã lăn ra. Lung Hán Quốc vớ lấy cây gậy, rồi như một tướng tiên phong mở đường, bất kể trắng đen, bất kể hoàng thân quốc thích, vụt tất, rủi ai người ấy bị. Gậy vung tới tấp, già khóc trẻ kêu, người ở vòng ngoài thì len vào trong để xem, người ở trong thì chạy thoát thân ra ngoài, nhất thời người như nước lũ, dồn thành đống, vón thành cục, anh dẫm lên tôi, tôi thúc vào anh. Tôi đặc biệt chú ý khi cô hiếng bị một gậy vào mông, cô ta vội rúc vào đám đông, liền bị những người đánh hôi, những người ngứa mắt nện cho một trận tơi bời, kêu oai oái.
Đoàng, một tiếng súng nổ. Người nổ súng là Tư Mã Khố. Anh ta mặc áo choàng đen, một vệ sĩ theo sau, nối tiếp là Bác-bit và Chiêu Đệ, Niệm Đệ, giận dữ bước vào.
- Yên lặng - Một vệ sĩ hét lên - Mất trật tự thì không chiếu nữa?
Mọi người nháo nhác rồi im. Tư Mã Khố dẫn người của anh ta vào chỗ ngồi. Bầu trời chuyển sang màu tím, sắp tối mịt. Vầng trăng như lưỡi liềm, ánh sáng ảm đạm, phía tây nam có một ngôi sao rất sáng nằm trong chỗ khuyết của vầng trăng. Trung đội kỵ mã, trung đội lừa, trung đội tiện y đều đến đủ, xếp hàng đôi, ôm súng hoặc khoác súng, ngó nghiêng đám phụ nữ. Một đàn lang sói rồng rắn kéo vào. Mây đen nuốt chửng trăng sao, bóng tối trùm lên mặt đất. Côn trùng kêu thê thảm trên cây, nước cuồn cuộn trên sông.
- Phát điện! - Tư Mã Khố ở phía trúc bên trái tôi, ra lệnh. Anh ta bật lửa châm thuốc. Châm xong, vẩy một cái thật mạnh, tắt ngọn lửa.
Máy phát đặt ở ngôi nhà bỏ hoang của người đàn bà Hồi. Vài bóng đen lay dông. Một ánh đèn pin. Cuối cùng, máy nổ. Thoạt đầu, nổ to rồi nổ nhỏ, sau nổ đều. Một bóng điện phía sau đầu tôi phát sáng. Chà chà, quần chúng xúc động kêu lên. Tôi trông thấy những người phía trước đều ngoái lại nhìn ánh điện, những cặp mắt lóe sáng.
Cũng như đêm thứ nhất, một luồng ánh sáng tìm màn hình, những con thiêu thân va dập vào nhau trong cột sáng, bóng chúng to lên rất nhiều trên màn hình, các binh sĩ và dân chúng ngạc nhiên thán phục. Chỗ khác nhau so với đêm thứ nhất rất nhiều: Tư Mã Khố không nhảy dựng lên để ánh sáng xuyên qua vành tai trong suốt. Bốn bên bóng tối càng dày đặc thì ánh sáng càng chói lọi. Không khí ẩm ướt, hơi nước từ cánh đồng pha vào mặt. Gió rì rào trên ngọn cây. Tiếng chim ăn đêm lia ngang trên bầu Trời. Tiếng cá búng nước lóc bóc. Còn nữa, tiếng hắt hơi của những con lừa dưới chân đê, đó là những người ở rất xa đến. Tiếng chó sủa trong ngõ sâu. Chớp màu xanh lục ở phương nam như một tấm rèm, tiếng sấm nặng nề vọng tới sau khi tia chớp đã tắt. Chuyến tàu hỏa chở đầy pháo đạn chạy ầm ầm qua cầu Thuồng Luồng, tiếng bánh sắt đập vào đường ray hòa quyện với tiếng máy chiếu phim. Điều khác biệt lớn nhất là tôi không còn hứng thú với những hình ảnh trên màn hình. Buổi chiều, Tư Mã Lương nói nhỏ với tôi:
- Cậu này, bố cháu vừa mua một phim mói từ Thanh Đảo về, toàn là phụ nữ trần truồng.
- Bịa? - tôi nói.
- Thật mà, chú Đỗ nói vậy, đội trưởng đội Tiện y cưỡi mô tô đi lấy, lát nữa là đem về.
Kết quả là bịp, Tư Mã Lương nói không đúng. Tôi véo đùi hắn.
- Cháu không bịp cậu đâu, có lẽ chiếu phim cũ trước phim mới sau. Ta hãy đợi xem!
Tôi đã biết con gấu bị đạn như thế nào, cũng đã biết người đi săn và cô gái lăn lộn như thế nào, chỉ cần nhắm mắt lại, tôi có thể hình dung ra tất cả. Thế là tôi đưa mắt dò xét tình hình phía trước và những người xung quanh.
Chiêu Đệ sau khi đẻ xong còn yếu, chị mặc chiếc áo khoác bằng dạ xanh hoa trắng, ngồi ghế thái sư màu tía dành riêng eho chị. Bên trái là Tư lệnh Tư Mã Khố, anh ta cũng ngồi ghế thái sư, áo khoác ngoài vắt trên thành ghế. Bên trái anh ta là Niệm Đệ, ngồi trên chiếc ghế mây. Chị mặc váy trắng không phải chiếc váy có đuôi dài. Chiếc này này cổ cao, dán chặt vào người. Thoạt tiên chị ngồi thẳng, cổ cũng duỗi thẳng. Cái đầu to của Tư Mã Khố ngoảnh sang bên phải làm như ngẫu nhiên, nói thầm gì đó vào tai Chiêu Đệ. Khi người đi săn trên màn hình hút thuốc, chị Chiêu Đệ đã mỏi cổ, lưng cũng mỏi, người chị lún sâu trong ghế, tôi thoáng thấy viên ngọc phỉ thúy long lanh trên đầu chị, thoáng ngửi thấy mùi long não trên quần áo chị, nghe rõ tiếng thở đều đều của chị.
Chị Niệm Đệ vẫn ngồi thẳng, cánh tay trái Tư Mã Khố động dậy, từ từ đưa tay sang, mờ mờ, như một nhánh cỏ đuôi chó. Tôi đã trông thấy tay anh ta đặt trên đùi chị Niệm Đệ. Chị vẫn ngồi ngay thẳng, làm như không biết chuyện gì. Tôi trong lòng không vui, giận không phải giận, sợ cũng không phải sợ. Cổ họng tôi khô bỏng, muốn ho. Một ánh chớp xé rách tầng mây trên đầm, cái tay của Tư Mã Khố vội rụt lại nhanh hơn chớp. Anh ta ho lên một tiếng như tiếng dế kêu, người lắc lư, nghiêng đầu nhìn cỗ máy chiếu phim. Tôi cũng nhìn sang, Bác-bit đang ngẩn tò te dòm vào cái lỗ trên máy chiếu.
Người đàn ông và người đàn bà trên màn hình ôm nhau, hôn nhau. Bọn lính của Tư Mã Khố thở phì phò. Bàn tay Tư Mã Khố thọc một cách thô bạo vào giữa hai đùi chị Niệm Đệ. Chị từ từ giơ tay trái lên sau gáy làm như sửa lại tóc, nhưng tôi trông thấy chị không sửa lại tóc, mà rút trâm cài đầu đâm thẳng xuống, dáng ngồi vẫn thẳng, như vẫn đang mê mải xem phim. Tư Mã Khố giật vai một cái, hít một hơi, không hiểu hơi lạnh hay hơi nóng. Anh ta từ từ rút tay trái về, lại ho một tiếng như tiếng dê. Anh ta giả vờ ho đấy thôi! Tôi thở ra như cất được gánh nặng, mắt vẫn nhìn lên màn ảnh nhưng không nhìn rõ những gì trên đó. Hai bàn tay tôi nhơm nhớp mồ hôi. Có nên cho mẹ biết điều bí mật kia không nhỉ? Không, không nên cho mẹ biết. Nhưng điều bí mật ấy mẹ đã đoán ra.
Những tia chớp sáng trắng, loằng ngoằn như thép chảy, soi sáng Bãi-Cát-Dài, nơi mà Hàn Chim và đồng đội của anh đã chiếm cứ, những cây, những nhà tranh vách đất. Dòng thép tung tóe, đội xuống những cây cối đen sẫm và những ngôi nhà màu vàng. Sấm động ầm ầm như gõ chiếc thùng sắt rỉ. Người đàn ông và người đàn bà lăn lộn trên bãi cỏ bên sông, khiến tôi nhớ lại câu chuyện đêm qua.
Đêm qua, Tư Mã Khố và chị Hai đã thuyết phục được mẹ đến xem phim ở nhà thờ: Cũng đến đoạn lăn lộn trên bãi cỏ, Tư Mã Khố lặng lẽ rút khỏi nơi chiếu phim. Tôi bám theo anh ta. Anh ta đi dọc theo bờ tường như một tên trộm, không giống viên Tư lệnh chút nào. Chắc hẳn xưa kia anh ta là tên trộm vặt. Anh ta nhảy vào vườn nhà tôi, từ bức tường thấp phía nam. Tôn Bất Ngôn cũng vào nhà tôi bằng con đường này, tiên Chim cũng rất quen thuộc. Tôi không nhảy tường. Tôi có cách vào của tôi. Mẹ để chiếc chìa khóa ở kẽ gạch bên cổng, tôi nhắm mắt là có thể sờ thấy. Nhưng tôi không vào bằng cổng. Phía dưới cánh cổng có một cái lỗ để chó chui ra chui vào, đó là khi bà nội còn sống. Chó không còn nữa nhưng lỗ thì vẫn còn. Tôi có thể chui qua. Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa cũng có thể chui qua. Xong rồi, tôi đã ở bên sau cổng. Đây là phòng xép, một bộ phận của dãy chái phía tây. Bước hai bước là vào chái. Gian chái vẫn ngổn ngang như cũ, cối xay bột, máng cỏ, đệm cỏ của Lai Đệ Chị phát bệnh cuồng dâm ngoài bãi cỏ. Để dề phòng chị phá lễ cưới của Bác-bit, Tư Mã Khố đã lấy thùng buộc một tay chị lên khung cửa sổ. Ba hôm rồi, chưa cởi. Tôi cho rằng em rể định cởi trói cho chị đi xem phim. Nhưng sau đó thì thế nào?
Thân hình hộ pháp của Tư Mã Khố càng tỏ ra đồ sộ dưới ánh sao. Anh ta đã mò đến nơi. Anh ta không phát hiện ra tôi. Tôi nấp sau cánh cổng. Anh ta bước vào gian chái, vấp phải chiếc thùng sắt tây. Đó là chiếc thùng để chị Lai Đệ đi tiểu. Lai Đệ cười khanh khách trong bóng tối. Một đốm lửa lóe lên, rất sáng, soi rõ chị Lai Đệ nằm trên đệm cỏ, đầu tóc rối bù, rằng trắng nhởn, chiếc áo ngoài che không kín da thịt. Sợ quá, như một con quỉ. Tư Mã Khố giơ tay vuốt má chị, chị không hề sợ. Bật lửa tắt, dê ở chuồng bên gõ móng. Tiếng cười của Tư Mã Khố.
- Chị vơ ơi! - Tư Mã Khố nói- Chị chẳng cuồng lên rồi đó sao? Có tôi đây...
Lai Đệ gào lên, như điên như cuồng, vẫn những điều tục tĩu như hôm ngoài bãi cỏ, chết khát thôi, chết thèm thôi...
Tư Mã Khố nói:
- Chị ơi, chị khát thì tôi thừa nước, chị là sóng thì tôi là thuyền, chị khô hạn thì tôi là mưa, tôi là cứu tinh của chị đây!
Hai người cuộn lấy nhau. Tiếng kêu của Lai Đệ còn lảnh lót hơn cả tiếng kêu của Tiên Chim trước kia...
Tôi lặng lẽ chui qua lỗ cổng ra ngõ, mồ hôi ướt đầm...
Khi phim sắp chiếu xong, Tư Mã Khố lẳng lặng trở về chỗ ngồi. Mọi người trông thấy Tư lệnh, bèn nhường lối. Khi anh ta đi qua chỗ tôi, tiện tay xoa đầu tôi một cái tôi ngửi thấy mùi vú của chị Lai Đệ trên tay anh ta. Anh ta ngồi xuống, ghé tai chị Hai nói câu gì đó, hình như chị Hai cười. Lúc này đèn điện bật sáng. Mọi người ngẩn ra một thoáng hình như chưa biết nên làm gì. Tư Mã Khố đứng lên nói to:
- Đêm mai chiếu ở ngoài, tôi muốn mọi người cùng hưởng phúc, biết thế nào là văn minh phương Tây! Mọi người như bừng tỉnh, tiếng ồn ào át cả tiếng máy chạy.
Sau đó, khi những người khác đã về hết, Tư Mã Khố hỏi mẹ:
- Thế nào, cụ? Không uổng đã đến xem chứ? Rồi đây tôi sẽ xây rạp chiếu phim ở Cao Mật. Thằng cha Bác-bit quả là giỏi. Có một chàng rể như thế, cụ nên cảm ơn tôi mới phải?
Chị Hai nói:
- Thôi, đưa mẹ về nhà.
Mẹ nói:
- Hãy cụp đuôi lại, chàng rể hiền của tôi, người vui chuyện gở, chó vui tranh phân, chưa hẳn đã tốt đâu!
Tôi không đoán ra từ đâu mẹ biết bí mật từ hồi đêm.
Sáng sớm hôm sau, Tư Mã Khố và chị Hai đem lương thục đến cho, mẹ bảo:
- Rể Hai này, anh nán lại một lúc, tôi có chuyện muốn nói với anh!
Chị Hai nói:
- Chuyện gì mà sợ người khác nghe thấy?
Mẹ nói:
- Mày đi đi!
Mẹ dẫn Tư Mã Khố vào trong buồng nói:
- Anh tính như thế nào về nó?
Tư Mã Khổ nói:
- Ai cơ?
Mẹ nói: - Anh đừng giả vờ nữa!
Tư Mã Khố nói:
- Tôi không giả vờ!
Mẹ bảo:
- Hai con đường, anh hãy chọn lấy một.
Tư Mã Khố hỏi:
- Hai con đường nào?
Mẹ nói: Nghe đây! Một là anh lấy nó, vợ lớn hay vợ bé, hoặc không phân lớn bé, anh bàn với con Hai. Hai là anh giết nó đi!
Tư Mã Khố hai tay xoa ống quần, nhưng lần này khác hẳn cái hôm ở bãi cỏ. Mẹ nói:
- Sau ba hôm, anh phải chọn lấy một Anh về đi!
Chị Sáu ngồi im, như không có chuyện gì xảy ra. Tôi nghe tiếng ho như tiếng dê của Tư Mã Khố, vừa phấn khởi lại vừa buồn. Trên màn ảnh trước mặt, người đàn ông và người đàn bà nằm sát bên nhau dưới gốc cây, người nữ gối đầu trên cánh tay người nam. Người nữ ngước nhìn những quả lúc lỉu trên cây. Người đàn ông hình như có tâm sự gì đó, cắn cắn một nhánh cỏ. Người đàn bà chống tay ngồi dậy, nghiêng người nhìn thẳng vào mặt người đàn ông, nửa bầu vú lộ ra từ cổ áo, giữa hai vú là một rãnh sâu như đường đi của con lươn ở chỗ nước nông gần bờ. Tôi đã bốn lần trông thấy loại đường đó. Tôi khao khát được ngó vào trong rãnh. Nhưng người đàn bà đã dịch người sang một bên, cái rãnh biến mất. Chị ta lắc lắc người đàn ông, gào toáng lên. Người đàn ông nhắm mắt, miệng tiếp tục nhai cọng cỏ. Rồi người đàn bà tát vào mặt người đàn ông, ngoác cái miệng rộng ra khóc, tiếng khóc không khác là bao với tiếng khóc của phụ nữ Trung Quốc. Người đàn ông mở mắt, nhổ cọng cỏ vào mặt người đàn bà. Gió lắc dữ dội cây trên màn ảnh, những quả đập vào nhau, lá xào xạc từ bờ đê vọng lại. Không hiểu tiếng gió trên màn ảnh hay là tiếng gió từ ngoài sông ào tới, một ánh chóp xanh, tiếp theo là tiếng sấm nặng nề. Gió ào ào, mọi người có vẻ nhốn nháo, những phẩy trắng xuyên qua luồng ánh sáng. Mưa rồi, có người kêu lên. Người đàn ông đi về phía cỗ xe, người đàn bà chân trần, quần áo nhàu nát, vịn vào tay người đàn ông.
- Không chiếu nữa, hỏng mất máy chiếu!
Tư Mã Khố đứng chặn luồng ánh sáng. Mọi người hét lên, anh ta lại ngồi xuống. Trên màn ảnh, nước bắn tung lên, người đàn ông và người đàn bà nhảy xuống sông. Lại những tia chớp kéo dài, ánh đèn chiếu bị mờ hẳn đi. Mười mấy vật đen sì bay tới như những cục phân vãi ra từ tia chớp, một loạt tiếng nổ dữ dội trong đám đông, chủ yếu là nổ giữa Chì đội Tư Mã Khố. Tiếng nổ oàng oàng, chớp xanh chớp vàng, mùi thuốc súng nồng nặc xảy ra cùng một lúc. Không rõ từ lúc nào, tôi ngồi trên bụng một người. Tôi cảm thấy nhớp nháp trên đầu. Tôi sờ má, má dính nhơm nhớp, ngủi thấy mùi tanh của máu. Lập tức những tiếng kêu thất thanh, những người sợ đến mất trí chạy tán loạn, thấp thoáng những cái lưng, những cái đầu dẫm máu!
Những bộ mặt hoảng sợ trong luồng ánh sáng. Đôi nam nữ đang đùa rỡn trong nước trên màn ảnh bị xé ra từng mảnh vụn. Chớp. Sấm. Máu tươi, xương thịt tung tóe. Phim Mỹ. Lựu đạn. Đầu nòng súng phụt ra những con rắn lửa.
- Anh em, không được mất trật tự!
Lại một loạt tiếng nổ.
- ối mẹ ơi! ối con ơi!
Một cánh tay giãy đành đạch. Chân vướng ruột người. Những hạt mưa to như đồng bạc trắng. Những ánh chớp chói mắt. Một đêm đầy bí ẩn.
- Bà con, không được động đậy! Sĩ quan, binh lính Chi đội Tư Mã không được động đậy! Nộp súng đầu hàng thì không giết! Hàng thì sống, chống thì chết?
Tiếng gọi từ bốn phía dồn tới, dồn tới...
5
Tiếng nổ chưa dứt hẳn, vô số ngọn đuốc sáng rực đã từ tứ phía
ập tới. Trung đoàn 17 thuộc trung đội 8 áo mưa màu đen, lưỡi lê lắp trên đầu
súng, đi đều bước miệng hô khẩu hiệu, hùng dũng tiến vào. Cầm đuốc là những người
dân quấn khăn mặt trắng trên đầu trong đó quá nửa là phụ nữ tóc cắt ngắn. Họ
giơ cao ngọn đuốc, soi đường cho các binh sĩ trung đoàn 17. Đuốc làm bằng giẻ
rách tẩm đầu, cháy như đình liệu. Chi đội Tư Mã nổ một loạt súng, các binh sĩ
trung đoàn 17 đổ như ngã rạ, nhưng lập tức những người phía sau dồn lên lấp chỗ
trống. Lại mấy chục quả lựu đạn ném tới, đất trời như vỡ tung. Tư Mã Khố kêu
to:
- Đầu hàng thôi, anh em! Đừng làm hại đến dân!
Thế là súng vút ngổn ngang dưới đất, chỗ những ngọn đuốc chiếu
sáng. Hai bàn tay đầy máu, Tư Mã Khố bế chị Chiêu Đệ lên, gọi to:
- Chiêu Đệ, Chiêu Đệ, tỉnh lại đi!
Một bàn tay run run nắm lấy cánh tay tôi. Tôi ngẩng lên, qua
ánh lửa tôi nhìn thấy chị Niệm Đệ mặt trắng nhợt nằm dưới đất, trên người là mấy
xác chết cụt chân cụt tay.
- Kim Đồng, Kim Đồng!... Chị gọi tôi một cách khó khăn - Em
còn sống đấy chứ?
Chị vươn hai tay về phía tôi, cầu khẩn:
- Em yêu, kéo giúp chị ra!
Tay tôi toàn máu là máu. Tay chị cũng đầy máu, nắm lấy như nắm
con lươn, mạnh một tí là tuột. Lúc này mọi người đều nằm bẹp dưới đất không ai
dám đứng dậy. Luồng ánh sáng trên máy chiếu vẫn rọi trên màn bạc, cảnh ân oán của
đôi nam nữ người Mỹ đã đến hồi cao trào, người đàn bà giơ thật cao thanh đao
trước mặt người đàn ông đang ngủ. Bác-bit đứng bên máy chiếu sốt ruột gọi:
- Niệm Đệ Niệm Đệ, em ở đâu?
- Em ở đây, Bác-bit, em ở đây!
Chị Sáu giơ một tay về phía Bác-bit của chị. Chị thều.. thào
trong miệng, nước mắt nước mũi đầy mặt. Bác-bit. gắng gượng đi về phía chị Niệm
Đệ, anh ta đi rất khó khăn, y hệt con ngựa bị lún trong bùn lầy.
- Đứng lại - Một tiếng gầm vang lên. Đoàng, một tiếng súng bắn
chỉ thiên. Không được mất trật tự! Bác-bit như bị chém ngang lưng, đổ gục trên
mặt đất.
Tư Mã Lương không biết từ đâu bò tới, tay trái rách thành một
cái lỗ, máu me đầy mặt, tóc và cổ. Nó kéo tôi dậy, dùng bàn tay rắn rỏi sờ nắn
khắp người tôi.
- Cậu còn nguyên vẹn cả, tay còn, chân còn - nó nói.
Nó cúi xuống lôi những cái xác nằm đè lên chị Sáu, đỡ chị dậy.
Bộ quần áo chị Sáu dính đầy máu.
Dưới trời mưa nặng hạt như những mũi tên, chúng tôi bị dồn
vào căn nhà để cối xay gió. Đây là công trình kiến trúc to nhất của thôn trấn.
Giờ đây, nó bị biến thành trại tạm giam. Giờ nghĩ lại, khi đó chúng tôi có nhiều
cơ hội trốn thoát, vì rằng mưa rào dập tắt nhanh chóng những cây đuốc trong tay
dân phu của trung đoàn 17, các binh sĩ trong trung đoàn bị mưa quất không mở được
mắt, chúng loạng choạng, lo thân còn chưa xong. ở đầu hàng quân chỉ có ánh sáng
của hai cây đèn pin. Vậy mà không một ai chạy trốn. Kẻ bắt người và người bị bắt
cùng lúng túng như nhau. Khi đến gần cánh cổng nhà xay, các binh sĩ của trung
đoàn 17 tranh nhau vào trước, vượt cả chúng tôi.
Nhà xay rung lên dưới mưa. Qua ánh chớp, tôi nhìn thấy nước đổ
như trút qua kẽ hở của những tấm tôn lợp. Nhìn ra ngoài hiên, dòng nước chảy cuồn
cuộn, từ rãnh thoát nước trước cửa đến ngoài đường, trắng xóa một màu. Trong
quãng đồng từ sân phơi đến nhà xay, tôi bị lạc chị Sáu và Tư Mã Lương. Trước mặt
tôi là tên lính của trung đoàn 17, anh ta lộ xỉ, môi không che kín lợi, răng trắng
nhởn như răng thỏ lộ hết ra ngoài. Cặp mắt màu xám của anh ta bị phủ một lớp
hơi nước. Tôi cảm thấy nỗi tuyệt vọng và sợ hãi khiến tim anh ta như bị sâu bọ
gậm nhấm. Sau một ánh chớp, anh ta hắt hơi một cái rõ kêu trong bóng tối, phả
vào mặt tôi mùi thuốc lá lẫn mùi củ cải. Mũi tôi vừa cay vừa ngứa. Tiếng hắt
hơi râm ran trong bóng tôi. Tôi muốn tìm chị Sáu và Tư Mã Lương, nhưng tôi
không dám gọi, chỉ dựa vào tia chớp lóe lên trong khoảnh khắc để tìm trong tiếng
sấm như bắt lấy hồn phách người ta và mũi thì ngửi toàn mùi lưu huỳnh. Tôi
trông thấy sau lưng một tên lính bé nhỏ, là bộ mặt gầy guộc của thằng Gật. Hắn
trông như quỉ nhập tràng vừa chui ra từ trong mộ, sắc mặt tím tái, tóc bết lại
như hai cái bàn chải, quần áo dán chặt vào người, cổ dài ngoẵng, yết hầu như một
quả trứng gà, xương ngực lồi lên, mặt hắn như đốm lửa lân tinh.
Khi trời gần sáng thì ngớt mưa, những tiếng ầm ầm trên mái
tôn đã chuyển sang tiếng tí tách của giọt nước lọt qua kẽ hở. Sấm chớp giảm,
màu sắc từ xanh lét đáng sợ chuyển sang màu vàng trắng ấm áp. Tiếng sấm xa dần,
gió thổi theo hướng đông bắc, lạnh thấu xương, mọi người áp sát nhau, bất kể
ai. Phụ nữ và trẻ con khóc trong bóng tối. Tôi cảm thấy như kiến bò ngược từ dưới
chân lên, bụng dưới đau quặn, rồi toàn thân như một tảng băng. Giả dụ khi ấy có
ai muốn ra khỏi nhà xay, chắc chắn không bị ngăn trở. Nhưng không có người nào
bỏ trốn.
Sau đó, ngoài cổng có người đi tới. Trong trạng thái tê dại,
tôi dựa vào cái mông đít của ai đó, người ấy cũng dựa vào tôi. Tiếng lội nước
oàm oạp bên ngoài, tiếp đó mấy luồng ánh sáng vàng vọt rọi vào. Vài người trùm
áo mưa chỉ hở hai con mắt hiện ra trước cổng, gợi vào trong:
- Các binh sĩ trung đoàn 17 ra hết bên ngoài chấn chỉnh đội
ngũ.
Tiếng gọi khàn khàn, không phải giọng của anh ta. Giọng anh
ta vốn oang oang, đầy kích động. Tôi nhận ra ngay một trong những người mặc áo
mưa đó chính là Lỗ Lập Nhân, đại đội trướng kiêm chính ủy đại đội bộc phá. Cái
tin anh ta thăng cấp, gia nhập trung đoàn 17, tôi đã có nghe hồi mùa xuân, bây
giờ thì đã rõ ràng.
- Mau lên! - Lỗ Lập Nhân nói - Các đại đội đã nhận xong phòng
ở, các đồng chí về ngay để ngâm chân, uống nước gừng!
Các binh sĩ trung đoàn 17 chen nhau ra khỏi nhà xay. Họ xếp
hàng ngoài đường, vài người có vẻ cán bộ, tay cầm đèn bão, tranh nhau hô:
- Đại đội ba theo tôi! Đại đội bảy theo tôi! Bộ phận trục thuộc
trung đoàn theo tôi!
Các binh sĩ lội bì bõm đi theo những chiếc đèn bão. Mười mấy
binh sĩ mặc áo mưa, bồng súng bước tới, người trực ban báo cáo:
- Báo cáo trung đoàn trưởng, trung đội một, đại đội cảnh vệ đến
canh gác tù binh.
Lỗ Lập Nhân giơ tay chào lại, nói:
- Canh gác cẩn mật, không cho đứa nào trốn thoát. Sẽ điểm
danh khi trời sáng. Nếu tôi không lầm thì... - Hắn ngó vào trong nhà xay - Ông
bạn Tư Mã Khố cũng trong đó.
- Tiên sư nhà mày! - Tư Mã Khố từ sau chiếc cối xay lớn chửi
vọng ra - Thằng Tưởng Lập Nhân ti tiện kia, ông ở đây!
Lỗ Lập Nhân cười:
- Hẹn gặp lại khi trời sáng!
Lỗ Lập Nhân vội vã bỏ đi. Tay trung đội trưởng cảnh vệ to như
hộ pháp đứng dưới ánh đèn, nói vào trong:
- Tôi biết có người có súng lục. Tôi ở chỗ sáng, các người ở
trong tối, có thể bắn trúng tôi? Nhưng tôi khuyên các người hãy bỏ ý nghĩ đó
đi, vì nếu có bắn thì chỉ bắn ngã một mình tôi, nhưng... - Anh ta quay lại chỉ
đám binh sĩ - mười mấy băng tiểu liên này xả vào thì ngã xuống không chỉ có một.
Chúng tôi ưu đãi tù binh, trời sáng sẽ phân loại không có tội và nếu tự nguyện
tham gia đội ngũ, chúng tôi hoan nghênh. Người nào không muốn tham gia, chúng
tôi cấp tiền lộ phí, cho về với gia đình.
Trong nhà xay không ai nói gì, chỉ có tiếng nước chảy ào ào.
Đại đội trưởng chỉ huy đám lính kéo cánh cổng đã biến dạng, đóng cổng lại. ánh
sáng vàng vọt của cây đèn bão lọt qua khe cửa, chiếu vào trong.
Các binh sĩ của trung đoàn 17 rút hết đi, trong nhà xay dễ thở
hơn. Tôi mò mẫm lần đến chỗ có tiếng nói của Tư Mã Khố, vấp phải những cẳng
chân nóng như lửa, nghe thấy những tiếng rên hừ hừ. Khu nhà xay này là kiệt tác
của anh em Tư Mã Khố. Sau khi khánh thành, nhà xay không xay được một bao bột
nào. Những cánh quạt chỉ một đêm giông bão đã gãy sạch, còn trơ lại cái trụ với
những cánh nứt gãy, bốn mùa kêu kèn kẹt. Khu nhà xay rộng đến mức có thể làm
nơi đua ngựa, mười hai chiếc cối xay như mười hai quả núi nhỏ ngồi chồm hổm
trên bệ. Chiều qua tôi cùng Tư Mã Lương vừa đến quan sát nơi này. Tư Mã Lương
nói nó sẽ đề nghị bố nó sửa chữa nhà xay thành rạp chiếu bóng. Khi bước chân
vào trong nhà xay, tôi bất chợt rừng mình. Trong khu nhà rộng thênh thang có một
đàn chuột hung tợn xông thẳng vào chúng tôi. Khi chỉ còn khoảng hai bước chân,
chúng dùng lại. Một con chuột già lông trắng mắt đỏ, giơ những vuốt chân đẹp
như điêu khắc băng ngọc thạch, vuốt râu. Cặp mắt ti hí của nó đảo như chớp. Sau
lưng nó, mươi mấy con chuột xếp thành hình cánh cung, mắt vằn lên, chuẩn bị
xông lên cắn xé. Tôi hoảng sợ lùi lại, đầu như muốn vỡ ra, lưng toát mồ hôi lạnh.
Tư Mã Lương đứng chắn trước mặt tôi, nó chỉ đứng đến cằm tôi. Nó cúi xuống, rồi
sau đó nó ngồi xổm, chiếu tướng con chuột già. Con chuột cũng không chịu lép,
nó không vuốt râu nữa, ngồi chồm hổm như chó, cặp râu rung rung. Con chuột già
nghĩ gì? Tư Mã Lương, thằng nhỏ tôi vốn không ưa rồi dấn dà trở thành thân cận
của tôi, nghĩ gì? Chỉ đơn thuần là cuộc đấu giữa hai cặp mắt hay sao? Nó và con
chuột đang tiến hành một cuộc đọ sức về tinh thần, chĩa mũi nhọn vào nhau xem
ai nhụt trước. Tôi hình như nghe thấy con chuột nói rằng, đây là địa bàn của
chúng tôi, các ông không nên thâm nhập. Tôi nghe Tư Mã Lương nói: Đây là nhà của
ta, do bác ta và cha ta xây dựng nên. Ta về đây tức là về nhà, ta là chủ của
ngôi nhà này. Chuột già nói: Được làm vua, thua làm giặc! Tư Mã Lương nói: Yếu
trâu còn hơn khỏe bò. Chuột già nói: Ông là người chứ không phải trâu. Tư Mã
Lương nói: Kiếp trước ta là mèo, nặng tám ký, mèo đực. Chuột già nói: Ông làm
sao cho tôi tin kiếp trước của ông là mèo? Tư Mã Lương chống hai tay xuống đất,
trợn mắt há miệng kêu meo meo. Tiếng dội lại meo meo. Chuột già kinh hoàng hạ
hai chân trước xuống định bỏ chạy. Tư Mã Lương nhanh nhẹn vồ lấy con chuột quật
chết tươi trong khi nó chưa kịp cắn. Những con còn lại chạy tán loạn. Tôi bắt
chước Tư Mã Lương, vừa kêu meo meo, vừa đuổi đánh lũ chuột. Trong chớp mắt, lũ
chuột chạy mất dạng. Tư Mã Lương cười, ngoảnh lại nhìn tôi. Trời ơi, mắt nó giống
hệt mắt mèo, lóe lên những tia dữ dằn trong ánh hoàng hôn. Nó quẳng con chuột
già vào lỗ cối xay. Hai chúng tôi mỗi thằng bám một tai cối, hết sức bình sinh
mà đẩy nhưng cái cối không nhúc nhích, đành bỏ cuộc. Chúng tôi đi vòng một lượt
các cối, cái nào cũng tốt. Tư Mã Lương nói:
- Cậu Kim Đồng, ta chung nhau mở nhà xay, cậu thấy thế nào?
Tôi không biết trả lời nó ra sao. Ngoại trừ vú và sữa, tôi chẳng
thấy cái gì có ích cho tôi.
Buổi chiều hôm đó thật huy hoàng, ánh nắng xuyên qua khe hở
và các ô cửa sổ, chiếu trên gạch lát nền men xanh. Trên nền có cứt chuột. Trong
cứt chuột chắc chắn là có cứt dơi, vì rằng trên xà nhà treo lủng cẳng những con
dơi cánh dỏ. Một con dơi quá to bằng chiếc đấu đang bò trên vì kèo. Tiếng kêu của
nó tương xứng với cơ thể nó, lảnh lót và kéo dài, khiến tôi sởn gai ốc. Chính giữa
cối đều đục một lỗ tròn bằng miệng bát, là đoạn gỗ sam chọc thẳng qua nóc chĩa
lên trời, đầu đoạn gỗ lắp bánh xe gió. Tư Mã Khố và Tư Mã Đình cho rằng, chỉ cần
có gió là những cánh trên bánh xe chuyển động, bánh xe sẽ chuyển theo, khúc gỗ
sam tất nhiên cũng chuyển động. Nhưng thực tế đã nghiền nát ảo tưởng của anh em
nhà Tư Mã. Tôi đi vòng quanh cối để tìm Tư Mã Lương, trông thấy mấy con chuột
trèo lên trèo xuống thoăn thoắt chỗ cột gỗ sam. Trên thớt trên của cối có người
đang ngồi. Đó là Tư Mã Lương, ánh mắt sáng rực. Nó thò bàn tay lạnh ngắt xuống
năm lấy tay tôi. Được nó giúp sức, tôi đặt chân lên tai cối, trèo lên đỉnh thớt
trên. Mặt thớt trên ẩm ướt, nước đầy lỗ.
- Cậu Kim Đồng, cậu còn nhớ con chuột già không
Nó hỏi tôi, vẻ thần bí. Tôi gật đầu trong bóng tối.
- Nó ở đây - Tư Mã Lương nói nhỏ - Cháu định lột da nó để bà
ngoại may cái chụp tai chống lạnh!
Một tia chớp yếu ớt lóe lên từ phương nam xa xôi, trong nhà
xay rạng lên một thoáng. Tôi trông thấy con chuột trong tay Tư Mã Lương ướt đẫm
nước, cái đuôi nhỏ và dài buông thõng một cách đáng ghét.
- Vứt nó đi! - tôi bảo.
- Sao lại vứt? - nó hỏi lại, giọng bất mãn.
- Kinh khủng, lẽ nào mày không thấy lợm giọng hay sao? - tôi
nói.
Nó im lặng, trầm ngâm. Tôi nghe thấy tiếng con chuột rơi xuống
lỗ cối.
- Cậu Kim Đồng này, họ sẽ làm gì bọn mình? - nó hỏi, vẻ lo ngại.
Đúng vậy, họ sẽ làm gì chúng tôi? Ngoài cửa, bọn lính đang đổi
gác. Nước chảy ào ào trên đường. Tên lính thay gác hắt hơi như ngựa. Một tên
nói.
- Lạnh thật, đâu phải là thời tiết tháng Tám, hay là sắp đóng
băng?
- Nói nhảm - một tên khác nói.
- Cậu nhớ nhà không? - Tư Mã Lương hỏi tôi.
Một luồng hơi cay xộc lên sống mũi. Chiếc giường ấm sục, vòng
tay ấm áp của mẹ, giấc mộng du của Câm-anh Câm- em, con dế sau bếp lò, sữa dê
ngọt lịm, xương cốt mẹ kêu răng rắc và tiếng ho nặng nề, tiếng cười điên loạn của
chị Cả, bộ lông mượt của con cú vọ, rắn ráo bắt chuột trong nhà kho... Tôi
không nhớ nhà sao được! Tôi cố khịt cho thông lỗ mũi bị tắc.
- Cậu Kim Đồng, ta trốn đi! - Nó rủ tôi.
- Có lính ngoài cửa, trốn sao được? - tôi khẽ hỏi.
Nó nắm cánh tay tôi, bảo:
- Cậu xem cái cột gỗ sam này - Nó đặt tay tôi vào cái cột gỗ
sam chọc thẳng lên mái nhà. Cái cột đẫm nước. Nó bảo: - Ta theo cái cột này mà
lên, dỡ mái tôn chui ra!
Tôi do dự, nói:
- Lên rồi thì sao?
Nó bảo:
- Nhảy xuống là có thể về nhà.
Tôi tưởng tượng cái cảnh đứng trên mái tôn han rỉ phát ra những
tiếng như tiếng trống mà rủn cả hai chân.
- Cao như thế...- tôi thì thào - nhảy xuống thì gãy cẳng!
Nó bảo:
- Không sao đâu, cháu đảm bảo vô sự. Mùa xuân vừa rồi cháu đã
có lần nhảy xuống. Dưới hiên là những bụi đinh hương co dãn như lò xo!
Tôi nhìn lên chỗ tiếp giáp giữa cột và mái, nơi đó có một khoảng
ánh sáng, nước mưa từ đó chảy xuống theo cái cột.
- Cậu ơi, trời sắp sáng, lên đi!
Nó sốt ruột giục tôi. Tôi gật đầu vì chẳng còn cách nào khác.
- Cháu lên trước, đội mái tôn lên - Nó tỏ vẻ thành thạo, vỗ vỗ
vai tôi, nói: - Cho cháu đứng lên vai cậu?
Rồi hai tay ôm cột gỗ sam, hai chân đặt trên vai tôi, giục:
Tôi vịn cột lẩy bẩy đứng lên. Mấy con chuột tụ tập quanh chân
cột ngã lăn ra. Tôi cảm thấy Tư Mã Lương dùng sức nhún trên vai tôi một cái, ôm
cột trèo lên như một con thạch sùng. Cột rất trơn, lên rồi lại tụt, nhưng cuối
cùng nó cũng lên được tới nóc nhà. Nó dùng tay đấm tấm tôn lợp, nước đọng chảy
qua kẽ hở, trút xuống dưới nhà. Mặt tôi, miệng tôi đầy nước có mùi tanh của gỉ
sắt và cả những gỉ vụn. Tư Mã Lương thở nặng nhọc trong bóng tối, mái tôn cạch
lên một tiếng, nước đổ xuống như thác, tôi phải ôm chặt lấy cây cột mới không bị
ngã. Tư Mã Lương dùng đầu đội tấm tôn lên để mở rộng lỗ hổng. Tấm tôn cong dần
rồi bật ra, một mảng trời hình tam giác méo mó hiện ra trên đỉnh đầu ánh sáng
màu trắng đục soi qua kẽ hở, tôi trông thấy mấy ngôi sao mờ mờ trên nền trời.
- Cậu Kim Đồng! Nó đứng trên xà nhà gọi với xuống - để cháu
lên trước thăm dò rồi quay xuống cứu cậu lên! Nó dướn mình lên, thò đầu ra khỏi
cái lỗ hình tam giác.
- Có người trên nóc nhà! - Các binh sĩ ngoài cửa kêu lên. Tiếp
đó là những luồng lửa sáng rực, đạn bắn bôm bốp vào mái tôn. Tư Mã Lương ôm cột
tụt vội xuống, suýt đè gãy cổ tôi. Nó vuốt nước trên mặt, nhổ gỉ sắt khỏi miệng,
hàm răng va vào nhau lập cập, nói:
- Lạnh quá, lạnh quá?
Giờ phút tối lại để sáng đã qua, trong nhà xay sáng dần lên.
Tôi và Tư Mã Lương ôm chặt lấy nhau, tôi cảm thấy trái tim của nó áp sát ngực
tôi, đập thình thịch như chim sẻ. Tôi khóc vì tuyệt vọng. Nó đụng khẽ cái đầu
trọc vào cằm tôi, nói:
- Cậu đừng khóc! Chúng nó không dám hại cậu đâu. Chồng dì Năm
là quan to của chúng!
Giờ đây đã nhìn rõ quang cảnh trong nhà xay. Mười hai thớt cối
xay màu xanh xám dáng vẻ uy nghi. Tôi và Tư Mã Lương chiếm một thớt. Chóp mũi
nó có một giọt nước, lung linh trước mặt chúng tôi. Trên tất cả những cối xay
còn lại đều có chuột. Chúng co cụm lại một chỗ, những cặp mắt ti hí đen láy,
đuôi như những con giun. Chúng vừa đáng thương vừa đáng ghét. Mặt đất lõm bõm
những nước. Nước trên mái nhà vẫn tiếp tục rỏ giọt. Các sĩ quan và binh lính
Chi đội Tư Mã Khố đứng tựa vào nhau, quân phục màu xanh trên người biến thành
màu đen. ánh mắt và sắc mặt của họ giống lũ chuột trên cối đến kinh người. Những
người dân bị kẹt, phần lớn tụm lại một chỗ, chỉ một số ít trà trộn trong đám
binh sĩ của Tư Mã Khố chẳng khác kê mọc lẫn ngô ở ngoài đồng. Đàn ông xen lẫn
đàn bà, nam nhiều hơn nữ, mấy đứa trẻ nằm trong lòng mẹ, rên hừ hừ như con mèo
hen. Đám phụ nữ đều ngồi dưới đất, đám đàn ông có người ngồi xổm, người đứng tựa
vào tường. Tường trong nhà xay đều quét vôi, vôi ẩm dính đầy lưng áo đám đàn
ông, khiến những chỗ đó biến thành màu khác. Tôi phát hiện ra cô mắt hiếng
trong đám đông. Cô ngồi duỗi hai chân trong vũng nước, lưng tựa vào lưng một phụ
nữ khác. Cô ngoẹo đầu như cổ đã bị gãy. Cô Kim Một Vú thì ngồi trên mông một
người đàn ông. Người đàn ông ấy là ai? Anh ta phủ phục trên mặt đất, áp má
trong vũng nước, bộ râu bạc phơ phất, xung quanh chòm râu có những cục máu rung
rinh như bọ gậy. Cô Kim chỉ có một bên vú phải, ngực bên trái phẳng lì, khiến
vú phải càng đồ sộ, chẳng khác quả núi mọc giữa đồng băng. Núm vú cô vừa to vừa
cứng, đội căng làn áo mỏng, lúc hưng phấn có thể treo một lọ nước hoa mà không
rơi, nên cô Kim mới có biệt hiệu Lọ-nước-hoa. Mấy chục năm sau, khi tôi phủ
trên tấm thân không một mảnh vải của cô, mới phát hiện ra vú trái cô thoái hóa
tới mức không để lại mọt vết tích, đầu vú chỉ như một nốt ruồi để chứng tỏ cái
vú đã từng tồn tại. Cô ngồi trên cái mông người chết, hai tay vuốt mặt như người
bị tâm thần, cứ vuốt một cái trên mặt lại chùi hai cái trên đầu gối, làm như cô
vừa chui ra khỏi mạng nhện, mặt vướng đầy tơ. Những người khác thì mỗi người một
vẻ, người khóc người cười, người nhắm mắt nói lảm nhảm, người lắc cổ không lúc
nào ngừng như con rắn dưới nước, như chim hạc trên bờ. Người có thân hình thanh
mảnh kia là vợ anh bán mắm tôm Cảnh Đại Lạc, quê Bắc Hải. Người phụ nữ đầu nhỏ
cổ cao, cái đầu nhỏ đến nỗi hoàn toàn không tương xứng với thân thể. Có người bảo
chị ta là rắn hóa thành người. Cái đầu và cổ của chị qua thật giống rắn, ló hẳn
lên trên đầu đám phụ nữ, trong ánh sáng mờ mờ, cái đầu lắc lư chúng tỏ chị ta
đúng là rắn. Chị lại rụt cố xuống. Tôi không dám đến xem thân hình chị ta, mắt
trợn tròn vì sợ, hình ảnh chị cứ lởn vởn trong đầu tôi.
Một con rắn to màu xanh vỏ chanh từ trên cột gỗ sam bò xuống.
Đầu nó dẹt như cái muỗng xúc cơm, lưỡi đỏ chót không ngừng bắn ra khỏi miệng.
Khi đầu nó vừa chạm thớt trên của cối, liền trườn ra một cách mềm mại thành một
góc vuông rồi nhẹ nhàng bò đến gần lũ chuột ở giữa cối. Lũ chuột giơ chân trước
lên kêu chí chí. Khi cái đầu con rắn trườn đi, phần thân của nó quấn quanh cột
vẫn tiếp tục chuyển động, trông như không phải con rắn mà là cái cột chuyển động
xoay tròn. Cái đầu con rắn đến giữa thớt cối thì ngóc lên cao đúng một thước, bạnh
cổ bằng hai bàn tay chập lại, những hoa văn trên cổ dồn đuổi nhau không ngừng bạnh
ra thu vào, cái lưỡi phóng ra càng nhanh, càng đáng sợ, rít lên thành tiếng. Lũ
chuột chôn chân tại chỗ, rúm người lại chỉ còn một nửa. Một con đứng thẳng lên
bằng hai chân sau, hai chân trước vươn ra như cầm sách để đọc, rồi đột nhiên nhảy
vào miệng rắn khi ấy há to như cái phễu. Sau đó, con rắn ngậm miệng lại, một nửa
con chuột thò ra ngoài, cái đuôi dài ve vảy một cách tức cười.
Tư Mã Khố ngồi trên một khúc gỗ sam đầu cúi gằm, tóc tai rối
bù. Chị Hai nằm dài vắt qua gối đầu ngả vào nách anh ta. Da cổ chị nhăn thành
nhiều nếp, mặt trắng bệch, miệng há hốc. Chị đã chết. Bác-bít ngồi kề bên Tư Mã
Khố, những nét già nua hằn trên khuôn mặt trẻ thơ của anh ta. Nửa người trên của
chị Sáu nằm đè lên đầu gối Bác-bít, run lên từng cơn. Bác-bít dùng bàn tay hộ
pháp nhăn nhúm vì nước mưa, ve vuốt bờ vai chị Sáu. Sau cánh cổng mục, một người
gầy guộc đang tính chuyện tự vẫn, chiếc quần dài tụt dưới mông, quần lót màu
cháo lòng lấm đầy bùn. Ông ta định buộc đầu thắt lưng bằng vải lên khung cổng,
nhưng vì khung quá cao, ông ta cứ kiễng mãi mà không tới. Nhìn sau gáy, tôi biết
ông ta. Đó là Tư Mã Đình, bác của Tư Mã Lương. Cuối cùng, ông ta mệt, xốc quần
lên, thắt lại thắt lưng, quay lại nhìn chúng tôi cuối, tỏ vẻ xấu hổ, ngồi phệt
xuống bùn mà khóc tướng lên.
Gió sớm mai từ ngoài đồng thổi vào như con mèo đen ẩm ướt.
Con mèo đen miệng ngậm chú cá giếc long lanh vẩy bạc, ung dung đi trên mái tôn.
Mặt trời đỏ như máu nhô lên từ đầm lầy mênh mông những nước là nước, vẻ mệt mỏi.
Lũ tràn lên, sông Thuồng Luồng réo ào ào, phá tan bầu không khí tĩnh mịch của
ban mai. Chúng tôi ngồi trên thớt cối, bắt gặp ánh nắng màu hồng mờ mờ sương.
Sau một đêm mưa xối xả, những ô kính cửa sổ sạch bong, cánh đồng tháng Tám
không bị cây che khuất hiện rõ mồn một. Bụi bậm trên đường trôi sạch, lộ ra nền
đất cứng. Mặt đường trơn bóng, hai con cá chép bị mắc cạn nằm ườn ra trên đường,
chưa chết hẳn, cái đuôi thỉnh thoảng lại quẫy một cái. Hai người đàn ông mặc
quân phục màu xám, một cao một thấp, người cao gầy người thấp béo, khênh sọt loạng
choạng đi tới, trong sọt có mười mấy con cá to, toàn là cá chép và trắm cỏ
ngoài ra còn có một con lươn to màu kim nhũ. Họ sung sướng khi phát hiện hai
con cá chép trên đường phố, vội khênh sọt chạy tới, dáng chạy vất vả, y như con
vịt buộc vào con hạc.
- Cá chép? Người béo và lùn kêu lên.
Khi họ cúi nhặt cá, tôi trông thoáng khuôn mặt họ. Đúng là
hai người phục vụ hôm tiệc cưới. Họ là hai tên nội ứng của trung đoàn 17. Bọn
lính gác đứng nhìn những người nhặt cá. Người trung đội trưởng phụ trách canh
gác ngáp dài, bước tới bảo:
- Lưu béo, Hầu gầy này, các anh đúng là lấy trứng trong đũng
quần, bắt cá trên cạn.
Hầu gầy nói:
- Trung đội trưởng Mã, anh vất vả quá?
Trung đội trưởng Mã nói:
- Vất vả thì kể gì, đói mềm người ra đây!
Lưu béo nói:
- Phải khao quân một bữa canh cá mới được, thắng to thế kia
mà?
Trung đội trưởng Mã nói:
- Vài con cá thì ăn nhằm gì, chỉ béo bọn nhà bếp!
Hầu gầy nói:
- Anh to nhỏ gì cũng là cán bộ, cán bộ thì phải nói có sách
mách có chứng, phê bình phải chú ý khía cạnh chính trị, không nên nói bừa!
- Đùa thôi mà, sao lại cho là thật? - Trung đội trưởng Mã nói
- Hầu gầy này, mới có mấy tháng không gặp nhau mà cậu mồm mép khác hẳn!
Trong khi bọn lính đang cãi vã, mẹ chậm rãi đi tới, dáng đi nặng
nề nhưng vững vàng dưới ánh nắng ban mai.
- Mẹ ơi! - Tôi vừa khóc vừa nhảy xuống, muốn bay tới sà vào
lòng mẹ, nhưng tôi đã bị ngã sóng soài trên vũng bùn.
Khi tôi tỉnh lại, đầu tiên tôi trông thấy là khuôn mặt xúc động
của chị Sáu, Tư Mã Khố, Tư Mã Đình, Bácbít, Tư Mã Lương.
- Mẹ đến đấy? - tôi bảo chị Sáu - chính mắt em trông thấy!
Tôi nhoài khỏi cánh tay chị Sáu chạy ra cửa, loạng choạng va
phải một người, chạy tiếp, lại va phải vai một người nữa, lại chạy, cố sức rẽ
đám đông. Cánh cổng chặn đường ra của tôi. Tôi đấm cửa thình thình, gào to:
- Mẹ ơi, mẹ!
Một tên lính gác thò đầu súng tiểu liên qua lỗ hổng, quát to:
- Không được ồn, sau bữa sáng sẽ thả các ngươi. Mẹ nghe thấy
tiếng gào khóc của tôi, nhịp bước nhanh hơn. Mẹ nhảy qua cái rãnh bên đường,
nhăm cổng nhà xay đi tới. Trung đội trưởng Mã ngăn mẹ lại:
- Đề nghị bác dùng lại!
Mẹ giơ tay gạt trung đội trưởng ra, không nói một lời tiếp tục
tiến lên. Mặt mẹ đỏ rực như bôi lên một lớp máu, miệng méo xệch vì giận dữ.
Bọn lính gác vội vàng nhích lại gần nhau dàn thành một hàng
ngang như bức tường sơn đen.
- Đứng lại, các bà đứng lại!
- Bà là ai! Bà muốn gì? - Trung đội trung Mã giận dữ hỏi, đẩy
ngược mẹ một cái, mẹ lùi lại mấy bước, suýt ngã.
- Mẹ ơi! - Tôi gào lên sau cánh cổng.
Mẹ đứng thẳng lên, miệng mở to, tiếng gừ gừ trong họng. Mẹ bất
chấp tất cả, lao tới.
Trung đội trung Mã đẩy một cái thật mạnh, mẹ ngã lăn xuống
rãnh. Nước bắn tung tóe. Mẹ lộn một vòng trong rãnh rồi ngồi dậy, nước lút đến
bụng. Mẹ trườn lên bờ rãnh, ướt như chuột lột, tóc bết bùn và nước bẩn. Một chiếc
giày của mẹ đã mất, bàn chân tàn phế để trần, mẹ cà nhắc xông tới.
- Đứng lại? - Trung đội trưởng Mã lên cò súng, chĩa tiểu liên
vào giữa ngực mẹ, hầm hầm: - Mụ định cướp tù hay sao?
Mẹ nhìn hắn bằng con mắt hằn học, nói:
- Tránh ra!
- Vậy mụ muốn gì? - Trung đội trưởng hỏi.
Mẹ gào lên:
- Tôi tìm con trai tôi!
Tôi càng gào to hơn, Tư Mã Lương đứng bên tôi cũng gọi:
- Bà ngoại ơi!
Chị Sáu cũng gọi:
- Mẹ ơi!
Bị lây tiếng khóc của chúng tôi, tất cả phụ nữ trong nhà xay
đều khóc ầm lên. Tiếng khóc của phụ nữ xen
lẫn tiếng hỉ mũi của đàn ông và tiếng chửi của những tên
lính.
Các binh sĩ vội vàng đằng sau quay, chĩa súng vào cánh cổng.
- Không được ồn! - Trung đội trưởng Mã quát - lát nữa sẽ thả
các người?
- Bác ơi - Trung đội trưởng Mã ôn tồn bảo mẹ - Bác cứ về trước,
chỉ cần con trai bác không tầm bậy là chúng tôi thả.
- Con tôi! - Mẹ chạy vòng qua trung đội trưởng Mã, gào to.
Trung đội trưởng Mã nhảy một bước đứng chặn trước mặt mẹ,
nghiêm giọng nói:
- Tôi cảnh cáo bác, nếu bác tiến lên một bước là tôi không
khách khí đâu đấy?
Mẹ nhìn thẳng vào mặt trung đội trưởng, hỏi khẽ:
- Ông có mẹ không? Ai đẻ ra ông?
Mẹ giơ thẳng cánh, cho trung đội trưởng Mã một bạt tai, rồi bỏ
đi. Bọn lính gác rẽ sang hai bên nhường đòng cho mẹ.
Trung đội trưởng ôm mặt ra lệnh:
- Chặn mụ lại! Bọn lính gác bất động, làm như không nghe tiếng.
Mẹ đứng trước cổng, tôi thò tay qua kẽ hở vừa gọi vừa vẫy rối rít.
Mẹ rút cái then cổng bằng sắt, tôi nghe thấy tiếng thở nặng
nhọc của mẹ. Chiếc then cửa rung lên, một tràng đạn bắn vào phía trên cánh cổng,
tiếng súng chói chang, những mảnh gỗ rơi xuống đầu tôi.
- Mụ kia, đứng im, cử động là ta bắn! - Trung đội trưởng Mã gầm
lên, lại bắn chỉ thiên một tràng nữa.
Mẹ rút bỏ then sắt, đẩy cổng ra. Tôi mất đà, chúi vào lòng mẹ.
Tư Mã Lương và chị Sáu cũng nhào tới. Lúc này, trong nhà xay có tiếng người hô:
- Anh em ơi xông ra, lát nữa là chết tất?
Các binh sĩ của Chi đội Tư Mã ùa ra như nước lũ. Chúng tôi bị
những người đàn ông khỏe mạnh hất bắn sang bên. Tôi ngã, mẹ nằm đè lên tôi.
Trong nhà xay nhốn nháo, tiếng khóc, tiếng gầm, tiếng rú thê
thảm hòa làm một. Bọn lính gác của trung đoàn 17 bị xô ngã dúi dụi, các binh sĩ
của Chi đội Tư Mã tước lấy súng. Tiếng nổ làm cửa kính rung lên lanh canh.
Trung đội trưởng Mã ngã xuống rãnh. Hắn đứng trong nước quét một vòng, hơn chục
binh sĩ trong Chi đội Tư Mã đổ gục như ngả rạ. Các binh sĩ Chi đội Tư Mã chồm
lên người trung đội trưởng Mã, đè hắn xuống rãnh đấm đá loạn xạ.
Binh mã của trung đoàn 17 chạy tới, vừa chạy vừa lên cò súng
bắn vung vãi. Các binh sĩ của Chi đội Tư Mã chạy tán loạn, những viên đạn vô
tình đuổi theo họ. Chúng tôi áp sát lưng vào tường nhà xay, dùng tay đẩy lui những
người lấn tới.
Một người lính của trung đoàn 17 quì bắn dưới gốc cây bạch
dương, tay giương súng, mắt nhằm bắn, cứ mỗi lần cây súng nẩy lên là một binh
sĩ của Chi đội Tư Mã ngã xuống. Súng nổ đoàng đoàng, những vỏ đạn nóng bỏng rơi
xuống nước bốc khói. Người lính lại nhằm một người thân hình cao lớn, đen nhẻm.
Người đó đã chạy được mấy trăm thước. Anh ta nhảy trên ruộng đậu như con chuột
túi. Đến chỗ ruộng dâu tiếp giáp với ruộng cao lương, người lính già từ tốn lẩy
cò, một tiếng đoàng, người đang chạy cắm đầu xuống đất. Người lính già kéo cơ bẩm,
một vỏ đạn văng ra.
Trong đám người nhốn nháo, Bác-bít nổi lên như một con la giữa
đàn dê, cứ ngơ ngơ ngác ngác. Đàn dê kêu be be, xô đẩy nhau mà chạy. Bác-bít cất
đôi chân dài ngoẵng với những bước nặng nề, chạy theo đám người, chân dẫm bùn
nhem nhép. Anh chàng câm Tôn Bất Ngôn hung hãn như một con hổ đen, cùng với hơn
chục đội viên cảm tử hò hét, múa đao chặn đàn dê. Đàn dê không kịp tránh bị
chém bể đầu mấy con, tiếng kêu thê thảm vang vọng khắp cánh đồng. Đàn dê mất
phương hướng, tiện đâu rúc đó. Bác-bít sợ tái người, nhìn tứ phía trong khoảnh
khắc. Tôn Bất Ngôn xông tới. Bác-bít chợt tỉnh, bèn bỏ chạy thục mạng, mép sùi
bọt, thở hồng hộc. Người lính già dưới gốc cây bạch dương nhằm bắn Bác-bít.
- Lão Tào, đừng bắn? - Lỗ Lập Nhân từ trong đám đông nhảy vọt
ra, quát - Các đồng chí, không bắn người Mỹ đó!
Các binh sĩ khép dần vòng vây như người ta kéo lưới, các tù
binh vẫn chạy nháo nhào trong khoảng hẹp đó chẳng khác đàn cá trong lưới, dần
dà dồn cục lại ở quãng đường trước cổng nhà xay.
Thằng Câm nhảy xổ vào đám tù binh, đấm Bác-bít một quả.
Bác-bít bị xoay một vòng, lại đối diện với Thằng Câm. Bác-bít xổ ra một tràng
toàn tiếng tây, không hiểu anh ta chửi hay phản kháng. Thằng Câm giơ đao lên,
ánh thép lấp lóa. Bác-bít giơ cánh tay lên làm như che ánh sáng lạnh của thanh
đao.
- Bác-bít? - Chị Sáu từ chỗ mẹ loạng choạng chạy ra, nhưng chỉ
được mấy bước liền ngã vật xuống, bàn chân trái của chị ló ra phía bên chân phải,
người ngã nghiêng xuống đống bùn.
- Chặn Tôn Bất Ngôn lại - Lỗ Lập Nhân ra lệnh.
Mấy đội viên cảm tử đứng sau thằng câm níu lấy cánh tay thằng
câm. Hắn gào thét điên cuồng, hất văng các đội viên cảm tử như những bó rạ. Lỗ
Lập Nhân nhảy qua rãnh nước sang đứng bên đường, giơ một tay lên rất cao, gọi:
- Tôn Bất Ngôn, chú ý chính sách đối với tù binh!
Trông thấy Lỗ Lập Nhân, Tôn Bất Ngôn không vùng vẫy nữa. Các
đội viên cảm tử bỏ tay hắn ra. Hắn giắt đao vào thắt lưng, giơ những ngón tay
như gọng kìm túm lấy áo Bác-bít lôi đến trước mặt Lỗ Lập Nhân. Bác-bít nói mấy
câu tiếng tây với Lỗ Lập Nhân. Lỗ Lập Nhân cũng nói lại vài câu ngắn gọn và giơ
bàn tay chém vào không khí. Bác-bít im lặng. Chị Sáu giơ hai tay về phía
Bác-bít tỏ vẻ cầu cứu miệng rên rỉ:
- Bác-bít!....
Bác-bít nhảy qua rãnh nước, xốc chị Sáu dậy. Cái chân trái của
chị như đã chết. Bác-bít ôm eo chị, cố súc xốc chị dậy, chiếc váy lấm bê bết tụt
xuống hở cái mông thâm tím. Chị ôm cổ Bác-bít. Bác-bít đỡ hai bên nách chị, rồi
cả hai đứng lên. Bác-bít nhìn thấy mẹ, anh ta dìu chị Sáu nhích về phía mẹ, nói
bằng tiếng Trung Quốc:
- Mẹ ơi! - môi anh ta run run, những giọt nước mắt lăn trên
má.
Nước trong rãnh bắn tung tóe. Trung đội trưởng Mã gạt mấy cái
xác đè trên người, lồm cồm bò dậy như một con cóc khổng lồ, bùn nước và máu
dính trên áo mưa như những đốm trên thân con cóc, hai chân khuỳnh ra, run rẩy đứng
lên, trông vừa đáng thương vừa tội nghiệp, thoạt trông như một con gấu, trông kỹ
giống người anh hùng. Một mắt anh ta bị đánh lòi ra ngoài, con ngươi trong như
thủy tinh lủng lẳng trên sống mũi. Anh ta gãy hai răng cửa, cằm rắn như thép rỉ
máu.
Một nữ binh đeo túi chạy tới đỡ trưởng đội trưởng Mã đang ngật
ngưỡng.
- Thưa đội trưởng, ở đây có thương binh nặng! - Người nữ binh
gọi, thân hình mảnh dẻ của cô ta oằn xuống dưới sức nặng của trung đội trưởng
Mã.
Lúc này, Phán Đệ to béo dẫn hai dân phu vác cáng chạy tới.
Chiếc mũ lính bé tí đội trên đầu, dưới vành mũ là khuôn mặt rộng, béo núc ních,
chỉ có hai vành tai lộ ra dưới mái tóc ngắn là giữ được vẻ thanh tú của phụ nữ
nhà Thượng Quan.
Không do dự, chị dứt bỏ con ngươi lòi ra của trung đội trưởng
Mã, tiện tay vứt ngay bên cạnh. Con mắt đảo một cái rồi nằm yên, nhìn chúng tôi
bằng ánh mắt căm thù.
- Đội trưởng ơi, nói với Lỗ đoàn trưởng là...- Trung đội trưởng
Mã chỉ mẹ nói - chính mụ ta mở cổng?
Chị Phán Đệ băng quanh đầu cho trung đội trưởng Mã hết vòng nọ
đến vòng kia, cho đến khi không thể há miệng.
Chị Phán Đệ đứng trước mặt chúng tôi, lúng búng gọi mẹ.
Mẹ nói:
- Tôi không phải là mẹ của bà!
Chị Phán Đệ nói:
- Con đã nói rồi, mười năm Hà Đông, mười năm Hà Tây, phải xem
lại mình đã chứ?
Mẹ nói:
- Tôi xem rồi, tôi đã thấy tất cả?
Chị Phán Đệ nói:
- Nhà có chuyện gì con đều biết. Mẹ không đối xử tệ với con
gái của con, con sẽ giải thoát cho mẹ?
Mẹ nói:
- Chị không cần giải thoát cho tôi, tôi sống quá đủ rồi!
Chị Phán Đệ nói:
Mẹ nhìn lên bầu trời đầy mây, lẩm bẩm...
- Chúa ơi, Người hãy nhìn kỹ đi, nhìn kỹ cái thế giới này đi!
Chị Phán Đệ bước tới, lạnh lùng xoa đầu tôi. Tôi ngửi thấy
trên tay chị cái mùi thuốc mà tôi không ưa. Chị không xoa đầu Tư Mã Lương, tôi
đoán chắc Tư Mã Lương không cho chị xoa đầu nó. Hàm răng như răng thú nhỏ của
nó nghiến ken két, chắc chắn sẽ cắn đứt ngón tay chị khi chị xoa đầu nó. Chị
Phán Đệ mỉm cười châm biếm, bảo chị Sáu:
- Đẹp mặt, đế quốc Mỹ đang cung cấp máy bay đại bác cho kẻ
thù của chúng ta tàn sát nhân dân vùng giải phóng!
Chị Sáu ôm Bác-bít, nói:
- Chị Năm tha cho chúng em! Các người đã giết chết chị Hai,
chẳng lẽ định giết hết chúng tôi hay sao?
Lúc này, Tư Mã Khố bế xác chị Chiêu Đệ, cười như điên loạn, từ
trong nhà xay đi ra. Nhân lúc binh sĩ của anh ta ùa ra cổng, anh ta lẳng lặng ở
lại trong nhà. Con người xưa nay vẫn ăn mặc tươm tất, đánh bóng từng cái cúc áo
vậy mà chỉ qua một đêm đã khác hẳn, mặt hằn những vết nhăn, mắt thâm quầng, tóc
đốm bạc. Anh ta quì trước mặt mẹ, hai tay nâng cái xác của chị Hai đã cạn máu.
Miệng mẹ càng méo xệch đi, miệng run lên không nói được một
câu cho trọn nghĩa, nước mắt đầm đìa. Mẹ giơ tay sờ trán chị Hai, tay kia đõ lấy
cằm nói:
- Chiêu Đệ, con của mẹ! Người là do con chọn, con đi đường của
con, mẹ không ngăn được con, cũng không cứu nổi con, các con đều... thôi thì
phó mặc cho trời!
Tư Mã Khố đặt thi thể chị Hai xuống đất, tiến về phía Lỗ Lập
Nhân đang đi tới, xung quanh là mười mấy vệ binh. Hai người còn cách nhau vài
bước chân thì dừng lại, bốn mắt nhìn nhau tóe lửa, hồi lâu mà vẫn không bên nào
chịu thua bên nào. Lỗ Lập Nhân cười khan ba tiếng:
- Ha ha, ha ha, ha ha ha!
Tư Mã Khố cũng cười nhạt ba tiếng: - Hà hà, hà hà, hà hà hà?
- Tư Mã huynh, xin chớ trách? Chưa đầy một năm kể từ khi
huynh đuổi ta ra khỏi vùng này, không ngờ hôm nay số phận đó lại rơi trên đầu
huynh!
Tư Mã Khố nói:
- Vay nóng trả vội thôi, có điều, huynh phải trả một giá quá
đắt đấy!
Lỗ Lập Nhân nói:
- Về chuyện quí phu nhân bất hạnh qua đời, ta cũng rất đau
xót, nhưng biết làm thế nào! Cách mạng như mổ cái ung nhọt, tránh sao cắt bỏ ít
da thịt! Nhưng ta không thể vì sợ phương hại đến da thịt mà không cắt bỏ cái
ung, huynh nên hiểu điều đó!
Tư Mã Khố nói:
- Đừng nhiều lời nữa, cho ta chết quách cho rồi!
Lỗ Lập Nhân nói:
- Chúng tôi không thể xử tử huynh một cách đơn giản như vậy.
Tư Mã Khố nói:
- Vậy thì xin lỗi, ta tự giải quyết vậy. Anh ta móc khẩu súng
mạ bạc ra, lên cò, quay lại nhìn mẹ nói:
- Thưa nhạc mẫu, tôi đã trả thù hộ bà! - Rồi đưa súng lên
thái dương.
Lỗ Lập Nhân cười lớn:
- Rốt cuộc cũng chỉ là thằng hủ nho? Tự sát hả, đồ hèn?
Tay cầm súng của Tư Mã Khố run bắn lên.
Tư Mã Lương gào to: - Bố ơi!
Tư Mã Khố ngoảnh nhìn con trai một thoáng, tay cầm súng từ từ
buông xuôi. Anh ta mỉm cười tự giễu mình, quăng khẩu súng cho Lỗ Lập Nhân, nói:
- Cầm lấy!
Lỗ Lập Nhân giơ tay bắt lấy khẩu súng tung trong tay, nói
- Đây là đồ chơi của phụ nữ - Hắn ném khẩu súng cho người ở
phía sau một cách khinh miệt, rồi dận đôi giày da sưng phồng vì nước mưa và
bùn, nói: - Quả thực khi đã nộp súng, ta không có quyển bắn chết huynh nữa. Cấp
trên của ta sẽ chọn cho huynh một con đường, hoặc lên trời, hoặc xuống địa ngục!
Tư Mã Khố lắc đầu, nói:
- Ngươi nói không đúng rồi, thiên đường hay địa ngục đều
không dành cho chúng ta. Chỗ của ta là khoảng giữa thiên đường và địa ngục. Rồi
thì ngươi cũng như ta thôi!
Lỗ Lập Nhân bảo người đứng bên:
- Giải hắn đi!
Vệ binh bước tới, chĩa súng vào Tư Mã Khố và Bác-bít, nói:
- Đi!
Tư Mã Khố gọi Bác-bít:
- Đi thôi! Chúng có thể giết tôi một trăm lần, nhưng không
dám đụng đến cái lông chân của anh đâu?
Bác-bít dìu chị Sáu đến bên Tư Mã Khố. Lỗ Lập Nhân nói:
- Phu nhân Bác-bít có thể ở lại.
Chị Sáu nói:
- Đoàn trưởng Lỗ, ông hãy thể tình mẹ tôi đã nuôi nấng Lỗ Thắng
Lợi mà tha cho vợ chồng tôi!
Lỗ Lập Nhân lấy tay đẩy cái kính gãy gọng trên mũi, nói với mẹ:
- Mẹ nên khuyên cô ấy?
Mẹ kiên quyết lắc đầu, ngồi xuống, bảo tôi và Tư Mã Lương:
- Đặt lên lưng giúp ta?
Tôi và Tư Mã Lương khênh thi thể chị Chiêu Đệ đặt lên lưng mẹ.
Mẹ cõng chị Hai trên lưng, chân trần bước đi trong bùn trở về
nhà. Tôi và Tư Mã Lương, đứa bên trái đứa bên phải đỡ lấy hai chân lạnh cúng của
chị Hai để cho mẹ đỡ nặng.
6
Nước sông Thuồng Luồng dâng cao. Từ trên giường nhà tôi nhìn
qua cửa sổ sau nhà, có thể nhìn thấy nước lũ ngang mặt đê, cuồn cuộn chảy về đồng.
Các binh sĩ của trung đoàn 17 thuộc Trung đội 8 đứng quay mặt ra sông đang bàn
tán về chuyện gì đó. Trong sân, mẹ đang chuẩn bị nướng bánh. Sa Tảo Hoa giúp mẹ
nhóm lò. Củi bị ẩm, ngọn lửa vàng vọt, khói nồng nặc, che khuất cả ánh nắng.
Tư Mã Lương cùng với mùi hăng hắc của cây hòe bước vào nhà.
Mùi hắc của cây hòe khiến chúng tôi phấn chấn lên. Nó nói:
- Chúng định giải bố cháu và dì Sáu lên quân khu. Chồng dì Ba
và bọn lính đang kết bè, chuẩn bị vượt sông.
- Lương này. - Mẹ từ ngoài sân nói vào - Cháu dẫn cậu và dì
út lên đê, bảo họ đừng sang vội, để bà ra tiễn.
Nước sông đục ngầu, cuốn theo rơm rạ, rác rưởi, dây khoai
lang, xác súc vật, giữa dòng còn có cả một cây lớn. Cây cầu bị Tư Mã Khố đốt
cháy ba khúc đã bị cuốn, chỉ còn dòng nước cuồn cuộn với tiếng réo ào ào chứng
minh nó đã từng tồn tại. Những lùm cây trên thân đê đã bị nhận chìm đôi chỗ, chỉ
còn vài cành ló lên mặt nước.
Mặt sông rộng mênh mông, từng dàn hải âu màu xám đuổi theo bọt
sóng, chốc chốc lại bắt được một con cá nhỏ. Bên kia bờ sông chỉ còn như một sợi
chí, bập bềnh trên sóng nước lóa mắt. Nước chỉ còn cách mặt đê vài đốt ngón
tay, đôi chỗ cái lưỡi màu vàng của nó đã liếm mặt đê thành rãnh nhỏ, róc rách
chảy vào trong đồng.
Khi chúng tôi lên tới mặt đê, thằng câm Tôn Bất Ngôn đang đái
xuống sông, bộ máy sinh dục của hắn to quá cỡ, nước đái vàng khè, chảy tong tỏng
xuống mặt nước. Trông thấy chúng tôi, hắn mỉm cười thân mật, móc túi lấy ra chiếc
còi làm bằng vỏ đạn, thổi lên ríu rít những tiếng chim, tiếng trầm của họa mi,
tiếng líu ríu của vàng anh, tiếng nức nở của bách linh. Tiếng chim quyến rũ,
khuôn mặt có vết bớt của hắn tỏ ra đôi chút dịu dàng. Thổi đã rồi, hắn vẩy cho
hết nước bọt trong còi, đưa cho tôi, miệng ú ớ ý tứ rất rõ, hắn tặng tôi chiếc
còi. Tôi lùi lại, khiếp đảm nhìn hắn. Chị Tám nấp sau Tư Mã Lương, bàn tay trắng
nhợt túm chặt cánh tay của nó. Bộ mặt nhà ngươi khi vung đao chém người, ta
không bao giờ quên? Đồ quỉ? Hắn lại đưa chiếc còi cho tôi, miệng ú ớ tỏ ra bồn
chồn không yên. Tôi lùi thì hắn tiến. Tư Mã Lương nói nhỏ sau lưng tôi:
- Đừng lấy cậu ạ, cái còi của thằng câm là để gọi ma, khi nào
chiêu hồn ngoài nghĩa trang thì người ta thổi?
- Âu, âu! - Thằng câm giận dữ nhét chiếc còi vào tay tôi rồi
đi tới chỗ những người đang kết bè.
Tư Mã Lương giằng lấy cái còi, xem rất kỹ dưới nắng xem có gì
bí mật không. Nó bảo tôi:
- Cậu ạ, cháu là linh miêu, không thuộc con nào trong mười
hai con giáp, chẳng ma nào hại nổi cháu! Để cháu giữ cái còi này hộ cậu!
Nói xong, nó bỏ cái còi vào túi quần. Nó mặc chiếc quần xanh
chỉ ngắn đến đầu gối, phía trên cạp may thêm rất nhiều túi, to có nhỏ có, kín
có hở có. Trong túi nó đụng rất nhiều thứ kỳ quặc, viên đá đổi màu dưới ánh
trăng, lưỡi cưa nhỏ có thể cưa đứt mẩu gạch, hạt hạnh các cỡ, lại còn có đôi
chân chim sẻ, xương đầu một con ếch. Lại có cả răng người, có cái là của nó rụng,
có cái là của chị Tám, có cái là của tôi. Mẹ thường ném răng rụng của tôi qua
mái nhà, nhưng nó vẫn đi nhặt về. Răng chị Tám thì chị để trên bậu cửa sổ, nó đến
nhặt bỏ túi. Tìm một cái răng trong đám cỏ um tùm và đầy rác rưởi sau nhà đâu
phải dễ? Nhưng Tư Mã Lương bảo tôi:
- Nếu mình có ý định tìm kiếm vật gì đó thì nó sẽ nhảy ra trước
mặt.
Bây giờ trong túi của nó có thêm một chiếc còi gọi ma cho bộ
sưu tập. Tôi đi đôi guốc mộc - mẹ nói nó là quà tặng của mục sư Malôa cho Thọ Hỉ.
Chị Tám không có giày. Tư Mã Lương đi chân đất. Chúng tôi đến gần những người
đang làm bè.
Hơn mười binh sĩ của trung đoàn 17 như lũ kiến khuân mồi,
khênh cây gỗ thông nặng đi trong ngõ. Trên phố có tiếng lắc rắc, tháp canh của
Tư Mã Đình đang bị dỡ. Tôn Bất Ngôn là thủ lĩnh cả đám binh sĩ, hắn chỉ huy họ
ghép các cây gỗ thông lại với nhau, rồi dùng dây thép liên kết lại. Ông già Tôn
Long là thợ mộc nổi tiếng trong vùng, đảm nhiệm cố vấn kỹ thuật. Tôn Bất Ngôn
đang nổi cáu với ông già, nhảy chồm chồm như con hắc tinh tinh, miệng sùi bọt.
Ông già Long đứng nghiêm, tay buông thõng một cách chịu đựng, tay trái cầm đanh
móc, tay phải cầm búa. Hai đầu gội đầy những vết sẹo của ông chụm lại, bóng gân
xanh nổei lên to tướng ở bắp chân. Ông đi guốc, đôi guốc ông tự làm lấy khi tạc
tượng Chúa Giêsu còn thừa một đoạn gỗ táo, theo lời khuyên của mục sư Malôa.
Lúc này, một vệ binh cưỡi xe đạp, khoác tiểu liên trên lưng,
từ phía ngõ đi tới. Đến chân đê, anh ta dựa xe, khom người đi lên. Anh ta bị thụt
một chân xuống lỗ chuột đồng, khi rút chân lên, cái lỗ đùn lên toàn là nước đục.
Tư Mã Lương bảo:
- Xem kìa, đê sắp vỡ rồi!
Anh vệ binh cũng kêu lên:
- Nguy rồi, ở đây có một lỗ hổng?
Các binh sĩ trung đoàn 17 nhốn nháo cả lên, bỏ dở công việc
đang làm, chạy xuống xem cái lổ hổng đùn nước. Trên mặt Tôn Bất Ngôn lộ vẻ kinh
hoàng ít khi thấy ở hắn. Hắn nhìn dòng sông cuồn cuộn, cao hơn nóc nhà cao nhất
trong thôn. Hắn cởi yên đao quẳng xuống mặt đê, cởi vội áo, quần dài, chỉ mặc
chiếc quần đùi, rồi hắn ú ớ với bọn lính. Đám lính ngẩn người ra nhìn hắn như
gà nuôi lấy thịt. Một tên lông mày rậm hỏi Tôn Bất Ngôn:
- Anh bảo sao, bảo chúng tôi xuống nước hả?
Thằng Câm nhảy tới trước mặt anh lính túm lấy ngực áo anh ta
xoắn đứt các cúc áo. Trong lúc khẩn cấp ấy, Thằng Câm buột miệng nói ra được một
tiếng:
- Cởi!
Ông già Tôn Long nhìn cái lỗ hổng rồi lại nhìn cái xoáy nước
phía ngoài đê, nói:
- Thưa các ông, đây là cái hang chuột, bên trong còn to hơn
cái chum, vị thủ lĩnh bảo các ông cởi quần áo phụ với ông ta lấp lỗ hổng, vậy
các ông cứ cởi ra, chùng chình là vô phương cứu chữa. Ông già cởi chiếc áo vá
chằng vá đụp ra quẳng xuống trước mặt Thằng Câm. Các binh sĩ vội vàng cởi quần
áo.
Một chú lính trẻ chỉ cởi áo khoác ngoài, không cởi quần dài.
Thằng Câm nổi giận, lại gầm lên cái từ ban nãy: - Cởi!
Chó cùng dứt giậu, mèo cùng trèo cây, thỏ cùng cắn người, Thằng
Câm cùng thì nói thành tiếng 'Cởi, cởi, cởi!, cứ thế mà gầm lên.
Chú lính trẻ run rẩy:
- Thưa tiểu đội trưởng, em không mặc quần đùi!
Thằng Câm nhặt thanh đao lên kề vào gáy chú lính, quay ngược
sống đao gõ hai cái. Tên lính mặt vàng như nghệ, lắp bắp nói:
- Ông câm ơi, em xin cởi, xin cởi mà!
Chú lính cúi xuống tháo xà cạp, cởi quần, phơi ra cái bụng trắng
hếu và con chim bé tí mới mọc lông. Chú lính xấu hổ lấy tay che nó lại. Thằng
Câm tiến đến định bắt tên lính cưỡi xe đạp cởi quần áo, tên này nhảy vội lên
xe, chỉ hai cái ấn là phóng như bay xuống chân đê, hắn vừa đạp vừa kêu to:
- Vỡ đê rồi! Vỡ đê rồi!
Thằng Câm xếp quần áo thành đống, lấy xà cạp buộc lại. Ông
già Long kéo đổ dàn biển đậu dưới chân đê, bó cọc dàn cùng với dây biển đậu
thành từng bó. Các binh sĩ giúp ông vác lên mặt đê. Thằng Câm ôm bọc quần áo định
nhảy xuống nước. Ông già chỉ cái xoáy nước rồi lục lọi trong hòm đồ nghề của
ông, lấy ra cái chai mật lợn màu xanh, mở nút, mùi rượu xộc lên. Ông già đưa
chai rượu cho Thằng Câm, hắn ngửa cổ uống cạn rồi giơ ngón tay cái biểu dương
ông già, hét to:
- Cởi!
Hắn nói Cởi trường hợp này có nghĩa là tốt, những người có mặt
ai cũng hiểu như thế. Thằng Câm ôm bọc quần áo nhảy xuống nước. Mặt nước dãn
ra. Cái lỗ hổng bên ngoài đê giờ đây đã to bằng cái cổ con ngựa, dòng nước hung
hãn chui vào trong lỗ, rồi vọt ra phía ngõ trong đê, chảy thành một dòng sông
nhỏ nước đục ngầu đã tràn tới cổng nhà tôi. So với con đê Thuồng Luồng cao ngất
đằng sau, nhà cửa trong thôn chỉ như đồ chơi của trẻ con. Thằng Câm vừa xuống
nước đã biến mất. Chỗ hắn lặn xuống là cái xoáy đầy bọt và rơm rác. Những con hải
âu láu cá bay lượn trên cao. Cặp mắt tinh tường bằng hạt đậu đen của chúng chú
mục vào chỗ Thằng Câm lặn xuống như chờ đợi điều gì đó. Tôi trông rõ cái miệng
đỏ lòm và cặp chân đen sì dưới cái bụng trắng của chúng.
Chúng tôi sốt ruột nhìn mặt nước. Một vật như quả dưa hấu đen
sì đảo một cái trên mặt nước rồi lại chìm nghỉm nhưng lại xuất hiện rất nhanh ở
phía trước. Một vật như con ếch khô khổng lồ đạp chân đúng kiểu bơi của ếch,
bơi chéo vào bờ. Khi đến chỗ nước tương đối lặng sát thân đê, hai chân lại đạp
tạo nên những ngấn nước rất đẹp. Các binh sĩ trung đoàn 17 căng mắt để nhìn, cổ
vươn ra. Do tất cả đều cởi trần, nên trông giống những phạm nhân đang chờ hành
quyết. Quần lót của họ chẳng khác quần lót của Thằng Câm vải cứng như tôn lá.
Chú lính cởi truồng hai tay ôm lấy bộ tam sự, cũng vươn cổ nhìn xuống nước. Ông
già Tôn Long thì nhìn lỗ hổng trong đê. Nhân dịp này Tư Mã Lương lén gại thử
vào lưỡi dao của Thằng Câm, sắc như nước, chém đầu như bổ dưa.
- Tốt rồi, bịt được rồi - Ông già Tôn Long kêu to.
Nước chảy chậm dần qua cái lỗ hổng, sức nước giảm đi nhiều, từ
chỗ chảy ồ ồ chỉ còn róc rách. Thằng Câm vọt lên khỏi mặt nước như một con cá
quả khổng lồ, đám hải âu hoảng sợ vọt lên cao. Hắn dùng bàn tay hộ pháp vuốt nước
trên mặt, nhổ phì phì đất cát trong miệng ra. Ông già Tôn gọi binh lính quẳng
các bó biển đậu xuống sông. Thằng Câm túm lấy từng bó dìm xuống rồi nhô người
lên một cái, quẫy hai chân lặn theo. Lần này thì thời gian dưới nước tương đối
ngắn, hắn đã ngoi lên lấy hơi. Ông già Tôn Long đưa xuống một cành cây dài định
kéo hắn lên, nhưng hắn xua tay, lại lặn xuống. Tiếng thanh la dồn dập trong
thôn. Tiếng thanh la chưa dứt đã vang lên tiếng hô khẩu lệnh, từng đội vác súng
từ các ngõ chạy lên mặt đê. Lỗ Lập Nhân và đội bảo vệ của anh ta chạy từ ngõ
nhà tôi lên. Vừa lên đến nơi, anh ta hỏi:
- Vỡ chỗ nào?
Ông già Long nói với Lỗ Lập Nhân:
- Thưa trưởng quan, may mà có ông Tôn, nếu không, làm mồi cho
ba ba!
Lỗ Lập Nhân nói:
- Nhân dân làm mồi cho ba ba thì chúng tôi cũng làm mồi cho
cua cái!
Anh ta bước tới chỗ Thằng Câm, giơ ngón tay cái biểu dương hắn.
Thằng Câm toàn thân nổi da gà, môi dính bùn, nhìn Lỗ Lập Nhân cười hềnh hệch.
Lỗ Lập Nhân ra lệnh cho các binh sĩ đào đất gia cố thân đê.
Công việc ghép bè tiếp tục tiến hành, nhất định đến trưa phải đưa được tù binh
sang sông. Đội áp giải của quân khu sẽ tiếp ứng ở bờ sông bên kia. Những binh
sĩ không có quần áo thay thì về chỗ trú quân nghỉ ngơi. Những binh sĩ được biểu
dương càng hăng hái, thề chết hoàn thành nhiệm vụ. Lỗ Lập Nhân lệnh cho cần vụ
chạy về đoàn bộ lấy một cái quần cho chú lính trẻ thay. Lỗ Lập Nhân cười hì hì,
nói với chú lính trẻ:
- Chỉ toàn lông tơ, chứ đã đủ lông đâu mà xấu hổ?
Trong khi liên tiếp ra hàng loạt mệnh lệnh, Lỗ Lập Nhân còn
tranh thủ hỏi tôi:
- Mẹ có khỏe không? Thắng Lợi có ngoan không?
Tư Mã Lương kéo tay tôi, tôi không hiểu ý của nó, nó bảo Lỗ Lập
Nhân:
- Bà ngoại yêu cầu được tiễn bố cháu, bác đợi bà ngoại ra hãy
sang sông!
Ông già Tôn Long tinh thần phấn chấn, chỉ trong nửa tiếng đồng
hồ đã ghép xong chiếc bè rộng mười mấy mét vuông. Không có bơi chèo, ông già đề
nghị thay thế bằng xẻng, dùng những chiếc mai gỗ càng tốt. Thế là Lỗ Lập Nhân lại
ra lệnh đi lấy xẻng.
- Cháu về bảo với bà ngoại - Lỗ Lập Nhân nói với Tư Mã Lương
- Ta chấp thuận yêu cầu của bà!
Anh ta giơ tay xem đồng hồ, nói:
- Các cháu có thể về được rồi!
Nhưng chúng tôi không về vì đã trông thấy mẹ khoác trên tay một
cái làn trên phủ vuông vải trắng, tay xách bình nước trà, bước ra khỏi cổng.
Sau lưng mẹ là Sa Tảo Hoa. Nó ôm trong tay một bó hành sống. Đi sau bó hành là
chị em sinh đôi Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng; sau Phượng và Hoàng là hai con
trai của Thằng Câm, anh em sinh đôi: Câm-lớn, Câm-bé; sau Câm-lớn, Câm-bé là Lỗ
Thắng Lợi vừa lẫm chẫm biết đi; sau Lỗ Thắng Lợi là chị Lai Đệ trát bự son phấn.
Cái đội ngũ ấy đi rất chậm.
Hai đứa con gái sinh đôi thì chăm chú nhìn các dàn biển đậu
xen kẽ với hoa khiên ngưu, chúng đang tìm bắt chuồn chuồn, bươm bướm và những
cái xác ve sầu. Hai đứa con trai sinh đôi thì mắt như dán vào các cây hai bên
ngõ, những cây hòe, cây liễu và những cây dâu thân có màu vàng nhạt, chúng tìm
những con sên, thức ăn rất ngon mà chúng ưa thích. Lỗ Thắng Lợi thì tìm những
chỗ có nước mà bước vào. Nó dẫm trên nước lép nhép, những tiếng cười ngây thơ
vang lên khắp ngõ. Dáng đi đoan trang của chị Lai Đệ cho tôi biết rằng thái độ
của chị rất trịnh trọng, mặc dù ở trên đê, chúng tôi không thể nhìn rõ nét mặt
chị, mà chỉ nhìn thấy xanh đỏ lòe loẹt trên mặt chị.
Lỗ Lập Nhân cầm lấy chiếc ống nhòm trên cổ một vệ binh, nhìn
sang bờ bên kia, một cán bộ dưới quyền đứng bên anh ta sốt ruột hỏi:
- Đã đến chưa?
Lỗ Lập Nhân tiếp tục quan sát, nói:
- Chưa, chẳng có ma nào cả, chỉ có mỗi con quạ đang mổ phân!
- Liệu có chuyện gì chăng? - Người cán bộ lo lắng.
- Không có chuyện gì đâu - Lỗ nói - Đội áp giải của quân khu
toàn là những tay súng cừ khôi, bán đảo Sơn Đông không có ai là đối thủ?
Cán bộ kia nói:
- Quả có vậy. Khi tôi tập huấn trên quân khu, đội áp giải tù
binh có biểu diễn cho xem. Tôi phục nhất là cái môn chọc thủng gạch của họ. Anh
nghĩ coi, viên gạch rắn là thế mà họ chỉ dùng một ngón tay khoan ngay một lỗ
xuyên qua, ngay cả mũi khoan cũng không nhanh bằng. Họ định giết ai thì chỉ một
ngón tay là chọc thủng một lỗ, không cần đến vũ khí. Đoàn trưởng, nghe tin một
số cán bộ sẽ chuyển ngành sang tổ chúc chính quyền...
Một binh sĩ tầm vóc nhỏ bé nhanh nhẹn giơ khẩu súng lục nòng
to kỳ lạ chĩa lên khoảng không trên sông bắn một phát. Một quả cầu lửa màu vàng
bay vọt lên không trung, đứng lại một thoáng rồi xì ra một làn khói trắng, kéo
theo một tiếng nổ, rơi xuống giữa lòng sông. Khi quả cầu lửa rơi xuống, một con
hải âu đảo cánh định đớp, nhưng nó kêu lên một tiếng lảnh lói, lảng ra xa. Bờ
bên kia, một đám người nhỏ li ti đang đứng, sóng nước rập rờn khiến tôi nghĩ rằng
họ đang đứng trên mặt nước chứ không phải trên mặt đê.
- Đổi tín hiệu! - Lỗ Lập Nhân nói.
Chú lính lấy ngọn cờ đỏ giắt bên người, buộc vào cành liễu mà
ông già Long quẳng dưới đất. Chú ta phất ngọn cờ đỏ với bờ bên kia, bờ bên kia
vọng lại tiếng hoan hô.
- Tốt rồi! - Lỗ Lập Nhân đeo ống nhòm vào cổ, quay sang lệnh
cho người cán bộ dưới quyền: - Tham mưu Tiền, chạy về bảo Tham mưu trưởng Đỗ giải
tù binh ra!
Người cán bộ chạy đi.
Lỗ Lập Nhân nhảy lên bè, ra sức dẫm mạnh để thử độ bền. Anh
ta hỏi ông già Tôn Long:
- Ra đến giữa sông, bè không vỡ chứ?
Ông già Tôn Long nói:
- Xin thượng quan yên tâm, năm Dân quốc thứ mười, cái bè đưa
dân biểu Triệu qua sông, chính là do tôi ghép.
Lỗ Lập Nhân nói:
- Hôm nay ta phải đưa một tên phạm nhân do thượng cấp chỉ
đích danh, không thể để xảy ra bất cứ sơ suất nào.
- Thủ trưởng yên tâm, nếu bè vỡ thì cứ chặt chín ngón tay của
tôi đi!
Lỗ Lập Nhân nói:
- Không nhất thiết phải như thế, nếu bè vỡ thì có chặt cả mười
ngón tay của tôi cũng vô dụng.
Mẹ dẫn đội ngũ của mẹ trèo lên mặt đê. Lỗ Lập Nhân chạy tới
đón, rất khách sáo:
- Bà ơi, bà đợi một lát, họ ra ngay bây giờ!
Anh ta cúi xuống làm thân với Lỗ Thắng Lợi, nhưng nó sợ, khóc
toáng lên. Lỗ Lập Nhân lúng túng sửa lại dây kính thay cho gọng, nói:
- Con bế này, ngay cả bố đẻ nó cũng không nhận ra!
Mẹ thở dài:
- Rể! Năm nay, các anh cứ quần nhau như vậy biết khi nào mới
thôi?
Lỗ Lập Nhân đã có chủ ý, nói:
- Bà mẹ yên tâm, lâu là ba năm, chóng là hai năm, mẹ có thể sống
trong hòa bình rồi!
Mẹ nói:
- Tôi là đàn bà, lẽ ra không nên nhiều lời, liệu anh có tha
cho họ không? Nói gì thì nói, các anh là anh em cọc chèo với nhau.
Lỗ Lập Nhân cười:
- Nhạc mẫu ơi, tôi không có quyền, ai bảo mẹ chiêu mộ những
chàng rể không yên phận ấy làm gì?
Nói xong, anh ta lại cười. Tiếng cười của Lỗ Lập Nhân làm dịu
bớt không khí trang nghiêm trên đê.
Mẹ bảo:
- Anh nói với quan trên của anh, tha cho họ.
Lỗ Lập Nhân nói:
- Gieo gió gặt bão, trồng tật lê thì đừng sợ gai đâm vào tay.
Mẹ vợ ơi xin mẹ đừng bận tâm làm gì!
Các vệ binh áp giải Tư Mã Khố, Bác-bít và Niệm Đệ từ ngõ lên
đê. Tư Mã Khố bị trói giật cánh khuỷu bằng thừng. Bác-bít thì hai tay bị trói
ra phía trước bằng một đoạn xà cạp. Niệm Đệ không bị trói. Một vệ binh bước tới
ngáng đường bị Tư Mã Khố nhổ nước bọt vào mặt, quát:
- Tránh ra, để ta từ biệt người nhà của ta!
Lỗ Lập Nhân bắt tay làm loa nói to về phía ngõ:
- Tư lệnh Tư Mã, đừng vào đấy nữa. Họ ở cả đây rồi?
Tư Mã Khố làm như không nghe tiếng cứ ưỡn ngực bước vào nhà
tôi, theo sau là Bác-bít và Niệm Đệ. Họ loay hoay trong sân nhà tôi rất lâu. Lỗ
Lập Nhân chốc chốc lại xem đồng hồ. Bờ bên kia đội áp giải liên tục phất cờ hồng,
đánh tín hiệu sang bên này. Thông tin viên bên này cũng phất cờ, đánh tín hiệu
trả lời. Động tác của họ luôn thay đổi, chúng tỏ nghiệp vụ rất thành thạo.
Bọn Tư Mã Khố rồi cũng ra khỏi nhà tôi, trèo rất nhanh lên mặt
đê. Lỗ Lập Nhân hạ lệnh:
- Cho bè hạ thủy! Mười mấy tên lính hè nhau bẩy chiếc bè xuống
nước. Mặt nước chấn động mạnh, chiếc bè chìm xuống rồi từ từ nổi lên. Nước ven
bờ chảy chậm, chỉ làm cho bè dập dềnh. Mấy binh sĩ níu chặt dây neo bè bằng vải
xà cạp phòng chiếc bè bị nước cuốn đi. Lỗ Lập Nhân nói:
- Tư lệnh Tư Mã, ông Bác-bít, quân đội chúng tôi chí nhân chí
nghĩa, thể tất tình người nên mới cho phép các ông chia tay với người nhà, mong
các ông gặp phiên phiến thôi!
Tư Mã Khố, Bác-bít, chị Niệm Đệ đi tới trước mặt chúng tôi.
Tư Mã Khố mặt mày vui vẻ, Bác-bít đầy vẻ lo âu. Chị Niệm Đệ nét mặt nặng nề và
trang nghiêm như một kẻ tử vì đạo. Lỗ Lập Nhân nói khẽ:
- Dì Sáu, dì có thể ở lại. Chị Niệm Đệ lắc đầu tỏ ý nhất quyết
đi cùng chồng.
Mẹ bỏ vuông vải dậy làn ra. Sa Tảo Hoa đưa tới một củ hành đã
lột vỏ. Mẹ bẻ củ hành làm hai, gói trong một miếng bánh bột mì trắng, sau đó lấy
từ trong làn một bát tương ớt, đưa cho Tư Mã Lương, bảo:
- Lương, bê cái bát này! Tư Mã Lương đón cái bát, ngẩn nhìn mẹ.
Mẹ nói:
- Đừng nhìn bà, hãy nhìn cha cháu đi!
ánh mắt của Tư Mã Lương chuyến sang Tư Mã Khố. Tư Mã Khố cúi
nhìn đứa con trai khỏe mạnh, đen như củ súng, một thoáng buồn lướt trên khuôn mặt
chữ điền xưa nay chưa hề biết thế nào là buồn tủi. Anh ta nhích vai một cái có
lẽ định giơ tay xoa đầu đứa con. Tư Mã Lương mở miệng gọi khẽ:
- Bố ơi!
Tư Mã Khố chớp chớp cặp mắt có con ngươi vàng, đẩy nước mắt
xuống khoang mũi và họng. Anh ta đá nhẹ vào mông Tư Mã Lương, nói:
- Con yêu, hãy nhớ rằng, dòng họ nhà Tư Mã chúng ta không ai
chết trên giường, con cũng phải như thế.
Tư Mã Lương hỏi:
- Bố ơi, liệu họ có bắn bố không?
Tư Mã Khố liếc nhìn dòng sông đục ngầu, nói:
- Bố thua thiệt vì bố giữ chữ nhân. Con nên nhớ rằng muốn làm
kẻ ác thì phải lòng lim dạ sứa, giết người không ghê tay? Muốn làm người thiện
thì đi đường cũng tránh dẫm phải kiến. Tuyệt đối không nên làm con dơi, chim
không ra chim, thú không phải thú. Con nhớ chưa?
Tư Mã Lương cắn môi, nghiêm trang gật đầu.
Mẹ đưa chiếc bánh đã cuốn hành cho chị Lai Đệ. Chị cầm lấy,
ngẩn người nhìn mẹ. Mẹ bảo:
- Con đút cho anh ấy ăn! Chị ngượng, chị chưa quên cái đêm
hai người cuồng hoan cách đây ba hôm, chắc hẳn thế, vì cái ngượng của chị là
ngượng trong hạnh phúc. Mẹ nhìn chị, lại nhìn Tư Mã Khố, ánh mắt mẹ như con
thoi, móc hai người lại với nhau. Sự giao lưu băng ánh mắt giữa hai người còn
nhiều hơn nói ngàn vạn lời! Chị Lai Đệ cởi bỏ áo khoác màu đen, bên trong chị mặc
áo chẽn màu hồng, quần hồng viền đăng ten, đôi giày thêu hoa cũng màu hồng,
thân hình yểu điệu, khuôn mặt thanh tú. Tư Mã Khố chữa khỏi cho chị chứng
khùng, nhưng chị lại rơi vào bệnh tương tư. Chị vẫn đẹp, một phụ nữ góa chồng đầy
quyến rũ. Tư Mã Khố đắm đuối nhìn chị, nói:
- Chị cố gắng giữ gìn nhé!
Chị Lai Đệ nói một câu chẳng ăn nhập vào đâu:
- Anh là mũi khoan kim cương, hắn là cây gỗ mục! Chị đến trước
mặt Tư Mã Khố, chấm miếng bánh vào bát tương ớt trong tay Tư Mã Lương, để tiếng
khỏi rớt, chị múa cổ tay hai ba vòng rồi đưa đến trước miệng Tư Mã Khố. Như một
con ngựa, Tư Mã Khố hất đầu lên một cái, rồi cúi xuống há miệng cắn một miếng.
Anh ta nhai một cách khó nhọc, phồng hai má vì đầy thức ăn, hai giọt nước mắt
to tướng lăn trên má. Anh ta vươn cổ ra nuốt đánh ục, miệng hít hà:
- Hành cay đến là cay!
Mẹ đưa cho tôi một chiếc bánh, đưa cho chị Tám một chiếc, lại
đưa cho chị Sáu một chiếc, tất cả đã quấn hành. Mẹ bảo:
- Kim Đồng, con đút cho chồng chị Sáu. Ngọc Nữ, con đút cho
chị Sáu.
Tôi bắt chước chị Lai Đệ, chấm bánh trong bát tương ớt của Tư
Mã Lương, rồi đưa đến trước miệng Bác-bít. Bác-bít trễ môi trông rất khó coi,
ghé răng cắn một tí bánh, những giọt nước mắt long lanh rơi lã chã. anh ta cúi
xuống, ghé miệng còn dính tương ớt lên trán tôi hôn một cái rõ kêu. Rồi anh đi
tới bên mẹ, tôi đoán là anh định ôm hôn mẹ, nhưng tay bị trói, đành phải cúi xuống
hôn vào trán mẹ, môi dẩu ra như con dê bứt lá cây. Anh nói:
- Mẹ ơi, con không bao giờ quên mẹ!
Chị Tám mò mẫm đến trước mặt Tư Mã Lương để chấm bánh. Tư Mã
Lương giúp chị. Chị cầm bánh băng hai tay, trán bóng như mai cua, mắt sâu thăm
thẳm, mũi cao miệng rộng, đôi môi chúm chím như nụ hoa hồng. Chị Tám mà xưa nay
vẫn bị tôi rẻ rúng thật đáng thương. Chị thì thào:
- Chị Sáu ăn đi!...
Chị Sáu nước mắt như suối, ôm chị Tám nức nở:
- Cô em tội nghiệp của chị...
Tư Mã Khố đã ăn hết một cái bánh. Lỗ Lập Nhân trước sau vẫn đứng
bên, quay mặt ra ngoài sông nhìn sang bờ bên kia. Lúc này, anh ta quay lại nói:
- Thôi, xin mời lên bè!
- Không được, tôi chưa ăn xong. Xưa kia mỗi khi quan phủ chém
phạm nhân đều cho ăn no rồi mới chém. Trung đoàn 17 các anh là trung đoàn nhân
nghĩa, chắc hẳn phải cho tôi ăn một bữa no chứ? Huống hồ đây là bữa bánh do mẹ
vợ chúng ta làm.
Lỗ Lập Nhân nhìn đồng hồ nói:
- Thôi được, ông cứ ăn cho căng bụng. Tôi cho ngài Bác-bít sang
trước.
Thằng Câm và sáu binh sĩ tay cầm xẻng gỗ làm bơi chèo, thận
trọng bước lên bè. Chiếc bè dập dềnh, chao đảo choán nước rất nhiều, nước tràn
trên mặt bè. Hai binh sĩ giữ dây neo, ngửa người ra sau để ghìm chiếc bè lại.
Lỗ Lập Nhân lo lắng, hỏi ông già Tôn:
- Cụ ơi, thêm hai người nữa được không?
Ông già đáp:
- Hầy, theo lão thì nên bớt đi hai người chèo. Lỗ Lập Ngôn ra
lệnh:
- Hàn hói, Phan Vĩnh Vượng, hai người lên bờ!
Hàn và Phan chống xẻng nhảy ra khỏi bè. Chiếc bè chòng chành,
người trên bè đứng không vững, suýt ngã xuống nước. Thằng Câm cởi trần, chỉ mặc
mỗi quần đùi cứng như mo nang, gầm lên:
- Cởi, cởi, cởi!
Từ hôm ấy trở đi, hắn không à uôm nữa.
- Được chưa? Lỗ Lập Nhân hỏi ông già Tôn.
Ông già đáp:
- Được rồi!
Ông cầm lấy chiếc xẻng trong tay một binh sĩ, nói:
- Quí quân nhân nghĩa khiến lão rất phục! Năm Dân quốc thứ Mười,
lão đã từng đưa một vị nghị sĩ qua sông. Nếu trưởng quan không chê thì lão đem
thân trâu ngựa ra giúp!
Lỗ Lập Nhân xúc động nói:
- Cụ ơi, đây là điều tôi muốn nhờ nhưng ngại chưa dám mở miệng.
Cụ mà điều khiển thì coi như yên tâm. Ai có rượu đấy không?
Lính cần vụ chạy tới, đưa cho Lỗ Lập Nhân chiếc bi đông bẹp
dúm. Anh ta xoay nút mở ra, ghé mũi ngửi, nói:
- Rượu cao Lương chính hiệu! Cụ ơi, tôi đại diện cho thủ trưởng
quân khu mời cụ một chén.
Anh ta hai tay cầm bi đông đưa cho ông già Tôn. Ông già cũng
xúc động, phủi bụi trên cánh tay đón lấy bi đông rượu, òng ọc một hơi mười mấy
ngụm rồi đưa trả bi đông cho Lỗ Lập Nhân. Ông quệt mép bằng mu bàn tay, từ mặt
đỏ đến cổ, từ cổ đỏ đến ngực.
- Thưa trưởng quan, uống rượu này của trưởng quan, trái tim
tôi đã gắn với trưởng quan rồi!
Lỗ Lập Nhân vừa cười vừa nói:
- Đâu chỉ có trái tim? Mà là gan liền gan, phổi liền phổi, ruột
liền ruột.
Ông già ứa nước mắt, nhảy vọt lên cuối bè một cách vững vàng.
Chiếc bè khẽ chòng chành. Lỗ Lập Nhân gật đầu tán thưởng.
Lỗ Lập Nhân đến trước mặt Bác-bít nhìn hai tay bị trói của
anh ta, cười gượng:
- Tội cho ông quá, ông Bác-bít, ông được Chủ nhiệm Hòa Trọng
thuộc Tư lệnh quân khu chỉ đích danh, chắc chắn ông sẽ được đối xử đúng nghi lễ.
Bác-bít giơ hai tay lên:
- Có nghi lễ này không?
Lỗ Lập Nhân thản nhiên nói:
- Đây cũng là một nghi lễ, mong ông bỏ quá cho. Xin mời, ông
Bác-bít!
Bác-bít nhìn chúng tôi một thoáng, dùng ánh mắt để từ biệt. Rồi
anh bước những bước dài, leo lên bè. Chiếc bè chòng chành rất dữ khiến anh ta
loạng choạng đứng không vững. Ông già Tôn dùng chiếc mai gỗ chống đít anh ta
cho khỏi ngã.
Chị Niệm Đệ cũng bắt chước Bác-bít, vụng về hôn trán tôi rồi
hôn trán chị Tám. Chị giơ những ngón tay thanh mảnh gỡ những lọn tóc rối như
búi sợi của chị Tám, than thở:
- Em yêu, trời sẽ phù hộ em!
Rồi chị gật đầu với mẹ và lũ trẻ lau nhau đứng sau lưng mẹ,
quay lại bước lên bè. Lỗ Lập Nhân lại khuyên:
- Dì Sáu, dì không nhất thiết phải đi!
Niệm Đệ ôn tồn nói:
- Anh rể, tục ngữ có câu cán cân đâu quả cân đấy, chồng không
thể rời vợ, anh và chị Năm chẳng phải như hình với bóng đó sao?
Lỗ Lập Nhân nói:
- Tôi là tôi muốn điều tốt cho dì. Thôi, để cho dì được toại
nguyện, mời lên bè!
Tư Mã Khố làm bộ đã no, nói: - No rồi! Xin cảm ơn mẹ? Cảm ơn
chị Cả, cảm ơn các em Kim Đồng Ngọc Nữ? Cảm ơn con, con đã bê bát tương ớt cho
bố? Phượng ơi, Hoàng ơi, hãy nghe lời bà ngoại và bác Cả. Có gì khó khăn thì đi
gặp dì Năm. Dì đang gặp vận đỏ, còn bố các con thì đang trong vận đen. Cậu Kim
Đồng, hay ăn chóng lớn nhá. Khi còn sống, chị Hai rất yêu em, chị thường nói với
anh rằng, em sẽ nên người! Em đừng phụ lòng chị Hai nhá?
Tôi thấy sống mũi cay cay trước những lời của anh. Chiếc bè
đã cặp bờ, ngồi giữa bè là một tiểu đầu mục gân bắp cuồn cuộn. Anh ta nhẹ nhàng
nhảy xuống, giơ tay chào Lỗ Lập Nhân theo điều lệnh. Lỗ Lập Nhân cũng chào lại
rất khách sáo, rồi hai người nhiệt liệt bắt tay nhau, xem ra họ là bạn cũ. Người
kia nói:
- Lão Lỗ, trận này thắng ròn rã, tư lệnh Phùng rất vui, chính
ủy Lệ cũng biết tin rồi!
Anh ta lấy từ xắc cốt đeo bên người một phong thư đưa cho Lỗ
Lập Nhân. Lỗ cầm lấy bức thư, nhét khẩu súng lục mạ bạc vào xắc cốt của anh ta,
nói:
- Chiến lợi phẩm đấy, đem về cho con Vu nó chơi!
- Tôi thay mặt con nhỏ cảm ơn anh. - Tiểu đầu mục nói.
Lỗ Lập Nhân chìa tay nói với người kia:
- Đưa đây!
Người kia ngẩn ra, hỏi:
- Đưa gì cơ?
Lỗ Lập Nhân nói:
- Giải tù binh của tôi đi thì phải cho tôi cái giấy biên nhận
chứ!
Người kia lấy giấy bút trong xà cột ra, viết vội mấy dòng rồi
đưa cho Lỗ Lập Nhân:
- Huynh anh chắc lép quá!
Lỗ Lập Nhân cười:
- Con khỉ Tôn Ngộ Không có ranh mãnh đến mấy cũng không qua
được bàn tay Đức Phật Như Lai!
Người kia nói:
- Vậy thì tôi là con khỉ Tôn Ngộ Không hay sao?
Lỗ Lập Nhân nói:
- Chính tôi là con khỉ!
Hai người thụi nhau một cái rồi cười ha hả. Người kia nói nhỏ:
- Lão Lỗ, nghe nói anh thu được một bộ máy chiếu phim? Quân
khu đã biết rồi!
Lỗ Lập Nhân nói:
- Tai các anh dài thật. Về thưa lại với thủ trưởng quân khu
là đợi nước rút, tôi sẽ cho người đưa lên!
Tư Mã Khố rủa thầm: - Mẹ nó, ki cóp cho cọp nó xơi!
Người kia tỏ vẻ khó chịu, hỏi:
- Anh nói gì vậy?
Tư Mã Khố nói:
- Chẳng nói gì cả!
Người kia nói:
- Nếu tôi đoán không lầm, thì anh chính là Tư Mã Khố khét tiếng
gần xa, là Tư lệnh Chi đội Tư Mã.
Tư Mã Khố nói: - Chính tôi!
Người kia nói:
- Ông Tư lệnh này, dọc đường chúng tôi sẽ chăm sóc ông chu
đáo, mong ông phối hợp với chúng tôi cho tốt, chúng tôi rất không muốn khiêng
xác ông về quân khu!
Tư Mã Khố cười:
- Không dám, đội áp giải các ông toàn là những tay súng cừ
khôi, tôi không muốn làm tấm bia sống cho các ông!
Người kia nói:
- Đúng là hảo hán! Vậy nhé, đoàn trưởng Lỗ. Nào, mời Tư lệnh
lên bè!
Tư Mã Khố thận trọng bước lên bè, thận trọng ngồi xuống giữa.
Tiểu đầu mục trong đội áp giải bắt tay Lỗ Lập Nhân rồi lên bè. Anh ta ngồi phía
cuối, đối diện với Tư Mã Khố, tay đặt trên báng súng ở thắt lưng. Tư Mã Khố
nói:
- Ông không cần phải cẩn thận đến như thế, tôi hai tay bị
trói, nhảy xuống sông chỉ có mà chết đuối! Ông ngồi gần tôi một tí, khi bè
chòng chành giữ tôi khỏi lăn xuống nước.
Người kia không làm theo lời Tư Mã Khố, chỉ giục đám lính:
- Chèo mau lên?
Cả nhà tôi đứng tụm lại một chỗ, giấu kín một điều bí mật,
nóng lòng chờ đợi kết cục.
Chiếc bè rời bờ, nước lên rất thuận. Hai binh sĩ kéo bè chạy
ngược theo bờ sông, vừa chạy vừa thả từng vòng dây neo trên cánh tay.
Bè ra đến giữa sông, nước chảy rất mạnh, mép bè sóng ngầu bọt.
Ông già Tôn hô nhịp cho các binh sĩ gò lưng mà chèo, những con hải âu bay rất
thấp trên đầu họ. Đến đoạn nước xiết, chiếc bè chòng chành dữ đội, ông già Tôn
bật ngửa văng xuống nước. Tiểu đầu mục lóng ngóng đứng lên định rút súng ra thì
Tư Mã Khố cựa đứt tung dây trói, chồm lên anh ta như hổ vồ mồi. Hai người lăn
xuống dòng nước chảy xiết giữa lòng sông. Thằng Câm và những binh sĩ trên bè cuống
cả lên, lần lượt nhảy xuống nước. Chiếc bè như một con cá khống lồ, vùn vụt lao
về phía hạ lưu.
Tất cả những chuyện đó gần như xảy ra cùng một lúc.
- Bắn chết hắn đi! - Lỗ Lập Nhân ra lệnh dứt khoát. Giữa dòng
nước đục ngầu, thỉnh thoảng một cái đầu nhô lên, nhưng các binh sĩ không thể nhận
ra đầu nào là của Tư Mã Khố nên không dám nổ súng. Tất cả có chín người rớt xuống
nước, mỗi lần có đầu nhô lên, khả năng đó là đầu Tư Mã Khố chỉ là một phần
chín, chưa nói gì đến nước chảy xiết như thế, bắn trúng là rất khó. Tư Mã Khố
đã trốn thoát, đó là điều chắc chắn? Anh ta sinh ra và lớn lên bên sông Thuồng
Luồng, bơi lội như rái cá, lặn dưới nước mười phút mới cần ló đầu lên lấy hơi.
Huống hồ anh ta vừa đánh một bữa căng bụng. Lỗ Lập Nhân tái mặt, mắt tối sầm,
nhìn từng người chúng tôi. Tư Mã Lương vẫn bê bát tương ớt trên tay, làm bộ khiếp
hãi, nép vào chân mẹ.
Mẹ không nói câu nào, bế Thắng Lợi trên tay đi xuống chân đê,
chúng tôi líu ríu đi theo.
Mấy hôm sau chúng tôi nghe tin chỉ có ông già Tôn và Thằng
Câm là bơi được vào bờ, những người khác mất tích, nếu còn sống thì không thấy
người, nếu đã chết thì không thấy xác, nhưng tất cả mọi người đều hiểu rằng Tư
Mã Khố đã trốn thoát, dứt khoát anh ta không chết đuối, những người khác hiển
nhiên là chết cả, trong đó có anh chàng tiểu đầu mục áp giải tù binh.
Chương 3 (tiếp)
7
Mùa thu rục rỡ của vùng Cao Mật, nước lũ mênh mông cuối cùng
rút đi. Những vạt cao lương đỏ một màu đỏ-đen, những vạt hoa lau trắng một màu
trắng-vàng. Nắng sớm trải trên cánh đồng mênh mông lởn vởn làn sương nhẹ. Toàn
bộ binh mã của trung đoàn 17 lặng lẽ chuyển quân. Họ dắt lừa dắt ngựa nhón bước
qua cây cầu mục nát trên sông Thuồng Luồng rồi khuất sau con đê ngoại vi Hà Bắc,
không bao giờ còn thấy bóng dáng của họ nữa.
Đại đội binh mã của trung đoàn 17 rút đi, nguyên trung đoàn
trưởng của nó là Lỗ Lập Nhân thì chuyển ngành, giữ chức vụ huyện trưởng kiêm đại
đội trưởng dại đội của huyện Cao Mật mới thành lập. Thượng Quan Phán Đệ được bổ
nhiệm làm khu trưởng khu Đại Lan, Thằng Câm được đề bạt làm tiểu đội trưởng tiểu
đội của khu. Thằng Câm dẫn tiểu đội đến nhà Tư Mã Khố, khuân hết bàn ghế giường
tủ của nhà Tư Mã chia cho các nhà trong thôn, nhưng ban ngày chia cho thì ban
đêm họ lại đem trả ở cổng nhà Tư Mã. Thằng Câm sai người khênh đến nhà tôi một
cái giường chạm trổ rất đẹp.
Mẹ bảo:
- Tôi không cần, khiêng về đi!
Thằng Câm bảo: - Cởi, cởi, cởi!
Mẹ quay sang bảo chị Phán Đệ:
- Con đem cái giường đi cho mẹ?
Trưởng khu Phán Đệ nói:
- Mẹ ơi, đây là phong trào, mẹ không nên từ chối?
Mẹ nói:
- Phán Đệ, Tư Mã Khố là chồng của chị Hai, mẹ đang nuôi con
trai và con gái chúng nó ở đây. Rồi đây khi trở về nó sẽ nghĩ thế nào!
Những lời của mẹ khiến chị Phán Đệ suy nghĩ. Chị bỏ cái tất
đang mạng dở xuống, dắt theo khẩu súng lục, vội vã đi ra cổng. Tư Mã Lương lén
đi theo, trở về nói:
- Dì Năm lên huyện!
Tư Mã Lương còn nói, có một cỗ kiệu hai người khiêng, ngồi kiệu
là một nhân vật cỡ bự, mười tám lính cầm súng đi bảo vệ. Huyện trưởng Lỗ trông
thấy ông ta run cầm cập như chuột thấy mèo, cung kính như Tôn Tử gặp ông nội.
Nghe nói ông này là chuyên gia nổi tiếng về cải cách ruộng đất.
Thằng Câm dẫn một số người đến khiêng cái giường đi.
Mẹ thở dài cất được gánh nặng. Tư Mã Lương nói:
- Ngoại ơi, ta chạy thôi! Cháu cảm thấy có chuyện lớn sắp xảy
ra!
Mẹ nói:
- Phúc hay họa, là họa thì có chạy cũng không thoát! Lương
này, con cứ yên tâm đi, dù thiên binh thiên tướng xuống trần thì cũng chẳng làm
gì mẹ góa con côi nhà mình!
Nhân vật cỡ bự chưa thấy ló mặt. Trước cổng nhà Tư Mã có hai
lính bồng súng đứng gác, các cán bộ huyện, khu ra vào như mắc cửi.
Một hôm, khi chúng tôi đi chăn dê về, gặp tiểu đội của khu và
mấy cán bộ huyện, khu áp giải ông bán quan tài Hoàng Thiên Phúc, thợ đắp lò Triệu
Giáp, chủ hiệu dầu Hứa Bảo, chủ hiệu dầu thơm Kim- Một-Vú, giáo viên tư thục Tần
Nhị, đi trên đường. Những người bị bắt mặt mày ủ rũ. Triệu Giáp vươn cổ cãi
- Anh em ơi, thế này là thế nào? Nợ tôi cả bao tiền mà lại sổ
toẹt là thế nào!
Một người nói giọng vùng Ngũ Liên, răng đồng vàng chóe, giang
thẳng cánh tát Triệu Giáp một cái tát nảy lửa, chửi:
- Đ. mẹ mày! Ai nợ mày cả bao tiền? Tiền của mày từ đâu mà
có?
Những người bị áp giải không dám hé răng, lùi lùi bước đi, đầu
cúi gằm. Đêm, mưa lạnh rả rích. Một bóng người vượt qua tường, mẹ trầm giọng hỏi:
- Ai đấy!
Người đó bước nhanh mấy bước, quì xuống lối đi, nói:
- Thím ơi, cứu tôi mấy!
Mẹ hỏi:
- Có phải ông Cả đấy không?
Tư Mã Đình nói:
- Chính tôi, thím ơi, thím cứu tôi mấy! Ngày mai họ họp mít
tinh xử bắn tôi? Chỗ dân làng với nhau, thím cứu cái mạng chó của tôi mấy?
Mẹ rên lên, mở cửa buồng, Tư Mã Đình lẻn vào. Ông ta run cầm
cập trong bóng tối, nói:
- Thím ơi, cho tôi ăn chút gì đi, tôi đói chết mất!
Mẹ đưa cho ông ta cái bánh, ông ta vồ lấy nhai ngấu nghiến. Mẹ
thở dài. Tư Mã Đình nói:
- Hừ, chỉ trách thằng Hai nhà tôi gây thù chuốc oán với Lỗ Lập
Nhân. Thực ra họ còn là thân thích với nhau nữa đấy!
Mẹ nói: - Đừng nói nữa, đừng nói gì nữa, ông trốn vào trong
này đi, hay dở gì thì tôi cũng là mẹ vợ của anh ấy!
Nhân vật bí ẩn, cuối cùng đã xuất hiện. Ông ta ngồi chính giữa
mái che, tay trái nghịch chiếc nghiên mực màu chu sa, tay phải nghịch cây bút
lông. Trên cái bàn trước mặt ông ta có bày một nghiên mực cỡ đại, chạm trổ rồng
phượng. Nhân vật bự đeo kính gọng đen, hai má gần như không có thịt, cằm nhọn
hoắt, mũi gầy nhọn, cặp mắt ti hí lấp lánh sau cặp kính. Ngón tay vờn trên
nghiên vừa mảnh vừa dài, trắng như bột.
Hôm ấy, đại biểu của những người nghèo nhất ở mười tám thôn
trấn vùng Cao Mật chen chúc trên một nửa sân phơi nhà Tư Mã. Xung quanh đoàn
người, ba bước một trạm gác, năm bước một trạm tuần tra, đều do đại đội trên
huyện và tiểu đội trên khu đảm nhiệm. Mươi tám vệ sĩ đứng trên bục đất, người
nào cũng mặt lạnh như tiền, đằng đằng sát khí, y hệt mười tám La hán trong truyền
thuyết. Phía dưới im phăng phắc, những đứa trẻ đã biết sợ thì không dám khóc,
những đứa chưa biết sợ thì vừa oe lên là mẹ chúng nhét vú vào miệng.
Chúng tôi ngồi vây quanh mẹ. Khác với những người nhớn nhác
xung quanh, mẹ bình tĩnh đến kinh người, chăm chú xe chỉ để khâu đế giày. Những
tơ gai trắng lăn tròn trên bắp dùi mẹ, săn vào nhau đều đặn dài ra mãi. Hôm ấy
trời lạnh, gió đông bắc như cắt vào da thịt, hơi nước từ ngoài sông Thuồng Luồng
tràn vào, những người trên sân phơi run lập cập.
Trước khi đại hội chính thức khai mạc, có sự lộn xộn phía
ngoài sân. Thằng Câm và mấy đội viên của tiểu đội khu áp giải Hoàng Thiên Phúc,
Triệu Giáp... cộng mười tám người đợi phía ngoài sân phơi. Những người bị giải
đều bị trói theo kiểu trọng tội, sau gáy cắm lá chỉ bài, gạch chéo đỏ trên chữ
đen. Trông thấy những người này, dân chúng vội cúi đầu xuống, không ai dám bàn
tán nửa câu.
Nhân vật bự ngồi bệ vệ trên ghế, đưa mắt nhìn một lượt những
người trên sân. Mọi người rụt cổ lại, chỉ sợ ông ta nhìn thấy mặt mình. Trước sự
uy hiếp của nhân vật bự, mẹ vẫn thản nhiên xe chỉ, làm như dồn hết tâm trí vào
đó. Tôi cảm thấy rất rõ rằng: ánh mắt của nhân vật bự dừng lại trên khuôn mặt mẹ
tôi khá lâu.
Lỗ Lập Nhân buộc chiếc khăn đen trên đầu, diễn thuyết một hồi
trước đám đông, nước bọt bắn tung tóe. Anh ta bị chứng đầu thống, mặt luôn đỏ
quạch ánh lên sau cặp kính như nụ hoa hồng. Nói xong, anh ta đến bên nhân vật bự
xin chỉ thị. Nhân vật bự chậm rãi đứng lên. Lỗ Lập Nhân nói:
- Hoan nghênh đồng chí Trương Sinh chỉ thị cho chúng ta.
Anh ta vỗ tay trước, dân chúng ngơ ngác nhìn lên bục, không
hiểu ý tứ ra sao.
Nhân vật bự đằng hắng một tiếng, chậm rãi, mỗi tiếng đều kéo
dài ra y như những sợi mì kéo của mục sư Malôa năm xưa. Giọng ông ta lê thê như
lá cờ phướn bay lượn trong gió đông bắc. Trong suốt mấy chục năm, mỗi khi nhìn
thấy lá cờ phướn bằng giấy trắng viết tên tuổi người chết trong buổi lễ cầu hồn,
tôi lại nhớ lần nói chuyện của nhân vật bự. Những lời của ông ta bay lượn trong
gió như lá cờ phướn. Ông ta ngồi xuống đã lâu mà lá cờ ấy vẫn bay lượn, thậm
chí còn nghe thấy tiếng nghiến răng kèn kẹt trong đó.
Tiếp theo, Lỗ Lập Nhân ra lệnh, Thằng Câm và những đội viên của
tiểu khu và mấy cán bộ súng pạc-hoọc đeo trễ đít, giải những người bị trói lên
bục. Họ đứng chật cả cái bục, che khuất tầm nhìn lên khán đài của những người
dưới sân. Lỗ Lập Nhân ra lệnh:
- Quì xuống!
Trong số họ, người hiểu thì quì ngay, người còn đứng lớ ngớ
thì bị đá vào khoeo chân, khuỵu xuống.
Những người đứng dưới sân đều cúi đầu, đưa mắt nhìn sang hai
bên. Người nào dám mạnh dạn nhìn lên thì lại vội cúi đầu xuống khi trông thấy
những giọt nước mũi chảy dài từ chóp mũi những người đang quì. Mẹ không xe chỉ
nữa, kéo ống quần xuống che bắp đùi lạnh tím, thở dài. Lúc này, một người gầy
gò rụt rè đứng lên, cất giọng khàn khàn run rẩy nói:
- Thưa bà trưởng khu, tôi có chuyện oan ức muốn tố cáo...
- Tốt! - Chị Phán Đệ phấn khởi kêu lên: - Đừng sợ, có chuyện
oan ức thì nói, chúng tôi sẽ giải oan cho anh!
Quần chúng đều nhìn về phía người gầy. Đó là Thằng Gật. Chiếc
áo ngoài của anh ta đã rách như tổ đỉa, thậm chí một ống tay áo gần như mất hẳn,
bờ vai đen đủi lộ hẳn ra ngoài. Đường ngôi vốn thẳng như kẻ chỉ, bây giờ rối
như tổ quạ. Anh ta run lẩy bầy trước gió lạnh, cặp mắt mờ đục lo ngại nhìn ra
xung quanh.
- Lên trên này mà nói - Lỗ Lập Nhân nói.
- Chuyện thì không lớn - Thằng Gật nói - tôi đứng dưới này
nói cũng được!
- Lên đi - Phán Đệ giục - Anh tên là Trương Đức Thành phải
không? Tôi nhớ là mẹ anh từng xách làn đi ăn xin, khổ lớn thù sâu mà, lên kể
đi!
Trương Đức Thành hai chân ríu vào nhau, lẩy bẩy ra khỏi đám
người đang chú mục nhìn anh ta. Cái bục đất cao một thước, anh ta nhảy lên
nhưng bị trượt, đất bám đầy ngực. Một vệ sĩ đứng trên bục cúi xuống thò tay lôi
anh ta lên. Hai chân anh ta như đứng trên lò xo, lắc lư một hồi mới dừng lại.
Anh ta nhìn xuống dưới thấy bao nhiêu ánh mắt phức tạp đang nhìn mình thì bủn rủn
cả tay chân, mặt nổi lên từng đám màu xám nhạt, lắp bắp hồi lâu không nói được
câu nào. Anh ta định chạy xuống thì Phán Đệ với thân hình to béo, khỏe không
kém đàn ông, túm lấy vai đẩy ngược lại khiến anh ta loạng choạng suýt ngã. Anh
ta trông rất thảm hại, van xin:
- Bà trưởng khu tha cho tôi, tôi chỉ là một cái rắm, bà hãy
tha cho tôi?
Phán Đệ nói:
- Trương Đức Thành, anh sợ gì cơ chứ?
Trương Đúc Thành nói:
- Tôi sống độc thân, quanh ra quanh vào chỉ có một mình, chẳng
sợ cái gì hết?
Phán Đệ nói:
- Chẳng có gì làm anh sợ, vậy tại sao anh không nói?
Trương Đức Thành nói:
- Chuyện chẳng to tát gì, thôi không nói nữa.
Phán Đệ nói:
- Anh tưởng đây là chuyện đùa hay sao?
Trương Đức Thành nói:
- Xin bà đừng nổi nóng để tôi nói. Hôm nay tôi coi như không
có cái mạng tôi được chưa?
Trương Đức Thành đi đến trước mặt thầy giáo Tần, nói:
- Thầy Nhị, ông cũng coi là có học, cái hồi tôi học ông, đã
có lần tôi ngủ gật, đúng không? Ông đã dùng thước kẻ đánh dập bàn tay tôi, còn
đặt biệt hiệu cho tôi, khi ấy ông nói những gì, ông còn nhớ không?
- Hãy trả lời đi! - Phán Đệ nói to.
Thầy giáo Tần ngẩng lên, bộ râu vểnh ra phía trước như râu
dê, lẩm bẩm:
- Lâu quá rồi, không nhớ
- Tất nhiên là ông không nhớ, nhưng tôi thì nhớ cho đến lúc
chết - Thằng Gật hăng lên, lời lẽ bắt đầu trôi chảy. - Ông già, khi ấy ông nói
như vầy: Trương Đức Thành cái gì anh, tôi gọi anh là Thằng Gật. Chỉ một câu ấy
của ông mà suốt đời tôi mang cái tên Thằng Gật. Ông già gọi tôi là Thằng Gật,
bà lão gọi tôi là Thằng Gật. Ngay cả những đứa trẻ hỉ mũi chưa sạch cũng gọi
tôi là Thằng Gật? Vì gánh trên lưng cái biệt hiệu ấy mà đến nay ba mươi tám tuổi
tôi vẫn chưa vợ! Ông nghĩ coi, ai đời lại gả con gái cho Thằng Gật! Khốn nạn
thân tôi, rủi ro suốt đời vì cái biệt hiệu này?
Cơn xúc động dâng lên, Thằng Gật nước mắt nước mũi ràn rụa.
Tay cán bộ huyện có hàm răng đồng túm tóc hoa râm của thầy giáo Tần giật ngược
để thầy ngửa mặt lên, bộ râu dê rung rung.
- Nói? - Tay cán bộ huyện nghiêm giọng hỏi - Trương Đức Thành
tố cáo có đúng không?
- Đúng, đúng ạ! - Thầy giáo Tần vâng dạ luôn miệng.
Tay cán bộ huyện dúi tay một cái, ấn đầu thầy xuống, miệng thầy
đầy đất.
- Tiếp tục tố cáo - Cán bộ huyện nói.
Thằng Gật dùng mu bàn tay dụi mắt, vắt mũi bằng ngón tay cái
và ngón tay trỏ rồi vẩy một cái, mũi dãi như một bãi cứt chim bay vèo tới nóc rạp.
Nhân vật bự cau mày ngán ngẩm, rút khăn tay lau kính. Ông ta lạnh lùng như một
hòn đá tảng. Thằng Gật nói:
- Tần Nhị, ông còn nhớ khi Tư Mã Khố học ông, hắn bắt cóc bỏ
vào lọ của ông, đặt vè chửi ông rồi trèo lên dầm nhà mà đọc, ông có đánh hắn
roi nào không? Có chửi hắn câu nào không có đặt biệt hiệu cho hắn không?
- Không, không, hoàn toàn không!
- Hay lắm! - Phán Đệ phấn khởi nói - Trương Đức Thành đã tố
ra một vấn đề sâu sắc. Vì sao Tần Nhị không phạt Tư Mã Khố? Vì Tư Mã Khố nhiều
tiền! Tiền của gia đình Tư Mã Khố do đâu mà có? Hắn không trồng mạch nhưng ăn
bánh mì, không nuôi tằm nhưng mặc đồ tơ lụa, không nấu rượu nhưng ngày nào cũng
say, thưa bà con, chính là mồ hôi xương máu của chúng ta đã nuôi sống bọn địa
chủ. Chúng ta phân chia đất đai của chúng, của cải trong nhà chúng, thực tế là
chúng ta thu hồi những gì của chúng ta!
Nhân vật bự vỗ tay khẽ tỏ ý tán thưởng lời lẽ khảng khái của
Phán Đệ. Trên bục, các cán bộ huyện, khu và các đội viên vũ trang vỗ tay theo.
Thằng Gật nói tiếp:
- Chỉ riêng thằng Tư Mã Khố đã lấy bốn vợ, còn tôi thì một vợ
cũng không. Như vậy có công bằng không?
Nhân vật bự cau mày, lắc đầu.
Lỗ Lập Nhân nói:
- Trương Đức Thành, không nói những chuyện này?
- Không, đây mới là nguồn gốc nỗi khổ của tôi! Thằng Gật tôi
cũng là thằng đàn ông, phải vậy không? Giữa hai đùi cũng lủng lẳng cái của ấy...
Lỗ Lập Nhân đứng chắn trước mặt Thằng Gật, không cho nói nữa.
Anh ta cất cao giọng, át cả tiếng gào của Thằng Gật, nói:
- Thưa bà con, Trương Đức Thành tuy nói năng có đôi chút thô
lỗ, nhưng đã nêu lên một lý lẽ, vì sao có người lấy đến bốn vợ, thậm chí nhiều
hơn, còn những người như Trương Đúc Thành một vợ cũng không.
Dưới sân bàn tán sôi nổi, rất nhiều ánh mắt nhìn về phía mẹ.
Mặt mẹ xanh mét, con mắt vô cảm, không thù không oán, phẳng lặng như nước hồ
thu.
Phán Đệ đẩy nhẹ Thằng Gật một cái, nói:
- Anh có thể xuống được rồi!
Thằng Gật tiến lên hai bước định bước xuống, nhưng lại chợt
nhớ ra điều gì, quay lại xách tai Triệu Giáp đánh một bạt tai, chửi:
- Đ. mẹ mày! Mày cũng có ngày hôm nay, mày còn nhớ những khi
theo đóm ăn tàn, dựa vào thế lục Tư Mã Khố khinh rẻ người khác chứ!
Triệu Giáp dùng đầu húc Thằng Gật một cú vào bụng dưới. Thằng
Gật kêu thét lên, ngã lăn mấy vòng xuống sân phơi..
Thằng Câm xông tới đá Triệu Giáp ngã lăn ra rồi dùng chân chặn
cổ Triệu Giáp. Khuôn mặt Triệu Giáp co rúm lại một cách đáng sợ. Anh ta thở phì
phò gào thét như điên: - Tôi không phục, tôi không phục. Các người là đồ vô
lương tâm, trời hại các người?...
Lỗ Lập Nhân cúi xuống hỏi nhân vật bự. Nhân vật bự cầm nghiên
mực gõ xuống bàn đánh chát một tiếng. Lỗ Lập Nhân lôi ra một mảnh giấy, đọc:
- Xét phú nông Triệu Giáp, sống bằng bóc lột, thời kỳ Nhật ngụy
hắn đã cung cấp cho ngụy quân khối lượng lớn lương thực. Thời Tư Mã Khố thống
trị, hắn đã nhiều lần tiếp tế bánh bao cho bọn phỉ. Từ cải cách ruộng đất đến
nay, hắn tung ra bao nhiêu lời đồn nhảm, công khai chống lại chính quyền nhân dân.
Với phần tử ngoan cố như vậy không triệt đi thì không xoa dịu được sự căm phẫn
của dân. Tôi thay mặt Chính phủ nhân dân huyện Cạo Mật tuyên bố tử hình Triệu
Giáp, lập tức thi hành!
Hai đội viên khu đội lôi Triệu Giáp như lôi một con chó chết
đến mép đầm đầy rác rưởi và cỏ mục. Hai đội viên tránh sang hai bên, Thằng Câm
nhằm gáy Triệu Giáp nổ một phát súng. Nhanh như chớp, Triệu Giáp lộn đầu xuống
đầm. Thằng Câm cầm khẩu pạc-hoọc miệng súng vẫn còn nhả khói, trở lại chỗ bục đất.
Những người quỳ trên bục dập đầu lạy như tế sao, sợ vãi cứt
đái ra quần. Mùi hôi thối xông lên, những người trên bục và những người ở gần
dưới sân đều bịt mũi.
- Tha cho tôi, tha cho tôi? - Chủ hiệu dầu thơm Kim-Một-Vú lết
hai đầu gối đến trước mặt Lỗ Lập Nhân, hai tay ôm chặt lấy chân anh ta, vừa nói
vừa khóc - Ông huyện trưởng tha cho tôi, tôi nguyện đem toàn bộ đầu thơm, toàn
bộ số vàng, toàn bộ gia sản, ngay cả cái máng cho gà ăn cũng không để lại, chia
hết cho bà con, chỉ cần tha cho mạng sống nhỏ nhoi của tôi. Tôi không bao giờ
buôn bán để bóc lột mọi người nữa!...
Lỗ Lập Nhân muốn rút chân ra khỏi vòng tay của Kim-Một-Vú,
nhưng chị ta cứ ôm riết lấy chân anh ta. Mấy cán bộ huyện ùa tới gỡ các ngón
tay Kim-Một-Vú đan vào nhau như gọng kìm, giải phóng cho huyện trưởng Lỗ. Kim-Một-Vú
lại lết đến bên nhân vật bự. Lỗ Lập Nhân kiên quyết:
- Lôi nó đi!
Thằng Câm quay ngược khẩu pạc-hoọc gõ một phát vào thái dương
Kim-Một-Vú, chỉ một cái gõ chị ta đã ngã lăn ra, mắt trợn ngược, bầu vú duy nhất
chĩa thẳng lên bầu trời u ám.
- Ai còn nỗi khổ nào không? - Phán Đệ hỏi to.
Dưới sân một người cất tiếng khóc. Đó là ông già Từ Tiên Nhi,
tay chống cây gậy trúc vàng óng.
Không ai đến dìu ông ta. Ông mù khóc, dùng gậy dò đường, mò mẫm
bước lên bục. Cây gậy của ông ta dò đến đâu mọi người tranh nhau dãn ra đến đó.
Hai cán bộ bước xuống kéo ông ta lên.
Từ Tiên Nhi cầm gậy bằng hai tay, vì uất hận, ông ta chọc gậy
liên hồi xuống mặt đất. Mặt đất lỗ chỗ những vết gậy.
- Nói đi, bác Từ! - Phán Đệ nói.
Từ Tiên Nhi nói:
- Thưa trưởng quan, quả thực các ông báo thù cho lão chứ?
Chị Phán Đệ nói: - Cụ cứ yên tâm. Vừa nãy chẳng phải chúng
tôi đã báo thù cho Trương Đức Thành rồi đấy sao?
Từ Tiên Nhi nói:
- Để tôi nói. Cái thằng khốn kiếp Tư Mã Khố đã bức tử vợ tôi,
khiến mẹ tôi uất mà chết, hắn nợ tôi hai mạng người?...
Nước mắt ứa ra từ cặp mắt ông già mù.
- Bác cứ nói. - Lỗ Lập Nhân nói.
- Năm Dân quốc thứ mười lăm, mẹ tôi đã bỏ ra ba mươi đồng bạc
trắng cưới vợ cho tôi, đó là con gái của bà ăn xin ở thôn tây. Mẹ tôi bán bò, lợn,
hai tạ lúa mạch, đổi lấy ba mươi đồng bạc trắng đưa cho bà ăn mày. Ai cũng bảo
vợ tôi xinh xắn, nhưng chính cái đẹp đã gây tai họa! Khi ấy Tư Mã Khố cũng khoảng
mười sáu mười bảy chứ mấy. Hắn không chịu học, ỷ vào quyền thế của gia đình, cứ
đến nhà tôi xoành xoạch, hát xướng, chơi hồ cầm, rồi đưa vợ tôi đi xem hát,
trên đường trở về hắn cưỡng đoạt vợ tôi... Sau đó vợ tôi nuốt thuốc phiện tự tử,
mẹ tôi uất quá thắt cổ chết.. Tư Mã Khố nợ tôi hai mạng người, xin Chính phủ
phân xử việc này cho tôi?...
Ông mù quì trên bục.
Một cán bộ khu kéo ông ta đứng dậy. Ông ta nói:
- Không trả thù cho tôi thì tôi cứ quì ở đây!
- Bác ơi - Lỗ Lập Nhân nói - Tư Mã Khố chạy đâu cho thoát bắt
được nó chúng tôi sẽ giải oan cho bác!
Ông mù nói:
- Tư Mã Khố như con chim diêu bay cùng trời cuối đất, các ông
không bắt được nó đâu? Tôi yêu cầu Chính phủ cứ là mạng đổi mạng, bắn bỏ con
trai và con gái nó. Thưa ông huyện trưởng, lão biết ông và Tư Mã Khố có hơi hướng
gia đình, nếu ông là Bao Thanh Thiên thì xin ông chuẩn y lời đề nghị của tôi. Nếu
ông còn tình nghĩa riêng tư thì tôi xin về nhà treo cổ tự vẫn, để Tư Mã Khố khỏi
hành hạ tôi khi hắn trở lại!
Lỗ Lập Nhân đắng họng, cố phân bua:
- Bác ơi, nợ có đầu oan có chủ, ai làm người ấy chịu. Tư Mã
Khố hại người thì chỉ có thể là Tư Mã Khố phải đền mạng, trẻ con không có tội!
Ông mù chọc gậy xuống đất nói:
- Bà con đã nghe rõ chưa? Đừng bao giờ bị mắc lừa, Tư Mã Khố
chạy rồi, Tư Mã Đình trốn rồi, con cái của chúng chả mấy chốc mà lớn lên, huyện
trưởng Lỗ với hắn là anh em cọc chèo, phải thân với nhau chứ! Bà con ơi, lão Từ
này sống với một cây gậy, chết thành thức ăn cho chó, bà con không bì được với
tôi đâu. Bà con, đừng mắc lừa..
Phán Đệ giận dữ quát:
- Thằng mù ăn nói bậy bạ cái gì thế?
Từ mù nói:
- Cô nương Phán Đệ, họ Thượng Quan nhà cô quả là giỏi! Thời
Nhật thì có chàng rể Sa Nguyệt Lương đắc thế, thời Quốc dân đảng có rể thứ hai
Tư Mã Khố đắc thế, bây giờ có cô và Lỗ Lập Nhân đắc thế. Gia đình cô không bao
giờ bị mất ngọn cờ, không bao giờ bị lật thuyền. Rồi đây người Mỹ chiếm Trung
Quốc, gia đình cô còn có chàng rể tây...
Tư Mã Lương mặt trắng nhợt, túm chặt tay mẹ. Tư Mã Thượng và
Tư Mã Hoàng rúc vào nách mẹ. Sa Tảo Hoa khóc, Lỗ Thắng Lợi cũng khóc. Chị tám
Ngọc Nữ là người khóc cuối cùng.
Tiếng khóc của chúng khiến người trên bục và dưới sân để ý.
Nhân vật bự cũng nhìn chúng chằm chằm. Từ Tiên Nhi tuy mù nhưng rất chuẩn xác
quì trước mặt nhân vật bự, gào khóc:
- Thưa trưởng quan, hãy phân xử cho lão mù này?
Lão vừa khóc vừa dập đầu lia lịa, trán lão dính đầy đất.
Lỗ Lập Nhân nhìn nhân vật bự bằng con mắt cầu cứu. Nhân vật bự
lạnh lùng nhìn anh ta, cái nhìn sắc như dao. Lỗ Lập Nhân mồ hôi chảy đầy mặt, mất
hẳn cái vẻ ung dung thanh thoát, khi thì cúi nhìn cái đầu ngón chân, chốc lại
ngẩng nhìn những người dưới sân phơi anh ta không đủ dũng khí nhìn thẳng vào mặt
nhân vật bự.
Thượng Quan Phán Đệ cũng mất đi vẻ oai vệ của một trưởng khu,
mặt đỏ như gấc, môi dưới run bần bật như lên cơn sốt. Chị chửi bới như một mụ
nhà quê đanh đá:
- Lão Từ kia, lão định làm loạn phỏng? Gia đình ta có chỗ nào
đắc tội với lão? Con vợ thối thây của lão đã mồi chài Tư Mã Khố, bậy bạ với
nhau trong ruộng lúa mạch bị người ta tóm được không còn mặt mũi nhìn mọi người,
nên mới uống thuốc phiện mà chết! Ta còn nghe nói lão cắn xé cô ta suốt đêm như
một con chó. Vợ lão đã cho biết bao nhiêu người xem những vết cắn thâm tím ở ngực,
lão có biết không. Bức hại vợ lão chính là lão. Tư Mã Khố có tội nhưng thủ phạm
là lão. Nếu tử hình, trước tiên đem lão ra bắn bỏ!
- Thưa trưởng quan! - Từ mù nói - Ông nghe thấy chưa, cháy
nhà ra mặt chuột.
Lỗ Lập Nhân vội đỡ đòn cho Phán Đệ. Anh ta định kéo Từ Tiên
Nhi xuống nhưng Từ Tiên Nhi như cục kẹo kéo, lôi dậy người dài ra, buông tay
người vón cục. Lỗ Lập Nhân nói:
- Bác ơi, bác đề nghị bắn bỏ Tư Mã Khố là đúng, nhưng đòi bắn
bỏ con cái của Tư Mã Khố là sai, trẻ con không có tội!
Từ Tiên Nhi cãi:
- Triệu Giáp làm gì có tội? Triệu Giáp chẳng qua chỉ là anh
thợ bếp lò? Chẳng phải Triệu Giáp có chút tư thù với Trương Đức Thành đấy sao?
Chẳng phải là các người nói bắn là lôi ra bắn đó sao? Thưa ông huyện trưởng,
không bắn chết con cháu Tư Mã Khố thì lão không chịu!
Những người dưới sân bảo nhau:
- Bà cô của Triệu Giáp là mẹ đẻ Từ Tiên Nhi, hai người là anh
em họ.
Lỗ Lập Nhân cười ngượng, dè dặt tới bên nhân vật bự, lúng búng
điều gì đó với ông ta. Nhân vật bự xoay xoay cái nghiên mục, không nói nửa câu,
nhưng hai vết hằn bên khóe miệng kéo dài xuống tận dưới cằm và cái bĩu môi của
ông ta thì đầy sát khí. Lỗ Lập Nhân lại lúng túng trình bày gì đó. Lúc này cặp
mắt trắng đã của ông ta ngước lên nhìn Lỗ Lập Nhân, cất giọng rè rè nói rất to:
- Cái chuyện vặt này mà phải làm hộ anh sao?
Lỗ Lập Nhân rút khăn tay lau mồ hôi trên trán, hai tay quài
ra sau thắt chặt dải vải đen, mặt vàng bệch, ra phía trước bục, lớn tiếng tuyên
bố.
- Chính phủ ta là chính phủ của nhân dân, thực hiện ý nguyện
của nhân dân. Bây giờ tôi xin trưng cầu ý kiến của các vị, ai đồng ý bắn bỏ các
con của Tư Mã Khố thì giơ tay lên?
Phán Đệ giận dữ chất vấn Lỗ Lập Nhân:
- Anh điên hay sao?
Phía dưới, mọi người cúi gằm, không ai giơ tay, cũng không ai
nói gì.
Lỗ Lập Nhân đưa mắt hỏi ý kiến nhân vật bự.
Nhân vật bự thoáng nét cười nhạt trên khuôn mặt, bảo Lỗ Lập
Nhân:
- Anh hỏi lại lần nữa, ai không đồng ý bắn bỏ các con của Tư
Mã Khố?
Lỗ Lập Nhân hỏi: - Ai không đồng ý bắn bỏ các con của Tư Mã
Khố thì giơ tay?
Quần chúng vẫn im lặng, đầu cúi gằm, không giơ tay, không ai
nói câu gì.
Mẹ chậm rãi đứng lên, nói:
- Từ Tiên Nhi, nếu dứt khoát phải đền mạng thì xin bắn chết
tôi! Mẹ ông không thắt cổ chết, mà chết vì băng huyết. Nguồn gốc bệnh của bà là
từ thời loạn thổ phỉ để lại.
Nhân vật bự đứng dậy đi vào phía trong.
Lỗ Lập Nhân vội vã đuổi theo.
Trên một khoảnh đất trống phía sau bục, nhân vật bự lúc nói
chậm lúc nói nhanh, cánh tay khẳng khiu mềm oặt của ông ta lúc giơ lên lúc hạ
xuống, như một lưỡi dao chém vào không khí.
Các vệ sĩ xúm xít xung quanh, hộ tống ông ta bỏ đi. Lỗ Lập
Nhân đứng như trời trồng, đầu cúi gằm. Anh ta đứng rất lâu rồi như sực tỉnh, lê
những bước nặng nề, đờ dẫn trở về vị trí huyện trưởng của anh ta. Anh ta nhìn
chúng tôi bằng ánh mắt điên dại, nhìn rất lâu, trông thật đáng thương. Lâu lắm,
anh ta mới mở được miệng, ánh mắt thì như con bạc khát nước, nói:
- Tôi tuyên bố, tử hình con trai Tư Mã Khố là Tư Mã Lương, lập
tức thi hành; tử hình hai con gái Tư Mã Khố là Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng, lập
tức chấp hành!
Người mẹ chúi một cái, nhưng mẹ vẫn đứng vững. Mẹ nói:
- Để ta xem mày có dám không?
Mẹ ôm chặt Tư Mã Thượng và Tư Mã Hoàng. Tư Mã Lương nhanh nhẹn
nằm rạp xuống đất rồi bò lùi. Mọi người lắc lư làm như không để ý, che khuất
cho Tư Mã Lương bỏ trốn.
- Tôn Bất Ngôn? - Lỗ Lập Nhân quát to - Sao không chấp hành mệnh
lệnh của tôi?
Phán Đệ chửi: - Anh lú lẫn rồi, lệnh gì mà như thế!
Lỗ Lập Nhân nói:
- Tôi không lú lẫn, tôi rất tỉnh? - Anh ta vừa nói vừa đấm
vào đầu.
Thằng Câm ngần ngại buộc xuống bục, theo sau là hai đội viên
của tiểu khu.
Tư Mã Lương bò ra khỏi đám đông, lách giữa hai trạm gác rồi
chạy vụt lên đê.
- Chạy rồi, chạy rồi. - Các đội viên trên bục kêu lên. Các
lính gác hạ súng trên vai xuống, kéo cơ bẩm, đẩy đạn lên nòng, rồi bắn mấy phát
chỉ thiên. Tư Mã Lương mất hút trong những lùm cây lúp xúp trên đê.
Thằng Câm dẫn các đội viên, gạt những tấm lưng đen đủi ken
nhau, đến trước mặt chúng tôi. Hai đứa con câm của hắn - Câm Anh, Câm Em - giương
đôi mắt cô độc và ngạo mạn nhìn hắn. Hắn giơ vuốt trước như thép nguội ra, mẹ
nhổ vào mặt hắn một bãi nước bọt. Hắn rụt tay lại chùi nước bọt trên mặt, chùi
xong lại chìa tay ra, mẹ lại nhổ bãi nữa nhưng lần này súc yếu hơn, nước bọt chỉ
đến ngực hắn. Hắn ngoảnh lại nhìn những người đứng trên bục. Lỗ Lập Nhân hai
tay chắp sau lưng, đi đi lại lại. Phán Đệ thì ngồi xổm, hai tay bưng mặt. Các
cán bộ huyện và khu thì nét mặt vô cảm như tuồng đất. Cái cằm dưới rắn như thép
của Thằng Câm lập bập như thường ngày, miệng quát:
- Cởi, cởi, cởi?
Mẹ ưỡn ngực, thét lên chói tai:
- Thằng súc sinh, giết tao trước đi!
Mẹ xông tới trước mặt Thằng Câm cào vào mặt hắn. Mặt hắn xuất
hiện bốn rãnh màu trắng, sau đó máu từ trong rãnh tứa ra.
Thằng Câm vuốt mặt một cái rồi đưa ngón tay ra trước mặt ngây
ra mà nhìn, hình như để xem cái gì dính trên ngón tay. Xem xong, hắn lại đưa
ngón tay lên mũi - cái mũi sư tử - để ngửi, hình như để biết trên ngón tay có
mùi gì. Ngửi xong, hắn thè lại liếm đầu ngón tay như để xem mùi vị nó ra sao.
Lát sau, hắn ầu ầu lên mấy tiếng, đấm mẹ một quả, mẹ ngã bay về phía chúng tôi.
Chúng tôi vừa khóc vừa phủ phục trên mình mẹ.
Thằng Câm xách từng đứa chúng tôi quẳng sang một bên. Tôi rơi
trên lưng một phụ nữ, Sa Tào Hoa rơi trên bụng tôi. Lỗ Thắng Lợi rơi trên lưng
một ông già. Chị Tám rơi trên vai một bà lão. Câm anh đeo dưới cánh tay của bố
nó, bố nó vẩy rất mạnh cũng không rơi, nó bám chặt cổ tay không nhả. Câm em thì
ôm chặt chân Thằng Câm Bố, cắn vào gối của bố. Bố nó hất chân, Câm em bay vào đầu
một ông trung niên. Thằng Câm Bố giằng mạnh tay, Câm Anh văng ra, kéo theo
trong miệng một miếng thịt của Câm Bố, rơi đánh bộp vào lòng một bà lão
Thằng Câm tay trái xách Tư Mã Phượng, tay phải xách Tư Mã
Hoàng đi như đi trong bùn lầy, chân giơ cao rồi mới đặt xuống. Hắn đi đến trước
cái bục, giơ tay trái quẳng Tư Mã Phượng lên, giơ tay phải quẳng Tư Mã Hoàng
lên. Tư Mã Phượng, Tư Mã Hoàng gào khóc, miệng gọi bà ngoại. Hai đứa muốn trườn
xuống nhưng bị thăng Cầm chặn lại. Mẹ lồm cồm bò dậy loạng choạng chạy tới
nhưng vừa được hai bước, mẹ ngã lăn ra.
Lỗ Lập Nhân dừnglại, giọng thê thảm:
- Các ông các bà nghèo khổ ơi, các vị nói đi, Lỗ Lập Nhân tôi
có còn là con người hay không Bắn chết hai đứa trẻ này, trong lòng tôi như thế
nào? Tôi đau lắm, xót xa lắm! Chúng nó là trẻ con, huống hồ lại là thân thích với
tôi! Nhưng chính bởi vì chúng là họ hàng, tôi buộc phải rớt nước mắt mà tử hình
chúng! Các ông các bà ơi, hãy tỉnh lại, tử hình con cái Tư Mã Khố là chúng ta
không còn đường lui nữa. Thoạt nhìn, chúng ta bắn hai đứa trẻ, kỳ thực không phải
là đứa trẻ, mà là chế độ lạc hậu cũ kỹ, chúng ta bắn là bắn cái chế độ đó, bắn
hai dấu hiệu đó? Các ông các bà ơi, hãy vùng lên, không cách mạng thì là phản
cách mạng, không có còn đường thứ ba!
Anh ta nói to quá nên ho sặc sụa, mặt đỏ gay, nước mắt ràn rụa.
Một cán bộ huyện bước tới định đấm lưng cho anh ta, nhưng anh ta khoát tay từ
chối. Rồi anh ta cũng điều khiển được nhịp thở, nhổ nước bọt, hổn hển như mắc bệnh
lao, nói:
- Chấp hành đi!
Thằng Câm nhảy lên bục, hai tay kẹp hai đứa trẻ rảo bước đến
bờ đầm. Hắn đặt hai đứa xuống rồi lùi lại hơn chục bước. Hai đứa trẻ ôm lấy
nhau, khuôn mặt hẹp và dài như bôi lên lớp phấn vàng, bốn con mắt nhỏ xíu kinh
hoàng nhìn Thằng Câm. Thằng Câm rút khẩu pạc-hoọc ra từ từ giơ lên, bàn tay hắn
đầy máu run run như khẩu súng nặng đến hai mươi cân, vất vả mới giơ được lên. Pằng,
hắn bắn một phát, cổ tay cầm súng nẩy lên một cái đầu nòng bốc khói, cánh tay hắn
lập tức nhũn ra, viên đạn bay trên đầu hai đứa trẻ, làm bắn tung một chỗ bùn
trên đầm.
Một phụ nữ với hai bàn chân không bị bó, người hơi nghiêng
như thuyền buồm ăn gió, chạy như bay theo con đường mòn kẹp giữa hai vạt cỏ rậm,
vừa chạy vừa gào thét như con gà mái chạy đến bảo vệ cho đàn con. Tôi nhận ra
đó là chị Cả, vì chị từ chân đê chạy tới. Chị được coi là tâm thần không bình
thường nên không dự đại hội đấu tranh. Là vợ chưa chết của Hán gian Sa Nguyệt
Lượng, chị đáng bị đem xử bắn. Nếu mọi người biết chị đã từng nhất dạ phong lưu
với Tư Mã Khố, chị đáng bị bắn hai lần. Tôi lo thay cho chị. Chị đang đâm đầu
vào lưới. Chị chạy thẳng đến ven đầm, đứng chặn trước mặt hai đứa trẻ:
- Bắn tôi đi, giết tôi đi! - Chị gào thét điên cuồng - Tôi đã
từng qua đêm với Tư Mã Khố, tôi chính là mẹ của chúng.
Cái hàm dưới của Thằng Câm lại lập cập dữ dội, chứng tỏ sóng
gió đang nổi lên trong lòng hắn. Hắn chĩa súng, quát bằng giọng khàn khàn:
- Cởi, cởi, cởi!
Không chút do dự, chị Cả cởi nút áo để lộ cặp vú tuyệt mỹ của
chị, Thằng Câm giương to mắt, cằm dưới của hắn như rơi xuống đất vỡ thành từng
mảnh, to như cục gạch, nhỏ như mầu gạch. Hàm dưới mà mất, Thằng Câm trông thật
dáng sợ. Hắn lấy tay nâng hàm dưới, chỉ sợ nó rơi xuống, nói mà không phải
nghĩa như thế:
- Cởi, cởi, cởi?
Chị Cả ngoan ngoãn cởi bỏ áo, mình trần. Mặt chị đen nhưng
mình thì trắng, trắng như ngà. Trong bầu không khí u ám, chị thi gan với Thằng
Câm. Thằng Câm ngập ngừng đi tới, đi tới ngay trước mặt chị, một thằng đàn ông
như đúc bằng thép phút chốc tan ra nước như người tuyết dưới ánh nắng mặt trời,
chân một nơi tay một ngả, ruột lòng thòng như những con rắn, chỉ còn mỗi trái
tim đỏ rực được nâng bằng hai tay là đang đập. Gắng gượng lắm những bộ phận đó
mới trở về vị trí cũ thành hình người nguyên vẹn. Thằng Câm quỳ trước mặt chị Cả,
hai tay ôm vòng mông của chị, hôn lấy hôn để cái rốn của chị.
Trước tình huống bất ngờ đó, bọn Lỗ Lập Nhân giương mắt nhìn
nhau, miệng như bị bỏng, tay như chạm phải gai nhím. Dân chúng nhìn trộm về
phía đầm, không hiểu tâm trạng của họ ra sao.
- Tôn Bất Ngôn! - Lỗ Lập Nhân ngán ngẩm cất tiếng gọi, nhưng Thằng
Câm không thèm để ý.
Phán Đệ nhảy xuống bục chạy tới ven đầm nhặt chiếc áo cánh
khoác lên người chị Cả. Chị định lôi chị Cả đi, nhưng nửa người dưới của chị Cả
đã gắn chặt vào Thằng Câm, Phán Đệ gỡ ra sao được? Phán Đệ quay ngược báng súng
đập vào vai Thằng Câm. Thằng Câm ngẩng mặt lên, nét mặt dịu dàng, nước mắt lưng
tròng.
Sự việc xảy ra sau đó cho đến nay vẫn còn là một ẩn số có đến
mười mấy nghiệm, không ai biết đích xác thật giả như thế nào. Giữa lúc chị Phán
Đệ ngẩn người trước cặp mắt đầy lệ của Thằng Câm; giữa lúc chị em con Phượng
líu ríu ôm nhau đứng dậy tìm bà ngoại, giữa lúc mẹ tỉnh lại - vừa kêu vừa chạy
tới ven đầm; giữa lúc Từ Tiên Nhi nói: Ông huyện trưởng, đừng giết chúng, mẹ
tôi không thắt cổ chết, vợ tôi chết không phải hoàn toàn do Tư Mã Khố, giữa lúc
hai con chó hoang đang cắn nhau trong căn nhà bỏ hoang của người đàn bà Hồi; giữa
lúc tôi đang nhớ lại khung cảnh ngọt ngào mà ấm ức bên máng cỏ, miệng tôi mặn
mùi bụi đất ở đầu vú chị Cả và cái đầu vú nẩy như cao su của chị, thì có hai
người cưỡi ngựa lướt tới như một cơn lốc. Hai con ngựa, một con trắng như tuyết,
một con đen như mun. Người cưỡi ngựa trắng mặc áo đen, che nửa mặt dưới bằng
vuông vải đen, đầu đội mũ đen. Người cưỡi ngựa đen mặc áo trắng, che nửa mặt dưới
bằng vuông vải trắng, đầu đội mũ trắng. Mỗi người hai tay hai súng, tài cưỡi ngựa
thì tuyệt diệu, hai chân thẳng băng trên mình ngựa, người hơi ngả về phía trước.
Khi gần đến ven đầm, họ bắn một băng lên trời, các cán bộ huyện khu hoảng sợ đến
nỗi nằm rạp dưới đất. Họ điều khiển dây cương cho ngựa lượn một vòng, thân ngựa
hơi nghiêng vẽ thành một vòng cung đẹp mắt. Mỗi người trong họ nổ một phát súng
rồi bỏ đi, đuôi ngựa bay bay, như sương như mù, chỉ chớp mắt đã biến mất, quả
là đến như gió xuân, đi như gió thu, hư hư thực thực y như một giấc mộng! Họ đi
rồi, mọi người mới dần dần định thần lại. Kết quả cuối cùng là Tư Mã Phượng và
Tư Mã Hoàng mỗi đứa bị một phát đạn vào đầu viên đạn từ trán chui ra gáy, lỗ đạn
không sai nhau mảy may, mọi người ngạc nhiên thán phục mãi.
8
Ngày đầu tiên khi rút lui, dân chúng mười tám thôn trấn vùng
Cao Mật dắt ngựa ôm gà, dìu già dắt trẻ, tập trung ở bãi đất phèn ở bờ bắc sông
Thuồng Luồng. Mặt đất phủ một lớp vảy như những mảnh băng chưa tan. Những loại
cây cỏ chịu được mặn như cỏ lác, cỏ mao, cây sậy thì cành lá khô héo, lắc lư
trong gió lạnh. Những con quạ thích ồn ào sà thấp trên đầu mọi người mà nhòm
ngó, thậm chí còn kêu vang quạ quạ như những thi sĩ lãng mạn.
Bị giáng chúc làm phó huyện trưởng, Lỗ Lập Nhân đứng trên bệ
tế ở đầu nấm mộ của vị cử nhân Đan Đình đời Tiền Thanh, gân cổ ra mà gào bài
phát biểu có tính động viên cho cuộc rút lui. Chủ đề diễn thuyết của anh ta là:
Mùa đông năm nay đã bắt đầu, vùng Cao Mật trở thành chiến trường, không sơ tán
đi nơi khác thì cầm chắc cái chết? Lũ quạ đậu kín những cây tùng, đậu trên các
mộ, trên người đá ngựa đá. Chúng quà, chúng quạ ầm ĩ, phá đám cuộc diễn thuyết
của Lỗ Lập Nhân, khiến dân chúng càng kinh hoảng, góp phần tăng thêm quyết tâm
cùng chính quyền huyện, khu rút chạy.
Một tiếng súng nổ vang, cuộc rút chạy bắt đầu. Đám người đông
như kiến ồn ào tản ra. Thế là lừa kêu ngựa hí, gà bay chó chạy, bà già khóc mếu,
trẻ con kêu gào: Một thanh niên nhanh nhẹn tay cầm cờ đỏ, cưỡi ngựa trắng, chạy
ngược chạy xuôi trên con đường đất phèn kéo dài vô tận về phía dông bắc, chốc
chốc lại phất ngọn cờ chỉ hướng cho dòng người tiến lên. Đi đầu là đơn vị gồm
hơn chục con la chở hồ sơ giấy má của huyện phủ, dưới sự điều khiển của hơn chục
chú lính, uể oải cất bước. Cuối đoàn la là những con lạc đà còn lại từ thời Tư
Mã Khố, với bộ lông dài bẩn thỉu màu vàng xỉn, thồ hai hòm sắt tây. ở vùng Cao
Mật đã lâu, nó đang từ lạc đà biến thành trâu. Đi liền sau lạc đà, là đội dân
phu khênh cỗ máy in của huyện và một số máy móc của xưởng sửa chữa cơ khí huyện.
Hơn chục dân phu, đều là đàn ông, quần áo đều mỏng, trên vai mỗi người đều có tấm
đệm vai hình lá sen. Qua bước chân loạng choạng và cái dáng mắm môi mắm lợi của
họ, thì biết máy móc rất nặng.
Sau đội dân công, là đội ngũ tạp nham của dân chúng. Đám cán
bộ huyện, khu như Lỗ Lập Nhân và Phán Đệ thì cưỡi lừa hoặc ngựa chạy lên chạy
xuống trên những vạt đất phèn, cố duy trì tình trạng có trật tự. Nhưng mặt đường
quá hẹp, quá chật chội, mà hai bên đường thì lại rộng rãi bằng phẳng, dân chúng
bèn bỏ con đường, mở rộng đội hình theo hàng ngang dẫm lép bép trên những vảy đất
đi về hướng đông bắc. Ban đầu là một cuộc rút lui, nhưng nhanh chóng biến thành
một cuộc tháo chạy vô cùng lộn xộn.
Cả nhà tôi bị kẹt trong dòng người đông đặc, lúc thì đi trên
đường, về sau cùng không rõ là đang đi trên đường hay đi dưới ruộng. Mẹ đeo bao
đay trước ngực, đẩy chiếc xe cút kít bánh gỗ hai càng cách nhau khá xa, mẹ phải
đang rộng tay hết cỡ. Hai chiếc sọt hình hộp buộc hai bên xe, sọt bên trái là Lỗ
Thắng Lợi và chăn gối, quần áo của cả nhà, sọt bên phải là Câm anh và Câm em.
Tôi và Sa Tảo Hoa mỗi người một bên, vịn vào sọt mà đi cùng xe. Chị Tám mù thì
bám vạt áo mẹ, lếch thếch đi cuối cùng. Chị Lai Đệ lúc tỉnh lúc lú thì đi trước
xe, vai khoác dây, lưng gập lại, cổ ươn ra như kiếp trâu kéo. Chiếc xe rít kin
kít chói tai, mẹ và chị Cả thở như kéo bễ, bàn chân nhỏ khiến chị và mẹ cực kỳ
vất vả. Ba đứa trẻ trên xe đầu ngất ngưỡng, quay hết bên nọ đến bên kia xem cảnh
huyên náo. Chúng tôi dẫm chân lên đất phèn lạo xạo, mũi ngửi mùi mặn của muối,
lúc đầu rất thú, nhưng đi được vài dặm thì đầu váng mắt hoa, chân tay bủn rún,
mồ hôi ướt đầm trong nách. Con dê trắng khỏe mạnh như lừa của tôi ngoan ngoãn
theo sau, nó rất hiểu ý người, không cần dùng đến thừng chạc. Hôm ấy có gió bấc
nhẹ nhưng buốt như cắt tai. Trên cánh đồng mênh mông cuộn lên những làn bụi trắng.
Đó là hỗn hợp của muối, phèn và kiềm. Vào mắt, mắt chảy nước, vào da, da đau
rát, ăn vào miệng thì chẳng ngon lành gì? Mọi người ngược gió mà đi, mắt nhíu lại.
Những dân phu khiêng máy người ướt đẫm quần áo, nhất loạt biến thành người trắng.
Mẹ cũng đã thành người trắng, lông mi lông mày trắng toát, tóc cũng trắng.
Khi tiến vào vùng trũng và ẩm ướt, bánh xe chuyển động khó
khăn. Chị Cả phía trước đánh vật với con đường, sợi dây kéo hằn sâu vào thịt.
Không trông thấy mặt chị, chỉ nhìn thấy lưng áo mồ hôi từng mảng. Tiếng thở của
chị khiến người ta phát hoảng. Còn mẹ thì sao? Nói rằng đẩy xe, thực ra mẹ chẳng
khác Chúa Giêsu chịu cực hình.
Cặp mắt u buồn của mẹ đẫm nước mắt. Nước mắt trộn mồ hôi chảy
từng vệt dài trên mặt mẹ. Chị Tám đeo sau mẹ như một cái bị. Chúng tôi để lại
phía sau vết hằn rất sâu của bánh xe, nhưng nó lại bị xóa hoặc mờ đi bởi những
bánh xe, chân người và gia súc của những toán đi sau. Phía trước, phía sau, bên
phải, bên trái chúng tôi đều là những người tị nạn. Những khuôn mặt quen và
không quen đều trở nên mơ hồ. Tất cả đều vất vả, người vất vả ngựa vất vả, lừa
vất vả. Tương đối dễ chịu là con gà mái trong bọc bà lão, và con dê của tôi. Nó
nhanh nhẹn, trên đường đi nó tranh thủ ăn được một ít lá khô.
Mặt trời rọi những tia nắng xuống mặt đất nhiễm phèn, ánh phản
quang làm lóa mắt, làn sáng trắng đi động trên mặt đất từng mảng màu bạc. Cánh
đồng hoang mênh mông làm cho phía trước giống như biển bắc trong truyền thuyết.
Đến trưa, y như bệnh hay lây, mọi người không ai bảo ai mà
cũng chẳng hiệu lệnh nào cả, nhất loạt ngồi xuống nghỉ. Không có nước, cổ họng
khô bỏng, lưỡi rát như bị dao cứa, đưa đẩy trong miệng rất khó khăn. Mũi phả
hơi nóng nhưng lưng và bụng thì lạnh toát, gió thổi khô mồ hôi, quấn áo cứng
như tôn lá. Mẹ ngồi trên một càng xe, lấy trong sọt một cái bánh bột ngô, bẻ
đôi chia cho chúng tôi. Chị Cả cắn một miếng, đôi môi khô nẻ của chị tóe máu,
vài giọt thấm vào bánh. Ba sinh vật nhỏ trên xe mặt mày xanh tái chẳng khác lũ
quỉ trong đền, chẳng còn ra hình người. Chúng không chịu ăn, cau có. Chị Tám
nhe hàm răng trắng, đều dặn, nhấm từng tí một chiếc bánh khô cứng.
Mẹ thở dài, nói:
- Đây là những chủ trương tốt đẹp của các ông bố bà mẹ yêu
quí của các cháu?
Sa Tảo Hoa sụt sịt:
- Ngoại ơi, mình về nhà đi! Mẹ nhìn đoàn người đông như kiến
cỏ mà thở dài, không nói gì. Mẹ bảo tôi:
- Kim Đồng, từ nay phải thay đổi cách ăn.
Mẹ lấy trong bọc ra chiếc bình gốm có in ngôi sao năm cánh đi
đến phía sau con dê, dùng tay phủi sạch cát bụi trên vú nó. Con dê không chịu,
mẹ bảo tôi ôm lấy đầu nó. Tôi ôm lấy cái đầu lạnh như đá của nó, xem mẹ vắt sữa.
Sữa rỏ tưng giọt vào bình. Con dê chắc là không thoải mái, nó đã quen với việc
cho tôi nằm ngửa dưới bầu vú nó mà bú. Cái đầu nó lắc lắc trong tay tôi, lưng
nó cong lên, cựa quậy như con rắn. Mẹ nhắc lại câu nói mà tôi rất sợ:
- Kim Đồng, khi nào thì con có thể ăn cơm?
Những năm tháng qua tôi đã từng ăn thử, nhưng dù tôi ăn những
thức ngon đến mấy, dạ dày tôi vẫn không chịu, ăn vào là nôn ọe, nôn ra mật xanh
mật vàng. Tôi xấu hổ nhìn mẹ, tự kiểm điểm nghiêm khắc bản thân, vì cái tật này
mà thêm biết bao phiền toái cho mẹ, đồng thời cho tôi. Tư Mã Lương đã từng hứa
chữa khỏi tật này cho tôi, nhưng từ khi nó bỏ trốn, tôi không gặp lại nó. Bộ mặt
láu cá và đáng yêu của nó ẩn hiện trước mặt tôi. Lổ đạn có vết gỉ đồng xanh
trên trán Tư Mã Thượng và Tư Mã Hoàng phát ra những tia đáng sợ. Tôi nhớ lại
khung cảnh hai đứa nằm chung trong một quan tài nhỏ bằng gỗ liễu. Mẹ lấy miếng
giấy hồng điều dán vào lỗ đạn, biến vết đạn thành nốt ruồi trang điểm của người.
Mẹ đã vắt được nửa bình sữa, đứng dậy tìm cái chai mà ngày
trước cô Đường cho Sa Tảo Hoa bú, mở nút, đổ sữa vào chai. Mẹ đưa chai sữa cho
tôi. Để khỏi phụ lòng mong mỏi của mẹ, vì tự do và hạnh phúc của tôi, tôi kiên
quyết nhét đầu vú cao su màu vàng nhạt vào miệng. Chiếc đầu vú cao su không súc
sống làm sao sánh được bầu vú màu phấn hồng đẹp tuyệt của mẹ tôi, đó là sự yêu
thương, là thơ ca, là bầu trời cao vời vợi, là mảnh đất thuần hậu dập dềnh sóng
lúa; cũng không sánh được bầu vú to tướng, căng phồng, đầy những vết tàn nhang
của con dê. Bầu vú cao su là một vật chết, tuy bóng loáng nhưng không mịn màng.
Cái đáng sợ nhất là nó là không mùi vị. Một cảm giác lạnh tanh và lờm lợm trong
miệng. Vì mẹ và vì bản thân, tôi cố nén cảm giác ngán ngẩm, cắn nó một cái, nó
hăng hái rít lên một tiếng khe khẽ, một ít sữa mằn mặn rỉ ra một cách khó khăn
thấm trên khoang miệng và đầu lưỡi tôi. Tôi lại ti một ngụm nữa. Tôi nhủ thầm:
ngụm này cho mẹ, ngụm này cho Kim Đồng. Tôi tiếp tục ti, vì Lai Đệ này, vì Lãnh
Đệ này, vì Tưởng Đệ này, vì tất cả những người trong nhà Thượng Quan đã yêu
tôi, đã thương tôi, đã giúp đỡ tôi vì Tư Mã Lương, thằng nhỏ thông minh nhanh
này, cũng có quan hệ máu mủ gì với nhà Thượng Quan chúng tôi. Tôi nín thở, dùng
công cụ đưa chất nuôi sống vào cơ thể. Khi tôi đưa trả mẹ cái chai, nước mắt
ràn rụa trên mặt mẹ. Chị Lai Đệ cười sung sướng. Sa Tảo Hoa nói:
- Cậu lớn rồi!
Tôi cố gắng kiềm chế cảm giác buồn nôn và cái đau âm ỉ ở dạ
dày, coi như không có chuyện gì xảy ra, tiến lên vài bước như một trang tu mi
nam tử và đứng đái theo chiều gió, và hứng lên, tôi bơm chất nước màu vàng đó
đi thật xa. Tôi trông thấy con đê: trên sông Thuồng Luồng nằm vắt ngang, cái
nóc nhọn của nhà thờ và cây bạch dương chọc trời của nhà Tư Phạm. Chúng tôi vất
vả cả một buổi sáng, vậy mà chỉ mới đi được một đoạn đường ngắn đến thảm hại.
Bị giáng xuống làm Chủ nhiệm Hội phụ nữ cứu quốc khu, chị
Phán Đệ cưỡi con ngựa chột mắt trái, trên mông phải có đóng đấu bằng chữ số ả rập,
từ phía tây đi đến. Con ngựa của chị vẹo cổ một cách quái gở, vụng về cất bước
với những bộ vó lóng ngóng phát ra những tiếng lạch cạch, khập khiễng đi lại chỗ
chúng tôi. Nó là con ngựa ô đực, sau khi bị thiến, nó trở thành con ngựa thái
giám, giọng the thé, tính tình quái đản. Bốn chân và cái bụng của nó dính một lớp
đất phèn màu trắng, yên cương thấm đẫm mồ hôi bốc lên mùi chua loét. Trong một
thời gian dài, con ngựa rất nhu mì, nhu mì đến nỗi bọn trẻ tinh nghịch có thể vặt
lông đuôi của nó. Nhưng một khi nó đã nổi máu thì có thể làm những chuyện động
trời.
Mùa hè năm ngoái, khi ấy là thời đại của Tư Mã Khố, nó cắn một
miếng vào đầu Phùng Lan Chi, con gái ông lái ngựa Phùng Quí, cô bé đã tưởng
không sống được, trán và sau gáy để lại những vết sẹo khủng khiếp. Loại ngựa
như vậy lẽ ra phải giết quách, nhưng nghe nói nó từng lập chiến công nên ân xá.
Nó đứng trước cỗ xe nhà tôi, giương con mắt độc nhỡn nhìn con dê của tôi. Con
dê của tôi cảnh giác lùi lại chỗ có đất phèn dày nhất, liếm những phấn trắng
trên mặt đất. Chị Phán Đệ vẫn tỏ ra nhanh nhẹn dù rằng cái bụng của chị đã lùm
lùm. Chị xuống ngựa. Tôi nhìn bụng chị, đoán thử hình dáng đứa trẻ trong đó,
nhưng không đoán nổi, chỉ nhìn thấy những vết ố trên bộ quân phục màu xám của
chị.
- Không nên dừng lại ở đây. Mẹ ơi, chúng con đã chuẩn bị nước
nóng, cơm trưa ở thôn trước mặt, ta phải đến đó - Phán Đệ nói.
Mẹ nói:
- Phán Đệ, mẹ bảo này, mẹ không muốn rút với các con nữa!
Phán Đệ cuống quít lên:
- Mẹ, dứt khoát không được, quân địch trở lại lần này hoàn
toàn khác với những lần trước, một ngày giết bảy ngàn người ở khu vực Bột Hải.
Bọn Hoàn Hương Đoàn hiếu sát, giết cả mẹ đẻ.
Mẹ nói:
- Tao không tin lại có người giết cả mẹ đẻ.
Chị Phán Đệ nói:
- Mẹ, dù thế nào chăng nữa cũng không thể để mẹ quay lại,
quay lại là tự đâm đầu vào lưới, chắc chắn là chết! Mẹ không lo cho mẹ thì
thôi, nhưng phải nghĩ đến những đứa này chứ?
- Đây là vitamin, một viên bằng một cây cải bẹ và hai quả trứng,
mẹ, khi nào mệt mỏi chịu không nổi thì mẹ uống một viên, chia cho bọn trẻ một
viên. Ra khỏi vùng đất phèn là đường dễ đi, bà con Bắc Hải sẽ nhiệt tình đón tiếp
chúng ta. Mẹ, đi ngay đi, đừng ngồi ở đây nữa!
Chị túm lấy bờm ngựa, lồng chân vào bàn đạp nhảy lên yên vội
vã chạy đi, vừa chạy vừa nói to:
- Bà con ơi, dậy mà đi, trước mặt là Vương Gia Khưu, có nước
nóng có dầu mỡ, có củ cải có hành tây, chuẩn bị sẵn cả rồi!...
Được khuyến khích, mọi người đứng dậy, tiếp tục cuộc hành
trình.
Mẹ lấy khăn tay gói mấy viên thuốc chị Phán Đệ cho, bỏ vào
túi, rồi vớ lấy hai càng xe:
- Nào, ta đi các con.
Đội quân rút lui ngày càng dài ra, nhìn trước không thấy đầu,
nhìn sau không thấy cuối. Chúng tôi đã tới Vương Gia Khưu. Vương Gia Khưu không
có nước nóng cũng không có dầu, càng không có củ cải hành tây! Đội la của huyện
đã rời đây trước khi chúng tôi đến, cỏ khô và phân la vung vãi là vết tích của
họ để lại. Dân chúng đốt đống lửa ở giữa sân để nướng lương khô. Mấy đứa con
trai dùng cành cây đào hành dại ở ngoài đồng. Khi chúng tôi rời Vương Gia Khưu
thì bắt gặp Thằng Câm dẫn hơn chục đội viên đi vào. Hắn không xuống ngựa, móc
trong túi hai củ khoai lang chín dở và một củ cải đỏ ném vào sọt trên xe, suýt
bươu đầu Thằng Câm em.
Tôi đặc biệt chú ý cái cười nhe cả lợi của hắn với chị Cả,
cái cười của sài lang hổ báo? Gì thì chị Cả từng đính hôn với hắn. Những người
có mặt không bao giờ quên màn trình diễn kinh hồn giữa hắn với chị bên bờ đầm.
Các đội viên đều đeo súng tiểu liên, Thằng Câm đeo lủng lẳng trước ngực bốn quả
địa lôi đen bóng.
Khi mặt trời gác núi, chúng tôi kéo theo cái bóng dài lê thê,
lần tới một thôn nhỏ. Trong sân tiếng người ồn ào tất cả các ống khói của các
gia đình đều tuôn khói trắng. Nhân dân nằm đầy đương, ngổn ngang như củi. Một số
cán bộ mặc quần áo xám len lỏi giữa đám đông. Bên giếng nước đầu thôn, người xếp
hàng dài chờ lấy nước, người len vào đã đành, súc vật cũng len vào. Mùi nước giếng
trong lành khiến mọi người phấn chấn, con dê của tôi cũng hếch mũi lên, hắt hơi
rõ to. Chị Lai Đệ cầm cái bát rạn vừng men xanh, nghe nói cái bát này là đồ cổ
có giá len vào lấy nước. Mấy bận đã tưởng chị len vào được lại bị người ta dẩy
bật ra. Một dân phu làm cấp dưỡng cho huyện nhận ra chúng tôi, bèn xách đến một
thùng nước. Sa Tảo Hoa và chị Cả là những người đầu tiên chạy tới quì xuống vục
đầu vào trong thùng uống nước, vội đến nỗi cụng đầu vào nhau. Mẹ không bằng
lòng, trách chị Cả:
- Cho bọn nhỏ uống trước chứ!
Chị Cả sững lại, Sa Tảo Hoa đã uống ừng ực như con bê, chỉ
khác con bê ở chỗ hai tay bám lấy mép thùng.
- Thôi cháu, uống ít thôi kẻo đau bụng - Mẹ khuyên, nắm vai
nó đẩy ra.
Nó liếm môi như vẫn còn thèm, nước reo ùng ục trong bụng nó.
Chị Cả uống một trận, lúc đứng lên, bụng chị lớn hơn nhiều. Mẹ múc nước bằng
bát cho Câm anh, Câm em và Sa Tảo Hoa uống. Sau đó là chị Tám, chị đánh hơi lần
đến chỗ thùng nước, quì xuống, vục đầu mà uống. Mẹ hỏi:
- Kim Đồng, con có uống không?
Tôi lắc đầu. Mẹ múc một bát nước. Tôi thả con dê, nó rất muốn
xông tới, nhưng bị tôi ôm chặt cổ. Con dê của tôi khát nước là đúng vì nó ăn rất
nhiều đất phèn, nó cắm đầu uống, nước trong thùng cạn rất nhanh, bụng nó thì
phình dần lên. Ông già cấp dưỡng vô cùng cảm khái, nhưng ông chỉ thở dài không
nói gì. Mẹ cảm ơn ông ta, ông thở dài càng dữ.
- Mẹ, sao mẹ đến muộn thế? Chị Phán Đệ phê bình mẹ.
Mẹ không giải thích. Chúng tôi đẩy xe, dắt dê đi theo chị,
quanh co luồn lách giữa đám đông, nghe đủ những lời nguyền rủa và oán trách, cuối
cùng vào trong một cái sân có tường vây bằng đất, cổng gỗ. Phán Đệ giúp mẹ bế mấy
đứa trẻ ra khỏi sọt. Chị định đưa cái xe và con dê ra ngoài, nơi có mười mấy
con lừa và ngựa, rơm cỏ chẳng có, thức ăn thì không, lũ lừa ngựa đành gặm vỏ
cây. Chúng tôi để xe trong ngõ, con dê theo tôi vào trong sân. Phán Đệ nhìn tôi
không nói gì, chị biết con dê là nguồn sống của tôi.
Gian giữa ánh đèn sáng trưng, một bóng người to lớn dưới ánh
đèn. Các cán bộ huyện đang tranh cãi điều gì đó, trong đó có tiếng khàn khàn của
Lỗ Lập Nhân. Ngoài sân, mấy chú lính bồng súng đứng gác, không chú nào đứng thẳng
vì chân bị đau. Trời đầy sao, màn đêm nặng trĩu. Phán Đệ dẫn chúng tôi vào một
gian chái, trên tường treo ngọn đèn leo lét. Một bà già nằm ngay ngắn trong chiếc
quan tài mở nắp, thấy chúng tôi vào, bà mở mắt bảo:
- Làm ơn đậy nắp lại hộ tôi, tôi phải chiếm cái nhà này của
tôi!
Mẹ nói:
- Bà ơi, sao bà lại làm vậy?
Bà già nói:
- Hôm nay là ngày lành tháng tốt của tôi, làm ơn đậy cái nắp
lên hộ tôi một tí.
Phán Đệ nói:
- Phiên phiến thôi mẹ, so với ngủ ngoài đường còn tốt chán!
Đêm ấy chúng tôi ngủ không ngon giấc. Cuộc tranh cãi ngoài
gian giữa đến nửa đêm mới chấm dứt. Tranh cãi vừa dứt thì ngoài đường có tiếng
súng nổ, cảnh nhốn nháo vừa tạm yên thì giữa thôn có đám cháy, ngọn lửa phần phật
như những dải lụa đỏ, soi rõ mặt mọi người, soi rõ cả khuôn mặt bà già nằm
trong quan tài. Lúc trời sáng, bà già không động cựa gì cả, mẹ gọi, bà không mở
mắt, bắt mạch thì thấy bà lão đã chết. Mẹ nói:
- Số như vậy là số tiên!
Mẹ và chị Cả đậy nắp quan tài cho bà lão.
Mấy ngày tiếp theo lại càng gian khổ. Khi tới chân núi Đại Trạch,
mẹ và chị Cả đã phồng rộp cả hai bàn chân. Câm anh và Câm em đều bị ho. Lỗ Thắng
Lợi bị sốt và đi ỉa chảy. Mẹ nhớ tới mấy viên thuốc của chị Năm, liền nhét một
viên vào miệng nó. Chỉ có chị Tám tội nghiệp là chẳng ốm đau gì. Đã hai ngày
nay chúng tôi không trông thấy bóng dáng của chị Phán Đệ. Cán bộ huyện, khu
cũng không thấy một ai. Một bận trông thấy Thằng Câm, hắn cõng một đội viên bị
thương từ phía sau chạy lên. Người đó gãy cả hai chân, máu rỏ giọt xuống đường
qua hai ống quần rỗng, khóc mếu nài nỉ Thằng Câm:
- Đội trưởng giúp tôi một tí cho thanh thản, đau chết mất, mẹ
ơi!
Khoảng ngày thứ năm kể từ khi chạy nạn, chúng tôi trông thấy
dãy núi lớn phía bắc, trên núi có những lùm cây, đỉnh núi hình như có một cái
miếu nhỏ. Từ con đê Thuồng Luồng sau nhà, vào những hôm đẹp trời, tôi có thể
nhìn thấy quả núi này, nhưng khi đó nó có màu xanh đen. Ngọn núi đã ở trước mặt,
hình thế của núi, khí hậu mát mẻ của núi khiến chúng tôi hiểu rằng mình đã rời
quê rất xa. Chúng tôi đi trên con đường rải đá rất rộng, trúc mặt có một chi đội
người ngựa đi ngược chiều, các binh sĩ ăn mặc như binh sĩ của trung đoàn 17. Bộ
đội đi ngược chiều chứng tỏ ở quê chúng tôi đã trở thành chiến trường. Sau đội
kỵ mã là bộ binh, sau bộ binh là những con la kéo pháo, đầu nòng cắm một bó
hoa, các pháo thủ vênh váo ngồi trên nòng pháo. Sau pháo là đội cứu thương. Sau
đội cứu thương là những xe nhỏ xếp hàng hai, trên xe là những bao bột mì hoặc
bao gạo, ngoài ra còn có một số bao cỏ.
Những người dân tị nạn vùng Cao Mật sợ hãi đứng nép hai bên
nhường đường cho đại quân. Trong đoàn bộ binh, có mấy người đeo súng pạc-hoọc
tách ra khỏi đội ngũ, đến hỏi thăm tình hình trong đám dân tị nạn. Anh thợ cắt
tóc Vương Siêu đẩy cỗ xe bánh cao su rất thời thượng, dọc đường đã trải qua ung
dung, nhưng đến đoạn đường này thì anh ta gặp vận xui. Một chiếc xe trong đội vận
chuyển Lương thảo bị gãy trục, người đàn ông đẩy xe tuổi trung niên lật nghiêng
xe, tháo cái trục ra ngắm nghía mãi, hai bàn tay đen sì dầu mỡ. Làm bò kéo xe
là một thiếu niên khoảng mười lăm tuổi trên đầu có cái nhọt mạch lươn, hai khóe
mép lở loét, mình mặc chiếc áo cộc không có cúc, thắt lưng băng sợi dây thừng.
Chú hỏi:
- Sao vậy, bố?
Thì ra đó là hai bố con. Người bố mặt mày rầu rĩ, nói:
- Trục gãy rồi, con ạ!
Hai cha con hè nhau lôi cái bánh xe nặng chịch ra.
- Bố ơi làm thế nào bây giờ - chú hỏi.
Người bố ra chỗ cây bạch dương bên đường, chùi tay vào vỏ
cây:
- Chẳng còn cách nào? Lúc này, một người đeo tiểu liên, cụt một
tay, mặc quân phục mỏng đã cũ nhưng trên đầu lại đội một chiếc mũ da chó, người
nghiêng nghiêng đi tới.
- Vương Kim, Vương Kim! - Người cụt tay giận dữ quát - sao tụt
lại đằng sau hả? Có phải anh định làm mất mặt đại đội gang thép của chúng tôi?
- Thưa chỉ đạo viên - Vương Kim nhăn nhó - Xe tôi gãy trục rồi?...
Chỉ đạo viên cụt tay giận điên lên:
- Đ. mẹ, không gãy vào lúc khác mà lại nhằm vào lúc ra mặt trận?
Đã bảo anh phải kiểm tra xe cho kỹ?
Chỉ đạo viên cụt tay càng nói càng cáu, khuôn mặt xám ngoét của
anh ta khiến tôi lại nhớ tới Sạ nguyệt Lượng. Anh ta giơ cánh tay đặc biệt phát
triển đánh Vương Kim một bạt tai. Vương Kim ối lên một tiếng, gục đầu xuống,
máu chảy ra từ hai lỗ mũi.
- Ông là ai mà đánh bố tôi? - Chú bé chất vấn chỉ đạo viên.
Chỉ đạo viên nói.
- Sao, không chịu hả? Giao Lương không đúng kỳ hạn thì tao bắn
chết cả hai bố con!
Chú thiếu niên nói:
- Ai muốn gãy trục xe làm gì? Nhà cháu nghèo, chiếc xe này
cháu mượn của cô cháu.
Vương Kim moi một ít bông trong tay áo đứt nút lỗ mũi, lầu bầu:
- Lẽ phải nào? - chỉ đạo viên nghiêm mặt hỏi - đưa được lương
thực ra mặt trận là lẽ phải, không đưa được lương thực ra mặt trận là không có
lẽ phải. Các người đừng có ca cẩm nữa, dù phải cõng phải vác, cũng phải đưa hai
trăm bốn mươi cân kê này tới trấn Đào Quan trong ngày hôm nay!
Vương Kim nói:
- Chỉ đạo viên, ông thường hay nói phải thực tế hai trăm bốn
mươi cân... cháu lại nhỏ... tôi van ông đấy
Chỉ đạo viên ngẩng lên nhìn mặt trời, cúi xuống xem đồng hồ,
ngoảnh nhìn ra tứ phía, bất chợt trông thấy cỗ xe nhà tôi, nhìn tiếp thấy cỗ xe
bánh cao su của Vương Siêu. Vương Siêu có nghề cắt tóc kiếm tiền cũng khá, lại
độc thân, có tiền mua thịt mua cá, dinh dưỡng tốt nên mặt mũi đầy đặn, nước da
hồng hào chẳng ra dáng người làm ruộng. Chiếc xe nhỏ bánh cao su của anh ta, một
bên là cái hòm đựng đồ nghề cắt tóc, bên kia là chiếc chăn hoa, bên ngoài chiếc
chăn còn được bọc một tấm da chó. Chiếc xe được đóng bằng gỗ hòe gai; đánh một
lớp véc ni, gỗ hòe nhẵn bóng, không những đẹp mắt mà còn rất thơm. Trước khi
lên đường, anh ta còn bơm bánh xe thật căng đi trên đường rải đá, chiếc xe nhảy
tâng tâng, xe nhẹ người khỏe, trong bọc giắt bình rượu, đi vài dặm lại gác càng
xe mở nút làm vài ngụm, chân nhẹ tênh, miệng nghêu ngao dăm câu hát, anh ta là
quí tộc trong đám dân tị nạn. Cặp mắt đen của chỉ đạo viên đảo như chớp, vừa mỉm
cười vừa bước tới tỏ vẻ thân thiện:
- Các vị từ đâu tới?
Không ai trả lời anh ta, vì rằng khi hỏi câu ấy, anh ta nhìn
vào cây bạch dương, thân cây có vết dầu mỡ mà anh dân phu vừa bôi lên. Những
cây bạch dương màu xám, cây nọ tiếp cây kia, các cành vươn lên cao trong tư thế
chọc trời. Nhưng ánh mắt anh ta nhanh chóng chuyển sang Vương Siêu, nét thân thiện
trên mặt biến mất, thay vào đó là thái dộ nghiêm nghị như tượng trong đền.
- Anh thành phần gì? - Anh ta nhìn khuôn mặt bóng nhẫy của
Vương Siêu hỏi.
Vương Siêu choáng váng, không hiểu đầu đuôi ra sao.
- Trông bộ anh - Anh cụt tay nói như đinh đóng cột - không địa
chủ thì cũng là phú nông, không phú nông thì tiểu chủ, nghĩa là cái loại người
ngồi mát ăn bát vàng chứ không sống bằng sức lao động của mình.
- Thưa trưởng quan - Vương Siêu nói - Oan cho tôi, tôi là thợ
cắt tóc, sống bằng tay nghề, nhà chỉ có hai gian, ruộng không có, vợ con cũng
không, một người ăn, no cả nhà, ăn hôm nay không biết có ngày mai. Nơi tôi vừa
vạch xong thành phần, trên khu qui tôi là thợ thủ công, tương đương trung nông
lớp dưới, thành phần cơ bản mà!
- Nói láo - Anh cụt tay nói - anh bẻm mép như vẹt cũng không
qua được mắt tôi. Chúng tôi trưng dụng cái xe của anh!
Anh ta quay lại gọi cha con Vương Kim:
- Mau dỡ hàng xuống, chất lên xe này!
- Thưa trưởng quan - Vương Siêu nói - Chiếc xe này tôi tích
cóp nửa đời người mới có, ông không được tước đoạt người nghèo.
Anh cụt tay nổi giận nói:
- Vì thắng lợi, ông đã hiến cả cánh tay. Cái xe rách của anh
đáng mấy đồng? Các chiến sĩ ngoài tiền tuyến đang chờ lương thực mà anh dám chống
lệnh hả?
- Thưa trưởng quan - Vương Siêu nói - Ông với tôi không cùng
khu, cũng không cùng huyện, ông quyền gì mà trung dụng xe của tôi?
Anh cụt tay nói:
- Huyện nào khu nào cũng phải phục vụ tiền tuyến!
Vương Siêu nói:
- Không được, tôi không đồng ý!
Anh cụt tay quì một chân xuống đất, rút bút máy ra, dùng miệng
mở nắp bút, lại lấy ra một mảnh giấy bằng bàn tay đặt lên đùi, nguệch ngoạc viết
mấy chữ, hỏi:
- Anh tên gì? Huyện nào, khu nào?
Vuông Siêu trả lời từng điểm một.
Anh cụt tay nói:
- Tôi với Huyện trưởng Lỗ Lập Nhân là chiến hữu. Thế này nhé,
xong trận này anh đưa giấy này cho ông ta, ông ta sẽ đền cho anh một chiếc xe.
Vương Siêu chỉ vào chúng tôi, nói:
- Thưa ông, đây là mẹ vợ Lỗ huyện trưởng, đây là cả gia đình!
Anh cụt nói:
- Bác ơi, nhờ bác làm chúng hộ, nói rằng tình hình khẩn cấp,
chỉ đạo viên Quách Mạt Phúc của Đoàn dân công chi viện tiền tuyến khu Bột Hải
có trưng dụng một chiếc xe của Vương Siêu, đề nghị anh Lỗ giải quyết chuyện đền
bù cho thỏa đáng!
- Tốt rồi - Anh cụt nhét mảnh giấy vào tay Vương Siêu rồi giận
dữ quát cha con Vương Kim - Còn chần chừ gì nữa? Mẹ kiếp! Giao lương không đúng
hẹn, cha con anh thì ăn roi, còn tôi thì ăn đạn!
Quách Mạt Phúc chỉ vào mũi của Vương Siêu, nói:
- Mau dỡ đồ đạc của anh xuống!
Vương Siêu nói: - Thưa ông, ông bảo tôi làm thế nào bây giờ?
Quách Mạt Phúc vỗ tay vào báng súng lục, sầm mặt lại nói:
- Cứ phải lẩy cho anh một phát vào đầu mới xong phải không? Dỡ
xuống! Mẹ kiếp, sao mà giác ngộ thấp thế! Tôi từng uống rượu tiết gà, kết bạn
sinh tử với huyện trưởng nhà anh, anh xấu hay tốt tôi chỉ cần đá lưỡi một cái
là xong!
Vương Siêu nhăn nhó nhìn mẹ:
- Bác ơi, bác làm chứng cho tôi nhé?
Mẹ gật đầu.
Cha con Vương Kim đẩy chiếc xe của Vương Siêu, vui như mở cờ
trong bụng.
Anh cụt lịch sự gật đầu chào mẹ, không thèm ngó Vương Siêu -
người đã hiến chiếc xe, rảo bước chạy theo đội ngũ.
Vương Siêu ngồi phịch xuống bó chăn, mặt dài như mặt khỉ, lẩm
bẩm một mình: Sao mà mình xui thế không biết? Người khác chẳng sao, lại rơi
đúng vào đầu mình? Mình có chơi xấu ai đâu mà đến nông nỗi này! Nước mắt chảy
dài theo cặp má phúng phính, anh ta khóc như đứa trẻ lên ba.
Chúng tôi đã tới dưới chân quả núi lớn, con đường rải đá tẽ
thành hơn chục con đường nhỏ ngoằn ngoèo bò lên núi. Buổi tối, những người tị nạn
tụm năm tụm ba bàn luận những tin tức trái ngược nhau bằng đủ các giọng. Đêm ấy,
mọi người ngủ qua đêm trong các bụi quán mộc. Từ mạn nam và mạn bắc vọng tới những
tiếng nổ nặng nề, những tia chớp đầu nòng xé rách màn đêm. Vào lúc nửa đêm,
không khí quánh lại và ẩm ướt, gần như có thé quơ tay mà nắm như nắm những sợi
bông. Gió như những con rắn, luồn theo khe núi trơn tới, rung những lá vàng còn
dính trên cây xào xạc. Tiếng cáo kêu thê tham trong hang. Tiếng hú của những
con sói trong khe núi. Những đứa trẻ sắp chết rên như tiếng mèo hen. Ông già ho
như gõ thanh la. Đúng là một đêm kinh khủng. Lúc trời sáng đã thấy mấy xác chết
vứt trong khe núi, trẻ con có, người già có có cả trung niên. Cả nhà tôi sống
sót là do chúng tôi đã chiếm được một bụi cây khá đặc biệt: những cây khác rụng
hết lá, riêng nó thì còn nguyên, lại còn có một đống cỏ khô rất dày. Chúng tôi
ôm chặt lấy nhau, chiếc chăn duy nhất trùm lên dấu, con dê nằm sát sau lưng
thành một bức tường che gió cho tôi. Cơ cục nhất là lúc nửa đêm về sáng, pháo nổ
đùng đoàng phía nam càng tăng thêm cảnh tĩnh mịch trong những bụi cây, tiếng
rên như cứa vào tim, khiến người nổi gai ốc, tai ong ong như có tiếng hát bội
trong đó. Thực ra, đó là tiếng khóc ti tỉ của một phụ nữ.
Sương mù bám lấy chiếc chăn lạnh giá trên đầu. Trời mưa, mưa
đông, những hạt mưa rơi trên chăn, mưa rơi loạt soạt trên những lá vàng khô của
bụi quán mộc, rơi trên sườn núi, trên đầu dân tị nạn, rơi trên bộ lông vàng rộm
và dày của những con sói đang hú. Hạt mưa rơi giữa chừng biến thành bột xốp, đến
mặt đất lập tức đóng thành băng, hạt mưa tí tách, bóng đêm chứa ẩn bao điều huyền
bí. Tôi chợt nhớ lại cái đêm ông ba Phàn giơ cao ngọn đuốc dẫn đắt chúng tôi ra
khỏi cõi chết. Ngọn đuốc như con ngựa hồng nhảy nhót trong đêm tối. Đêm ấy tôi
chìm trong hơi ấm của sữa, ôm bầu vú vĩ đại mà tưởng mình bay lên thiên đàng. Giờ
đây ảo mộng đáng sợ lại bắt đầu. Luồng sáng màu vàng xuyên qua màn đêm như luồng
ánh sáng trên máy chiếu phim của. Bác-bít, côn trùng bay trong luồng sáng như
những chám trắng, một phụ nữ tóc dài tha thướt, áo màu mây hồng đính hàng ngàn
vạn viên ngọc lấp lánh, lúc thì giống chị Lai Đệ, lúc giống Tiên Chim, lúc lại
gíông Kim-Một-Vú, đột nhiên lại biến thành bà người Mỹ. Bà ta mỉm cười dịu
dàng, ánh mắt sao mà đẹp, duyên dáng, mê hoặc, như đớp lấy hồn người ta, những
giọt nước mắt lấp ló bên bờ mi, hàng lông mày cong vút, hàm răng trắng bóng cắn
nhẹ môi dưới, đôi môi đỏ hồng. Sau đó bà lần lượt cắn nhẹ các ngón tay tôi, cắn
nhẹ các ngón chân tôi. Thấp thoáng cái eo nhỏ, cái rốn xinh xinh như hạt anh
đào. Tôi nhìn ngọc lên và bất giác nước mắt đâm đìa, nức nở thành tiếng: Hai bầu
vú như đúc bằng vàng khối nạm hai viên ngọc thấp thoáng sau làn áo mỏng. Tiếng
nói của người dẹp từ trên cao dội xuống, lạy đi, thằng nhỏ nhà Thượng Quan, đây
là Thượng đế của nhà ngươi. Thì ra Thượng đế là hai bầu vú. Thượng đế có thể biến
hóa, biến hóa đến vô cùng, anh mê say cái gì, Thượng đế sẽ biến thành nó để anh
xem, nếu không, sao gọi là Thượng đế? Tôi không vươn tới được Người, Người cao
quá!
Thế là bà ta sà thấp xuống, vén làn áo mỏng trước mặt tôi, mỏng
như nước, vấn vương quanh núi. Thân hình bà chập chờn bất định, cặp vú Thượng đế
của tôi có lúc chạm vào trán tôi, có lúc quệt ngang má tôi, nhưng không bao giờ
chạm vào môi tôi. Tôi máy lần dưới lên như con cá vọt lên mặt nước, miệng há to
nhưng toàn đớp hụt. Tôi giận dỗi, tôi sốt ruột, nhưng là giận dỗi trong hạnh
phúc, sốt ruột trong hy vọng tràn trề. Bà mỉm cười, nụ cười ranh mãnh và đầy
quyến rũ. Tôi không ghét sự ranh mãnh đó, vì sự ranh mãnh đó là mật ong, là búp
sen hình bầu vú, là quả thảo mai ngậm sương có hình búp sen, là bầu vú có hình
quả thảo mai bôi mật ong. Cái lúm đồng tiền của bà làm tôi mê mấn, chỉ một tiếng
cười khiến tôi cảm động tới mức quì xuống ăn phân chó. Vì bà, tôi có thể ăn
phân chó, dù rằng tôi là thằng con trai sống toàn bằng sữa. Bà không nên dập dờn
như thế, tôi xin bà cho tôi cắn vào bà, tôi nguyện cùng bà bay lên chín tầng
mây xem những con Ô Thước bắc cầu. Vì bà tôi có thể nắn miệng thành mỏ, khuôn mặt
trở nên gớm ghiếc, trên người mọc lông tơ, hai vai mọc đôi cánh, hai chân mọc
thêm vuốt, bọn trẻ nhà Thượng Quan chúng tôi, ai cũng có cảm tình với loài
chim. Vậy thì người hãy mọc lông mọc cánh đi! Thế là toàn thân tôi đau đớn một
cách kỳ lạ và sốt cao vì mọc lông mọc cánh.
- Kim Đồng, Kim Đồng!
Mẹ đang gọi tôi. Mẹ kéo tôi ra khỏi ảo giác. Mẹ và chị Cả xoa
bóp chân tay tôi trong bóng tối, kéo tôi trở về từ chỗ ranh giới giữa cái sống
và cái chết.
Trời mờ sáng. Tiếng khóc vang lên trong các bụi cây. Mọi người
dùng tiếng khóc để biểu thị sự xót thương đối với người chết. Dưới tán lá khô
vàng của bụi quán mộc và cái chăn có phủ lớp vải dầu, trái tim của bảy người
trong gia dình tôi đang đập. Số thuốc của chị Phán Đệ cho, mẹ chia cho mỗi người
một viên. Tôi không uống, mẹ nhét viên thuốc vào miệng con dê. Nó nuốt viên thuốc
rồi ăn những lá khô trên bụi quán mộc. Băng bám đầy trên lá, trên cành cây, phủ
một lớp trong suốt lên những hòn đá quạ dưới khe núi, tất cả đều phủ một lớp
băng mỏng. Không có gió, mưa lạnh tiếp tục rơi, cành cây loạt soạt đường trên
núi bóng loáng có thể soi gương.
Một người tị nạn dắt con lừa, trên lưng con lừa là cái xác của
một phụ nữ, định men theo một lối mòn lên núi. Con lừa của anh ta ngã lên ngã
xuống vì trượt chân.
Anh ta giúp con lừa, nhưng dùng súc quá mạnh nên ngã theo.
Người và lừa trở nên lóng ngóng, cái xác của người phụ nữ lăn xuống khe. Trong
thung lũng, một con báo gấm đang ngậm một cái xác trẻ con, đầu nặng đít nhẹ nên
con báo ngất ngưỡng nhảy trên những tảng đá, nó nhảy liên tiếp cho khỏi ngã xuống
nước. Người phụ nữ tóc xõa vừa gào khóc vừa đuổi theo con báo. Chị vừa lăn vừa
bò trên tảng đá đóng băng, cằm rách, răng cửa gãy, gáy rỉ máu, móng tay gãy, cổ
chân bị trẹo gân, tay trật khớp, lục phủ ngũ tạng lộn tùng phèo, nhưng chị
không cho con báo được thở, đuổi đến cùng cuối cùng, chị tóm được đuôi con báo.
Mọi người rơi vào cảnh khó khăn, cử động là ngã, không cử động
thì chết cóng. Không ai muốn chết, vậy là cái ngã đã làm mất mục tiêu của cuộc
rút chạy. Ngôi miếu nhỏ trên đỉnh núi đã biến thành một đốm trắng lấp lánh, cây
cối trên sườn núi cũng biến thành màu trắng. Trên độ cao ấy, mưa lạnh đã biến
thành tuyết. Mọi người không dám trèo lên, chỉ loay hoay dưới chân núi. Chúng
tôi nhìn thấy thi thể anh thợ cắt tóc Vương Siêu dưới gốc cây tượng thụ, anh ta
dùng thắt lưng treo cổ dưới cành thấp nhất, cành cây cong như cánh cung, có thể
gãy bất cứ lúc nào. Ngón chân anh ta chớm mặt đất chiếc quần dài tụt xuống đầu
gối, chiếc áo khoác ngoài phủ kín mông nên không đến nỗi khó coi. Tôi chỉ nhìn
thoáng qua khuôn mặt to bè tím ngắt và cái lưỡi lè ra như một mẩu vải rách rồi
vội quay mặt đi. Vậy mà những hình ảnh ấy cứ ám ảnh tôi trong giấc ngủ. Không
ai để ý đến anh ta. Mấy người có vẻ hiền lành đang tranh nhau cái chăn và tấm
da chó của anh ta. Giằng đi kéo lại cuối cùng cắn xé nhau. Người to con đột
nhiên hét tướng lên, cái tai vểnh của anh ta đã bị người bé nhỏ cắn đứt. Người
bé nhỏ nhổ cái vành tai vào lòng bàn tay, cầm lên ngắm nghía, quăng trả người
to con, rồi anh ta ôm bọc chăn và tấm da chó bỏ chạy, khéo léo tìm chỗ đặt anh
sao cho khỏi ngã. Anh ta chạy đến bên một ông già, ông già giơ cây chống càng
xe vụt cho anh ta một cái vào đầu. Anh ta ngã lăn ra như một bao tải gạo. Ông
già tựa lưng vào thân cây, tay cầm cây gậy ba chạc bảo vệ cái chăn. Mấy kẻ liều
mạng định đến cướp nhưng bị ông già chọc nhẹ một cái là ngã chổng bốn vó. Ông
già mặc chiếc áo bông dài, thắt quanh người sợi thừng to bự, đầu thừng lủng lẳng
cái tẩu và túi đựng thuốc hút. Ông có chòm râu bạc trắng bám đầy băng.
- Không sợ chết thì cứ xông vào!
Ông già thét chói tai, mặt dài ra, mắt đổi màu xanh lục. Mọi
người hoang mang dãn ra.
Mẹ quyết định dứt khoát:
- Quay về, về nhà! Mẹ dựng xe lên rồi chập choạng đẩy đi. Trục
xe sau khi bị nước mưa rít lên chói tai khi lăn bánh. Chúng tôi ra những người
đầu têu. Nhiều người, cứ lặng lẽ đi theo chúng tôi, có người nhanh chóng vượt cả
chúng tôi, lại rong ruổi trên con đường trở về quê cũ.
Băng vỡ dưới bánh xe, băng bắn sang hai bên, trời bổ sung bằng
mưa lất phất, rồi đột nhiên trong mưa có những cục đá đánh rát vành tai và da mặt,
cuối cùng là mưa đá. Cánh đồng hoang mênh mông rào rào như xay lúa. Chúng tôi
giữ nguyên cung cách như khi đi, mẹ đẩy xe, chị Cả làm bò, gót chân chị nút nẻ
gần như trông thấy xương. Chị kéo xe mà như múa ương ca. Mỗi khi xe bị chao
nghiêng, chị cũng chao nghiêng, lần nào cũng như lần nào. Lục phản hồi của sợi
thừng kéo căng làm chị ngã liền mấy bận. Chị vừa kéo vừa khóc hu hu. Tôi và Sa
Tảo Hoa cũng khóc. Mẹ không khóc, hai mắt thâm quầng, mẹ mắm môi mắm lợi dồn hết
tinh lục, vừa thận trọng vừa kiên quyết biến hai bàn chân tí xíu như hai bàn xẻng
nhỏ tí bám mặt đất tiến lên từng bước chắc chắn. Chị Tám lặng lẽ đi sau mẹ, tay
túm vạt áo, lon ton như một quả cà ủng trôi theo dòng nước.
Con dê của tôi là một con dê sáng giá. Nó theo tôi không rời
nửa bước. Nó cũng ngã xoành xoạch, nhưng mỗi lần ngã lại bật dậy ngay lập tức.
Để bảo vệ bầu vú cho nó, mẹ lấy miếng vải trắng trùm ngược vú, thắt hai nút
trên lưng, lại còn lồng vào giữa hai miếng da thỏ để giữ hơi ấm. Tấm da thỏ khiến
người ta nhớ lại thời kỳ yêu như điên như cuồng của Sa Nguyệt Lượng. Con dê ứa
nước mắt, mũi phát ra những tiếng rên rỉ, đó là ngôn ngữ của nó. Hai tai nó nứt
nẻ vì băng giá, bốn chân màu phấn hồng. Từ khi bầu vú được che ấm, nó trở thành
con dê hạnh phúc nhất. Miếng vải và tấm da thỏ, ngoài tác~ dụng giữ hơi ấm, còn
là vật để đỡ vú. Đó là một sáng tạo. Sau này, khi tôi là chuyên gia về nịt vú,
tôi đã thiết kế kiểu nịt vú da thỏ cho phụ nữ vùng cao rét buốt.
Chúng tôi trở về với những bước chân vội vã, dự kiến giữa
trưa thì về tới chỗ đường rải đá có ca bạch dương. ánh nắng chưa chọc thủng
mây, nhưng đất trời đã hửng sáng. Con đường rải đá long lanh như ngọc lưu ly.
Sau đó, băng mỏng bị những bông tuyết thay thế. Mặt đường, ngọn cây, đồng ruộng
hai bên đường, rất nhanh chuyển sang màu trắng. Thường xuyên gặp những xác chết
trên đường, xác người và xác súc vật, đôi khi có cả xác chim sẻ, chim thước, gà
rừng. Chỉ có chim quạ là không chết, trên nền tuyết trắng, bộ lông con quạ càng
đen nhánh. Chúng mổ xác chết, mỏ bị đau nên cất tiếng kêu than thở.
Vận may đã đến. Đầu tiên là tôi nhặt được nửa bao thức ăn gia
súc, bã đậu trộn với cám mạch. Con dê ăn một bữa căng bụng, chỗ còn thừa để
trên chân Câm anh, Câm em, che gió và tuyết cho chúng. Con dê ăn xong, liếm tuyết,
nhìn tôi gật đầu. Tôi hiểu nó định nói gì.
- Tiếp tục tiến lên?
Sa Tảo Hoa nói nó ngửi thấy mùi lúa mạch cháy. Mẹ động viên
nó lần theo mùi đó mà tìm, trong một căn nhà nhỏ dùng để trông phần mộ, chúng
tôi lượm được hai bao lương khô trên người một binh sĩ đã chết. Thấy người chết
nhiều nên không còn cảm giác sợ. Chúng tôi quyết định ngủ lại trong căn nhà đó.
Mẹ và chị Cả kéo cái xác anh lính trẻ ra ngoài. Anh ta tự sát. Anh ta ôm súng
trong lòng, miệng ngậm đầu nòng, dùng ngón chân cái lòi ra ngoài bít tất đẩy cò
cho súng nổ. Viên đạn phá vỡ xương chẩm phía sau gáy. Chuột gặm hết tai của anh
ta, gặm cả mũi, xương ngón tay trắng hếu như cành liễu bị bóc vỏ. Khi mẹ và chị
Cả kéo cái xác ra ngoài, lũ chuột vằn mắt chạy theo. Để cảm ơn anh lính đã cho
lương khô, mẹ dùng lưỡi lê của anh ta đào một cái huyệt nông choèn trên mặt đất
băng giá chôn phần đầu của anh ta xuống đấy. Nấm đất nhỏ đối với vua đào hang
là lũ chuột chỉ là trò đùa, nhưng lòng mẹ cũng đôi phần thanh thản.
Căn nhà chỉ chứa nổi cả nhà tôi và con dê. Chúng tôi dùng xe
chặn cửa. Mẹ ôm khẩu súng trường dính óc của anh lính ngồi ngoài cùng. Lúc trời
sắp tối, từng tốp dân tị nạn định chen vào trong đó không ít người có máu đạo tặc
nhưng nhìn thây cây súng lăm lăm trong tay mẹ, họ đều sợ hãi bỏ đi. Một người
đàn ông miệng rộng, mắt gườm gườm nhìn mẹ vẻ khinh miệt, hỏi:
- Biết bắn không? - Anh ta vừa hỏi vừa xông vào nhà. Mẹ giơ
súng cản lại, mẹ không biết bắn. Chị Lai Đệ giăng lấy khẩu súng trong tay mẹ,
giật cơ bẩm, cái vỏ đạn văng ra; đẩy cơ bẩm một viên đạn lên nòng, bẻ gập qui
lát xuống, chĩa súng phía trên đầu hói đàn ông nổ một phát. Viên đạn cùng với
tia lửa vút lên trời. Động tác thành thạo khiến tôi nhớ lại trang sử vẻ vang của
chị trong những năm tháng cùng Sa Nguyệt Lượng nam chinh bắc chiến. Người đàn
ông miệng rộng bỏ chạy như chó ăn đòn. Mẹ nhìn chị Lai Đệ băng ánh mắt cảm kích
rồi nhích vào phía trong, nhường vị trí canh gác cho chị.
Đêm ấy tôi ngủ rất ngon, mãi khi mặt tròi tỏa nắng trên đại lục
tuyết mới tỉnh dậy. Tôi muốn quì xuống van nài mẹ không nên rời căn nhà này,
căn nhà mà phía trước có ngôi mộ sùng sững, không nên rời rừng tùng đen đội mũ
bằng tuyết trắng. Đây là nơi đất lành, là phúc địa. Nhưng mẹ đã lên đường, khẩu
súng có nước thép xanh dựng bên Lỗ Thắng Lợi, dưới tấm chăn rách. Trên đường,
tuyết đầy đến nửa thước, lạo xạo dưới mỗi bước chân của chúng tôi và dưới bánh
xe. Vấp ngã giảm hẳn, chúng tôi đi nhanh hơn. Tuyết chói mắt dưới nắng, người
trông càng đen hơn, bất luận mặc quần áo màu gì cũng trở thành đen. Có thể, vì
khẩu súng trong sọt và tài bắn súng của chị Lai Đệ khiến mẹ trở nên cứng cổ.
Buổi trưa, bọn tàn quân bỏ chạy từ hướng nam định lục soát xe
của chúng tôi, mẹ dang thẳng cánh cho tên lính giả vờ cụt tay một cái tát nẩy lửa,
bay cả mũ xuống đất. Tên lính bỏ chạy, không kịp nhặt mũ. Mẹ tiện tay nhặt cái
mũ còn mới, chụp lên đầu con dê của toi. Nó chạy nhảy tung tăng với chiếc mũ
lính trên đầu. Dân tị nạn đứng xung quanh mặc dù đói rét mụ cả người, cũng há
cái miệng đen ngòm ra mà cười, tiếng cười thê thảm như tiếng khóc.
Lúc trời rạng sáng tôi uống no sữa dê, tinh thần sảng khoái,
trí tuệ minh mẫn. Tôi phát hiện ra máy in và hòm công văn giấy tờ của huyện bỏ
lại bên đường. Những người phu đi đâu cả rồi? Không rõ. Đội la đi đâu? Không
rõ.
Mặt đường bắt đầu nhộn nhịp. Từng đội cứu thương từ phía nam
rút về, trên cáng là những thương binh luôn miệng rên rỉ. Những dân công tải
thương mồ hôi đầm đìa trên mặt, thở như kéo bễ, bước đi loạng choạng trên tuyết
Một số nhân viên áo bơ lu trắng, mũ trắng chạy theo đội tải
thương. Một phu khiêng ngã bệt xuống đất, cái cáng lật sang bên, người bị
thương ngã lăn ra. Người này băng kín mặt, chỉ hở hai con mắt và cái miệng tê
tái. Anh ta vừa khóc vừa chửi:
- Đ. mẹ chúng mày, chết tao rồi?...
Anh ta khóc rồi chửi, chửi rồi khóc. Một nữ quân nhân có
khuôn mặt trái xoan đeo túi cứu thương chạy tới. Thoạt nhìn tôi đã nhận ra đó
là cô Đường, bạn chiến đấu của chị Phán Đệ. Cô chửi bới người phu khiêng thậm tệ,
dịu dàng khuyên nhủ người thương binh. Những nếp nhăn đã xuất hiện rất nhiều
trên trán, trên khóe mắt, cô nữ binh tươi tắn xưa kia, giờ đây đã trở thành một
bà già khô héo. Cô hoàn toàn không nhận ra chúng tôi, mẹ cũng không nhận ra cô.
Những đội cứu thương kéo đi nườm nượp như không bao giờ hết.
Chúng tôi đứng nép bên vệ đường để khỏi làm vướng họ. Cuối cùng, họ cũng đi hết,
mặt đường phủ tuyết trắng tinh khiết giờ đây bẩn tới mức khó mà hình dung nổi,
toàn là bùn và nước bẩn. Những chỗ tuyết còn nguyên trông chẳng khác làn da bị
bỏng vì có những giọt máu rơi vào. Mũi chỉ ngửi thấy mùi tuyết tan và mùi máu,
mùi mồ hôi chua loét. Chúng tôi đi tiếp, cứ phấp phỏng trong bụng, ngay cả con
dê của tôi khi nãy nhảy tâng tâng vì được đội mũ lính, giờ đây cũng lấm lét chẳng
khác lính mới lần đầu ra trận. Những người tị nạn tỏ ra do dự, tiến thoái lưỡng
nan. Không nghi ngờ gì nữa, trước mặt là chiến trường, đi về phía nam có nghĩa
là ra mặt trận, vào nơi rừng tên mũi đạn, mà đạn thì không có mắt, nó không nể
gì anh, còn lính tráng thì như một lũ hổ, có kiêng dè ai. Mọi người đưa mắt
nhìn nhau, không ai muốn cho người khác biết ý tứ của mình. Mẹ không nhìn ai, kiên
quyết đẩy xe theo hướng về nhà. Tôi nhìn lại, thấy dân tị nạn có người đi ngược
lên hướng đông bắc, có người đi theo chúng tôi.
Chương 4
1
Trận tuyết đầu tiên của những năm hòa bình đã che lấp những
xác chết. Những con bồ câu đói đi lại vụng về trên tuyết, tiếng kêu buồn bã của
chúng chẳng khác tiếng núc nở của người đàn bà góa. Buổi sáng có tuyết, bầu trời
trong suốt như nhìn qua lớp băng, trông vừa cao nhã vừa mới mẻ. Phương đông đỏ
rục, mặt trời lên, bầu trời như ngọc lưu ly cao vạn trượng. Tuyết phủ kín mặt đất.
Người ra khỏi nhà, hơi thở ra màu phấn hồng, đi trên tuyết lạo xạo, tay dắt bò
dê, lưng địu hàng hóa, men theo cánh đồng phía đông của thôn đi về hướng nam,
vượt con sông Mục đầy cua ốc và ếch nhái, đến khoảnh đất cao không có tên rộng
chừng năm mươi mẫu để họp chợ, phiên chợ kỳ lạ của vùng Cao Mật: Chợ Tuyết, chợ
họp trên tuyết, giao dịch mua bán trên tuyết và cử hành những lễ nghi trên tuyết.
Đây là một nghi thức im lặng tuyệt đối, bất kể tình huống nào cũng không được
nói, mở miệng nói là chuốc lấy tai họa. ở chợ tuyết, mọi người chỉ được nhìn thấy,
được ngủi, được sờ mó, cảm thụ bằng trái tim, mà không được phép nói thành lời.
Còn như nếu lỡ miệng nói một câu thì hậu quả như thế nào? Không ai hỏi, cũng
không ai giải thích, làm như ai cũng biết, ai cũng hiểu, có điều không nói ra
miệng đấy thôi.
Những người Cao Mật còn sống sót, phần lớn là phụ nữ và trẻ
con, đều mặc quần áo ngày tết, lội tuyết đến chợ. Mùi tuyết lạnh xộc vào mũi
như kim châm, phụ nữ đều lấy tay áo rộng che mũi và miệng, tuồng như để che hơi
lạnh của tuyết, nhưng tôi thì cho rằng để không cho lời buột ra khỏi miệng.
Trên đồng tuyết mênh mông chỉ có tiếng lạo xạo, người không nói nhưng súc vật
thì không ai cấm đoán. Dê be be, bò ẩm bò, những con lừa ngựa sống sót sau chiến
tranh hí hí, Những con chó điên cào bới xác chết, ngửa nhìn mặt trời tru lên
như chó sói.
Trong thôn chỉ còn mỗi con chó mù của lão đạo sĩ Môn Thánh Vũ
là không điên, chệnh choạng đi theo chủ. Trên khu đất cao có một ngọn tháp xây
bằng gạch xanh, phía trước có ngôi nhà tranh ba gian, người chủ ngôi nhà là Môn
Thánh Vũ, năm nay một trăm hai mươi tuổi. Ông cụ luyện phép tịch cốc, không ăn
lương thực đã hai mươi năm nay. Người gầy như con ve sầu, ông cụ chỉ sống bằng
những hạt sương. Sau này đi học, được biết con ve sống bằng nhựa cây, tôi suy
ra rằng ông cụ không thể sống bằng những hạt suông. Một mình sống trên đồi cao,
trước mặt là hàng vạn mẫu hoa màu, sau lưng là dòng sông đầy tôm cá và cái đầm
mùa xuân và mùa hạ có bao nhiêu trứng chim, ông cụ thích ăn cái gì thì ăn.
Nghiên cứu sự thần kỳ đã biến thành trần tục như thế nào thì có ý nghĩa gì?
Thêm một ông thánh không ăn lương thực thì có gì xấu? Chiến tranh đã làm tổn
thương ghê gớm trí tưởng tượng của người dân Cao Mật. Giờ đây đã hòa bình, là
lúc nên khôi phục lại trí tưởng tượng đó. Nhóm lại Chợ Tuyết là một việc được mọi
người hoan nghênh.
Trong con mắt người dân, lão đạo sĩ là một cao sĩ nửa người nửa
tiên. Hành tung bí ẩn, bước đi nhẹ nhàng, đầu trọc như bóng đèn, chòm râu bạc rậm
như bụi tơ hồng, đôi môi dày như môi la con mới đẻ, răng có màu như mặt trong của
vỏ sò, mặt đỏ mũi đỏ, lông mày trắng và dài như cánh chim, mỗi năm đạo sĩ xuống
thôn một lần, vào ngày đông chí. Cụ có một nhiệm vụ đặc biệt: Chọn Công tử Tuyết
cho phiên chợ Tuyết, mỗi năm họp một lần. Nói được chọn là Công tử Tuyết có một
chức trách thiêng liêng và được thù lao vật chất, vì vậy thôn dân ai cũng mong
con trai mình được chọn. Công tử Tuyết năm nay là tôi, Thượng Quan Kim Đồng.
Lão đạo sĩ đi khắp mười tám thôn vùng Cao Mật, cuối cùng chọn tôi. Điều này chứng
tỏ tôi không giống mọi người. Mẹ tôi khóc vì sung sướng! Đôi khi ra phố, đám phụ
nữ nhìn tôi bằng con mắt kính nể. Họ ngọt ngào hỏi:
- Công tử Tuyết ơi, khi nào thì có tuyết?
- Tôi cũng không rõ, không biết khi nào thì tuyết rơi!
- Công tử Tuyết mà không biết khi nào thì có tuyết?
- Hừm, không thể tiết lộ thiên cơ!
Mọi người mong có tuyết, riêng tôi lại càng mong. Chiều tối
hôm trước mây hồng dầy đặc, chiều hôm qua tuyết bắt đầu rơi, lúc đầu nhỏ, về
sau thì to, như những chiếc lông ngỗng, như những quả cầu nhưng. Tuyết bay đầy
trời, che lấp tất cả. Vì có tuyết nên trời tối rất sớm. Cáo kêu ngoài đầm, những
oan hồn đi vật vờ trên đường to ngõ hẻm, kêu khóc ầm ĩ. Tuyết rơi trên cửa sổ hồ
giấy. Những đã thú trắng toát ngồi chục dưới bậu cửa, cái đuôi to tướng quật
vào khung cửa bồm bộp. Đêm hôm ấy bụng tôi cứ phấp phỏng không yên, tôi trông
thấy nhiều cảnh tượng kỳ lạ không hiểu thực hư ra sao. Nói ra thì thấy nó thường
quá, chẳng thà không nói là hơn.
Trời chưa sáng hẳn mẹ đã đun nước cho tôi rửa mặt, rửa tay. Mẹ
rửa rất kỹ hai bàn tay tôi, nói rằng rửa sạch tay cho con cún của mẹ. Mẹ còn lấy
kéo sửa móng tay cho tôi. Cuối cùng, in vân tay màu đỏ lên trán tôi như cái
nhãn hàng hóa. Mẹ mở cổng, thấy lão đạo sĩ đang đứng đợi. Cụ đem đến một chiếc
áo dài màu trắng, một chiếc mũ màu trắng, đều may bằng lụa trơn bóng, sờ mát
tay. Cụ còn đem cho tôi một chiếc phất trần bằng lông đuôi ngựa trắng. Cụ đích
thân mặc quần áo cho tôi, bảo tôi đi vài bước trong sân
- Thiện tai - Cụ nói - Thế mới là Công tử Tuyết đích thực!
Tôi rất vênh váo, mẹ và chị Cả cũng rất vui. Sa Tảo Hoa nhìn
tôi bằng con mắt ngưỡng mộ. Chị Tám nở một nụ cười mê hồn. Tư Mã Lương cười nhạt.
Hai người đàn ông khiêng chiếc kiệu bên trái vẽ rồng, bên phải
vẽ phượng đến kiệu tôi đi. Người đi trước là phu kiệu chuyên nghiệp Vương Thái
Bình, người đi sau là anh trai Vương Công Bình. Hai anh em đều có tật nói lắp.
Mấy năm trước, để trốn quân dịch, Vương Thái Bình chặt đứt ngón tay trỏ, Vương
Công Bình lấy bã đậu bôi vào dái, giả vờ bị bệnh sa dì. Trò bịp bị bóc trần, chủ
nhiệm thôn Đỗ Bảo Thuyền chĩa súng trường vào mặt, cho hai anh em chọn lấy một
trong hai con đường: một là bị xử bắn, hai là làm dân công thường trực, ra mặt
trận cáng thương, vận tải đạn được. Hai người lắp bắp, không bao giờ nói được một
câu hoàn chỉnh. Ông bố là Vương Đại Hải bị thọt chân vì ngã thang khi xây dựng
nhà thờ, chọn giúp hai con trai con đường thứ hai. Phu kiệu chuyên nghiệp mà
cáng thương thì còn phải nói, êm và nhanh, ai cũng ca ngợi. Hai anh em đều lập
công. Khi phục viên, đoàn trưởng đoàn cứu thương Lục Thiên Lý tự tay viết giấy
chúng nhận công lao của hai anh em. Cùng đi dân công với anh em Vương Thái
Bình, có em trai của Đỗ Bảo Thuyền là Đỗ Kim Thuyền bị bạo bệnh mà chết. Hai
anh em không quản đường xa ngàn dặm, khiêng thi thể Đỗ Kim Thuyền về quê, dọc
đường trải qua bao gian khổ mới về tới nhà Đỗ Bảo Thuyền. Hai anh em vì nói lắp
nên không nói rõ được đầu đuôi câu chuyện, mỗi người ăn hai cái tát của Đỗ Bảo
Thuyền. Đỗ Bảo Thuyền cho rằng hai anh em mưu sát Đỗ Kim Thuyền. Hai anh em
chìa giấy xác nhận của đoàn trưởng ra, Đỗ Bảo Thuyền giật lấy xé tan ra từng mảnh,
khoát tay:
- Đào ngũ thì lúc nào cũng là đào ngũ!
Hai anh em oan ức quá mà không thể nói cho người khác hiểu nỗi
khổ tâm của mình. Đôi vai được rèn luyện rắn như thép, chân bước rất có bài bản,
ngồi trên cáng của họ êm như ngồi trên con thuyền trôi xuôi dòng nước. Cánh đồng
tuyết trắng vang lên tiếng chó sủa xen kẽ tiếng thanh la.
Trên sông Mục cũng có một cây cầu đá, dầm cầu bằng gỗ thông.
Chủ nhiệm phụ nữ thôn Sa Lương là Cao Trường Anh đang đứng trên cầu. Chị ta để
tóc ngắn, cặp tóc dính con bướm nhựa, môi cong hở lợi màu tím. Chị ta có khuôn
mặt thô như đẽo bằng rìu, cằm có râu. Chị ta nhìn tôi bằng ánh mắt nóng bỏng.
Tôi biết chị đang ở góa, chồng chị bị xe tăng nghiền nát. Cây cầu rung rinh, những
phiến đá lát cầu chạm vào nhau lạch cạch. Tôi qua cầu, ngoảnh lại nhìn, thấy từng
hàng dọc dấu chân trên cánh đồng tuyết. Rất nhiều người vẫn cố đi về phía bên
này. Tôi trông thấy mẹ và chị Cả cùng lũ trẻ nhà tôi, và cả con dê nữa. Mẹ không
quên che bầu vú cho nó. Quên thì nó sẽ khổ. Tuyết dầy lút gối, chắc chắn bầu vú
nó lết trên tuyết. Từ nhà tôi đến chợ Tuyết gần mười dặm, nó chịu sao nổi?
Anh em phu kiệu khênh kiệu lên đồi. Những người đến sớm mắt
sáng lên chào đón tôi. Đàn ông, đàn bà, trẻ con mím chặt miệng để không nói,
người lớn tỏ vẻ trang nghiêm, trẻ con nhăn nhó như khỉ.
Dưới sự hướng dẫn của lão đạo sĩ, họ khiêng tôi đến chỗ bệ đất
hình vuông ở chính giữa cao điểm, trên bệ kê hai chiếc ghế băng, phía trước hai
ghế băng là một cái lư trong có ba thẻ hương. Họ gác đòn kiệu lên ghế, tôi vẫn
ngồi trong tư thế lơ lửng dưới đòn kiệu. Cái rét lặng lẽ cắn các ngón chân tôi
như mèo đen, cắn tai tôi như mèo trắng. Hương cháy phát ra những tiếng động mơ
hồ nghe như tiếng giun, từng đám tàn rơi xuống như nhà bi cháy sập. Khói hương
chui vào lỗ mũi trái, chui ra lô mũi phải. Phía dưới bệ có chiếc lò đốt vàng
mã, lão đạo sĩ đang đốt một thếp tiền giấy, ngọn lửa như những con bướm vàng,
tàn giấy như những con bướm đen nhẹ nhàng bay lên, bay mệt thì rơi xuống tuyết
và chết. Lão đạo sĩ cúi lạy trước đàn rồi đưa mắt ra hiệu cho hai người phu kiệu.
Họ khiêng tôi lên, lão đạo sĩ trao cho tôi một cái gậy bọc giấy trang kim, đầu
gậy treo chiếc bát bằng thiếc. Đây là quyền trượng của công tử Tuyết. Tôi vung
cây gậy này là có tuyết rơi hay sao? Chỉ định tôi là Công tử Tuyết xong, lão đạo
sĩ giới thiệu với tôi về người đã sáng lập ra chợ Tuyết. Đó là lão đạo sĩ Trần,
sư phụ của lão đạo sĩ. Theo chỉ thị của Thái Thượng Lão Quân, lão đạo sĩ Trần
sáng lập ra Chợ Tuyết, công đức viên mãn rồi, cụ hóa thành tiên, cư ngụ trên ngọn
núi chọc trời, ăn quả thông, uống nước suối, từ cây tùng bay sang cây bách, từ
cây bách bay vào trong động. Lão đạo sĩ giảng giải cặn kẽ cho tôi về nhiệm vụ của
Công tử Tuyết. Bước thứ nhất là lập đàn thụ phong, việc này vừa làm xong; bước
thứ hai là tuần du trong chợ, bước này đang tiến hành.
Đây là giờ phút oai vệ nhất của Công tử Tuyết, mười mấy tiểu
hiệu mặc quần áo xanh đỏ, trong tay không cầm vật gì, nhưng giữ tay ở tư thế cầm
loa, kèn, trống, thanh la, phùng mang trợn mắt như đang tấu nhạc, tay trái giơ
cao ngang tầm vai, tay phải giơ chiếc dùi tưởng tượng, cứ ba bước lại gõ một tiếng
y như thật. Anh em họ Vương chân như lò xo, mỗi bước lại nhún nhảy. Những người
đi chợ tạm ngùng công việc giao dịch thầm lặng, trố mắt mà ngắm Công tử Tuyết.
Những khuôn mặt quen và những khuôn mặt không quen trên nền tuyết trắng, đỏ như
táo chín, đen như than củi, vàng như sáp ong, xanh như lá rau. Tôi khua quyền
trượng trước mặt mọi người. Họ có vẻ hốt hoảng, giơ tay lên như để che chắn, miệng
há to như chực kêu lên, nhưng không một ai dám kêu lên một tiếng. Một trong những
nhiệm vụ thiêng liêng mà lão đạo sĩ yêu cầu ở tôi là, nêu có kẻ nào dám kêu lên
một tiếng thì dùng cái bát bằng thiếc treo ở đầu quyền trượng úp vào miệng hoặc
vào cằm của kẻ vi phạm bẩy ra một cái là người đó đứt lưỡi.
Tôi nhìn thấy mẹ, chị Cả, chị Tám, Sa Tảo Hoa, Tư Mã Lương
trong đám đông câm lặng. Con dê của tôi không chỉ đeo nịt vú mà còn đeo khẩu
trang hình chóp nón chụp kín cả miệng của nó, có hai dây bằng vải buộc lên sau
tai. Những người nhà của Công tử Tuyết tuân thủ lệnh cấm nói đã đành, ngay cả
con dê cũng im hơi lặng tiếng như người. Tôi huơ gậy về phía những người thân của
tôi, họ cũng giơ tay lên chào lại. Thằng quỉ Tư Mã Lương khum bàn tay làm thành
ống nhòm, nhìn về phía tôi. Sa Tảo Hoa mặt mũi tươi tắn như con cá biển vừa lên
khỏi mặt nước.
Hàng hóa trong Chợ Tuyết có đủ các loại, chia theo nhóm hàng.
Theo sự hướng dẫn ngầm của đội nghi trượng, tôi bước vào gian hàng giày dép.
Gian này toàn là dép bện bằng cỏ bồ, nhân dân vùng Cao Mật đi giày này suốt mùa
đông. Ông Hoàng Thiên Quí có năm con trai thì bốn người bị xử bắn, một người bị
khổ sai. Lão chống cây gậy bằng cành liễu, râu bám đầy tuyết, trùm đầu bằng
vuông vải trắng, chiếc bao tải rách khoác trên người. Lão cúi xuống giơ hai
ngón tay để mặc cả với chủ quầy Cầu Hoàng Tản một đôi dép cỏ bồ. Lão Cầu giơ ba
ngón tay đè hai ngón tay của lão Quí. Lão Quí khăng khăng giữ ý, lật hai ngón
tay lên đè trên ba ngón tay của lão Cầu, lão Cầu lại lật ba ngón tay đè lên hai
ngón tay của lão Quí. Bốn năm lần như vậy, lão Cầu tỏ vẻ bất lực, chọn trong
xâu dép lấy ra một đôi đã mốc xanh. Hoàng Thiên Quí nghiến răng lại để biểu thị
sự tức giận. Lão vỗ ngực chỉ lên trời, chỉ xuống đất, không hiểu nghĩa là gì hoặc
không có nghĩa gì cả. Lão giơ gậy chỉ vào một đôi thật tốt, bện bằng phần gốc cỏ
bồ. Lão Cầu gạt chiếc gậy của lão Quí, giơ bốn ngón tay kiên quyết đòi đúng
giá. Lão Quí chỉ trời, vạch đất, lộn trái chiếc túi gai đeo bên mình. Lão cúi
xuống tháo lấy đôi dép mà lão ưng ý, tụt chân khỏi đôi giày da há mõm, rồi lập
cập xỏ chân vào dép. Sau đó, lão moi trong chiếc túi may thêm vào quần lấy ra một
tờ giấy bạc nhàu nát ném xuống trước mặt lão Cầu. Lão Cầu mặt giận bừng bừng,
chửi nhưng không dám chửi thành tiếng, chỉ giẫm bành bạch. Nhưng rồi lão cũng
nhặt tờ giấy bạc lên, vuốt mép cho phẳng giơ cho mọi người xem. Những người
xung quanh, kẻ đồng tình thì lắc đầu, kẻ hồ đồ thì cười mỉm. Lão Quí chống gậy
đi ra, bước chân lệt sệt, chỉ cách nhau một tấc, hai chân lão cứng đờ như que củi.
Tôi không có cảm tình với lão Cầu. Lão ta đã nói là miệng cứ như tép nhảy. Tôi
thầm mong lão trong cơn tức giận buột miệng nói thành lời là tôi dùng cái bát
thiếc kẹp lưỡi lão. Nhưng lão rất tinh, hình như đoán ra ý đồ của tôi. Lão nhét
tờ giấy bạc vào chiếc dép rõ ràng là đã chuẩn bị từ trước, treo ở đầu đòn gánh.
Hắn lấy cả đôi dép xuống, chỉ tay vào từng người thợ bện dép xung quanh đang trố
mắt ra nhìn tôi, rồi lại chỉ vào những đồng tiền lẻ trong dép, rồi bằng một
thái độ cung kính, lão lẳng đôi dép về phía tôi. Đôi dép rơi trúng bụng, lăn xuống
chân tôi, mấy tờ giấy bạc lẻ văng ra, trên mỗi tờ đều có những con cừu béo tốt,
đứng ngơ ngẩn như đang đợi cắt lông hoặc đem giết thịt. Tiếp tục tiến lên, lại
có mấy đôi dép ném tới, trong dép có tiền lẻ.
Đến gian hàng bán cơm, người vợ góa của Triệu Giáp là Phương
Mai Hoa đang rán bột mì trong một cái chảo đáy bằng. Hai đứa con của chị ta, một
trai một gái ngồi trên chiếu, quấn quanh người bằng một chiếc chăn. Bốn con mắt
mở thao láo. Bên cạnh bếp bày mấy chiếc bàn long chân, sáu người đàn ông bán
chiếu đang ngồi ăn nhồm nhoàm. Bánh bột mì hai mặt rán vàng, ăn với súp rau, cắn
một miếng bánh lại húp một miếng súp. Súp nóng, những người đàn ông miệng nhờn
mỡ. Những gian hàng bên cạnh không có khách, chủ hàng đứng suông, gõ xoong nồi
cho đõ buồn, nhìn sang gian hàng chị góa bằng ánh mắt ghen tỵ.
Khi chiếc cáng của tôi đi qua, chị góa Phương Mai dán đồng tiền
vào chiếc bánh bao, nhẹ nhàng liệng về phía tôi. Tôi vội cúi đầu xuống, chiếc
bánh rơi trúng ngực Vương Công Bình. Chị góa tỏ vẻ xin lỗi, lau tay bằng mảnh
khăn đầy mỡ. Trên khuôn mặt tái xanh của chị là đôi mắt hõm sâu, xung quanh có
quầng đen. Một người đàn ông cao và gầy đi tắt qua quầy bán gà, bước tới. Những
con gà mái hoảng hốt kêu cục cục, bà bán gà nhìn ông ta gật đầu. Dáng đi của
ông ta rất lạ, người thẳng đuỗn, cứ mỗi bước đi lại rướn lên một cái. Tôi nhận
ra ông ta. Ông ta là Trương Thiên Tứ, môn đồ của đạo Hoạt nạn. Mọi người đặt
cho ông ta cái biệt hiệu là Ông trời. Ông ta theo đuổi một nghề kỳ quặc: dẫn độ
người chết về quê. Ông ta dùng tà thuật khiến người chết đi lại được. Vùng Cao
Mật có rất nhiều người chết nơi đất khách quê người, nhờ ông ta dẫn về. Rất nhiều
người nơi khác chết ở Cao Mật, nhờ ông ta dẫn về quê cũ của họ. Ai mà không
kính nể một con người có khả năng dẫn người chết vượt trăm núi nghìn sông. Trên
người ông ta lúc nào cũng phảng phất mùi tử khí. Những con chó dữ nhất trông thấy
ông ta cũng cụp đuôi lỉnh mất. Ông ta ngồi xuống ghế băng trong gian hàng của
chị góa, giơ hai ngón tay lên, chị góa cũng ra hiệu đáp lại, chị hiểu rằng ông
ta định ăn hai mẻ năm mươi cái, chứ không phải hai hoặc hai mươi cái. Chị góa vội
vàng chuẩn bị bánh bao cho ông ta vì ông thực khách to bụng này khiến chị mừng
rơn, mắt sáng lên, còn những gian hàng bên cạnh thì mắt tối sầm. Tôi rất mong họ
mở miệng, nhưng ghen tức mấy thì ghen tức, họ không chịu hé răng. Trương Thiên
Tứ im lặng ngồi nhìn chị góa chuẩn bị, hai tay đặt trên đầu gối, một cái túi bằng
vải đen lủng lẳng ở thắt lưng.
Không ai biết rằng, hồi cuối thu ông ta vừa có chuyện làm ăn
lớn, dẫn độ một vong hồn khách thương Quan Đông làm nghề buôn bán tranh niên họa
chết ở thôn Ngải Khưu vùng Cao Mật. Con trai người khách thương sau khi ngã giá
với ông ta liền về trước để chuẩn bị. Đường đi trăm núi ngàn sông, ai cũng nghĩ
ông ta không về được. Vậy mà ông ta đã trở về, xem ra thì mới về, cái túi vải
kia chắc là túi tiền. Ông ta đi đôi giày cỏ rách tả tơi, để lộ những ngón chân
sưng tấy bằng quả bí đỏ mới rụng rốn, gót chân to như khuỷu chân trâu. Em gái
thằng Gật ôm một cây cải bẹ lớn đi ngang qua cáng, cặp mắt đa tình của cô ta liếc
xéo tôi. Cánh tay ôm cây cái đỏ tía lên vì lạnh. Khi cô ta đi qua chỗ bếp của
chị góa, tôi thấy tay chị góa run bắn. Kẻ thù gặp nhau. Nhưng cái thù giết chồng
cũng không làm chị góa vi phạm qui ước của Chợ Tuyết, chị không nói thành lời
nhưng tôi trông thấy máu đang sôi lên trong huyết quản chị. Căm thù nhưng không
để lỡ chuyện kinh doanh, đó là cái giỏi của chị góa. Chị hốt trọn cả mẻ bánh
vào cái liễn sứ, bê đến trước mặt Trương Thiên Tứ. Trương Thiên Tứ chìa tay ra,
chị góa hơi ngạc nhiên nhưng lập tức chị hiểu ra. Chị vỗ vỗ trán tự trách mình
sơ ý. Chị dốc trong lọ lấy ra hai củ dưa hành vỏ tím đưa tận tay Trương Thiên Tứ
và lấy cái bát nhỏ đổ đầy tương ớt coi như ưu đãi đặc biệt, đặt trước mặt
Trương Thiên Tứ. Những người đàn ông bán chiếu bất mãn nhìn chị góa, lườm nguýt
chị về thái độ ưu ái này. Trương Thiên Tứ thoải mái ngồi nhấm nháp một cách chậm
rãi củ dưa hành, đợi bánh nguội. Ông ta kiên nhẫn tách từng nhánh hành, xếp
chúng lên bàn ăn thành một hàng dọc theo thứ tự lớn nhỏ, thỉnh thoảng lại đổi vị
trí của các nhánh cho phù hợp với trình tự đã định. Sau đó, lúc tôi đi sang
gian hàng rau, từ xa tôi trông thấy Trương Thiên Tứ bắt đầu ăn bánh bao, ăn
nhanh kinh khủng, không phải là ăn mà y như bỏ bánh vào chum!
Về chuyện Trương Thiên Tứ gọi hồn, đối với tôi, nó như một
cái xương cá mắc trong họng, chừng nào chưa lấy ra thì tôi còn khó chịu. Đó là
một buổi trưa gió rét căm căm, con trai của người khách thương Quan Đông thuê một
cỗ xe ngựa và bốn người khỏe mạnh, chở thi thể bố anh ta từ thôn Ngải Khưu đến
thôn tôi, hỏi thăm nhà Trương Thiên Tứ. Lúc đó, tôi cùng Tư Mã Lương đang chơi
đùa trên phố. Tư Mã Lương dẫn đường cho họ.
Ngôi nhà của Trương Thiên Tứ tọa lạc ở góc tây nam của thôn, tách hắn với những nhà khác. Tường vây rất cao, cổng đóng im ỉm, cánh cổng dán hai đạo bùa vẽ trên giấy vàng. Tư Mã Lương trỏ cái cổng cho con trai người khách thương rồi né sang một bên. Con trai người khách thương móc túi lấy ra một tờ giấy bạc nhét vào tay Tư Mã Lương rồi bước tới trước cổng, chần chừ một thoáng, cuối cùng cầm lấy cái vòng đập vào cánh cổng. Đập lần thứ hai, cánh cổng hé mở, ló ra khuôn mặt Trương Thiên Tứ bôi đầy chu sa.
Ngôi nhà của Trương Thiên Tứ tọa lạc ở góc tây nam của thôn, tách hắn với những nhà khác. Tường vây rất cao, cổng đóng im ỉm, cánh cổng dán hai đạo bùa vẽ trên giấy vàng. Tư Mã Lương trỏ cái cổng cho con trai người khách thương rồi né sang một bên. Con trai người khách thương móc túi lấy ra một tờ giấy bạc nhét vào tay Tư Mã Lương rồi bước tới trước cổng, chần chừ một thoáng, cuối cùng cầm lấy cái vòng đập vào cánh cổng. Đập lần thứ hai, cánh cổng hé mở, ló ra khuôn mặt Trương Thiên Tứ bôi đầy chu sa.
- Đến rồi hả? - Ông ta hỏi.
Con trai người khách thương mặc chiếc áo dài cổ lông chồn, hất
đầu về phía cỗ xe ngựa, không trả lời. Trương Thiên Tứ chìa tay ra, nói:
- Đưa đây!
Con trai người khách thương lôi trong bọc ra một gói giấy,
nói:
- Đây là tiền đặt cọc. Nếu ông đưa đến ngày mồng Bốn tháng Chạp
thì tôi thưởng cho ông thêm một khoản nữa, khoản này là...
Trương Thiên Tứ nói:
- Không phải khoan kim cương thì khoan sao nổi vật rắn! Ông
yên tâm đi, chuẩn bị ngày mồng Bốn tháng Chạp đón hỉ thần!
Con trai người khách thương nói:
- Nếu lỡ hẹn...
Trương Thiên Tứ nói:
- Lỡ hẹn thì tôi không lấy một xu.
Con trai người khách thương nói:
- Nếu như thiếu chân thiếu tay thì...
Trương Thiên Tứ nói:
- Thiếu gì trên người ông già thì cứ xẻo lấy trên người tôi
mà bù vào?
Con trai người khách thương nói:
- Tôi vẫn cứ phấp phỏng thế nào ấy, từ đây đến quê tôi chí ít
cũng nghìn dặm, trèo đèo vượt suối, qua sông qua đò...
Trương Thiên Tứ nói:
- Ông có gọi hồn hay không thì bảo? Không gọi nữa thì cuốn
xéo! Đạo Hoạt nạn chúng tôi ba nghìn thầy trò, gọi hồn khắp cái đất nước Trung
Quốc này chưa hề sai sót điều gì?
Con trai người khách thương nói:
- Xin ông đừng nóng, sao tôi lại không tin ông. Không tin ông
thì tôi chở đến đây làm gì?
- Thôi được, thỏa thuận như vậy nhé, ngày mồng Bốn tháng Chạp
tôi bày cơm rượu đón hỉ thần, anh em, khênh vào đi!
Bốn người đàn ông mặc áo chẽn, thận trọng chuyển cái xác sang
một cái cáng tạm bợ. Xác chết to bằng con trâu, bụng bằng cái chum đựng nước, đầu
hói quá nửa, trên mặt đậy tờ giấy vàng. Ông ta dễ nặng đến hai tạ, khi còn sống
chắc là đi đứng khá vất vả, nay chết rồi thì làm sao vượt hàng nghìn dặm để về
quê ở Quan Đông? Nhân tiện xin nói thêm, vùng đông bắc Cao Mật, kề một bên thôn
lớn thuộc châu Bình Độ, đó là thôn Ngải Khưu. Bắt đầu từ đời Minh, họ sáng tác
tranh niên họa vẽ trên giấy điệp, bán khắp ba tỉnh Quan Đông.
Hàng năm cứ vào đầu mùa đông, các lái tranh vùng đông bắc đều
về đây trong khi đợi lấy hàng thì uống rượu chơi gái vì họ rất nhiều tiền.
Thôi, không nói dông dài nữa. Cái xác của ông chủ thương nặng trĩu bên phải,
hai người khiêng bên phải mồ hôi đầm đìa, hai người khiêng bên trái thì lại
tương đối nhẹ nhàng. Đây chính là hiện tượng người chết nặng một bên. Bốn trai
tráng khênh cáng vào trong cổng liền đặt xuống theo lệnh của Trương Thiên Tứ, đặt
trên một chiếc chiếu cói đã chuẩn bị sẵn. Trương Thiên Tứ không lịch sự gì cả,
nói luôn:
- Các vị ra ngay để tôi tiếp linh khí.
Con trai người khách thương còn định nói gì nữa, nhưng Trương
Thiên Tứ đẩy tất cả ra ngoài cổng rồi đóng sập cổng lại. Bốn trai tráng như bị
trúng tà khí, đứng ngây ra như phỗng. Con trai người khách thương rút tiền trả
bốn người. Anh ta lại bước tới bên cổng ghé mắt nhìn vào trong. Không nhìn thấy
gì, vì cổng nhà Trương Thiên Tứ không một kẽ hở. Lại áp tai vào cánh cổng nghe
động tĩnh, nhưng bên trong im ắng như nghĩa địa. Tường vây xây bằng gạch cao
hơn mái nhà, trên tường chăng dây thép gai, ngôi nhà của Trương Thiên Tứ khiến
người ta kính nể, ngay cả Lỗ Lập Nhân và chị Phán Đệ khi phát động phong trào Bần
Nông Đoàn cũng không dám vào nhà, mặc dù rất biết mức sinh hoạt của Trương
Thiên Tứ hơn hẳn trung nông. Nhân vật bự thích nghịch nghiên mực từng tặng Bần
Nông Đoàn một câu như sau: Đấu một trung nông hơn đập chết mười con thỏ đồng.
Con trai người khách thương không biết làm thế nào, đành phải ra về cùng với bốn
trai tráng. Mười mấy đứa trẻ chúng tôi nhìn những phù chú quái gở trên cánh cổng
mà rợn tóc gáy, lặng lẽ rút lui. Không biết ai đã kêu lên: Ma đấy? Thế là chúng
tôi co giò chạy, để đối phó với quỉ nhập tràng, chúng tôi chạy thẳng vào gốc
cây cổ thụ, sắp chạm gốc thì rẽ đột ngột. Chạy ngay sau lưng tôi là Tư Mã Lương
né không kịp, vêu cả môi lên khi dập vào gốc cây liễu.
Cái hôm Trương Thiên Tứ dẫn người chết ra đi, người trong
thôn đã đến đợi sẵn ngoài cổng. Trời chưa sáng hẳn, vầng trăng tròn vành vạnh vẫn
chưa lặn, chân trời phía đông lảng vảng mấy đám mây mỏng màu hồng, mặt trời
chua mọc. Chúng tôi đứng im, cố nén cả tiếng hắt hơi. Không có gió, chỉ có hơi
lạnh thấu quang, người khác thì tôi không rõ, riêng tôi run cầm cập. Phía đầm
xa xa là màu kim nhũ. Mấy con ngỗng trời vươn cổ cong cong trên băng mỏng rúc mỏ
vào trong cánh. Khói trắng cuồn cuộn trên ống khói nhà Trương Thiên Tứ, từng
đám tàn giấy theo khói bay lên cao, một mùi lạ khiến người lộn mửa tỏa ra khắp
nơi. Rồi lửa tắt, khói trắng cũng không bốc lên nữa, trong sân sáng mờ mờ,
không một tiếng động, có thể nghe rõ tiếng đánh rắm của con ngỗng trời ngoài đầm.
Cái mùi lạ càng đậm đặc khiến người ta phải lấy tay áo bịt mũi. Đợi rất lâu, cuối
cùng cánh cổng mở ra, kẹt lên một tiếng như tiếng xé vải. Trương Thiên Tứ mình
mặc áo chẽn màu đen, phía dưới mặc quần hẹp ống cũng màu đen, chân đi giày gai,
đầu đội mũ dạ đen giống như cái nón, bước ra cổng. Ông ta khoác trên tay trái một
chiếc làn, tay phải xách chiếc đèn lồng phết bằng giấy bồi. Trong đèn có ánh
sáng leo lét ông ta đứng nghiêng bên cổng, nói nhỏ vào trong bằng một giọng cực
kỳ nghiêm trang:
- Xin mời hỉ thần đi ra?
Dưới ánh trăng, cái xác chết to béo đứng trước bức tường ngăn
làm bình phong, mặc chiếc áo dài đen rộng thùng thình không tay, cái đầu hói
tròn xoay được quấn bằng một chiếc khăn đen, chụp lên khăn là một chiếc mũ cói.
Phần dưới của áo choàng quét đất, do vậy không nhìn thấy chân. Các xác như một
cây tháp biết đi. Chúng tôi không tin vào mắt mình. Cái xác cứng đơ nhưng rõ
ràng là biết đi. Nó đi động theo ánh trăng, ra đến cổng thì dừng lại, thân hình
to lớn chao đi một cái như sắp ngã. Nó có vẻ đầu nặng chân nhẹ, cái mùi rất gắt
là từ trong áo choàng tỏa ra. Trương Thiên Tứ khóa cổng lại bằng một chiếc khóa
to tướng bằng đồng. Ông ta đến trước mặt hỉ thần, ngồi xuống đốt một thếp tiền
giấy. Chiếc áo dài của người chết phất phơ trong ánh lửa. Đốt vàng mã xong,
Trương Thiên Tứ cúi lạy một lạy rồi đứng lên niệm thần chú. Niệm chú xong, ông
ta đi trước, mặt xoay nghiêng, nói nhỏ: Hỉ thần, hỉ thần, xin hãy lên đường, trở
về cố hương, chôn cùng tổ tiên. Con hiền cháu thảo, đêm ngày ngóng trông. Hỉ thần,
hỉ thần, lên đường may mắn?. Đọc xong, ông ta rắc nắm tiền giấy rồi chậm rãi đi
trước. ánh sáng leo lét của chiếc đèn lồng chấp chới như ma trơi. Cái xác hưởng
ứng lời kêu gọi của Trương Thiên Tứ một cách miễn cưỡng, chậm rãi đi theo ông
ta.
Cho phép tôi trở lại Chợ Tuyết. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ,
kiếm được một món tiền lớn trở về, Trương Thiên Tứ liền đi với cô hiếng trong
tay ôm cây cải bẹ. Ông ta rửa sạch bụi đường trong ánh mắt tình tứ của cô ta.
Nhiệm vụ tuần du Chợ Tuyết của tôi đã xong, dàn nhạc câm lại đưa tôi về trước
cây tháp. Anh em họ Vương gác cáng vào chỗ cũ. Tôi cảm thấy hai chân tê dại,
bàn chân buốt đến nỗi không dám chạm đất. Trong võng có mười mấy đôi giày cỏ và
những tờ giấy bạc nhàu bẩn. Những tiền này là tiền dâng lên Công tử Tuyết, là của
tôi vì đây là tiền thù lao cho tôi sắm vai Công tử Tuyết. Bây giờ nhớ lại, Chợ
Tuyết đúng là ngày Tết của phụ nữ. Tuyết như một tấm chăn trùm lên mặt đất, tưới
cho đất, khiến đất đai sinh sôi nảy nở. Tuyết là thứ nước của sinh nở, là tượng
trưng của mùa đông, càng là báo hiệu của mùa xuân. Tuyết rơi, nghĩa là mùa xuân
đầy sức sống đã nhảy lên lưng con tuấn mã, tới gần.
Dưới chân tháp có một tịnh thất nho nhỏ. Trong tịnh thất
không thờ cúng thần tiên nào cả, thực tế là cúng vái ở ngoài tháp. Trong tịnh
thất thắp hương vòng mùi thơm nhẹ nhàng, trước lư hương có một chậu gỗ to đầy
tuyết trắng tinh, không một vết bẩn. Phía sau cái chậu là một chiếc ghế đẩu,
đây là chỗ ngồi của Công tử Tuyết.
Tôi ngồi xuống ghế, nghĩ ngay đến nhiệm vụ cuối cùng khiến
tôi vô cùng xúc động. Lão đạo sĩ vén tấm ri đô ngăn tịnh thất với bên ngoài, bước
vào. Lão trùm lên đầu tôi chiếc khăn sa mỏng màu trắng. Theo lời dặn của lão,
tôi hiểu trong khi thực hành chức trách, tôi không được vén chiếc khăn sa lên.
Tôi nghe thấy tiếng chân lão đạo sĩ nhẹ nhàng đi ra. Trong tịnh thất chỉ có tiếng
thở, tiếng tim dập của tôi. Bên ngoài, vọng tới tiếng chân dẫm lên tuyết lạo xạo
của mọi người.
Một phụ nữ nhẹ nhàng tiến lại phía tôi. Qua tấm sa mỏng, tôi
lờ mờ nhìn thấy người này có thân hình thanh mảnh, trên người toát ra cái mùi
lông lợn cháy. Người này chắc không phải là dân trấn Đại Lan, rất có thể là người
thôn Sa Lương. Thôn này có một cơ sở sản xuất bàn chải bằng lông lợn. Bất kể là
người ở đâu, Công tử Tuyết đều coi như nhau. Tôi lập tức thọc hai bàn tay vào
chậu tuyết để tuyết thiêng rửa sạch những gì ô uế trên tay tôi, rồi tôi giơ hai
tay ra phía trước. Theo qui định, những phụ nữ đến cầu tự, đến xin được có nhiều
sữa, đều vén áo lên, đưa vú đến tận tay Công tử Tuyết. Quả nhiên, hai khối thịt
ấm và mềm mại đã chạm vào bàn tay lạnh giá của tôi. Tôi cảm thấy chóng mặt, qua
hai bàn tay, luồng hơi ấm hạnh phúc lan khắp cơ thể tôi. Tôi nghe thấy tiếng thở
khó kìm hãm của người phụ nữ. Hai bầu vú mềm mại như đôi chim bồ câu chững lại
một thoáng rồi tuột khỏi tay tôi.
Cặp vú thứ nhất tôi sờ chưa đã, thì đã bay mất. Tôi hơi thất
vọng nhưng càng hy vọng nhiều hơn, nhúng hai tay vào chậu tuyết để lấy lại sự
tinh khiết thiêng liêng. Tôi hơi sốt ruột chờ đợi cặp vú thứ hai. Cặp vú thứ
hai đã tới, lần này tôi không để chúng bay đi một cách dễ dàng! Tôi giơ bàn tay
rắn chắc chộp lấy chúng. Chúng xinh xắn và rất dàn hồi, không mềm cũng không rắn,
như chiếc màn thầu mới ra lò, không nhìn rõ chúng nhưng tôi biết chúng rất trắng,
rất mịn, núm vú rất nhỏ, chỉ như hai cái nấm tí hon. Tôi nắm lấy chúng, thầm
chúc cho chúng những lời tốt đẹp nhất. Bóp một cái, chúc chị đẻ sinh ba - ba đứa
con bụ bẫm; bóp hai cái, chúc sữa chị tuôn trào như suối, bóp ba cái, chúc sữa
chị vừa ngọt vừa thơm. Chị rên lên khe khẽ rồi giật mạnh ra. Tôi sững sờ vì bị
giáng một đòn vào tình cảm, trong lòng rất đỗi hổ thẹn. Để tự trừng phạt, tôi
thọc hai tay thật sâu vào chậu tuyết. Ngón tay tôi chạm vào đáy chậu trơn tuột
cho đến khi hai tay tôi tê dại hẳn đi, tôi mới rút chúng ra. Công tử Tuyết giơ
cao hai tay chúc phúc cho tất cả phụ nữ vùng đông bắc Cao Mật. Tình cảm của tôi
bị tổn thương, hai bầu vú lõng thõng như hai cái bị chạm vào tay tôi. Tôi sờ
chúng, chúng không chịu, kêu trong họng như con gà mái, mặt da nhăn lại. Tôi
dùng hai ngón tay kẹp lấy cái đầu vú to tướng rồi nhả ra luôn. Người đàn bà phả
vào mặt tôi hơi thở sặc mùi gỉ sắt. Công tử Tuyết coi ai cũng như ai, chúc bà
thực hiện được nguyện vọng, thích sinh con trai thì sinh con trai, thích sinh
con gái thì sinh con gái, muốn có bao nhiêu sữa thì có bấy nhiêu sữa? Bầu vú của
bà sẽ luôn luôn khỏe mạnh, nhưng nếu muốn trở lại thời thanh xuân thì Công tử
Tuyết bất lực!
Cặp vú thứ tư tính tình bạo liệt như con điều hâu, lông cánh
màu nâu, mỏ cứng, cổ ngắn và khỏe. Cái mỏ cưng của chúng cứ mổ mổ vào lòng bàn
tay tôi. Bên trong cặp vú thứ năm hình như có cả một tổ ong vò vẽ. Tay tôi vừa
sờ vào, bên trong hến nổi lên những tiếng vù vù. Do va đập của lũ ong, nên bề mặt
của vú nóng hôi hổi. Tay tôi rân rân như kiến bò, tôi gửi tới chúng những lời
chúc mừng tốt đẹp!
Ngày hôm đó tôi sờ khoảng một trăm hai mươi cặp vú những ấn
tượng về một số cặp tiếp nối nhau như một quyển sách, có thể giở từng trang.
Nhưng tất cả những ấn tượng rõ nét ấy bị một chiếc vú cuối cùng làm đảo lộn tất
cả. Nó như một con tê giác húc lung tung, tạo nên một trận động đất trong kho
ký ức của tôi, hay như một con trâu rừng xông vào vườn rau, đẫm bẹp tất cả.
Khi đó hai bàn tay tôi đờ đẫn ra vì những cảm giác nóng bỏng,
chờ đợi cặp vú sau để thực hiện chức trách của Công tử Tuyết. Vú chưa tới mà
tôi đã nghe tiếng cười rúc rích quen thuộc. Má hồng môi thắm, mắt đen láy khuôn
mặt ăn chơi của người phụ nữ trẻ có biệt hiệu là Kim Một Vú bỗng hiện ra trong
đầu tôi. Tay trái tôi sờ trúng vú phải đồ sộ của chị, còn tay phải thì sờ vào
khoảng không. Vậy là tôi biết chắc chắn Kim-Một-Vú đây rồi. Người phụ nữ phong
lưu góa chồng buôn bán dầu thơm này suýt bị tử hình trong đại hội đấu tranh.
Sau đó, chị lấy một người nghèo nhất trong thôn, nhà không một gian, đất không
một tấc cắm dùi, một hành khất, tên là Nhỡn Phương Kim, trở thành vợ của cố
nông đỏ. Chồng chỉ có một mắt, vợ chỉ có một vú, thật là một cặp trời sinh.
Kim-Một-Vú được gọi là mụ Kim, mụ nhưng không già, về cách chơi độc đáo của chị
ta vẫn được lưu truyền trong giới đàn ông trong thôn, tôi đã được nghe nhiều lần,
hiểu mà không hiểu. Tay trái tôi nắm vú chị, chị dùng tay trái dẫn tay tôi sang
bên phải. Hai tay tôi nâng bầu vú nặng chịch, to quá cỡ, cảm thấy hết sức nặng
của nó. Chị hướng dẫn tôi sờ nắn từng phần da trên vú chị. Nó như một quả núi
đơn côi, nghễu nghện trên ngực trái, nửa trên là bờ dốc thoai thoải, nửa dưới
là nửa quả cầu hơi chúc xuống. Nó là chiếc vú ấm nhất trong những cái vú mà tôi
đã sờ, nóng bỏng như da con gà trống bị bệnh đậu. Nó thật mịn màng, nếu không
quá nóng, nó sẽ mịn hơn nữa. ở đầu mút của bán cầu dưới, trước hết là bộ phận
nhô ra như một cái chén úp ngược, và phần cong ngược lên chính là núm vú. Nó
khi mềm khi cứng như viên đạn bọc cao su, vài giọt sữa lành lạnh bám trên đầu
ngón tay tôi. Tôi bỗng nhớ lại câu nói của Thạch Tân, anh chàng từng đi buôn lụa
mãi tận miền nam xa xôi, nói với tôi trong lò sấy cỏ. ánh ta nói rằng, Kim Một
Vú dâm như quả đu đủ xanh, hễ động tới là chảy nhựa trắng ra. Quả đu đủ giống
Kim Một Vú ư? Tôi chưa trông thấy quả đu đủ, nhưng bằng vào cảm giác tôi hiểu rằng
đu đủ là xấu, là mê hoặc người ra. Nhiệm vụ thiêng liêng của Công tử Tuyết đã bị
Kim Một Vú lái trệch sang một lối khác. Bàn tay tôi như miếng bọt biển thấm lấy
sức nóng trên vú chị, còn chị hình như thỏa mãn đến mức cao nhất qua những ve
vuốt của tôi. Chị rên rỉ như lợn con, ghì nhặt đầu tôi vào ngực chị, ấp bầu vú
nóng bỏng lên mặt tôi. Tôi nghe thấy chị lẩm bẩm:
- Bạn thân yêu, bạn thân yêu của tôi...
Qui ước của Chợ Tuyết đã bị phá.
Một câu nói là một tai họa.
Một chiếc xe Jeep màu xanh lá cây dừng lại trên bãi trống trước
cửa nhà lão đạo sĩ, từ trên xe nhảy xuống bốn nhân viên công an mặc quân phục
màu vàng, huy hiệu trắng đeo trước ngực. Họ nhanh nhẹn như những con báo, xông
vào nhà lão đạo sĩ. Vài phút sau, lão đạo sĩ tay bị còng sấp ngửa chui ra. Lão
đạo sĩ buồn bã nhìn tôi không nói gì, nhẫn nhục chui vào xe. Ba tháng sau, lão
đạo sĩ Môn Thánh Vũ, tên đầu sỏ của một đạo phản động, tên gián điệp nằm vùng
thường xuyên bắn pháo hiệu trên định dốc, bị bắn dưới cầu Đoạn Hồn ở huyện. Con
chó mù của đạo sĩ bị bắn bể sọ khi nó rượt theo chiếc xe Jeep.
2
Tôi hắt hơi một cái rõ kêu rồi tỉnh ngủ. ánh đèn dầu vàng vọt
chiếu trên tường. Mẹ ngồi dưới đèn, tay mân mê tấm lông chồn, chiếc kéo lớn để
trên đầu gối, cái đuôi con chồn rập rình trên tay mẹ. Tôi nhảy xuống giường, lập
tức nước chảy như xối vào bô tiểu. Một người đàn ông mặc quân phục màu vàng, mặt
mũi lấm lem, dáng như khỉ đột ngồi trên chiếc ghế đẩu bên cạnh giường. Ông ta
gãi bộ tóc hoa râm bằng những ngón tay co quắp, nét mặt nhăn nhó khó sở.
- Kim Đồng phải không? - Ông ta thận trọng hỏi tôi, cặp mắt
đen tỏ vẻ thân thiện.
Mẹ bảo:
- Kim Đồng, đây là anh Tư Mã của con!...
Thì ra là Tư Mã Đình. Mấy năm không gặp, không ngờ ông ta
thay đổi đến nông nỗi này. Còn đâu một Tư Mã Đình oai phong lẫm liệt khi làm
trưởng trấn cầm súng quan sát trên chòi canh? Những ngón tay mũm mĩm như quả
dưa chuột đâu rồi?
Khi hai người bí ẩn bắn vỡ đầu Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng
thì Tư Mã Đình đang nấp sau máng cỏ trong chái hiên nhà tôi, nhảy dựng lên như
con cá chép vọt lên khỏi mặt nước. Tiếng súng chát chúa như dùi nhọn đâm vào
màng nhĩ. Ông ta sốt ruột đi vòng quanh cối xay như con lừa, hết vòng này đến
vòng khác. Tiếng vó ngựa râm ran trong ngõ rồi xa dần như sóng thủy triều. Ông
ta nghĩ, bỏ bà rồi, phải trốn thôi, không thể ở đây chờ chết? Sau đó ông ta may
mắn chạy thoát. Sau khi được tin Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng đều bị bắn chết,
ông ta cứ xuýt xoa mãi về sự may mắn của mình. Rơi vào tay họ, Tư Mã Đình này
chắc chết! Khoan hãy nhắc đến chuyện là trưởng trấn, trưởng ban an ninh, chỉ
riêng chuyện là anh trai Tư Mã Khố cũng đủ để họ băm vằm mình ra! Ngụy trang
trên đầu bằng một nắm rơm, ông ta trèo qua mặt tường vây phía nam là nơi thấp
nhất, rơi đúng một đống phân chó, ngã như trời giáng. Lúc này, nghe thấy tiếng ồn
ào đầu ngõ, ông ta vội rúc vào một đống rơm, nằm đè lên một con gà mái và ổ
trúng của nó. Ngay sau đó là tiếng đập cửa rất mạnh, rất thô bạo. Rồi có mấy
người cao to, mặt bịt khăn đen, vòng ra chân tường, những cụm cỏ khô bị nghiền
nát dưới những bàn chân hộ pháp. Người nào cũng tiểu liên trong tay, hùng hùng
hổ hổ, vọt qua tường nhanh như én liệng, trông rất giống những vệ sĩ của nhân vật
bự. Ông ta không hiểu bọn này vì sao lại che mặt. Sau khi được tin Tư Mã Thượng
và Tư Mã Hoàng đầu bị bắn chết, cái đầu rối tinh của ông ta chợt lóe lên, hình
như ông ta đã rõ chuyện. Những người kia nhảy vào trong sân. Tư Mã Đình cố sống
cố chết rúc sâu hơn nữa, chờ đợi tình hình ngã ngũ ra sao.
- Chú Hai là chú Hai, tôi là tôi! - Tư Mã Đình bảo mẹ - chuyện
ai người ấy bàn!
Mẹ bảo:
- Vậy thì gọi là bác vậy. Kim Đồng, đây là bác Tư Mã!
Tôi gật đầu nhìn những ngón tay co quắp của ông ta rồi lại lồm
cồm bò lên giường chui vào trong chăn. Trong lúc mơ màng để đi vào giấc ngủ,
tôi nhìn thấy ông ta lấy ra một tấm huân chương đưa cho mẹ, giọng ề à có vẻ ngượng:
- Thím này, tôi đã lập công chuộc tội rồi đấy?
Tư Mã Đình lợi dụng bóng đêm chạy ra khỏi thôn. Nửa tháng
sau, ông ta bị đưa vào đội tải thương, cặp đôi với một thanh niên mặt đen,
khiêng một cáng. Tôi nghe ông ta thì thào kể lại những điều kỳ lạ mà ông ta đã
trải qua như một thiếu niên dựng chuyện để biện bạch cho những sai lầm của mình.
Cái đầu nặng trĩu tóc của mẹ lắc lư dưới ánh đèn, da mặt như dát vàng, đôi môi
đường nét phân minh hơi cong lên, mẹ mỉm cười tỏ vẻ châm biếm.
- Những chuyện tôi kể đều rất thật - Tư Mã Đình phân bua -
Tôi biết thím không tin, nhưng cái huân chương này thì chắc chắn không phải tôi
làm ra, mà phải đổi bằng cái đầu của tôi đấy?
Có tiếng kéo cắt tấm lông chồn, mẹ nói:
- Anh Tư Mã, có ai bảo anh bịa chuyện đâu?
Tư Mã Đình và chàng thanh niên mặt đen cáng ông trung đoàn
trưởng bị trúng đạn ở ngực, sấp ngửa chạy qua cánh đồng. Máy bay lượn trên trời,
sáng lóa màu xanh của thép. Đạn pháo và các cỡ đạn kéo theo những đuôi lửa dài
vạch dọc vạch ngang bầu trời, đan thành một lưới lửa dày đặc và biến hóa muôn
màu muôn vẻ. ánh chớp của đạn pháo và tiếng nổ rền như sấm, soi rõ những bờ ruộng
ngoằn ngoèo và mặt ruộng mấp mô đầy cuống rạ rắn đanh sau khi gặt hái. Các dân
công tải thương chạy tán loạn trên cánh đồng, nháo nhào không còn biết chạy
theo huống nào. Tiếng kêu thê thảm của thương binh râm ran trong đêm tối.
- ối mẹ ơi, đau chết mất?... Tiểu đội trưởng ơi, làm ơn cho
tôi một phát, tôi không chịu nổi nữa!...
Chỉ huy dân công là một phụ nữ tóc cắt ngắn, tay cầm đen pin
có tua lụa đỏ, đứng trên bờ ruộng thét to:
- Không được chạy lung tung, phải bảo vệ thương binh!...
Giọng chị ta rất rè, như miết gót giày trên cát khô. Những
ánh chớp xanh soi rõ khuôn mặt chị ta. Chị quàng chiếc khăn mặt trắng quanh cổ,
thắt lưng da cài hai quả lựu đạn chày và chiếc ca sứ. Đây là một phụ nữ cực kỳ
tháo vát. Ban ngày, chị mặc chiếc áo màu đỏ ớt dẫn đội cáng thương chạy như sóc
trên hỏa tuyến. Chị như một con bướm màu không ăn nhập với cảnh trận mạc chút
nào.. Hàng vạn phát đại bác cày xới cánh đồng, biến mặt đất đông cứng thành tơi
xốp như trong vụ xuân. Lúc trời còn sáng, Tư Mã Đình trông thấy một đóa hoa bồ
công anh nở bên cạnh đám tuyết bị máu nóng làm tan thành nước. Dưới chiến hào
ngột ngạt, các binh sĩ đang xúm lại ăn cơm, nhưng bánh màn thầu trắng tinh, những
củ hành muối màu trắng ngà, miệng nhai rau ráu, ăn như vũ bão. Mùi thức ăn khiến
Tư Mã Đình rỏ nước miếng. Những phu tải thương lôi những nắm cao lương khô cứng
ra để gặm, nét mặt nhăn nhó khổ sở. Họ trông thấy chiến hào trước mặt, vị nữ đại
đội trưởng nhởn nhơ như con bướm đang cười đùa với một cán bộ thắt lưng giắt khẩu
súng lục, vừa cười vừa đi theo chiến hào tới chỗ họ.
Nữ đại đội trưởng nói:
- Thưa các đồng chí, trung đoàn trưởng Lã đến thăm các đồng
chí!
Đám dân công gượng đứng dậy. Tư Mã Đình nhìn đôi lông mày rậm
trên khuôn mặt đỏ như táo chín của trung đoàn trưởng, nghĩ mãi không ra lai lịch
của người này.
Trung đoàn trưởng tỏ vẻ khách sáo:
- Mời các đồng chí ngồi xuống!
Đám dân công ngồi xuống, tiếp tục ăn. Trung đoàn trưởng nói:
- Cảm ơn bà con, các vị vất vả quá?
Đám dân công phần lớn im lặng, chỉ có mấy người hô to:
- Thủ trưởng khỏe!
Tư Mã Đình vẫn không nhớ ra đã gặp người này ở đâu.
Trung đoàn trưởng tỏ vẻ quan tâm bữa ăn đạm bạc và những đôi
giày rách nát của đám dân công. Trên khuôn mặt như tạc bằng gỗ đàn hương của
ông ta, thoáng một chút thương hại. Ông ta gọi to:
- Liên lạc đâu? Một chiến sĩ thân hình nhỏ bé, men theo chiến
hào chạy tới.
- Bảo lão Điền đem tất cả bánh bao còn lại đến đây. Chú liên
lạc chạy đi như bay.
Trung đoàn trưởng nói:
- Bà con cố chịu đựng một chút. Cách mạng thắng lợi, chúng ta
sẽ có màn thầu ăn hàng ngày.
Trung đoàn trưởng đích thân chia bánh, mỗi người một chiếc
kèm theo nửa củ hành. Khi trung đoàn trưởng đưa cho Tư Mã Đình chiếc bánh màn
thầu còn bốc hơi, bốn mắt gặp nhau, Tư Mã Đình liền nhớ ra người trung đoàn trưởng
mặt như táo chín này chính là Lã Thất, trung đội phó trung đội lừa thuộc Chi đội
Tư Mã Khố mấy năm về trước. Lã Thất cũng nhận ra Tư Mã Đình. Anh ta nắm vai Tư
Mã Đình bóp mạnh một cái, nói nhỏ:
- Ông Cả, ông cũng ra mặt trận à?
Tư Mã Đình thấy cay nơi sống mũi, định nói câu gì đó với Lã
Thất, nhưng Lã Thất đã quay sang nói với đám dân công:
- Thưa bà con, xin cảm ơn, không có sự ủng hộ của bà con thì
cách mạng không thể thắng lợi!
Khi cuộc tổng công kích bắt đầu, Tư Mã Đình và người bạn
khiêng cáng của ông ta phục trong chiến hào thứ hai nghe tiếng rít của pháo bầy
bay qua đầu và tiếng nọ long trời chuyển đất xa xa. Kèn hiệu vang lên, các binh
sĩ hò hét xông lên. Nữ đại đội trưởng đứng thẳng dậy hét to:
- Xông lên cứu thương binh
Chị ta vọt khỏi chiến hào, tay giơ cao quả lựu đạn. Đạn vãi
như trấu xung quanh, cắm phầm phập xuống đất. Sắc mặt chị trắng nhợt nhưng
không phải vì sợ. Đám dân công dè đặt đứng lên trong hào sâu đến ngang ngực,
khom người theo bản năng. Một dân công nhỏ con vụng về trèo lên mép chiến hào,
tràng đạn nổ xung quanh khiến anh ta lại lăn xuống vừa khóc vừa gọi:
- Đại đội trưởng, tôi bị thương rồi?
Nữ đại đội trưởng nhảy xuống hào hỏi:
- Bị thương ở chỗ nào?
Anh dân công nói:
- Đũng quần tôi nóng ran lên.
Nữ đại đội trưởng kéo anh ta đứng dậy. Chị nhíu cặp lông mày
tuyệt đẹp, nhăn mũi đánh hơi, giọng khinh bỉ:
- Đồ thỏ đế, ỉa đùn ra quần rồi!
Chị ta đập nhẹ quả lựu đạn vào vai anh dân công, nói to: -
Các đồng chí, các vị đều là bậc tu mi nam tử, chẳng lẽ không
bằng một phụ nữ như tôi?
Lời khích của nữ đội trưởng quả nhiên có tác dụng, đám dân
công ào ào xông lên.
Tư Mã Đình đứng lên, trông thấy người khiêng cáng với mình nằm
run như cầy sấy dưới chiến hào.
- Anh bạn, anh làm sao thế? - Ông ta hỏi nhưng người kia
không trả lời.
Tư Mã Đình cúi xuống lật ngửa anh ta lên, chỉ thấy anh ta mặt
tái nhợt, răng nghiến chặt, hàm răng đánh cầm cập, nước bọt sùi ra hai bên mép.
- Tư Mã Đình, ông còn đợi gì nữa? Sợ chết hả? - Nữ đại đội
trưởng trợn mắt hỏi.
- Đại đội trưởng,... - Tư Mã Đình lúng túng - Có lẽ anh ta
trúng gió độc?
- Mẹ kiếp, lúc nào chẳng trúng, lại trúng ngay lúc này! - Nữ
đại đội trưởng vừa chửi vừa nhảy xuống hào, đá vào người anh kia. Anh ta nằm
yên. Chị ta lấy lựu đạn gõ vào đầu gối, anh kia vẫn không cựa quậy. Chị ta lồng
lên, y hệt con báo gấm trong chuồng. Chị ta vặt một nắm cỏ ở mép chiến hào nhét
vào miệng anh bị trúng gió, dỗ dành: ăn đi, ăn đi, trúng gió ăn cỏ là tỉnh, ăn
đi nào! Chị ta dùng chuôi lựu đạn đẩy cỏ vào trong miệng anh kia, Anh kia rên
lên một tiếng rồi ngước cặp mắt trắng đã lên. Cách này hóa ra hiệu nghiệm. Nữ đại
đội trưởng nói, vẻ đắc ý:
- Hứa Bảo, Hứa Bảo, lên đi, thương binh đã chuyển xuống rồi?
Anh thanh niên có tên là Hứa Bảo này rên rỉ vịn mép hào đứng
lên. Chân tay anh ta hãy còn run, các bắp thịt trên mặt co giật, khi trèo lên
mép hào, chân tay anh ta mềm nhũn. Tư Mã Đình lôi chiếc cáng lên, kéo anh thanh
niên chạy theo. Hứa Bảo mỉm cười nhìn Tư Mã Đình tỏ vẻ cảm kích. Nhìn nụ cười
quái dị của Hứa Bảo, Tư Mã Đình thấy trong lòng đau nhói. Ông ta không bao giờ
quên được nụ cười đó.
Họ xách cáng, loạng choạng chạy theo nữ đại đội trưởng. Tuyết
bị dẫm nát trộn lẫn với bùn, từng đống vỏ đạn va vào nhau lạo xạo. Đạn bay chíu
chíu, đạn pháo dựng lên từng cột khói, những tiếng nổ lớn rung chuyển cả đất dưới
chân. Theo sau ngọn cờ hồng, các binh sĩ ùa lên như nước vỡ bờ. Phía trước, khẩu
liên thanh đặt sau bức tường đất cao, rống lên ông ổng như chó dại, những tia lửa
xòe ra như nan quạt, các binh sĩ xung phong bị đốn gục từng mảng. Khẩu súng
phun lửa từ sau bức tường phụt lửa cuồn cuộn như rồng lộn, các binh sĩ xung
phong như nhảy múa trong vầng lửa, la hét khiến người nghe sởn gai ốc. Có binh
sĩ thoát được ra ngoài, lăn lộn dưới đất để dập lửa trên người. Có binh sĩ bị rồng
lửa trùm lên, nhảy nhót như điên, mặt méo xệch vì đau rát và vì sợ hãi, rồi chỉ
trong chớp mắt là gục xuống, mùi khét của thịt người cháy xộc vào mũi và lan rộng
ra, khiến đám binh lính và dân công lộn mửa. Trong tầm nhìn hạn hẹp của Tư Mã
Đình, đã thấy đám binh sĩ đổ rạp như những cây gỗ mục. Hứa Bảo bỗng ngã lăn ra,
kéo Tư Mã Đình ngã theo. Miệng ông ta vừa chạm đất thì một loạt đạn nóng bỏng
quật ngã mấy người dân công phía sau. Súng phun lửa réo ù ù, những quả thủ pháo
xì khói, lăn lông lốc, phát nổ đùng đoàng, những mảnh đạn bằng hạt đậu xé rách
không khí.
- Mẹ ơi, hôm nay không thoát chết, mẹ ơi!
Hứa Bảo hai tay ôm đầu, chổng mông lên, chiếc quần bông thủng
lỗ chỗ, lòi cả bông bẩn ra. Những binh sĩ xung phong đều là những tay cừ khôi.
Họ hò hét vừa cúi xuống thấp vừa nhả đạn, dẫm lên thi thể chiến hữu của mình và
băng tuyết nhuốm đầy máu, xông lên chỗ bức tường vây theo hiệu kèn và ngọn cờ hồng
rách tơi tả bất kể sống chết leo lên tường, trèo bằng thang, bằng dây thừng. Những
thân hình từ trên cao rơi xuống cùng với tiếng rú thê thảm. Những thân người
rơi xuống dưới chiến hào đóng băng, co quắp, lăn lộn, lết đi bất kể đi đâu.
Nữ đại đội trưởng nằm cách Tư Mã Đình một khoảng không xa,
hai tay thọc sâu vào bùn, mông chị bốc khói trắng. Quần chị bén lửa. Chị lăn
tròn trên tuyết, bốc đất nhét vào lỗ thủng trên quần. Các chiến binh trèo lên bức
tường vây, tiếng reo đinh tai nhức óc, súng bắn như vãi đạn. Nữ đại đội trưởng
chạy lên được mấy bước bỗng gục xuống như bị trúng đạn, chắc là rất đau. Chị bật
dậy chạy tiếp, chị khom người mà chạy như cây cao lương đã thành thực. Chị lôi
ra một người từ đống xác chết rồi kéo trở lui. Chị kéo một cách vất vả như con
kiến tha mồi, đến trước mặt Tư Mã Đình và Hứa Bảo. Đó là trung đoàn trưởng Lã
Thất. Anh bị mấy vết thương ở ngực, máu chảy, bọt máu đùn ra, vết thương rộng đến
nỗi trông thấy phổi đang phập phồng.
- Cáng về tuyến sau, mau lên! - Nữ đại đội trưởng ra lệnh.
Hứa Bảo cứ đứng ngẩn ra mà nhìn nữ đại đội trưởng. Nữ đại đội
trưởng giận điên lên, quát to:
Tư Mã Đình vội vàng mở cáng ra đặt trung đoàn trưởng Lã lên.
Cặp mắt nâu của trung đoàn trưởng Lã nhìn Tư Mã Đình một thoáng tỏ vẻ áy náy rồi
nhắm lại.
Họ khiêng cáng chạy trở lui, đạn đuổi theo chíu chíu như tiếng
chim. Tư Mã Đình khom người xuống mà chạy, nhưng chạy như vậy rất khó, ông ta
liền đứng thẳng lên mà chạy, sống chết có số, ông ta nghĩ. Vậy là bạo dạn hẳn
lên, chân bước thanh thoát hơn.
Tại trạm cứu thương, các y tá băng tạm cho trung đoàn trưởng
rồi cho cáng tiếp về phía sau để đưa vào bệnh viện. Lúc này mặt trời đã ngả về
tây, nơi đường chân trời có vầng mây hồng, dày và đặc quánh. Cây dâu cổ thụ đứng
trơ trọi giữa đồng không mông quạnh, cành lá vấy đầy máu, thân cây ướt mèm như
đổ mồ hôi. Dưới sự chỉ huy của nữ đại đội trưởng, các cáng tải thương dần dần tập
trung ở một ruộng lúa. Máy bay đã bay đi. Trên nền trời màu tím, những ngôi sao
nhấp nháy trong ánh chớp của đạn pháo. Cuộc chiến vẫn tiếp tục Các dân công vừa
đói vừa mệt. Tư Mã Đình dù sao thì tuổi đã cao, lại cặp đôi với một anh vừa bị
trúng gió, nên càng mệt đứt hơi. Ông đứng mà ông không cảm thấy mình có chân
hay không, mồ hôi trong người đã chảy hết từ ban ngày, giờ đây tại ruộng lúa,
trên người ông chỉ còn rỉ ra một chất nước dính và sau đó ông cảm thấy lục phủ
ngũ tạng khô héo đi như quả mướp khô. Trung đoàn trưởng Lã là con người thép,
anh cắn răng chịu đau không rên một tiếng. Tư Mã Đình luôn cảm thấy mình khiêng
trên vai một xác chết, mùi tử khí thi thoảng lại tạt vào mũi ông.
Nữ đại đội trưởng chỉnh đốn lại đội ngũ rồi ra lệnh xuất phát
về tuyến sau. Chị ta khuyên mọi người không nên dừng lại để nghỉ, vì dừng lại
là không dậy nổi nữa. Họ theo nữ đội trưởng qua sông. Mặt băng rạn vỡ vì đạn
pháo. Hứa Bảo bước hụt, ngã xuống nước. Tư Mã Đình cũng ngã theo. Chàng thanh
niên này như cố ý tự tử hay sao mà cởi luôn dây cáng trên người, chui luôn xuống
lỗ băng mất hút. Trung đoàn trưởng Lã đau quá chịu không nổi, bật ra những tiếng
rên rỉ. Nữ đại đội trưởng túm lấy một đầu cáng, cùng khiêng với Tư Mã Đình, thất
thểu về đến bệnh viện hậu phương. Chuyển thương binh xong, đám dân công liền nằm
lăn ra đất. Nữ đại đội trưởng nói:
- Đừng nằm, các đồng chí ơi!
Nhưng chửa nói hết câu, chính chị cũng nằm lăn ra.
Trong một chiến dịch sau đó, Tư Mã Đình bị mảnh đạn tiện đứt
ba ngón tay phải. Ông ta cắn răng chịu đau, cõng một trung đội trưởng bị gãy
chân về tuyến sau.
Sáng sớm, lúc ngủ dậy, trước tiên tôi ngửi thấy mùi thuốc lá,
rồi trông thấy mẹ ngồi ngủ trong ghế dựa kê sát tường, một dòng nước bọt trong
suốt chảy ra từ khóe mép. Tư Mã Đình ngồi ngủ gật trên chiếc ghế bên giường như
con điều hâu đậu trên chạc cây. Mặt đất vương vãi những mẩu thuốc.
Cô Kỷ Quỳnh Chi mà sau này là cô giáo chủ nhiệm lớp tôi, từ
huyện về trấn Đại Lan phát động phong trào cải giá cho phụ nữ. Cô đem theo một
số cán bộ nữ hung hăng như ngựa hoang, tập trung tất cả phụ nữ lại để giảng giải
ý nghĩa của chuyện cải giá. Sau đó, như phân phối gà mái, họ ghép đôi những phụ
nữ góa chồng với những người đàn ông độc thân. Ngay cả ông Đỗ thọt cũng được
chia một chị góa trẻ măng, da trắng nõn, mắt có nhài quạt. Khi chị góa này
trông thấy cái chân đầy mủ hôi thối của ông Đỗ, chị khóc như mưa như gió, xin
chị cán bộ cho phép không lấy ông ta. Chị cán bộ sốt ruột nói:
- Khóc cái gì? Chân rỉ ra mủ thì có gì đáng sợ? Chỉ cần chim
không chảy mủ là được rồi?
Trong cuộc vận động này, những phụ nữ góa chồng nhà Thượng
Quan trở thành vật cản. Chị Cả Lai Đệ không ai lấy, vì các vị biết rằng chị đã
từng có quan hệ với Tư Mã Khố, cũng là người đã hứa hôn với Tôn Bất Ngôn, mà
hai người này đều không hiền lành chút nào. Mẹ ở trong độ tuổi mà Kỷ Quỳnh Chi
qui định phải tái giá nhưng mẹ kiên quyết không chịu. Cô cán bộ La Hồng Hà vừa
bước vào nhà liền bị mẹ chửi cho một trận, đuổi ra.
Mẹ mắng:
- Cút, tôi còn lớn tuổi hơn mẹ cô!
Điều kỳ lạ là khi Kỷ Quỳnh Chi đến khuyên nhủ thì mẹ lại nhẹ
nhàng hỏi: - Cô định gả tôi cho ai? Thái độ của mẹ đối với Kỷ Quỳnh Chi so với
La Hồng Hà khác nhau một trời một vực, chỉ xảy ra cách nhau vài tiếng đồng hồ.
Kỷ Quỳnh Chi nói:
- Bác ạ, người trẻ thì không xứng đôi người lớn tuổi một tí
thì chỉ có Tư Mã Đình. Lý lịch ông ta tuy có vết, nhưng sau đó ông ta đã lập
công, lấy công bù tội. Hơn nữa, quan hệ của hai nhà không xa lạ như những gia
đình khác.
Mẹ cười buồn:
- Cô này, em trai ông ta là rể của tôi?
Kỷ Quỳnh Chi nói:
- Thế thì đã sao?
Lễ cưới tập thể của bốn mươi lăm phụ nữ góa chồng được tổ chức
trong nhà thờ dột nát. Tôi căm lắm, nhưng tôi vẫn đến dự. Mẹ ngồi trong đám các
bà góa, một thoáng đỏ mặt trên sắc da tái xanh của mẹ. Tư Mã Đình đứng trong
đám đàn ông, luôn vuốt tóc bằng những ngón tay cụt không hiểu là để khoe mẽ hay
để che giấu sự bối rối.
Kỷ Quỳnh Chi thay mặt Chính phủ tặng khăn mặt và xà phòng cho
các cặp vợ chồng mới cưới. Trưởng trấn phát cho họ giấy đăng ký kết hôn. Mẹ cầm
khăn mặt, giấy đăng ký kết hôn mà mặt đỏ như gấc, như một cô gái cả thẹn.
Trong lòng tôi bùng lên ngọn lửa căm ghét. Mặt tôi nóng bừng,
xấu hổ thay cho mẹ. Trên tường nhà thờ, nơi xưa kia treo tượng chúa Giêsu thì
nay toàn là bụi. Trên cái bục mà xưa kia mục sư Malôa làm lễ rửa tội cho tôi
thì nay chen chúc một lũ đàn ông đàn bà không biết xấu hổ. Họ co ro cúm rúm, lấm
la lấm lét như kẻ cắp. Mẹ tóc đã hoa râm mà phải kết hôn cùng anh trai con rể.
Không, ý nghĩa thật sự của kết hôn là Tư Mã Đình ngủ cùng giường với mẹ một
cách công khai. Bầu vú to bự của mẹ sẽ bị Tư Mã Đình chiếm hữu, giống như Tư Mã
Khố, Bác-bít, Sa Nguyệt Lương, Tôn Bất Ngôn đã chiếm hữu bầu vú của các chị
tôi. Nghĩ đến đây, nỗi đau như khoan vào tim, những giọt lệ căm phẫn ứa ra khỏi
mắt tôi. Một nữ cán bộ rắc những cánh hoa nguyệt quế lên đầu các cô dâu, những
cánh hoa khô héo rơi lả tả như một trận mưa bẩn thỉu, như những lông chim rơi
xuống đầu mẹ, mái đầu hoa râm nhưng trơn bóng vì mẹ chải bằng dầu vỏ cây du.
Tôi chạy ra khỏi nhà thờ như một con chó dại. Trên đường phố
già cỗi, tôi trông thấy rất rõ mục sư Malôa với chiếc áo chùng đen đang thủng
thẳng bước đi, mặt đầy bùn đất, mái tóc đầy những mầm lúa mạch. Hai con mắt ông
như hai quả nho tím, lạnh băng, ánh mắt đau xót.
Tôi lớn tiếng thông báo cho ông về việc Tư Mã Đình đã kết hôn
với mẹ, nhìn thấy những thớ thịt co giật trên khuôn mặt đau khổ của ông, thân
hình ông và cả chiếc áo choàng đen trong khoảnh khắc tan ra từng mảnh rồi biến
thành một cụm khói đen, bay đi.
Trong sân, chị Cả đang vươn cái cổ trắng nõn để gội mái tóc
dày của chị. Khi chị cúi xuống, hai bầu vú trắng hồng tuyệt đẹp của chị khoan
khoái cất giọng du dương như chim vàng anh. Khi chị đứng thẳng lên, những giọt
nước nối đuôi nhau chảy giữa khe vú. Chị đưa hai tay ra sau gáy vấn tóc, nheo mắt
nhìn tôi rồi cười nhạt.
- Biết chưa? Mẹ lấy Tư Mã Đình - Tôi bảo chị.
Chị không nói gì, chỉ cười nhạt một tiếng. Mẹ dắt chị Ngọc Nữ,
trên tóc còn vương những cánh hoa nhục nhã, bước vào trong nhà. Tư Mã Đình len
lén theo sau. Chị Cả bưng chậu nước gội đầu hắt mạnh ra sân, nước bay thành
vòng cung, trắng xóa. Mẹ thở dài, không nói gì. Tư Mã Đình móc trong túi ra tấm
huân chương đưa cho tôi, không hiểu là để lấy lòng hay để khoe. Tôi nghiêm nghị
nhìn vào mặt ông ta, trên mặt ông là một nụ cười giả dối. Mắt ông né tránh cái
nhìn của tôi, ông giả vờ ho khẽ để che giấu sự lúng túng. Tôi ném chiếc huân
chương đi, nó bay như con chim qua nóc nhà.
Mẹ giận dữ nói:
- Đi nhặt về đây!
Tôi vùng vằng, nói:
- Không nhặt!
Tư Mã Đình nói:
- Thôi, để cũng chẳng làm gì!
Mẹ đánh tôi một bạt tai.
Tôi nằm lăn xuống đất, lăn lộn như con lừa tắm khan. Mẹ dùng
chân đá tôi, tôi chửi cay độc:
- Đồ mặt dày, đồ mặt dày!
Mẹ sững người, đầu gục xuống ngực rồi đột nhiên gào khóc ầm
ĩ, vừa khóc vừa đi vào trong nhà. Tư Mã Đình thở dài, ngồi xổm hút thuốc dưới gốc
cây lê. Hút xong mấy điếu thuốc, Tư Mã Đình đứng dậy bảo tôi:
- Cháu khuyên mẹ đừng khóc nữa!
Ông móc túi lấy tờ đăng ký kết hôn xé vụn, quẳng xuống đất rồi
bỏ đi. Nhìn từ sau lưng, ông đã già thật sự
Chương 4 (tiếp)
Chiếc kính lão mà mắt kính bằng đá thạch anh là quà của Tư Mã
Khố thời hoàng kim tặng thầy dạy vỡ lòng Tần Nhị nhân dịp sinh nhật của thầy.
Giờ đây thầy đeo món quà phản cách mạng đó ngồi trên bục giảng xây bằng gạch,
hai tay cầm quyển sách giáo khoa dạy chữ quốc ngữ, kéo dài cái giọng run rẩy yếu
ớt như đôi chân của thầy, giảng cho lớp Một chúng tôi - lớp Một đầu tiên của
vùng Cao Mật, gồm những học sinh cao thấp không đều, tuổi tác chênh nhau khá
xa. Chiếc kính nặng, trễ xuống giữa sống mũi cong queo của thầy, một giọt nước
trong vắt treo lủng lẳng ở chóp mũi và cứ ở đấy không chịu rơi. Con dê to
to..., thầy ngân nga. Mặc dù đang là tháng Sáu nóng nực, thầy vẫn đội chiếc mũ
lông, mặc chiếc áo chùng màu đen. Con dê to to..., chúng tôi nhại giọng thầy đọc
theo, hai tay cầm sách nhưng mắt không nhìn vào sách. Con dê bé bé..., thầy dẫn
đọc bằng một giọng buồn thảm. Nóng ngột ngạt, trong nhà thờ vừa tối vừa ẩm,
chúng tôi cởi trần, chân đất, mồ hôi mồ kê đầm đìa, nhưng thầy vẫn khăn áo chỉnh
tề, mặt tái nhợt, đôi môi thâm tím như đang bị rét cóng. Con dê bé bé... chúng
tôi đọc rõ to. Mùi khai nồng nặc, nhà thờ chẳng khác cái chuồng dê. Dê to dê bé
chạy trên núi... Dê to chạy, dê bé kêu... Tôi hơi nghi ngờ sách giáo khoa. Căn
cứ vào kinh nghiệm phong phú của tôi về loài dê thì con dê nào bầu vú quết đất
thì không thể chạy, nó đi còn khó, nói gì đến chạy? Dê bé kêu thì có thể, chạy
cũng có thể. Trên những vạt cỏ hoang, dê lớn ung dung gặm cỏ, dê nhỏ vừa chạy vừa
kêu. Tôi rất muốn giơ tay hỏi thầy nhưng không dám. Trước mặt thầy là một cái
thước kẻ, chuyên để đánh vào lòng bàn tay. Dê to ăn nhiều... dê bé ăn ít... Câu
này thì đúng, dê to tất nhiên ăn nhiều hơn dê bé, dê bé tất nhiên ăn ít hơn dê
to. Dê to to, dê bé bé, dê ăn no cỏ, dê quay đầu về.
Thầy vẫn đọc không mệt mỏi, nhưng trong lớp thì dần dần trở
nên mất trật tự. Vu Vân Vũ mười tám tuổi, con trai một cố nông, to cao khỏe mạnh
như con ngựa choai. Anh ta đã lấy Lam Thủy Liên, vợ góa một ông bán đậu phụ làm
vợ. Lam Thủy Liên lớn hơn anh ta mười tuổi, bụng đã mang trống. Anh ta sắp làm
bố. Anh chàng sắp sửa làm bố Vu Vân Vũ rút khẩu súng lục đã han gỉ giắt ở thắt
lưng, giơ lên nhắm vào cái ngù đỏ trên mũ thầy. Dê to chạy... dê to... pằng!,
ha ha ha. Thầy ngẩng lên, nhìn qua phần trên của mắt kính nên thầy chăng nhìn
thấy gì cả. Thầy lại đọc tiếp. Dê to... pằng! Vu Vân Vũ bắn một phát súng miệng,
chiếc ngù đỏ trên mũ thầy lắc lư. Cả lớp cười ầm, thầy vớ lấy cái thước đập
đánh chát xuống bàn, quát to như quan tòa:
- Yên lặng!
Lại tiếp tục đọc.
Quách Thu Sinh mười bảy tuổi con trai một bần nông rời chỗ ngồi,
lom khom trèo lên bục ra phía sau lưng thầy, hai chiếc răng cửa dài như răng thỏ
cắn môi dưới, hai tay làm bộ ôm lấy đầu thầy giơ lên hạ xuống như thả đạn súng
cối mà đầu thầy thì như nòng pháo, bắn liên hồi. Cả lớp hỗn loạn, học sinh cười
nghiêng ngả, thằng Từ Liên Hợp to bự đấm xuống bàn rầm rầm, thằng Phương Thư
Trai béo quay thì xé nát sách vở tung lên trời, những mẩu giấy bay như bươm bướm.
Thầy giáo đập thước liên hồi xuống mặt bàn cũng không làm sao
hết cảnh nhốn nháo. Thầy nhìn xuống dưới lớp để tìm nguyên nhân. Quách Thu Sinh
như một thằng điên, liên tục làm những động tác nhục mạ thầy trên đầu thầy. Những
đứa trên mười lăm tuổi gào thét như điên cuồng.
Bàn tay Quách Thu Sinh chạm vào vành tai thầy. Thầy ngoảnh lại
túm ngay được.
- Đọc thuộc lòng đi! - Thầy nghiêm giọng bảo.
Quách Thu Sinh đứng thõng hai tay trên bục làm ra vẻ hiền
lành, nhưng khuôn mặt thì làm ngáo ộp. Nó chụm miệng cho môi dẩu ra như một cái
rốn, nhắm một mắt lại cho miệng méo xệch sang một bên, nghiến chặt răng để hai
tay vẫy vẫy.
- Đọc thuộc lòng đi! - Thầy gầm lên.
Quách Thu Sinh đọc: Bà to to, bà bé bé, bà to rượt đuổi bà bé
té...
Trong tiếng cười như điên của bọn học trò, thầy Tần cầm thước,
chụp lấy tay Quách Thu Sinh để lên bàn.
- Thằng ranh con này, bốp!
Cái thước vụt mạnh vào lòng bàn tay Quách Thu Sinh. Nó chỉ
kêu lên một tiếng cộc lốc. Thầy nhìn nó một cái rồi lại giơ thước lên, nhưng
tay thầy dừng lại giữa chừng vì trông thấy nét mặt hung hãn của tên lưu manh, cặp
mắt đen rầm, những tia mắt hằn học đầy vẻ khiêu khích. Cặp mắt gà của thầy Tần
đột nhiên dịu lại, cái tay cầm thước rũ xuống. Thầy lẩm bẩm điều gì đó, gỡ kính
bỏ vào chiếc hộp kính bằng sắt, đậy chiếc giẻ lau kính lên trên, đậy nắp lại rồi
bỏ vào túi. Thầy cũng cho luôn vào túi cái thước đã từng đánh Tư Mã Khố, rồi thầy
bỏ mũ vái Quách Thu Sinh một vái, quay xuống lớp vái một vái nữa, nói với lớp bằng
một giọng chua loét, nghe vừa khó chịu vừa thương hại:
- Thưa các ông lớn, Tần Nhị tôi chậm hiểu ngu lâu, không lượng
súc mình, dám châu chấu đá xe, đánh chết mà không chết, mà không chết thì là đạo
tặc. Tôi biết tội đã nhiều, rất mong các vị lượng thứ!
Nói xong thầy chắp tay trước bụng vái mấy vái rồi khom lưng
tôm, nhón gót nhẹ nhàng đi ra khỏi nhà thờ. Từ bên ngoài vẳng lại tiếng ho đầy
nước mắt của thầy. Bài học đầu tiên kết thúc là như vậy. Bài thứ hai là âm nhạc.
Âm nhạc. Cô giáo Kỷ Quỳnh Chi trên huyện cử về, dùng chiếc
thước chỉ vào hai chữ viết bằng phấn trắng trên bảng đen, giọng lanh lảnh:
- Tiết này chúng ta học âm nhạc. Không có sách giáo khoa,
sách giáo khoa ở đây ở đây ở đây! - Cô chỉ vào đầu, ngực và bụng mình. Cô quay
mặt lại bảng đen, vừa viết vừa nói. - Âm nhạc bao gồm nhiều thứ, thổi sáo này,
kéo nhị này, ca hát này, diễn kịch này... đều là âm nhạc, bây giờ các em chưa
hiểu thì sau này sẽ hiểu. Ca hát là hát nhưng không hoàn toàn là hát, ca hát là
một hoạt động âm nhạc quan trọng, và cũng có thể nói là một nội dung quan trọng
của môn nhạc ở một trường tiểu học hẻo lánh như trường chúng ta. Hôm nay ta học
một bài hát. Cô viết cành cạch trên bảng. Qua cửa sổ nhìn ra cánh đồng, tôi
trông thấy Tư Mã Lương bị tước quyền đến trường vì là con phần tử phản cách mạng,
thấy Sa Tảo Hoa, con gái Hán gian đang chăn dê, ngẩn ngơ nhìn vào lớp học.
Chúng đứng trong vạt cỏ cao lút đầu gối, sau lưng là mười mấy cây hướng dương
thân mập, lá to bản, hoa vàng rực. Cái bản mặt hoa hướng dương sao mà buồn,
lòng tôi càng buồn hơn. Tôi liếc nhìn những cặp mắt long lanh trong cảnh u ám
mà ứa nước mắt. Tôi ngắm nghía chiếc khung cửa sổ bằng gỗ liễu, thầm mong mình
biến thành con chim họa mi, tắm mình trong ánh nắng rực rỡ của một chiều tháng
Sáu, đậu trên dài hoa hướng dương đầy những con sâu nhỏ. Bài hát hôm nay chúng
tôi học là bài Phụ nữ giải phóng ca. Cô giáo cúi viết nốt những lời cuối cùng của
bài hát. Bờ vai của cô tròn lẳn như mông ngựa. Một mũi tên bằng gỗ, phần đuôi cắm
lông gà, phần mũi gắn cục nhựa đào, bay vụt bên tôi, trúng vào mông cô giáo. Lớp
học nổ ra một trận cười khả ố. Thằng Đinh Kim Câu ngồi sau lưng tôi là thằng bắn
phát tên đó. Nó giơ cây cung lên để khoe, rồi giấu vội đi. Cô giáo dạy nhạc rút
cái tên ở mông ngắm nghía, cười một tiếng rồi phóng xuống mặt bàn, cái tên rung
lên rồi đứng yên.
- Bắn giỏi đấy! - Cô bình tĩnh nói.
Cô bỏ roi xuống, cởi áo quân phục đã bạc màu để lên bục giảng,
một cô giáo hoàn toàn khác trước với chiếc áo sơ mi trắng bỏ trong quần, thắt
lưng da to bản, vì dùng lâu ngày nên lên nước đen bóng. Vòng eo nhỏ, ngực nhô
cao, mông nở, chiếc quần bộ đội ống rộng, giặt nhiều đến nỗi biến thành màu trắng,
chân đi đôi giày thể thao hợp thời trang. Cô ăn mặc sao mà thanh thoát, sao mà
gọn ghẽ. Để càng thanh mảnh hơn, cô còn thít thêm một nấc dây lưng. Miệng mỉm
cười, cô đẹp như con hồ ly trắng. Nụ cười vụt tắt cô tàn nhẫn như con cáo trắng.
- Các em vừa làm cho thầy Tần tức giận bỏ đi, anh hùng nhỉ?
Cô nói mỉa, rút cái tên ở bàn lên, dùng ba ngón tay nắn nắn,
nói:
- Một cung thủ đáng gờm đây, Lý Quảng hay Hoa Vinh đây? Có
dám đứng dậy xưng tên xưng họ không? Cặp mắt đẹp của cô lướt trên đầu chúng
tôi. Không ai đứng lên. Cô cầm chiếc roi quật đánh bốp lên bục giảng. Tôi cảnh
cáo các em, cô nói, cái trò lưu manh mà các em thi thố ở lớp tôi thì hãy gói
ghém lại cho kỹ rồi đưa cho mẹ các em cất đi!...
- Thưa cô, mẹ em chết rồi ạ! - Vu Vân Vũ nói to.
- Mẹ của ai chết rồi? Cô giáo hỏi, đứng dậy!
Vu Vân Vũ đứng lên, thái độ tỏ ra bất cần.
- Đi lên trên này- Cô nói - Lên đây, để tôi nhìn kỹ em một
tí.
Vu Vân Vũ đội một chiếc mũ đơn bóng nhẫy như da trăn để che
những cái sẹo trên đầu, nghe nói bốn mùa trong năm, chiếc mũ này không bao giờ
bỏ ra, ngay cả khi ngủ, khi tắm dưới sông. Với chiếc mũ đó, Vu Vân Vũ nghênh
ngang bước lên bục giảng.
- Em tên là gì? - Cô cười giọng ôn tồn hỏi.
Vu Vân Vũ xưng tên như một anh hùng.
- Các em, cô nói, tôi họ Kỷ, tên là Quỳnh Cái, từ nhỏ đã
không cha không mẹ, lớn lên bên bãi rác, đến năm lên bảy tuổi thì theo một gánh
xiếc rong phiêu bạt giang hồ, từng thấy lưu manh đủ loại. Học lái mô tô bay, đi
trên dây, nuốt kiếm, phun ra lửa, rồi sau chuyển sang dạy thú, lúc đầu dạy chó,
rồi dạy khỉ, rồi dạy gấu, cuối cùng là dạy hổ. Tôi có thể bắt chó nhảy tròng, bắt
khỉ trèo cây, gấu cưỡi xe, hổ nhào lộn. Năm mười bảy tuổi tôi tham gia cách mạng,
từng quần nhau với kẻ thù, đâm vào dao trắng, rút ra dao đỏ. Năm hai mươi tuổi
tôi học trường đại học quân chính Hoa Đông, học đánh bóng, vẽ tranh, nhảy múa
ca hát. Năm hai mươi lăm tuổi, tôi kết hôn cùng trưởng phòng trinh sát cục Công
an Mã Thắng Lợi, anh tinh thông nghiệp vụ, khả năng chiến đấu không kém gì tôi.
Cô nói tất cả mọi chuyện, chỉ trừ chuyện về trấn Đại Lan phát
động phong trào cải giá là không nói.
Cô giơ tay sửa lại mải tóc ngắn trên đầu. Nước da cô nâu
bóng, khỏe mạnh, bầu vú tràn trề sức sống đẩy ngực áo sơ mi căng phồng. Mũi
thanh tú, đôi môi đường nét rõ ràng, răng trắng bóng. Kỷ Quỳnh Chi này hổ còn
không sợ - cô khinh bỉ nhìn Vu Vân Vũ, giọng anh chị - Chẳng lẽ sợ em?
Trong khi nói vậy, cô giơ cái roi dài luôn rất khéo vào viền
mũ của Vu Vân Vũ rồi lắc cổ tay một cái hất chiếc mũ ra khỏi đầu như một bánh
rán trong chảo. Tất cả chỉ diễn ra trong một giây. Vu Vân Vũ vội ôm lấy cái đầu
đầy những sẹo, vẻ ngang tàng biến mất, mặt thộn ra. Nó nước mắt tìm cái mũ. Cô
giơ cao cái oi rung rung cho cái mũ quay tít trên đầu roi một cách tài tình,
khiến hồn vía Vu Vân Vũ bay đi đâu mất. Cô hất roi một cái, chiếc mũ bay lên
không trung, rồi lại rơi một cách chính xác xuống đầu roi, tiếp tục quay tít.
Tôi thấy hoa cả mắt. Cô lại hất cái mũ lên cao, đợi khi nó rơi xuống nửa chừng,
khẽ vụt một cái khiến nó rơi dưới chân Vu Vân Vũ.
- Đội mũ vào, cút về chỗ của em! - Cô ngán ngẩm bảo nó - lượng
muối tôi ăn còn nhiều hơn số bột mì em đã ăn, những cây cầu tôi đã đi qua còn
nhiều hơn những con đường mà em đã đi. Rồi cô nhổ mũi tên cắm trên bàn, nói:
- Em, chính là em! Đem cái cung lên đây!
Đinh Kim Câu hốt hoảng đứng dậy, ngoan ngoãn cầm cái cung lên
để trên bục giảng của cô giáo.
- Về chỗ! - cô nói.
Cô cầm cây cung lên giọng thử, nói:
- Cánh cung mềm quá, dây cũng không đủ căng. Dây cung phải
dùng gân bò mới tốt. Cô lắp tên trên sợi dây cung kết bằng lông đuôi ngựa, kéo
khẽ, nhằm thẳng vào đầu Đinh Kim Câu, nó vội vàng rúc xuống gầm bàn. Một con nhặng
xanh đang bay trong tia nắng từ cửa sổ lọt vào. Kỷ Quỳnh Chi ngắm chuẩn con nhặng,
dây cung bật đánh tách một tiếng, con nhặng bị bắn rơi xuống đất.
- Còn ai không phục nữa thôi? - Cô hỏi.
Lớp học im như thóc. Cô mỉm cười ngọt ngào, cái lúm đồng tiền
trên má đầy quyến rũ. Cô nói:
- Bây giờ ta chính thức lên lớp, tôi đọc một lượt lời của bài
hát: Xã hội cũ, như giếng sâu vạn trượng, nằm dưới đáy là các tầng lớp nhân
dân, đáy của đáy là chị em phụ nữ? Xã hội mới, như mặt trời chói lọi, nắng trùm
lên người làm ruộng chúng ta, vươn mình là phụ nữ chúng ta
4
Trong môn nhạc của cô Kỷ Quỳnh Chi, tôi đã tỏ ra có một trí
nhớ xuất chúng và tố chất âm nhạc rất tốt. Mặc dù khi mới hát đến câu đáy của
đáy là chị em phụ nữ trong bài Phụ nữ giải phóng ca, mẹ bê bình sữa bọc trong
chiếc khăn mặt trắng đến dưới cửa sổ bằng gỗ liễu, luôn miệng gọi khẽ:
- Kim Đồng, Kim Đồng, uống sữa đi này?
Tiếng gọi của mẹ và mùi sữa đã phân tán ghê gớm sức chú ý của
tôi, nhưng đến cuối tiết học, tôi là người duy nhất hát trọn vẹn bài Phụ nữ giải
phóng ca một cách chuẩn xác. Cô Kỷ Quỳnh Chi biểu dương tôi trước lớp học bốn
mươi học sinh. Cô hỏi tên tôi, bảo tôi đứng lên hát lại lần nữa. Cô vừa tuyên bố
hết giờ thì mẹ đã đưa bình sữa vào bên trong cửa sổ. Tôi do dự, mẹ bảo:
- Con uống đi! Con giỏi giang như vậy, mẹ mừng lắm!
Trong lớp có tiếng cười rúc rích.
- Cầm lấy đi con, có gì mà ngượng kia chứ? - Mẹ nói.
Cô Quỳnh Chi thơm mùi kem đánh răng đi tới, chiếc roi chống
trên nền nhà rất điệu nghệ, nói ra ngoài cửa sổ:
- Bác đấy ạ, khi đang lên lớp bác đừng đến làm mất trật tự nữa
nhé!
Nghe giọng nói của cô, mẹ sững người, cố dướn lên ngó vào
trong, lễ phép nói:
- Thưa cô, đây là thằng con một của tôi, đợt sữa đầu sáng này
ít quá, nó ăn không đủ no, sợ nó không cầm cự được đến chiều!...
Cô Quỳnh Chi nhìn tôi cười, nói:
- Em cầm lấy đi, kẻo mẹ mỏi tay.
Tôi đỏ bừng mặt đón lấy bình sữa. Cô Quỳnh Chi nói với mẹ:
- Thế này mãi sao được? Phải cho em nó ăn cơm. Lớn lên đi học
trung học, học dại học, chẳng lẽ vẫn phải dắt theo một con dê?
Cô tưởng tượng cái cảnh một sinh viên đại học dắt theo một
con dê vào lớp mà bật cười không chút ác ý.
- Em nó bao nhiêu tuổi rồi nhỉ? Cô hỏi.
- Mươi ba tuổi rồi, tuổi Tý - Mẹ nói - Tôi cũng buồn lắm cô ạ,
nhưng mà nó ăn vào thứ gì là nôn ra thứ ấy, bụng lại còn đau nữa, đau đến nỗi
toát mồ hôi hột, sợ phát khiếp!...
Tôi bảo mẹ, giọng không vui:
- Thôi mà mẹ, mẹ dùng nói nữa, con không uống đâu!
Tôi đưa trả cái bình. Cô Quỳnh Chi búng búng tai tôi, nói:
- Trò Kim Đồng, đừng làm thế, thói quen sẽ sửa dần, uống đi!
Tôi nhìn cặp mắt long lanh của cô trong ánh sáng mờ mờ, trong
lòng cảm thấy vô cùng xấu hổ. Cô Quỳnh Chi nói:
- Các em nhớ nhé, không được giễu cợt nhược điểm của người
khác!
Nói xong, cô bỏ đi.
Tôi quay mặt vào tường, uống thật nhanh hết sạch bình sữa rồ
tôi trả cái bình cho mẹ, nói:
- Lần sau mẹ đừng đến nữa!
Giờ nghỉ giữa hai tiết học, Vu Vân Vũ và Đinh Kim Câu vốn dĩ
càn quấy, bây giờ trở nên nghiêm chỉnh, ngồi như phỗng trên ghế. Thằng Phương
Thư Trai béo ị cởi dây lưng trèo lên bàn, buộc một đầu dây lên xà nhà, còn đầu
kia làm thành cái thòng lọng, biểu diễn trò thắt cổ. Nó nhại giọng the thé của
bà góa, khóc lảnh lót, kể lể: Anh ơi là anh, anh nhắm mắt xuôi tay về Tây
phương cực lạc bỏ lại thân em vò võ một mình, trong lòng như có con trùng ngọ
nguậy, chẳng thà em xuống suối vàng cho xong.
Khóc lóc, kể lể, hai má nó bạnh ra như hai má lợn, rồi thì nó
khóc thật, hai dòng nước mắt chảy ròng ròng, nước mũi cũng chảy tràn qua môi.
- Tôi chẳng thiết sống nữa!
Nó gào lên, nhón gót chui đầu vào thòng lọng. Hai tay nắm hai
bên thòng lọng, nó nhảy dựng lên, mỗi lần nhảy một lần kêu lên:
- Tôi chẳng thiết sống nữa!
Lớp học ồ lên tiếng cười quái dị. Thằng Vu Vân Vũ vẫn chưa hết
bực, nó ấn tay xuống bàn, rồi như ngựa đá hậu, nó giơ chân đạp lại đằng sau một
cái, chiếc bàn đổ kềnh. Thân hình to béo của thằng Phương Thư Trai treo lủng lẳng
dưới xà nhà. Nó rú lên, hai tay cố ghì lấy dây thừng, hai chân ngắn ngủn quẫy
lia lịa, rồi chậm dần lại, mặt tím ngắt, miệng sùi bọt, phát ra tiếng òng ọc của
người đang giẫy chết.
- Treo cổ chết rồi! - mấy đứa nhỏ hốt hoảng kêu lên, vừa kêu
vừa chạy ra ngoài sân, dẫm bành bạch mà gào:
- Treo cổ chết rồi! Phương Thư Trai treo cổ chết rồi!
Hai tay thằng Phương Thư Trai buông thõng, hai chân không quẫy
đạp nữa, mình nó như dài ra, một tiếng rắm rất kêu vọt ra khỏi dũng quần. Ngoài
sân, bọn học sinh chạy tán loạn, không biết làm gì. Cô giáo Kỷ Quỳnh Chi và mấy
giáo viên không biết tên, càng không biết các thầy dạy môn gì, từ phòng giáo
viên chạy ra.
- Ai chết? Ai treo cổ chết? - Họ vừa hỏi to vừa chạy về phía
lớp học, những đống rác trên sân níu chân họ.
Kỷ Quỳnh Chi nhảy tâng tâng như con hươu cái, chỉ trong vài
giây cô đã vào đến lớp học. Đang từ ngoài nắng chạy vào chỗ tối, cô thoáng vẻ ngỡ
ngàng, hỏi to:
- ở đâu?
Thân hình nặng nề của Phương Thư Trai rơi bịch xuống đất dải
thắt lưng đen đứt tung vì không chịu nổi sức nặng của nó.
Cô Kỷ Quỳnh Chi ngồi xổm bên cạnh thằng Phương Thư Trai, luồn
tay vào nách lật nó nằm ngửa. Tôi trông thấy cô chau mày, môi trên dẩu ra che lấy
mũi. Người Phương Thư Trai thối hoắc. Cô đưa tay trước mũi xem nó còn thở hay
không, rồi ấn huyệt nhân trung, nét mặt cô tỏ ra vô cùng bực bội. Phương Thư
Trai giơ tay gạt tay cô ra. Cô chau mày đứng dậy, đá cho nó một cái, nói:
- Đứng dậy?
- Ai đá đổ chiếc bàn? - cô Quỳnh Chi đứng trên bục, nghiêm giọng
hỏi.
- Em không biết, em không biết, em không biết!
- Vậy thì ai trông thấy? Hoặc ai đã đá đổ? Thử dũng cảm một lần
xem nào?
Mọi người cúi gằm, Phương Thư Trai khóc òa.
- Có câm miệng lại không - cô Quỳnh Chi đập bàn quát - muốn
chết thì quá dễ, lát nữa tôi sẽ cho em biết vài kiểu chết. Tôi không tin là
không ai trông thấy kẻ đã đá đổ chiếc bàn. Kim Đồng, em là một học sinh thực
thà, em nói đi!
Tôi cúi đầu.
- Em hãy ngửng lên nhìn cô đây này - cô nói - Cô biết là em sợ,
cô chịu trách nhiệm về chuyện này, em đừng sợ?
Tôi ngẩng nhìn đôi mắt rất dẹp của người chiến sĩ cách mạng,
nhớ lại mùi kem đánh răng tỏa ra từ miệng cô, trong lòng dễ chịu như đứng trước
luồng gió mát.
- Cô tin rằng em có đủ can đảm tố cáo người xấu việc xấu, vậy
mới là phẩm chất của thanh thiếu niên của nước Trung Quốc mới.
Cô nói rất hào hùng. Tôi liếc ngang, bắt gặp ánh mắt uy hiếp
của Vu Vân Vũ. Tôi lại gục đầu xuống ngực.
- Vu Vân Vũ, đứng dậy? - cô bình tĩnh gọi
- Không phải em! - Vu Vân Vũ kêu to.
Cô mỉm cười hỏi:
- Sao em cuống lên thế? Sao em lại gào lên?
- Dù sao cũng không phải là em! - Vu Vân Vũ xiết móng tay xuống
mặt bàn, nói khẽ.
Cô Quỳnh Chi nói:
Vu Vân Vũ đứng dậy, từ từ ngẩng đầu lên, nét mặt trở nên dữ dằn.
Nó quăng sách vở xuống đất cho bảng đả và phấn viết vào chiếc cặp màu xanh kẹp
dưới nách, giọng khinh miệt:
- Tôi đá đổ cái bàn đấy làm gì tôi nào? Tôi đ. vào học nữa!
Ông có thích học đâu tại các người cứ vận động ông đấy chứ!
Hắn nghênh ngang bước ra cổng, người nó mới cao làm sao,
xương cốt nó mới to làm sao, nó hoàn toàn có dáng vóc của một thằng đàn ông ngạo
mạn và ngỗ ngược. Cô Quỳnh Chi đứng chặn lối ra cổng, nó quát:
- Tránh ra! Nhà người dám làm gì ông?
Cô Kỷ Quỳnh Chi cười mát:
- Ta phải cho cái thằng hèn này biết tay! Rồi phóng chân đá
trúng đầu gối Vu Vân Vũ. Nó ối lên một tiếng quị xuống.
- Kẻ ác thì phải bị trừng phạt - cô Quỳnh Chi nói.
Vu Vân Vũ móc cái bảng đá trong túi xách liệng trúng ngực cô
Quỳnh Chi, cô rên lên một tiếng, ôm lấy bầu vú bị thương.
Vu Vân Vũ nói:
- Mày tưởng tao sợ mày hả? Nhà tao ba đời cố nông, cô dì bà
ngoại tao đầu là bần nông, mẹ tao đẻ ra tao trên đường đi ăn xin.
Cô Quỳnh Chi xoa xoa bầu vú, nói:
- Ta thật tình không muốn nhà ngươi làm bẩn tay ta - Hai bàn
tay cô đan vào nhau, những đốt ngón tay kêu răng rắc - Đừng nói nhà mi ba đời cố
nông mà ba mươi đời cố nông thì ta cũng phải cho mi một bài học!
Cô vừa nói vừa tung một quả đấm như chớp trúng cằm Vu Vân Vũ.
Hắn rú lên một tiếng, lảo đảo. Quả đấm thứ hai mạnh hơn, trúng giữa ngực, tiếp
theo là một cú đá trúng mắt cá chân. Hắn ngã lăn ra, khóc hu hu như một đứa trẻ.
Cô Quỳnh Chi túm cổ áo dựng hắn dậy, xoay hắn lại rồi thúc gối vào bụng dưới của
hắn, đồng thời phóng tay ra. Vu Vân Vũ ngã ngửa trên một đống gạch vụn. Cô Quỳnh
Chi tuyên bố:
- Mi đã bị đuổi học!
Chương 4 (tiếp)
5
Chúng nó mỗi đứa đều cầm trong tay một cành liễu, chặn tôi
trên con dương mòn từ trường về thôn. ánh nắng xiên khoai, mặt đứa nào đứa ấy
vàng như sáp. Vu Vân Vũ với chiếc mũ da trăn và một bên mặt sưng vù, Quách Thu
Sinh cặp mắt độc ác, Đinh Kim Câu với vành tai quăn như mộc nhĩ, lại còn tên nổi
tiếng gian giảo trong thôn Ngụy Sùng Dê với hàm răng đen xỉn. Mỗi thằng một vẻ
hiện ra lồ lộ dưới ánh nắng đã dịu của buổi chiều tà. Hai bên đường là rãnh nước
bẩn, mấy con vịt lông cánh tơi tả, kêu cạc cạc. Tôi lánh ra tận mép đường, định
đi vòng qua chúng nó. Ngụy Sừng Dê giơ cái gậy bằng cành liễu ra chặn tôi.
- Các anh làm gì thế? - tôi run run hỏi.
- Làm gì hả, thằng con lai? - trợn trừng cặp mắt gà chọi, nó
nói - Hôm nay chúng tao phải dạy cho thằng con lai của lão mục sư tóc đỏ một
bài học!
- Tôi có trêu chọc gì các anh đâu? - tôi nói, cảm thấy mình bị
oan.
Thằng Vu Vân Vũ quất tôi một roi vào mông. Tôi thấy rát như
phải bỏng.
- Tôi sao thế này?...
Bốn ngọn roi dâu thi nhau quật lên cố, lên lưng, lên mông,
lên chân tôi. Tôi gào khóc. Thằng Ngụy Sừng Dê rút trong túi ra con dao cán bằng
xương khua khua trước mặt tôi, dọa:
- Câm mồm! Mày mà khóc ông cắt lưỡi, khoét mắt, xẻo mũi mày
đi! Con dao lóe ánh thép xanh, tôi sợ quá im thin thít.
Chúng thúc gối vào mông tôi, vụt roi vào bắp chân tôi, như bốn
con sói quần một con dê, dồn tôi vào sâu hơn trong cánh đồng. Nước trong rãnh
hai bên đường lặng lẽ chảy, bốc lên mùi khăn khẳn của những thứ bị thối rữa, những
bọt khí nối đuôi nhau chạy lên mặt nước. Tôi mấy lần quay lại van xin:
- Các anh tha cho tôi?
Nhưng mỗi lần như vậy lại hứng thêm một trận đòn, định khóc
to nhưng lại sợ con dao của thằng Ngụy Sừng Dê. Tôi chỉ còn cách duy nhất là cắn
răng mặc cho chúng nó đánh, đến cái nơi mà chúng nó bắt phải đến.
Qua chiếc cầu ken bằng những bó cây cao lương, chúng bắt tôi
dừng lại trước một bụi tì ma. Đũng quần tôi dính nhom nhớp, không biết là máu
hay nước đái. Nắng hồng nhuốm đỏ mặt chúng. Chúng dàn thành hàng ngang, những
chiếc roi đã gãy nát phần ngọn, vỏ trước hết chỉ còn phần lõi màu xanh. Những
chiếc lá tì ma to bằng cái quạt, con cuốc lặc lè cái bụng, kêu thê thảm trong
đám lá. Mùi hăng hăng của lá cây tì ma khiến tôi chảy nước mắt. Ngụy Sừng Dê hỏi
lấy lòng Vu Vân Vũ:
- Đại ca, ta nên xử lý thằng lỏi này như thế nào?
Vu Vân Vũ sờ bên má sung tím, nói:
- Theo tao thì nên giết quách nó đi.
- Không nên, không nên - Quách Thu Sinh nói - anh rể nó là
phó huyện trưởng, chị nó cũng làm quan, giết chết nó thì ta cũng không sống nổi!
Ngụy Sừng Dê nói:
- Giết nó rồi kéo xác ra sông Mục, vài ngày sau là trôi ra biển
làm mồi cho cá, chẳng ma nào biết?
Đinh Kim Câu nói:
- Tôi không tham gia vào việc giết nó. Anh rể nó là Tư Mã Khố
cái tên ma vương giết người như ngóe ấy không biết lúc nào trở về, giết em vợ
nó, e rằng nhà chúng ta sẽ không sót một mống!
Trong khi chúng nó thảo luận về số phận của tôi, tôi đứng bên
như người không liên quan, không sợ mà cũng không bỏ chạy, đầu tôi mụ đi. Thậm
chí tôi còn có thời gian nhìn ra xa, nơi cánh đồng cỏ đỏ rực như máu và ngọn
núi Trâu Nằm màu vàng kim, và cả cánh đồng hoa màu xanh ngắt rộng mênh mông ở
phía chính nam. Con đê sông Mực như một con rồng uốn khúc, ẩn hiện phía sau những
vạt hoa màu cao, lộ hẳn ra nơi những vạt hoa màu thấp. Những con chim trắng bay
là là mặt nước như những mẩu giấy trắng. Biết bao chuyện cũ lần lượt lướt qua
trong đầu, tôi bỗng cảm thấy mình đã sống ở trên đời hàng trăm năm.
- Các anh giết tôi đi, giết đi, tôi sống thế đủ rồi!
Trong ánh mắt chúng lóe lên những tia ngạc nhiên. Chúng nhìn
nhau rồi nhìn tôi, làm như chưa nghe rõ tôi nói gì. Tôi nhắc lại, kiên quyết,
và khóc hu hu, nước mắt đặc quánh chảy vào miệng tôi, mặn và tanh như máu. Lời
đề nghị thành thực của tôi khiến chúng khó xử. Chúng lại nhìn nhau, đưa mắt dò
hỏi nhau. Tôi được thể, bốc lên:
- Tôi van các ông, cho tôi rảnh nợ đi, giết kiểu nào cũng được,
miễn là nhanh, đừng hành hạ tôi?
- Mày tưởng chúng ông không dám giết mày phỏng? - Vu Vân Vũ
bóp cằm tôi băng những ngón tay cứng như thép, nhìn thẳng vào mắt tôi để uy hiếp.
Tôi nói:
- Tôi đâu dám, tôi đâu dám, tôi chỉ yêu cầu các ông nhanh
lên, giết tôi đi!
Vu Vân Vũ nói:
- Anh em, hôm nay dính vào cái thằng này, xem ra không giết
không được rồi Đã nói là làm, giết quách nó đi!
Quách Thu Sinh nói:
- Phải giết thì anh giết, tôi không nhúng vào
- Thằng ranh, mày định phản bội phải không? Vu Vân Vũ túm lấy
cánh tay Quách Thu Sinh mà lắc - Chúng ta như bốn con chuồn chuồn cột chung một
sợi chỉ, đừng ai nghĩ tới chuyện bỏ chạy? Mày mà chạy là tao tố cáo mày hiếp
dâm con bé dở người nhà họ Vương?
Ngụy Sùng Dê nói:
- Thôi, xin hai đại ca dùng cãi nhau nữa, ta đang giết người
mà? Nói thật nhé, bà già ở Tiểu Thạch Kiều là tớ giết đấy, tớ không có thù oán
gì với bà ta, chỉ là thử xem lưỡi dao của tớ có sắc không thôi. Trước kia tớ cứ
tưởng giết người là tốn sức lắm, thực ra hết sức đơn giản, tớ dùng con dao này
đâm vào bụng bà ta, con dao lút cán, như đâm vào tảng đậu phụ. Tớ rút lưỡi dao
ra thì bà ta đã chết, không kịp kêu một tiếng!
Nó liếc lưỡi dao vào quần, nói:
- Xem đây! - rồi chĩa mũi dao vào bụng tôi đâm tới.
Tôi khoan khoái nhắm mắt lại, hình dung máu tươi vọt ra từ bụng
tôi bắn vào mặt chúng. Chúng chạy đến bên mép nước, xắn quần xắn áo rửa máu
trên mặt. Nước đầm mà chúng vốc lên quánh như mật mía, không những không sạch
máu, mà làm cho mặt càng bẩn thêm. Cùng với máu vọt ra, ruột của tôi cũng đùn
ra một đống, trườn qua vạt cỏ rơi xuống lòng mương. Rồi sau đó là mẹ vừa kêu
gào vừa nhảy xuống nước vớt ruột tôi lên vắt từng vòng trên cánh tay, vừa vắt vừa
đi tới trước mặt tôi, thờ phì phò vì nặng. Mẹ nhìn tôi đau xót, hỏi: - Con ơi,
con làm sao thế này? - Mẹ, chúng nó giết con rồi? Nước mắt mẹ rơi lã chã trên mặt
tôi. Mẹ quì xuống, nhét từng khúc ruột vào bụng tôi, nhưng chúng ương ngạnh,
nhét vào lại chui ra. Mẹ bực phát khóc, nhưng cuối cùng cũng nhét hết ruột vào
trong bụng, rồi mẹ lấy kim chỉ cài trên mái tóc xuống khâu vết thương lại như
người ta khâu quần áo. Tôi cảm thấy bụng đau nhói, mở mắt nhìn thì ra không phải
mơ ngủ, mà hiện thực sỗ sàng là tôi bị chúng đá ngã lăn dưới đất, bốn thằng vạch
chim đái vào mặt tôi, mặt đất bồng bềnh quay đảo tôi cảm thấy thân thể tôi như
dầm trong nước.
- Cậu ơi cậu!
- Cậu ơi, cậu!
Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa đứa giọng cao đứa giọng thấp vang
lên từ phía sau bụi tì ma. Tôi mở miệng định gọi chúng nó thì miệng tôi đã đầy
nước dái. Bọn Vu Vân Vũ vội kéo quần lên, nấp trong bụi tì ma.
Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa như một cặp Kim Đồng Ngọc Nữ, đứng
bên cầu ghép bằng cây cao lương mà gọi. Tiếng gọi vang xa khắp cánh đồng, khiến
tôi thấy mủi lòng, nghèn nghẹn trong họng. Tôi lồm cồm bò dậy, chưa đứng vững
đã lại gục xuống. Tôi nghe thấy tiếng reo phấn khởi của Sa Tảo Hoa:
- Đây rồi! Hai đứa xốc nách tôi đứng dậy, người tôi cứ lắc lư
như con lật đật. Sa Tảo Hoa nhìn mặt tôi òa khóc. Tư Mã Lương sờ mông toi, tôi
rên lên đau đớn. Nó nhìn bàn tay dính máu và nhựa của roi dâu, nghiến răng nói:
- Cậu ơi ai đánh cậu đến nông nỗi này?
- Chúng nó... - Tôi nói.
- Chúng nó là ai?
- Vu Vân Vũ, Ngụy Sừng Dê, Đinh Kim Câu và thằng Quách Thu
Sinh!
Tư Mã Lương nói:
- Cậu ơi, ta hãy về nhà đã, ngoại đang cuống lên ở nhà. Thằng
Vân Vũ, thằng Sừng Dê, thằng Kim Câu, thằng Thu Sinh kia, bốn thằng khốn kiếp
hãy nghe đây, chúng mày có thể trốn hôm nay, nhưng không trốn được ngày mai, trốn
được mồng một nhưng không trốn được ngày rằm! Chúng mày nhổ một lông chân của cậu
tao, thì tao sẽ dòng cọc vào nhà chúng mày!
Tư Mã Lương nói chưa dứt lời, bốn thằng kia vừa cười ha hả vừa
nhảy ra.
- Đ. mẹ! - Vu Vân Vũ nói - Thằng lỏi này ở đâu ra mà phét lác
dữ thế? Chúng nhặt những cành liễu giờ đây đã tướp như xơ mướp, hè nhau xông tới
như bầy chó dữ.
- Tảo Hoa, dìu cậu Kim Đồng? - Tư Mã Lương gọi to, dẩy tôi
ra, xông tới trước mặt những tên cao to hơn nó nhiều. Bọn kia giật mình trước
tinh thần quyết tử của nó. Không đợi chúng đánh tới, cái đầu răn như đá của Tư
Mã Lương đã húc trúng bụng dưới của Ngụy Sừng Dê. Thằng cha hung bạo, luôn miệng
chửi thề này gục xuống cuộn tròn như một con nhím. Ba thằng kia múa roi vun vút
xông tới. Tư Mã Lương hai tay che đầu, quay mình chạy, bọn kia rượt theo. Tư Mã
Lương quả đã thành công trong việc khơi dậy sự hung hăng của bọn lưu manh. So với
sự nhu nhược, nhũn như con chi chi của Kim Đồng thì con sói con Tư Mã Lương thú
vị hơn nhiều. Bọn Vu Vân Vũ vừa quát tháo vừa đuổi theo, chúng mở cuộc truy
kích trên đồng cỏ. Nếu như Tư Mã Lương là con sói con, thì bọn Vu Vân Vũ to xác
nhưng chậm chạp như những con chó nhà. Thằng Ngụy Sừng Dê là con vật lai giữa
chó sói và chó nhà, vì vậy nó là đối tượng đả kích số một của Tư Mã Lương. Đánh
quị Ngụy Sùng Dê là đánh quị đầu não của lũ chó. Tư Mã Lương chạy lúc nhanh lúc
chậm và áp dụng chiến thuật như đối với quỉ nhập tràng, luôn luôn rẽ ngoặt, khiến
chúng luôn luôn bị hẫng. Vì nôn nóng, chúng đã mấy bận trượt ngã, có lút đến đầu
gối rẽ ra dưới chân chúng. Từng đàn thỏ đồng nhỏ bằng nắm tay kinh hoàng chạy
tán loạn, một con không kịp tránh, bị Vu Vân Vũ xéo lòi ruột. Tư Mã Lương không
phải chỉ có chạy, trong khi chạy, nó có những lần đánh lại. Nó rẽ ngoặt gấp để
bứt bọn kia một khoảng cách, rồi tấn công chớp nhoáng một trong ba tên, ném bùn
vào mặt Đinh Kim Câu, cắn rách mu bàn tay Vu Vân Vũ. Nó còn vận dụng chiến thuật
của cô hiếng, tóm lấy hạ bộ của thằng Quách Thu Sinh mà bóp. Ba thằng kia đểu bị
thương, Tư Mã Lương cũng bị chúng vụt trúng đầu mấy lần. Chúng chạy chậm dần,
Tư Mã Lương rút về phía cầu. Ba tên tụm lại một chỗ, miệng sùi bọt thở như kéo
bễ, vừa đuổi vừa dè chừng Tư Mã Lương. Thằng Ngụy Sùng Dê đã thở được hắn cong
lưng như một con mèo ngồi dậy rồi từ từ đứng lên tìm con dao. Con dao rơi xuống
bãi cỏ.
- Đ. mẹ mày, cái giống Hoàn Hương Đoàn, tao không thịt mày
thì chớ kể!
Hắn vừa lúi húi tìm con dao vừa chửi một mình, lòng trắng
trong mắt hắn đầy những tia máu. Sa Tảo Hoa nhanh như con sóc, nhảy tới chộp lấy
con dao, rồi hai tay cầm cán dao, nó chạy lại sau lưng tôi. Ngụy Sùng Dê đứng
thẳng lên chìa tay ra dọa:
- Con nhà Hán gian, trả dao cho tao!
Sa Tảo Hoa không nói gì, dùng mông hẩy tôi đi giật lùi. Nó
nhìn không chớp những chai tay trên bàn tay thằng Sừng Dê. Thằng Sừng Dê mấy lần
nhào tới nhưng vội lùi lại vì sợ con dao sắc trong tay Tảo Hoa. Tư Mã Lương đã
chạy về chỗ đầu cầu. Vu Vân Vũ gọi to:
- Đ. mẹ thằng Sừng Dê, lại đây mau, dập chết con thằng Hoàn
Hương Đoàn này!
Ngụy Sừng Dê hậm hực:
- Lát nữa sẽ cho con ranh biết tay! Nó định nhổ một cây tì ma
làm vũ khí, nhưng cây tì ma to quá, không nhổ được. Nó đành bẻ lấy một cành chạy
về chỗ cây cầu.
Sa Tảo Hoa bám sát tôi, bảo vệ tôi qua cầu. Dưới cầu hẹp lại
nên trông rõ nước chảy, những con cá nho thấy động nhảy lung tung, con nhảy
qua, con mắc cạn trên mặt cầu, cong người giẫy tanh tách. Tôi cảm thấy dính
nhơm nhớp giữa hai dùi, những chỗ bị đánh ở lưng, mông, bắp chân và gáy rát như
chèm lửa. Tôi cảm thấy mùi tanh lợm của rỉ sắt trong miệng, mỗi bước đi lại loạng
choạng chỉ chục ngã, không muốn mà tự nhiên cứ rên rỉ. Cánh tay tôi quàng trên
vai gầy của Sa Tảo Hoa, tôi muốn đứng thẳng lên giảm bớt gánh nặng cho nó nhưng
không làm nổi.
Tư Mã Lương chạy thong thả trên con đường về thôn. Đằng sau
đuổi nhanh thì nó chạy nhanh, đuổi chậm, nó chạy chậm. Nó giữ một khoảng cách để
bọn kia không nản lòng nhưng cũng không tóm được nó. Hơi nước ngùn ngụt bốc lên
từ những thửa ruộng hai bên đường nhuộm đỏ bởi ráng chiều, ếch nhái kêu ộp oạp
dưới mương rãnh. Ngụy Sùng Dê nói nhỏ điều gì đó với Vu Vân Vũ, chúng bèn chia
làm ba ngả. Ngụy Sừng Dê và Đinh Kim Câu lội qua con mương hai bên đường, mỗi đứa
tấn công một mũi. Vu Vân Vũ và Quách Thu Sinh đuổi chậm lại, quát to:
- Tư Mã Lương, bỏ chạy không phải hảo hán, có giỏi thì đứng lại
chơi nhau một trận!
- Anh Lương, chạy mau lên! - Sa Tảo Hoa gọi to - Đừng mắc lừa
chúng nó!
- Con ranh! - Vu Vân Vũ ngoảnh lại, giơ nắm dấm lên, quát -
Tao đập chết mày bây giờ?
Sa Tảo Hoa dũng cảm chặn đường bọn chúng, con dao thủ trong
tay, nói:
- Lại đây, tao không sợ chúng mày!
Vu Vân Vũ xông tới trước mặt chúng tôi. Sa Tảo Hoa dùng mông
đẩy tôi lùi lại. Tư Mã Lương quay lại quát to:
- Thằng chốc đầu kia, mày đụng vào nó dù chỉ một ngón tay, là
tao bỏ thuốc độc giết chết con vợ bán đậu phụ của mày!
- Anh ơi, chạy mau đi! - Sa Tảo Hoa nói to - Hai thằng chó Sừng
Dê và Kim Câu đang chặn đường về của anh đấy!
Tư Mã Lương dừng lại, nó lâm vào tình trạng tiến thoái lưỡng
nan. Cũng có thể nó cố ý dừng lại. Nó dừng, Vu Vân Vũ và Quách Thu Sinh cũng dừng.
Ngụy Sừng Dê và Đinh Kim Câu lại lội qua mương trèo lên mặt đường, bùn đen bám
đầy hai chân chúng. Chúng thận trọng áp sát như người ta dồn thú dữ. Tư Mã
Lương vẫn đứng yên bất động, lại còn làm ra vẻ ung dung dùng tay áo lau mồ hôi
trên trán. Lúc này, từ phía thôn vẳng lại tiếng gọi của mẹ. Tư Mã Lương nhảy xuống
mương rồi chạy theo con đường một bên là ruộng cao lương, một bên là ruộng ngô.
Ngụy Sùng Dê phấn khởi la to:
- Hay rồi, anh em ơi, đuổi mau!
Chúng nhảy xuống lòng mương lội lõm bõm như vịt sang bờ bên
kia, đuổi theo. Ngô và cao lương giao nhau, che khuất con đường, chúng tôi chỉ
nghe thấy tiếng rẽ lá soàn soạt và tiếng chúng nó sủa như chó.
- Cậu ở đây chờ ngoại, để cháu đi giúp anh Lương!
Tôi nói:
- Tảo Hoa, tôi sợ!
- Cậu đừng sợ, ngoại đến bây giờ. Ngoại ơi! - nó gọi to -
chúng nó định giết anh Lương!
Tôi gọi:
- Mẹ ơi, con ở đây, con ở đây!...
Sa Tảo Hoa dũng cảm nhảy xuống mương, nước ngập đến ngang ngực.
Nó vùng vẫy trên mặt nước ngầu bọt. Tôi lo nó chết đuối, nhưng nó đã lội sang bờ
bên kia, tay vẫn cầm con dao, hai chân lút trong bùn đen. Giày của nó mắc kẹt
dưới bùn. Nó chui vào con đường nhỏ, thoáng cái đã mất hút.
Mẹ lồng lên như con trâu nái bảo vệ con, huỳnh huỵch chạy tới,
tóc mẹ ánh lên màu vàng, da mặt cũng phảng phất một màu vàng.
- Mẹ ơi! - tôi kêu lên, khóc hết số nước mắt còn lại. Tôi
không đứng vững được nữa, loạng choạng ngã vào lòng mẹ.
Mẹ khóc, hỏi tôi:
- Con trai của mẹ, đứa nào đánh con đến nông nỗi này?
- Vu Vân Vũ, Ngụy Sùng Dê... - Tôi vừa khóc vừa nói.
- Đồ kẻ cướp! - mẹ gầm lên, hỏi tôi - Chúng nó đâu rồi?
- Chúng nó đuổi theo Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa - tôi chỉ sang
con đường.
Từng đám hơi nước bốc lên từ phía bên kia đường tạt sang,
trong khoảng sâu tít tắp có tiếng động vật kêu, tiếng va chạm khi đánh nhau và
tiếng kêu lanh lảnh của Tảo Hoa.
Mẹ nhìn về phía thôn, sương mù dày đặc đã che lấp tất cả Tiếng
chó nhà sủa nghe như vọng từ đáy nước lên. Mẹ kéo tôi lội xuống mương, nước âm ấm
như dầu bôi trục xe thấm ngược từ dưới lên. Người mẹ to lớn, hai bàn chân lại
quá nhỏ, lội bùn cực kỳ vất vả. Mẹ phải bám những bụi cỏ ở bờ mương mới trèo
lên được.
Mẹ kéo tôi chạy theo con đường mòn. Chúng tôi phải khom người
mà chạy vì nếu đứng thẳng lên, lá lau sẽ cứa đứt mặt, thậm chí có thể mù mắt.
Hai bên vệ đường mọc đầy cỏ rậm, những cây tật lê bò cả ra mặt dương, gai nhọn
hoắt đâm thủng bàn chân. Tôi rên rỉ đau đớn, những vết thương bị thấm nước rát
như phải bỏng, đã mấy bận tôi ngã lăn ra, nhưng cánh tay lực lưỡng của mẹ lại
lôi tôi dậy. ánh sáng mờ mờ, trên cánh đồng hoa màu bạt ngàn hình như có những
quái vật bé tí xíu đang nhảy múa, mắt xanh lè, lưỡi đỏ chót, mũi thở phì phì.
Tôi như lạc xuống âm phủ trong truyện cổ tích, mà người lôi tôi xuống thì thở
như trâu, bất chấp tất cả, cứ thế mà xông tới. Lẽ nào đây lại là mẹ tôi? Hay là
quỉ sứ giả dạng làm mẹ để lôi tôi xuống địa ngục? Tôi thử giằng tay ra, nhưng kết
quả là tay tôi bị nắm chặt hơn.
Con đường đáng sợ rồi cũng sáng sủa ra. Hai bên đường vẫn là
những cánh đồng cao lương nối tiếp, một khoảng đất hoang hiện ra ở phía bắc. Mặt
trời lặn hẳn, dế kêu rỉ rả như một dàn đại hợp xướng. Một chiếc lò gạch bỏ
hoang chờ đón chúng tôi với tường lò đỏ như tiết gà. Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa
đang đánh du kích với bốn thằng ác ôn sau mấy đống gạch vụn mà mỗi bên đều lấy
làm bình phong rồi ném nhau bằng gạch vỡ. Rõ ràng là Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa
lâm vào thế yếu. Lực lượng đã mỏng, lại yếu tay, so với bốn thằng lực lưỡng,
ném cấp tập như mưa, hai đứa khó mà chống nổi. Mẹ quát to:
- Dừng lại, bọn súc sinh quen thói hiếp đáp kia!
Bốn thằng đang say máu, không thèm đếm xỉa những lời cảnh cáo
của mẹ. Chúng vừa tiếp tục ném, vừa triển khai thành hai gọng kìm bao vây Tư Mã
Lương và Sa Tảo Hoa. Tư Mã Lương kéo Sa Tảo Hoa chạy về phía lò gạch. Một cú gạch
ném trúng đầu Sa Tảo Hoa. Nó ối lên một tiếng, nẩy đom đóm mắt nhưng tay vẫn giữ
chặt con dao. Tư Mã Lương hai tay hai viên gạch vỡ, nhảy qua gờ tường ra phía
ngoài, nhằm bọn kia mà ném. Mẹ giấu tôi trong vạt cao lương, rồi hai cánh tay
vung vẩy như múa ương ca, mẹ xông lên! Giày của mẹ đã mắc kẹt trong bùn, hai
bàn chân bé tí nhún nhảy trên mặt đất một cách đáng thương, gót chân hằn trên mặt
đất những vết lõm tròn tròn, nông choẹt.
Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa đã hiện ra ở bức tường đổ, chúng dắt
tay nhau chạy về phía lò gạch. Mặt trăng đỏ như máu đã nhô lên, bóng hai đứa đổ
dài trên mặt đất. Bóng của bốn thằng ác ôn càng dài hơn. Chúng chạy nhanh như gắn
lò xo vào chân, bứt khỏi mẹ một quãng khá xa. Tư Mã Lương vì vướng Sa Tảo Hoa
nên không thể chạy nhanh, đến bãi đất trống trước lò gạch thì bị Ngụy Sừng Dê
ném trúng một gạch, ngã lăn ra. Sa Tảo Hoa giơ dao nhằm Ngụy Sừng Dê đâm tới.
Ngụy Sừng Dê tránh được, Vu Vân Vũ đá Sa Tảo Hoa ngã lăn ra.
Mẹ quát to:
- Dừng lại!
Bốn thằng ác ôn khuỳnh tay như bốn con kền kền đi trên mặt đất,
tám chân cùng đá Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa. Sa Tảo Hoa gào khóc, Tư Mã Lương cắn
răng không kêu một tiếng. Cả hai đứa lăn lộn trên mặt đất. Dưới ánh trăng, bốn
thằng ác ôn trông như bốn con ác quỉ đang nhảy múa.
Mẹ vấp ngã nhưng chồm dậy ngay, hai tay túm chặt vai Ngụy Sừng
Dê. Thằng này đánh mẹ một cú rất hiểm: thúc cả hai cùi tay ra phía sau trúng
hai vú của mẹ. Mẹ rú lên một tiếng, loạng choạng giật lùi rồi ngã ngồi dưới đất.
Tôi ngã sấp, mặt dính đầy đất, cảm thấy máu rỉ ra từ khóe mắt của tôi.
Chúng tiếp tục đá Tư Mã Lương, mức độ điên cuồng vượt xa một
cuộc đánh lộn. Giữa cái chết và cái sống của Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa chỉ còn
trong khoảnh khắc. Chính khi đó, một người to như hộ pháp, tóc rối bù, mặt đầy
bụi than, đen nhẻm từ đầu đến chân, từ trong chiếc lò gạch đổ nát chui ra. Vụng
về như một con gấu, người ấy giơ nắm dấm hộ pháp lên, và chỉ một dấm đã gãy
xương quai xanh thằng Vu Vân Vũ. Thế là người anh hùng ngã ngồi xuống đất, rú
lên như con lợn bị chọc tiết. Ba thằng kia vội dùng lại, Ngụy Sùng Dê kinh
hoàng kêu:
- Tư Mã Khố!
Nó định bỏ chạy thì một tiếng gầm như sấm khiến nó chững lại.
Tư Mã Khố giơ nắm đấm thép lên, cú thứ nhất đấm lòi con ngươi Đinh Kim Câu, cú
thứ hai: Quách Thu Sinh nôn ra mật xanh mật vàng. Quả đấm thứ ba chưa giơ lên,
thằng Ngụy Sừng Dê quì sụp xuống vái như bổ củi:
- Xin ông tha cho con, con bị chúng nó ép buộc, không theo
thì chúng nó đánh chết. Chúng đã đánh con chảy cả máu răng, xin ông tha cho
con!
Tư Mã Khố do dự một thoáng rồi đá cho Ngụy Sừng Dê một đá. Ngụy
Sùng Dê theo đà lăn đi một quãng rồi lủi nhanh như thỏ. Rất nhanh, trên con đường
về thôn vang lên tiếng kêu như chó sủa của nó:
- Bắt lấy Tư Mã Khố!... Thằng đầu sỏ Hoàn Hương Đoàn Tư Mã Khố
đã về!
- Bắt lấy Tư Mã Khố!
Ttr Mã Khố kéo Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa dậy, rồi đỡ mẹ dậy.
Mẹ ấp úng hỏi:
- Anh là người hay là ma?
- Thưa nhạc mẫu... - Tư Mã Khố giọng nghẹn lại, nhưng không
khóc.
Tư Mã Lương kêu to: - Bố ơi, có phải bố đấy không?
Tư Mã Khố nói:
- Con trai của ta, con giỏi lắm! - Thưa mẹ, ở nhà còn những
ai? - Tư Mã Khố hỏi mẹ.
- Anh đừng hỏi thêm gì nữa? - mẹ sốt ruột giục - Chạy đi!
Tiếng thanh la dồn dập từ phía thôn vọng đến.
Tư Mã Khố túm ngực Vu Vân Vũ, dằn từng tiếng:
- Thằng súc sinh, nói lại với bọn đốn mạt rằng, thằng nào dám
đụng vào người nhà Tư Mã Khố thì ta sẽ làm cỏ cả nhà nó! Mày nhớ lời ta dặn
chưa?
- Cháu nhớ, cháu nhớ rồi! - Vu Vân Vũ vâng dạ luôn miệng.
Tư Mã Khố vừa buông tay, Vu Vân Vũ đã sóng soài trên mặt đất.
Trời ơi, chạy mau đi... - Mẹ vỗ tay bồm bộp xuống đất, cuống
quít giục.
Tư Mã Lương vừa khóc vừa bảo Tư Mã Khố:
- Bố ơi, cho con theo bố?
Tư Mã Khố nói: - Con yêu, con phải ở lại với bà ngoại!
Tư Mã Lương nói: - Bố, con xin bố, bố đem con đi theo!
Mẹ nói:
- Lương con, đừng quẩn chân bố con, để cho bố đi.
Tư Mã Khố quì sụp trước mặt mẹ lạy một lạy, giọng thê thảm:
- Mẹ, xin gửi cháu cho mẹ. Tư Mã Khố con chịu ơn mẹ, kiếp này
không trả được thì xin để kiếp sau.
Mẹ vừa khóc vừa nói:
- Tôi không bảo vệ được con Phượng, con Hoàng, xin anh đừng
oán tôi!
Tư Mã Khố nói:
- Con không oán mẹ, con đã báo thù cho chúng nó rồi!
Mẹ bảo:
- Đi đi, đi cho thật xa, oán thù càng báo càng sâu!
Tư Mã Khố đứng dậy, chui vào trong lò gạch. Khi trở ra, trên
mình khoác áo tơi, trước bụng đeo khẩu trung liên, dây đạn vàng chóe quấn quanh
bụng. Thoắt một cái anh đã khuất sau những dãy cây cao lương. Tiếng rẽ lá sột
soạt Mẹ gọi với theo:
- Anh nghe lời tôi, cao chạy xa bay, không nên giết bừa bãi!
Cánh đồng im ắng. ánh trăng như nước từ trên cao tràn xuống.
Rồi tiếng người ồn ào từ phía thôn ngày càng rõ.
Do Ngụy Sừng Dê dẫn đường, các dân quân thôn và công an khu
xách đèn lồng, cầm đuốc, vác súng vác đao hè nhau chạy tới chỗ lò gạch bỏ
hoang, hùng hổ dàn quân bao vây. Viên công an có một chân giả bằng nhựa, nấp
sau một đống gạch vụn, nói qua loa sắt tây:
- Tư Mã Khố, đầu hàng đi! Chạy không thoát đâu? Loa gọi hồi
lâu, bên trong lò gạch vẫn im ắng. Viên công an rút khẩu pạc-hoọc bắn liền hai
phát vào trong vòm lò, tiếng đội trở lại chói tai.
- Đem lựu đạn lại đây - Công an Dương gọi với ra phía sau.
Một dân quân bụng sát đất trơn tới như con giun, móc thắt
lưng lấy hai quả lựu đạn đưa cho viên công an. Anh ta móc dây giật nụ xòe lồng
vào ngón tay rồi nghiêng người ném quả lựu đạn vào trong lò. Ném xong, anh ta nằm
bẹp xuống chờ đợi tiếng nổ. Quả lựu đạn nổ trong lò. Anh ta ném tiếp quả thứ
hai, cũng nổ. Dư âm của tiếng nổ đã hết, trong lò càng im ắng. Viên công an gọi
loa:
- Tư Mã Khố, đầu hàng thì không giết! Chúng tôi có chính sách
khoan hồng đối với tù binh! Trả lời, chỉ có tiếng dế kêu đứt quãng và dàn hợp
xướng của ếch nhái ngoài đồng.
Viên công an mạnh dạn hẳn lên, tay đèn pin, tay pạc-hoọc, gọi
phía sau:
- Theo tôi? Hai dân quân bạo gan, một người cầm súng trường,
một người cầm cây đao dài có ngù đỏ, lom khom chạy theo sau viên công an. Viên
công an cứ mỗi bước đi, cái chân giả lại kêu cục một tiếng, đồng thời thân hình
anh ta lại vẹo đi một cái. Họ cứ vậy mà chui vào trong lò, bình yên vô sự. Lát
sau, họ chui ra.
- Ngụy Sùng Dê! - Viên công an gầm lên - Nó đâu?
Ngụy Sừng Dê nói: - Cháu xin thề có trời đất, Tư Mã Khố đúng
là từ trong lò này chui ra. Không tin, các chú hỏi họ mà xem!
- Có đúng là Tư Mã Khố hay không? - Công an Dương hỏi gặng Vu
Vân Vũ, Quách Thu Sinh, Đinh Kim Câu đã ngất xỉu dưới đất bằng một giọng ngao
ngán: - Hay là chúng mày nhìn lầm?
Vu Vân Vũ nơm nớp nhìn ra cánh đồng cao lương:
- Hình như...
- Chỉ một mình hắn hả? - Viên công an gặng hỏi.
- Chỉ mỗi mình hắn!
- Có đem theo vũ khí gì không?
- Hình như ôm một khẩu trung liên, người quấn đầy dạn...
Vu Vân Vũ chưa nói hết câu, công an Dương và tất cả dân quân
đều nằm rạp xuống như cỏ bị phạt gốc.
6
Triển lãm giáo dục giai cấp được tổ chức trong nhà thờ. Từng
đoàn dài học sinh vừa bước tới cổng thì như tuân theo một mệnh lệnh, tất cả cất
tiếng khóc. Trường tiểu học Đại Lan đã mở rộng thành trường tiểu học trung tâm
vùng Cao Mật, do vậy tiếng khóc của mấy trăm học sinh chấn động cả một đường phố.
Hiệu trưởng mới, một phụ nữ trung niên có khuôn mặt khắc khổ, một nốt ruồi mọc
lông ở cằm, đứng trên bậc tam cấp của nhà thờ, lớn tiếng khuyên các học sinh bằng
một giọng không phải vùng Cao Mật:
Bà ta rút khăn mùi soa màu nâu chấm nước mắt và hỉ mũi thật
to.
Hàng ngũ học sinh đã ngừng khóc, nối đuôi nhau đi vào nhà thờ,
đứng chen chúc trong một hình vuông vẽ bằng phấn, để chừa một hành lang dọc
theo bức tường. Trên tường treo rất nhiều tranh bằng bột màu, dưới mỗi bức đều
có những câu chú thích.
Bốn cô thuyết minh đứng ở bốn góc tường, trong tay đều cầm
thước kẻ bảng.
Cô thuyết minh thứ nhất là cô Quỳnh Chi, cô giáo dạy âm nhạc
của chúng tôi. Cô bị kỷ luật vì đánh học sinh. Mặt cô hơi tái, ánh mắt tối sầm
trong cặp mắt vốn rất đẹp. Trưởng khu mới vai đeo súng, đứng trên bục giảng của
mục sư Malôa. Cô Quỳnh Chi dùng thước chỉ vào từng bức tranh, đọc to những hàng
chữ chú thích ở dưới bằng giọng tiêu chuẩn. Hơn mười bức tranh dầu, giới thiệu
địa lý tự nhiên, lịch sử và tình hình xã hội trước giải phóng của vùng Cao Mật.
Sau đó là một tranh vẽ một lũ rắn độc thè lưỡi đỏ chót, trên đầu mỗi con đều
chú một tên người, trong đó con rắn đeo kính đầu to quá cỡ ghi chú tên bố đẻ Tư
Mã Đình và Tư Mã Khố. Dưới sự bóc lột tàn khốc của những con rắn độc, cô Quỳnh
Chi đọc một cách trơn tru và vô cảm nhân dân Cao Mật sống trong cảnh nước sôi lửa
bỏng, cuộc đời như trâu ngựa. Cô chỉ một bức tranh vẽ một bà già mặt như mặt lạc
đà, tay khoác chiếc làn rách, lê cây gậy đánh chó, bám vạt áo bà già là một bé
gái gầy như một con khỉ, góc bên trái bức tranh vẽ những nét phẩy màu đen và những
lá cây khô quắt, biểu thị gió rét căm căm. Rất nhiều gia đình tha phương cầu thực,
sống kiếp ăn mày, bị chó nhà địa chủ cắn, máu me đầm đìa Cô Quỳnh Chi vừa nói vừa
giơ thước chỉ một tranh khác: Hai cánh cổng đen sì hé mở, phía trên cổng là tấm
biển khắc ba chữ vàng Phục Sinh Đường. Từ chỗ khe cửa, ló ra cái đầu đội mũ quả
dưa chỏm đỏ, tất nhiên đó là tên địa chủ tác oai tác phúc trong vùng. Điều kỳ lạ
là tên địa chủ được vẽ với khuôn mặt trắng như mâm bột, mắt sáng như sao, không
đáng ghét mà còn đáng yêu. Một con chó vàng to bự đang cắn xé một em trai. Lúc
này, một nữ sinh bắt đấu sụt sịt khóc, bạn ấy người thôn Sa Khẩu, là một cô gái
mười bảy mười tám, năm nay mới học lớp hai. Các học sinh tò mò nhìn cô ta, cố
hiểu vì sao cô khóc. Một người trong đám học sinh vung tay hô khẩu hiệu làm đứt
đoạn lời thuyết minh của cô Quỳnh Chi. Cô chống thước, kiên nhẫn chờ đợi. Cái
người hô khẩu hiệu kia cất giọng ồm ồm gào khóc, nhưng mắt thì ráo hoảnh, lòng
trắng đầy những tia máu. Tôi liếc nhìn các bạn học đứng bên cạnh, họ đều khóc rất
to, khóc như thủy triều, đợt sau tiếp theo đợt trước. Ông hiệu trưởng đứng ở một
chỗ nổi bật, che toàn bộ khuôn mặt bằng chiếc khăn tay màu nâu, tay trái nắm lại
đấm thình thịch vào ngực. Thằng Trương Trung Quang đứng bên cạnh tôi, mặt bôi đầy
nước dãi, hai tay luân phiên đấm vào ngực, không hiểu nó căm thù hay đau xót?
Gia đình nó được qui là cố nông, nhưng ở chợ Đại Lan trước ngày giải phóng tôi
thường gặp con trai của vị cố nông này đi theo cha nó kiếm ăn bằng nghề cờ bạc,
hai tay bê một gói thịt lợn quay gói bằng lá sen tươi, mỗi bước lại ngoạm một
miếng, mỡ lợn dính đầy hai bên mép và cả trên trán nó. Khi ngoạm miếng thịt, miệng
nó há rất to, dãi dớt chảy xuống tận cằm. Bên phải tôi là một đứa con gái phốp
pháp, hai bàn tay đều có ngón thừa mọc ở phía ngoài ngón tay cái. Hình như tên
nó là Đỗ Tranh Tranh, nhưng chúng tôi đều gọi nó là Đỗ Lục Lục. Nó hai tay ôm mặt,
tiếng khóc cục cục như chim câu mới ra ràng, hai ngón tay thừa ve vẩy như đuôi
lợn con, hai ánh mắt thâm hiểm lọt qua kẽ tay. Thật tình, tôi trông thấy rất
nhiều bạn học khóc thật sự. Mọi người rất quí những giọt nước mắt, không ai nỡ
lau đi. Tôi quả thực rặn không ra một giọt nước mắt và không thể hiểu chỉ mấy bức
tranh nguệch ngoạc khiến các bạn học đau xót đến thế? Để không bị lộ, vì tôi thấy
đã mấy lần Đỗ Lục Lục đưa mắt về phía tôi, vẻ dò xét. Nó thù tôi đến tận xương
tủy, tôi biết thế. Nó với tôi ngồi cùng một ghế trong lớp học ban đêm, nó đã từng
đưa bàn tay sáu ngón của nó sờ đùi tôi, trong khi miệng nó vẫn đọc theo sự chỉ
dẫn của cô giáo. Khi đó, tôi hốt hoảng đứng lên, bị cô giáo phê bình vì làm mất
trật tự trong giờ học. Tôi nói rõ sự việc, tất nhiên đó là một cử chỉ hèn hạ,
vì đã là thằng đàn ông thì không nên từ chối những cái ve vuốt của phụ nữ, mà
dù có từ chối thì cũng không nên tố cáo trước đám dông. Đây là điều mà mấy chục
năm sau tôi mới nhận thức được, thậm chí tôi còn cảm thấy hối hận, sao mình lại
không..
Nhưng khi đó, hai ngón tay thừa trông giống hai con tằm béo
múp míp khiến tôi sợ quá, mất hết hứng thú. Những lời tố cáo của tôi khiến nó
chỉ thiếu nước độn thổ, may mà đang giờ ôn tập buổi tối, ánh đèn mờ mờ, khoảng
sáng trước mặt mọi người chỉ bằng quả dưa hấu. Nó gục đầu xuống ngực, phía sau
nổi lên tiếng cười dâm đãng của bọn con trai. Nó biện bạch:
- Tôi không cố ý, tôi tìm cái tẩy để mượn!...
Tồi tệ hết chỗ nói, tôi bảo:
- Không, bạn ấy cố ý véo đùi tôi?
- Kim Đồng, thôi không nói nữa? - Cô Quỳnh Chi dạy nhạc kiêm
dạy ngữ văn nghiêm giọng nẹt tôi.
Từ đó, tôi trở thành kẻ thù của Đỗ Tranh Tranh. Một bận, tôi
thấy một con thạch sùng chết trong cặp, tôi nghi là Đỗ Tranh Tranh nhét vào.
Hôm nay, trong khung cảnh trang nghiêm này mà trên mặt tôi không có nước mắt hoặc
nước bọt sùi ra mép thì vấn đề trở nên nghiêm trọng vô cùng. Nếu như Đỗ Tranh
Tranh có ý định trả thù... hậu quả sẽ không thể lường được. Tôi giơ hai tay ôm
mặt, há miệng giả vờ khóc nhưng cũng không làm sao mà khóc được.
Cô Kỷ Quỳnh Chi bỗng cao giọng át cả những tiếng khóc, giai cấp
địa chủ phản động sống phè phỡn. Một Tư Mã Khố đã lấy bốn vợ! - cây thước trong
tay cô gõ bồm bộp trên bức tranh vẽ. Tư Mã Khố đầu sói mình gấu, hai cánh tay
dài ngoằng đầy lông lá đen sì ôm lấy bốn con yêu tinh: hai con bên trái đầu người
mình rắn; hai con bên phải đều mọc đuôi vàng như đuôi sóc, phía sau lúc nhúc một
đám tiểu yêu, rõ ràng là lớp con cháu của Tư Mã Khố. Thằng Tư Mã Lương, người
anh hùng mà tôi tôn thờ, chắc cũng trong số này, vậy tiểu yêu nào là Tư Mã Lương?
Phải chăng là con miêu tinh có hai tai mèo hình tam giác ở trước trán? Phải
chăng là con tinh chuột mặc áo đỏ, giơ hai vuốt trước bé xíu? Tôi cảm thấy ánh
mắt thâm hiểm của Đỗ Tranh Tranh lại liếc về phía tôi Vợ thứ tư của Tư Mã Khố -
cái thước của cô Quỳnh Chi chỉ vào người đàn bà có đuôi hồ ly - người ấy chính
là chị Hai Chiêu Đệ của tôi - cất giọng rất cao nhưng không một chút biểu cảm,
nói- Nó ăn chán sơn hào hải vị, cuối cùng chỉ thích ăn da của chân gà trống
choai. Vì sở thích này mà gà trống bị giết chất đống trong nhà Tư Mã Khố.
Bịa đặt? Chị Hai tôi ăn da gà hồi nào? Chị Hai không biết ăn
thịt gà, càng không có chuyện gà chết chất đống trong nhà Tư Mã Khố! Tôi đang
nhớ lại cảnh mình bị đánh đập tàn nhẫn, định mượn chuyện đó để rặn ra một ít nước
mắt. Nghĩ đến chuyện mẹ bị thằng Ngụy Sừng Dê thúc khuỷu tay ngã ngửa, sống mũi
tôi cay cay và nước mắt tự nhiên ứa ra. Họ nhục mạ chị Hai khiến tôi căm phẫn
và thấy oan uổng quá, cũng làm tôi chảy nước mắt. Vậy là nước mắt của tôi hàm
nghĩa rất phúc tạp, tôi chùi ngay không thương tiếc, nhưng nó vẫn tiếp tục ứa
ra.
Phần thuyết minh của cô Quỳnh Chi đã xong, cô lui sang bên mà
thở, vẻ mệt mỏi. Tiếp theo là cô giáo Sái mới từ tỉnh điều về. Cô có khuôn mặt
nhẹ nhõm, giọng trong vắt, chưa nói câu nào đã nước mắt ràn rụa. Phần này có
tiêu đề nảy lửa: Tội ác tày trời của bọn Hoàn Hương Đoàn. Như lúc dạy học sinh
tập đọc, cô dùng thước chỉ lần lượt từng chữ trên tiêu đề. Bức tranh thứ nhất:
Góc trên bên phải là một đám mây đen lấp ló vầng trăng lưỡi liềm, góc trên bên
trái là những lá khô kéo theo những phẩy đen, nhưng đây là chỉ gió thu chứ
không phải gió đông. Và dưới trời mây và vầng trăng ấy gió thu hiu hắt ấy, Tư
Mã Khố - ở đây là con sói khổng lồ đi đứng như người - ngoác miệng nhe hàm răng
lởm chởm, thè lưỡi đỏ lòm máu nhỏ giọt, mặc quân phục, dây đạn đeo chéo, từ ống
tay áo rộng thùng thình thò ra lưỡi dao bầu sút mẻ vì đâm chém nhiều. Đó là tay
trái. Tay phải cầm khẩu pạc-hoọc, mũi súng tóe lửa chứng tỏ đang bắn. Tư Mã Khố
không mặc quần, vạt áo dài trùm mông chỉ để lộ một cái đuôi sói to tướng dài quết
đất. Hai chân được vẽ rất thô không cân xứng với phần trên, không giống chân
sói mà to như chân trâu, có điều, không phải móng guốc mà là nanh vuốt của loài
sói. Sau lưng là một bầy thú vật hung hãn, kinh tởm, một con rắn đeo kính cổ cất
cao, lưỡi đỏ chót. - Đây là Thương Hi Lộ, tên phú nông phản động ở thôn Sa
Lương - Cô Sái dùng thước chỉ vào đầu con rắn đeo kính nói: - còn đây là... -
cô chỉ vào con chó hoang - tên địa chủ ác bá Đỗ Kim Nguyên ở thôn Sa Khẩu. Tất
nhiên Đỗ Kim Nguyên cũng kéo lê cây gậy dính đầy máu. Bên cạnh hắn là tên đầu gấu
Hồ Nhật Khuê ở thôn Vương Gia Khưu. Tên này cơ bản vẫn là hình người, chỉ có
khuôn mặt dài ngoằng như mặt lừa. Tên phú nông phản động Mã Thanh Vân ở đồn Hai
Huyện thì vụng về như một con gấu. Tóm lại, cả một bầy thú dữ, tay cầm vũ khí,
hùng hổ kéo vào Cao Mật. Bọn Hoàn Hương Đoàn đã tiến hành một cuộc trả thù đẫm
máu, chỉ trong mười ngày, bằng những thủ đoạn không thể tưởng tượng nổi, chúng
đã giết chết một ngàn ba trăm tám mười tám người - Cô Sái vừa nói vừa chỉ vào bức
tranh, nơi có một đám lổn nhổn chứng tỏ người bị giết.
Các học sinh lại bùng lên một trận gào khóc. Tiếp theo là những
bức tranh có cả hình vẽ lẫn ghi chú, trình bày như một cuốn từ điển về hình phạt
tàn khốc. Mấy bức đầu là những phương pháp truyền thống như chặt đầu, xử bắn.
Những bức sau là những hình thúc mới. - Đây là chôn sống - cô Sái chỉ vào một bức
nói. Qua cách gọi cũng hiểu, chôn sống là đem chôn người đang sống. Một cái hố
rất to, mấy chục người mặt vàng như nghệ đứng dưới hố, trên miệng hố lại là Tư
Mã Khố đang chỉ huy bọn Hoàn Hương Đoàn lấp đất.
- Theo lời tố cáo của bà Quách... - cô Sái đọc dòng chữ chú
thích bên dưới - bọn phỉ Hoàn Hương Đoàn khi chôn người đã mệt, chúng bắt những
nạn nhân tự đào huyệt để chôn lẫn nhau. Đất lấp đến ngực là không thở được nữa,
ngực như vỡ tung, máu dồn lên đầu. Lúc này, bọn Hoàn Hương Đoàn nhằm vào những
cái đầu mà nổ súng, máu trộn lẫn với óc vọt cao hàng thước.
Trên bức tranh, một cái đầu nhô trên mặt đất máu vọt cao tận
mép trên của tranh rồi tỏa ra như những hạt anh đào, rơi xuống. Cô Sái mặt nhọt
nhạt, hình như cô bị chóng mặt, tiếng khóc của học sinh rung chuyển cả mái nhà,
nhưng cho đến khi đó, mắt tôi vẫn ráo hoảnh.
- Theo thời gian ghi chú trên tranh, khi Tư Mã Khố dẫn bọn
Hoàn Hương Đoàn trở lại vùng Cao Mật tiến hành cuộc đại tàn sát, thì gia đình
tôi cùng với các cán bộ cách mạng và những phần tử tích cục rút lên miền duyên
hải đông bắc. Tư Mã Khố mà tàn bạo đến như vậy sao?...
Cô Sái quả thực đã ngất xỉu, đầu cô tựa vào cái hố chôn người
trong tranh, nơi vẽ một Hoàn Hương Đoàn đang cầm xẻng lấp đất trông như định lấp
đầu cô. Mặt cô đẫm mồ hôi, cô từ từ trượt theo tường, đầu miết trên bức tranh
khiến nó bật cả đanh ghim rơi phủ lên đầu cô, vôi vữa trên tường rơi xuống từng
mảng.
Trước sự kiện đột ngột này, các học sinh nín bặt. Vài cán bộ
khu chạy tới khênh cô Sái đi. Ông trưởng khu, một trung niên có cái bớt chiếm nửa
mặt, thân hình cân đối tay giữ khẩu pạc-hoọc kè kè bên hông, giọng nghiêm nghị:
- Các em học sinh, các đồng chí, sau đây chúng tôi mời bà
Quách kể lại những gì bà đã trải qua. Đi mời bà Quách? - Ông ta bảo mấy cán bộ
trẻ của khu.
Cán bộ khu chạy như bay qua chiếc cửa nhỏ thông sang phòng ở
của mục sư Malôa.
Một sự im lặng khác thường, im lặng đến khó chịu. Mọi người
dán mắt vào cánh cửa sơn đỏ đã phai màu, như đang đợi một diễn viên nổi tiếng
ra sân khấu. Im lặng, im lặng, rồi đột nhiên sự im lặng bị phá vỡ, một giọng
khóc dài lê thê từ trong vườn vọng ra, các học sinh gào khóc theo. Hai cán bộ
dùng mông đẩy cánh cửa dìu bà lão đi vào. Bà Quách tóc đã hoa râm, bịt miệng bằng
chiếc khăn rách, mặt ngửa lên, khóc như không còn thiết sống. Mọi người khóc
theo đến năm phút. Bà Quách bỏ khăn bịt miệng ra lau mặt, kéo lại vạt áo cho
ngay ngắn, nói:
- Các cháu đừng khóc nữa, người đã chết thì khóc cũng không sống
lại được, người sống thì phải tiếp tục sống!
Các học sinh ngưng khóc nhìn bà. Bà cảm thấy hơi bị gò bó,
tâm trí hoảng loạn, nói:
- Nói gì bây giờ? Chuyện đã qua, không nói là hơn.
Bà định bỏ đi, nhưng chủ nhiệm phụ nữ thôn Sa Lương là Cao Hồng
Anh ngăn lại:
- Bác ơi, bác đã đồng ý rồi cơ mà! Sao bây giờ lại giở chứng?
Rõ ràng là Cao Hồng Anh không bằng lòng. Trưởng khu đấu dịu,
nói:
- Bác kể bọn Hoàn Hương Đoàn chôn sống người như thế nào để
giáo dục các cháu đừng quên quá khứ. Quên quá khứ đồng nghĩa với phản bội, đồng
chí Lênin đã nói vậy. Đồng chí Lênin cho tôi nói thì tôi nói vậy.
- Đêm ấy là một đêm trăng tròn, có thể ngồi thêu dưới ánh
trăng. Trăng sáng đến như vậy quả ít thấy. Hồi còn nhỏ nghe người già nói có một
năm loạn lạc trăng cũng sáng như hôm nay. Tôi không sao ngủ ngon giấc, cảm thấy
sắp có chuyện xảy ra. Tôi định đến nhà bà Phúc Thắng ở ngõ tây để mượn cái mẫu
giày, nhân tiện bàn với bà ta về chuyện lấy vợ cho con trai. Tôi có một đứa
cháu gái đã đến tuổi lấy chồng. Tôi vừa ra khỏi cửa thì trông thấy thằng Sư tử
tay cầm đại đao sáng quắc áp giải vợ Tiến Tài, mẹ Tiến Tài và hai đứa con của
Tiến Tài, đứa lớn là con trai, khoảng bảy tám tuổi, đứa nhỏ là con gái, chỉ nhỉnh
hơn hai tuổi. Đứa lớn đi cùng bà, sợ quá khóc ti tỉ, đứa nhỏ thì vợ Tiến Tài bế
trên tay, cũng sợ quá khóc ti tỉ. Tiến Tài lệch hẳn một bên vai do bị chém một
nhát dao, máu mẹ đầm đìa, nhìn mà phát khiếp. Đi sau thằng Sư tử còn có ba người
đàn ông cao lớn trông có vẻ quen quen, đều cầm dao trong tay, mặt hầm hầm. Tôi
định lánh mặt nhưng đã muộn, thằng con hoang Sư tử đã trông thấy tôi. Tôi với mẹ
hắn là chị em họ. Nó hỏi:
- Có phải dì Quách đấy không?
Tôi hỏi: - Sư tử, anh về khi nào thế?
Nó nói:
- Đêm qua.
Tôi hỏi:
- Anh đang làm gì vậy?
Nó nói:
- Không làm gì cả, thu xếp chỗ ngủ cho gia đình này!
Tất nhiên tôi hiểu nói như vậy là có nghĩa xấu, bèn nói:
- Sư tử, đều là hàng xóm láng giềng, thù oán gì mà phải đến nỗi
như thế?
Nó nói:
- Không thù oán gì, bố tôi với nó không thù không oán, bố tôi
với bố nó còn là anh em kết nghĩa. Vậy mà nó vẫn treo cổ bố tôi lên cành cây,
tiêu tiền âm phủ.
Mẹ Tiến Tài nói:
- Cháu ơi, người anh em của cháu nhất thời mê muội, xin cháu
nể mặt già này mà tha cho nó, già này lạy cháu đấy!
Tiến Tài nói:
- Mẹ, không việc gì phải lạy, không cần xin xỏ nó?
Sư tử nói:
- Được, Tiến Tài, mày dáng mặt thằng đàn ông, không hổ là Đội
trưởng dân quân!
Tiến Tài nói:
- Mày không còn nhảy múa được mấy bữa nữa đâu!
Sư tử nói:
- Mày nói đúng, tao cũng chỉ được dăm bữa nửa tháng nữa là
cùng, nhưng đối phó với gia đình mày, tao chỉ cần đêm nay là đủ!
Tôi mượn thế người già, bảo Tiến Tài:
- Sư tử à, anh tha cho gia đình Tiến Tài nếu không, già không
coi anh là cháu nữa đâu?
Sư tử vằn mắt lên:
- Mẹ kiếp, ai là cháu của mụ? Đừng có nhận vơ! Năm xưa ta lỡ
dẫm chết con gà nhép của mụ, vậy mà mụ vụt gậy vào đầu ta.
Tôi nói: - Sư tử, anh không phải giống người!
Hắn quay lại nói với ba thằng kia:
- Anh em, hôm nay giết bao nhiêu rồi nhỉ?
Một thằng nói:
- Tính cả gia đình nhà này là chín mươi chín người!
- Này bà dì bắn moóc-chê không tới kia, phiền bà bổ sung vào
cho đủ một trăm?
Tôi run lên cầm cập, thằng con hoang này định giết tôi. Tôi bỏ
chạy nhưng chạy đâu cho thoát chúng nó. Thằng Sư tử không thân không sơ với ai
hết. Nó nghi vợ nó tằng tịu với người khác, bèn đánh bẫy lựu đạn ở bếp. Sáng
hôm sau mẹ nó dậy sóm xúc tro bếp, lựu đạn nổ, chết liền. Tôi quên bẵng chuyện
này nên mới lắm điều, vậy là thiệt vào thân! Chúng nó dẫn cả nhà Tiến Tài và
tôi đến bãi cát. Một thằng trong bọn đang đào hố chôn người. Cát dễ đào, chẳng
mấy chốc đã xong. ánh trăng vằng vặc nhìn rõ mọi vật, những cọng cỏ, những bông
hoa tí xíu, những con kiến, trông thấy tất. Thằng Sư tử đến bên miệng hố xem
xét rồi bảo:
- Anh em, đào sâu chút nữa, Tiến Tài nó cao đấy! Tên kia lại
đào thêm, cát ẩm được tiếp tục hất lên.
Sư tử hỏi:
- Tiến Tài, mi có nói gì không?
Tiến Tài nói:
- Sư tử, tao không xin xỏ mày, tao đã giết bố mày. Tao không
giết thì người khác cũng giết!
Sư tử nói:
- Bố tao ăn nhịn để dành được ít tiền buôn tôm cá cũng như bố
mày, dành dụm tậu được mấy mẫu ruộng. Bố mày không gặp may, bị kẻ cắp lấy sạch,
không còn đồng nào. Tao hỏi mày, vậy bố tao có tội gì?
Tiến Tài nói:
- Tậu ruộng, tậu ruộng là có tội.
Sư tử nói:
- Mày nói thực lòng tao xem nào, ai không muốn có ruộng?
Tiến Tài nói:
- Mày đừng hỏi tao làm gì, có hỏi tao cũng không trả lời được
Huyệt đào xong chưa?
Tên đào huyệt nói:
- Xong rồi!
Tiến Tài không nói gì, nhảy xuống, hố sâu đến cổ. Tiến Tài
nói:
- Sư tử, tao phải hô khẩu hiệu!
Sư tử nói:
- Mày cứ hô. Tao với mày là bạn từ thời mặc quần thủng đít
nên mày được ưu đãi đặc biệt, mày muốn hô gì thì hô.
Tiến Tài nghĩ một thoáng rồi giơ cánh tay không bị thương
lên, hô to: Đảng Cộng sản muôn năm! Đảng Cộng sản muôn năm, đảng Cộng sản muôn
muôn năm!. Hô ba lần rồi thôi. Sư tử hỏi:
- Không hô nữa à?
Tiến Tài nói:
- Không hô nữa!
Sư tử nói: - Hô nữa đi, giọng mày khỏe đấy?
Tiến Tài nói:
- Không hô nữa, chỉ hô ba lần là đủ rồi?
Sư tử nói:
- Vậy thì thôi! Nào bác - nó đẩy mẹ Tiến Tài một cái - xuống
đi!
Mẹ Tiến Tài quì sụp xuống lạy Sư tử. Sư tử giằng lấy chiếc xẻng
trong tay tên đào huyệt, và chỉ một nhát, hất bà già xuống hố. Những tên kia
cũng đẩy vợ con Tiến Tài xuống. Bọn trẻ khóc inh ỏi, vợ Tiến Tài cũng khóc. Tiến
Tài nổi giận nói: Đừng khóc, ngậm miệng lại, đừng để xấu mặt tôi? Vợ con anh ta
ngừng khóc.
- Tiểu đội trưởng, mụ này tính sao? Có chung một hố không?
Không đợi Sư tử trả lời, Tiến Tài đã quát to dưới hố:
- Sư tử, đã nói là cả nhà ta một hố, mày đừng cho ai xuống nữa.
Sư tử nói:
- Tiến Tài, mày yên tâm, tao hiểu ý của mày. Cho mụ già... -
Sư tử bảo tên kia - nói anh em, chịu khó đào hố khác cho mụ!
Bốn tên chia làm hai tốp, tốp đào huyệt cho tôi, tốp lấp huyệt
gia đình Tiến Tài.
Con gái Tiến Tài khóc:
- Mẹ ơi, cát đầy mắt con...
Vợ Tiến Tài kéo vạt áo chụp lên đầu con gái. Nó giãy giụa định
trèo lên lại bị chúng dùng xẻng hất xuống. Đứa con trai thì khóc ầm lên. Mẹ Tiến
Tài ngồi thụp xuống nên bị lấp rất nhanh. Bà hổn hển chửi: - Cộng sản ơi là cộng
sản, mẹ con tôi là chết trong tay các ông!
Sư tử nói:
- Sắp chết mới sáng mắt ra! Tiến Tài! Chỉ cần mày hô Đả đảo đảng
Cộng sản là tao để lại cho nhà mày một người làm giống, sau này còn có người
hương khói trước mồ.
Mẹ và vợ Tiến Tài vội giục:
- Hô đi, Tiến Tài, hô mau lên!
Tiến Tài mặt đầy cát, giương cặp mắt tròn xoe đáng mặt một
trang hảo hán, nói: - Không, tao không hô, tao vừa hô Đảng Cộng sản muôn năm,
bây giờ lại hô Đả đảo Đảng Cộng sản sao được?
- Được lắm, khí phách đấy. - Sư tử tỏ vẻ thán phục rồi giằng
lấy chiếc xẻng từ tay đồng bọn, xúc lia lịa.
Bà mẹ Tiến Tài không thấy động cựa gì nữa. Vợ Tiến Tài thì
cát đã lấp đến cổ, đứa con gái đã bị lấp kín từ lâu, đứa con trai còn hở cái chỏm
đầu, hai tay vung loạn xạ. Máu rỉ ra từ lỗ mũi và lỗ tai vợ Tiến Tài, miệng há
hốc kêu ằng ặc thê thảm quá, thê thảm quá!
Sư tử dừng tay xẻng, hỏi Tiến Tài:
- Thế nào?
Tiến Tài thở như trâu, đầu nở ra như một cái sọt, trả lời:
- Sư tử, dễ chịu lắm!
Sư tử tức điên lên: không một câu tỏ ra yếu đuối thốt ra từ
miệng Tiến Tài! Hắn vớ lấy xẻng xúc lia lịa. Lấp đầy rồi, không còn trông thấy
vợ con Tiến Tài đâu nữa, nhưng cát vẫn đang chuyển động, họ chưa chết hẳn. Cái
đầu to tướng của Tiến Tài vẫn chưa bị lấp kín, trông dễ sợ. Anh không còn nói
được nữa, khóe mắt và lỗ mũi rỉ máu, các mạch máu trên đầu nổi lên như những
con tằm. Sư tử như con choi choi, dẫm cho cát lèn chặt. Hắn ngồi xổm trước đầu
Tiến Tài hỏi:
- Người anh em, bây giờ thấy thế nào? Tiến Tài không trả lời
được nữa. Sư tử búng ngón tay vào đầu Tiến Tài, hỏi đồng bọn:
- Các anh em, có ăn óc người không? Bọn kia trả lời:
- Ai dám ăn cái của ấy, lợm giọng chết!
Sư tử nói:
- Có người ăn đấy, đó là chi đội trưởng Trần, ăn kèm tương ớt
và gừng thái chỉ, ăn như người ta ăn óc đậu.
ên đào huyệt bảo Sư tử:
- Huyệt đào xong rồi đấy! Sư tử đến bên miệng huyệt ngó một
cái, quay lại bảo tôi:
- Bà dì xem qua cái huyệt tôi chuẩn bị cho dì đã được chưa?
Tôi nói: - Anh Sư tử, anh hãy rủ lòng thương mà tha cho cái mạng
già này!
Sư tử nói:
- Già rồi, còn sống để làm gì? Với lại, tha cho dì thì lấy ai
bù vào cho đủ con số một trăm?
Tôi nói:
- Nếu vậy thì anh chém đầu tôi, đừng chôn sống, tội lắm!
Thằng con hoang ấy nói:
- Chịu tội sống thì khi chết mới lên thiên đàng!
Thằng khốn đó đá tôi ngã xuống huyệt. Lúc này một đám người ồn
ào đi tới, dẫn đầu là Tư Mã Khố, ông Hai nhà Phúc Sinh Đường. Tôi từng hầu hạ vợ
ba của ông ta, nghĩ bụng: Cứu tinh đến rồi? Tư Mã Khố chân đi ủng khệnh khạng
bước tới. Mấy năm không gặp, ông ta già đi nhiều. Ông ta hỏi:
- Ai đấy?
Sư tử nói: - Tôi đây ạ, Sư tử đây!
- Anh đang làm gì ở đây - Chôn người!
- Chôn những ai rồi? - Gia đình Tiến Tài, đội trưởng dân quân
thôn Sa Lương!
Tư Mã Khố bước tới, hỏi:
- Dưới hố kia là ai?
- Ông Hai, cứu già mấy! - Tôi nói - già từng hầu hạ bà Ba,
già là vợ nhà Quách đây ạ!
- Thế ra là bà hả? Sao bà lại rơi vào tay Sư tử?
- Già chót nhiều lời. Ông Hai, xin ông rủ lòng thương!
Tư Mã Khố bảo Sư tử:
- Tha cho bà ấy! Sư tử nói:
- Thưa đại đội trưởng, tha thì không đủ con số một trăm.
Tư Mã Khố nói:
- Đừng lệ thuộc vào con số, đáng giết mới giết, không đáng giết
thì đừng?
Tên đào huyệt đưa lưỡi xẻng xuống cho tôi bám rồi kéo lên.
Nói gì thì nói, Tư Mã Khố là con người còn biết lẽ phải, nếu không có ông ta
thì già đã bị thằng súc sinh Sư tử chôn sống rồi!
Các cán bộ khu vừa lôi vừa đẩy bà Quách đi nơi khác. Cô giáo
Sái mặt tái nhợt, cầm thước trở lại vị trí cũ tiếp tục thuyết minh. Mặc dù cô vẫn
nước mắt lưng tròng, mặc dù giọng cô vẫn thê thảm, nhưng các học sinh không ai
khóc nữa. Tôi nhìn xung quanh, những người vừa nãy dậm chân đấm ngực, giờ đây
trên khuôn mặt họ chỉ còn là sự mệt mỏi và sốt ruột. Những bức tranh sặc mùi
máu, giờ đây khô khốc vô vị như chiếc bánh nướng khô để lâu ngày. So với sự hiện
diện đầy tính thuyết phục của bà Quách, thì những bức tranh sao mà giả dối, sao
mà thiếu cảm tình! Trong đầu tôi cứ lởn vởn hình ảnh vầng trăng sáng như bạc,
cái đầu to tướng của Tiến Tài trên mộ huyệt và thằng Sư tử với bộ mặt hung hãn
như con mèo rừng. Những hình ảnh đó sao mà sống động, còn những bức tranh thì
như những chiếc bánh tráng ngâm nước lâu ngày.
Chương 4 (tiếp)
7
Họ vào trường học điệu tôi ra.
Phố xá đông nghịt, rõ ràng là đang đợi tôi. Hai dân quân tóc
bám đầy đất lập tức tiến đến trói tôi lại. Sợi thừng rất dài, quấn quanh người
tôi hơn chục vòng mà vẫn còn thừa một đoạn dài. Anh dân quân đeo súng cầm đầu
thừng dắt tôi như dắt súc vật. Anh dân quân đi sau dùng đầu nòng súng trường đẩy
đít tôi. Người trên đường trợn tròn mắt nhìn tôi, người nào người ấy lấm lem
như những con chuột vừa chui ra khỏi hang. Từ đầu phố bên kia, một đám người vừa
lôi vừa đẩy, thoáng nhìn tôi đã nhận ra mẹ, chị Cả, Tư Mã Lương, Sa Tảo Hoa bị
trói thành một dây. Ngọc Nữ và Thắng Lợi không bị trói, chúng nhảy xổ vào ôm lấy
mẹ, nhưng mỗi lần như vậy đều bị một nữ dân quân lực lưỡng gạt bắn ra. Đến cổng
nhà Phúc Sinh Đường, nay là trụ sở chính quyền khu, tôi nhập vào đoàn của mẹ. Mẹ,
chị Cả và bọn trẻ nhìn tôi, tôi cũng nhìn lại. Tôi cảm thấy không có gì để nói,
những người thân của tôi chắc chắn cũng có ý nghĩ như tôi.
Chúng tôi bị dân quân áp giải hết sân nọ vào sân kia cho đến
sân cuối cùng. Họ giam chúng tôi trong một gian buồng phía nam. Cửa sổ mở ra
phía nam đã bị hỏng, khung gãy đằng khung, giấy rách đằng giấy. Chúng tôi trông
thấy Tư Mã Đình ngồi co ro ở xó nhà, mặt mũi tái xanh tái xám, răng cửa bị đánh
gãy. Ông ta buồn rầu nhìn chúng tôi. Bên ngoài cửa sổ là một cái sân nữa rồi đến
tường vây đã bị phá một đoạn, như cố ý làm thành cái cổng xép. Bên ngoài cổng
có mấy dân quân đi đi lại lại, gió nam thổi tung vạt áo của họ. Trên chòi gác
đông nam và tây nam vang lên tiếng lên đạn rôm rốp.
Đêm ấy, cán bộ khu treo bốn chiếc đèn khí trong buồng chúng
tôi, kê một chiếc bàn, sáu chiếc ghế tựa, còn bày la liệt nào là roi da, gậy,
roi mây, xích sắt, dây thừng, thùng nước, chổi, còn khênh đến một chiếc bàn mổ
lợn bằng ván ghép dây đầy máu, một con dao bầu để chọc tiết, vài con dao lá đề
để cạo lông, móc sắt treo thịt, thùng hứng tiết. Họ định biến cái buồng thành
lò mổ.
Công an Dương cùng một số dân quân bước vào trong buồng. Cái
chân bằng nhựa của anh ta kêu rin rít. Hai má bánh đúc của anh ta xệ xuống, kẽ
nách phè ra những mỡ là mỡ khiến hai cánh tay suốt đời cành ra hai bên. Anh ta
ngồi ở ghế giữa sau bàn, chậm rãi chuẩn bị cho công việc thẩm vấn. Anh ta móc
khẩu súng lục đeo trên mông, lên đạn rồi đặt lên bàn; đặt chiếc loa bằng sắt
tây bên cạnh khẩu súng lục; móc túi thuốc sợi và tẩu đặt bên cạnh chiếc loa; cuối
cùng, anh ta tháo cái chân bàng nhựa cùng với bít tất đặt lên góc bàn. Cái chân
cụt, dưới ánh sáng của những cây đèn khí, đỏ hỏn trông dễ sợ. ở mỏm cụt của
chân giả có những sợi dây da, còn từ bắp chân trơ xuống thì là một khoảng trống,
từ cổ chân trở xuống là một đoạn bít tất và chiếc giày da rách. Cái chân giả dựng
trên bàn như một vệ sĩ trung thành của công an Dương.
Những cán bộ khác của khu chia nhau ngồi hai bên công an
Dương, nghiêm trang lấy giấy bút ra, chuẩn bị ghi chép. Các dân quân dựng súng
vào tường, xắn tay áo cầm lấy roi gậy, sắp thành hai hàng như sai nha trên công
đường.
Lỗ Thắng Lợi ôm chân mẹ mà khóc. Chính nó tự đâm đấu vào lưới
Chị Tám Ngọc Nữ úa nước mắt nhưng miệng thì lại nở một nụ cười mê hồn. Dù trong
hoàn cảnh khó khăn đến mấy, chị vẫn cứ đẹp, đầy sức hấp dẫn. Tôi rất hối hận về
chuyện hồi nhỏ tôi giành vú mẹ cho riêng mình. Nét mặt mẹ vô cảm, nhìn không chớp
ngọn đèn khí sáng chói.
Công an Dương nhồi một tẩu thuốc, cầm que diêm đấu trăng quẹt
vào chỗ ráp trên mặt bàn, xoẹt, đầu que diêm bùng cháy, anh ta dẩu môi bập bập
cho thuốc bén lửa rồi vút que diêm, dùng ngón tay cái dập tắt ngọn lửa trên tẩu,
rít liền mấy hơi, hai luồng khói trắng tuôn ra từ hai lỗ mũi. Anh ta gõ tẩu vào
chân ghế cho tàn thuốc rơi ra, đặt túi thuốc và tẩu lên bàn, cầm loa đặt lên miệng
chĩa về phía lỗ hổng của bức tường, làm như bên ngoài có rất nhiều quần chúng,
cần nói chuyện với họ. Với giọng ồm ồm, anh ta hỏi:
- Thượng Quan Lỗ thị, Thượng Quan Lai Đệ, Thượng Quan Kim Đồng,
Tư Mã Lương, Sa Tảo Hoa, các người có biết vì sao bị bắt không?
Chúng tôi đưa mắt nhìn mẹ, mẹ nhìn cây đèn khí. Mặt mẹ sưng bủng
trong suốt. Môi mẹ mấp máy nhưng không nói gì, chỉ lắc đầu.
Công an Dương nói:
- Lắc đầu thì không thể nói rõ điều gì! Căn cứ vào những lời
cáo giác của quần chúng, căn cứ vào kết quả điều tra, chúng tôi đã có hàng lô
chứng cứ. Gia đình Thượng Quan do Lỗ thị cầm đầu, trong nhiều năm đã che giấu
Tư Mã Khố, tên đầu sỏ phản cách mạng ở vùng Cao Mật, tên hung thủ tội ác chồng
chất, kẻ thù của nhân dân? Hơn nữa, trong đêm vừa qua, một thành viên trong gia
đình Thượng Quan đã phá hoại phòng triển lãm giáo dục giai cấp, viết hàng loạt
khẩu hiệu phản động trên bảng đen trong nhà thờ. Căn cứ vào những tội trạng đó,
chúng tôi hoàn toàn có thể đem cả nhà ra hành quyết, nhưng xem xét từ góc dộ
chính sách, chúng tôi dành cho các người cơ hội cuối cùng, các người hãy khai
báo nơi ẩn nấp của tên thổ phỉ Tư Mã Khố, để hắn rơi vào lưới pháp luật càng sớm
càng tốt. Hai là các người hãy khai báo tội viết khẩu hiệu phản động, phá hoại
triển lãm giáo dục giai cấp. Dù chúng tôi đã biết là ai viết, nhưng chỉ cần
thành khẩn là chúng tôi có thể khoan hồng. Các người rõ chưa?
Chúng tôi vẫn im lặng.
Công an Dương vớ lấy súng, gõ họng súng cộc cộc trên mặt bàn,
miệng vẫn không rời chiếc loa, miệng loa vẫn chĩa ra ngoài lỗ hổng trên tường,
gầm lên:
- Thượng Quan Lỗ thị, người rõ chưa?
Mẹ bình tĩnh nói:
- Oan cho chúng tôi
Chúng tôi đồng thanh kêu lên:
- Oan quá!
Công an Dương nói:
- Oan hả? Chúng tôi không để cho một người tốt bị oan cũng
không để một kẻ xấu lọt lưới. Treo tất cả chúng nó lên!
Chúng tôi giãy giụa, gào khóc nhưng chỉ kéo dài được đôi chút
thời gian, cuối cùng vẫn bị trói giật cánh khuỷu treo lủng lẳng dưới xà nhà bằng
gỗ thông, mẹ bị treo ngoài cùng, đầu xà phía nam, rồi đến chị Lai Đệ, rồi đến
Tư Mã Lương, rồi đến tôi, và sau tôi là Sa Tảo Hoa.
Những tên dân quân chuyên nghiệp này đều rất thiện nghệ trong
việc đánh trói người. Chúng đã treo sẵn năm chiếc ròng rọc trên xà, do vậy khi
kéo chúng tôi lên không khó khăn gì. Tôi cảm thấy cổ tay còn có thể chịu nổi,
nhưng ở hai bả vai thì đau xói lên óc. Tất cả chúng tôi đều gục đầu trước ngực,
cổ tự nhiên vươn dài ra, hai chân duỗi thẳng, các ngón chân buông xuôi, thẳng
góc với mặt đất. Không chống được, tôi bật lên tiếng kêu, nhưng Tư Mã Lương thì
không. Chị Lai Đệ rên rỉ, Sa Tảo Hoa không động tĩnh gì. Cơ thể to béo của mẹ
khiến sợi dây thừng căng như dây đàn. Mẹ là người đầu tiên mồ hôi đầm đìa, mái
tóc rối bù của mẹ bốc hơi trắng xóa. Lỗ Thắng Lợi và Thượng Quan Ngọc Nữ ôm
chân mẹ mà lắc. Bọn dân quân xách cổ Ngọc Nữ và Thắng Lợi như xách hai con gà
quẳng ra, hai cô cháu lăn xả vào, lại bị quẳng ra. Một dân quân hỏi:
- Anh Dương, có nên treo chúng lên không?
Công an Dương kiên quyết không cho, nói:
- Không được, chúng ta phải chấp hành chính sách!
Lỗ Thắng Lợi vô ý làm tuột một chiếc giày của mẹ. Mồ hôi cuối
cùng đọng trên đầu ngón chân, rớt tong tỏng trên mặt đất.
- Các người có nói không? - Công an Dương hỏi - chỉ cần khai
ra là được tha ngay lập tức!
Mẹ cố ngửng đầu lên, vừa thở vừa nói:
- Thả bọn trẻ ra... tôi chịu trách nhiệm tất!
Công an Dương nói to với bên ngoài:
- Đánh, đánh đau vào!
Bọn dân quân vung roi vung gậy, hò hét đánh cầm chừng. Tôi la
toáng lên, mẹ và chị Lai Đệ cũng kêu, Sa Tảo Hoa vẫn im lặng, có lẽ nó đã ngất.
Công an Dương và các cán bộ khu đập bàn quát tháo ra oai. Mấy người dân quân khiêng
Tư Mã Đình đặt lên chiếc bàn mổ lợn, đánh vào mông ông ta bằng chiếc que sắt mỗi
cái đánh là một tiếng rú đau đớn.
- Thằng Hai, thằng khốn mau về chịu tội đi! Các ông không được
đánh tôi, tôi đã từng lập công?...
Bọn dân quân lặng lẽ vung que sắt làm như sẽ đánh nát mông. Một
cán bộ khu giơ roi vụt vào cái túi bằng da trâu, một dân quân dùng roi mây quật
bôm bốp vào cái bao tải. Bốp bốp bịch bịch, quát tháo hầm hè, hư hư thực thực rối
tung cả căn buồng, roi gậy bay loang loáng dưới ánh đèn. Thời gian khoảng một
tiết học, bọn dân quân cởi dây thừng buộc ở khung cửa sổ, mẹ rơi bịch xuống đất,
mềm nhũn. Bọn dân quân lại cởi một nút khác, chị Lại Đệ rơi xuống. Chúng tôi lần
lượt được thả xuống. Bọn dân quân xách đến một thùng nước, dùng gáo múc nước hắt
vào mặt chúng tôi. Chúng tôi tỉnh lại, nhưng tất cả các khớp xương đều mất hết
cảm giác.
Công an Dương lớn tiếng quát:
- Đêm nay mới cho các người một trận phủ đầu. hãy suy nghĩ kỹ,
khai ra thì xóa bỏ tội cũ, lập tức thả về nhà, không khai thì, hãy đợi đấy!
Công an Dương đi chân giả vào, giắt túi thuốc và súng lục vào
thắt lưng, dặn dò đám dân quân phải canh giữ cẩn thận, rồi cùng các cán bộ khu
khệnh khạng đi ra. Đám dân quân đóng cửa lại, ngồi vào một xó, ôm súng hút thuốc.
Chúng tôi ngồi tựa vào mẹ, thút thít khóc. Mẹ giơ bàn tay sưng vù sờ nắn từng đứa.
Tư Mã Đình rên rỉ đau đón.
Một dân quân nói:
- Khai ra thôi! Công an Dương mà tra khảo thì gỗ đá cũng phải
khai! Các người đầu đen mắt thịt chịu được hôm nay, làm sao chịu nổi ngày mai?
Một dân quân khác nói:
- Tư Mã Khố nếu là hảo hán thì ra đầu thú là xong! Bây giờ
còn ẩn nấp được, đến mùa đông thì nấp vào đâu?
Một dân quân bảo mẹ:
- Con rể bà đúng là một con hổ dữ. Cuối tháng trước một trung
đội công an huyện bao vây hắn ở hồ Bạch Mã lại để hắn xổng mất. Hắn nã một
tràng giết bảy người, trung đội trưởng bị gãy đùi?
Hình như đám dân quân mách ngầm chúng tôi điều gì đó nhưng cụ
thể là điều gì thì không rõ. Nhưng chúng tôi có tin về Tư Mã Khố. Từ khi gặp
nhau ở lò gạch cũ, anh biến mất như đá chìm đáy biển. Chúng tôi mong anh bỏ đi
thật xa, không ngờ anh vẫn luẩn quẩn vùng này, gây cho chúng tôi biết bao phiền
phức. Hồ Bạch Mã ở phía nam đồn Hai Huyện, cách Đại Lan không đầy hai mươi dặm,
là nơi phình ra lớn nhất của con sông Mục, nước sông tràn vào chỗ trũng trở
thành hồ. Trong hồ lau lách bạt ngàn, vịt trời đông vô kể.
8
Sáng hôm sau, chị Phán Đệ từ huyện đi ngựa về. Chị tức điên
lên, định tìm cán bộ khu để làm cho ra nhẽ. Nhưng khi bước ra khỏi phòng trưởng
khu, cơn giận của chị biến mất. Chị theo trưởng khu vào thăm chúng tôi. Chúng
tôi xa nhau đã nửa năm, không hiểu chị làm chức gì trên huyện. So với cách đây
nửa năm, chị có gầy đi. Những vết ố của sữa trên ngực áo chứng tỏ chị đang
trong thời kỳ cho con bú. Chúng tôi lạnh nhạt nhìn chị. Mẹ hỏi:
- Phán Đệ, vậy mẹ có tội gì?
Chị Phán Đệ nhìn một thoáng ông trưởng khu khi ấy đang nhìn
ra ngoài cửa sổ với thái độ dửng dưng, nước mắt ứa ra, chị nói:
- Mẹ, cố chịu đựng vậy... Hãy tin vào Chính phủ... Chính phủ
không bao giờ để người tốt bị oan!...
Chính vào lúc chị Phán Đệ đang khuyên giải chúng tôi thì tại
hồ Bạch Mã, trong khu nhà mỏ rợp bóng tùng xanh của Hàn lâm họ Đinh, Thôi Phượng
Tiên, một phụ nữ góa chồng đội bát nhang Hồ ly, cầm viên đá quạ gõ cách cách
vào tấm bia công đức của nhà Hàn lâm. Tiếng gõ nhọn và sắc hòa với tiếng mổ
công cốc của chim gõ kiến. Một con chim rẻ quạt xòe đuôi bay lượn trong lùm
cây. Thôi Phượng Tiên gõ một hồi rồi ngồi đợi. Chị thoa một lớp phấn mỏng, quần
áo gọn gàng sạch sẽ, tay khoác chiếc làn trên phủ chiếc khăn hoa, trông như cô
dâu về thăm nhà mẹ đẻ. Tư Mã Khố từ sau tấm bia chui ra.
Thôi Phượng Tiên giật mình, nói:
- Đồ quỉ, sợ chết khiếp đi được!
Tư Mã Khố nói:
- Sợ gì, hồ ly tinh mà lại sợ quỉ
Thôi Phượng Tiên thở dài:
- Nông nỗi này mà anh còn đùa cợt! - Nông nỗi này là thế nào?
- Tốt quá đi chứ, chưa bao giờ tốt như lúc này! - Tư Mã Khố
nói - Bọn khốn kiếp định bắt sống tôi? Ha ha, có mà nằm mơ!
Anh ta vỗ vỗ khẩu trung liên, rồi khẩu tiểu liên báng gập có
máy ngắm do Đức chế tạo, rồi vỗ khẩu Braoninh đeo bên sườn, nói:
- Mẹ vợ tôi khuyên tôi nên đi thật xa, đừng bao giờ trở lại
vùng Cao Mật. Sao tôi lại phải đi thật xa? Đây là nhà của tôi, là nơi chôn cất
hài cốt những người thân của tôi, từng gốc cây ngọn cỏ đều thân thiết với tôi,
là nơi tôi mặc sức chơi bời nhảy múa, ở đây còn có con hồ ly tinh bốc lửa như
cô, thử hỏi, làm sao tôi có thể bỏ đi!
Trong đám sậy phía xa, đàn vịt trời hốt hoảng bay lên, Thôi
Phượng Tiên lấy tay bịt miệng Tư Mã Khố. Tư Mã Khố gỡ tay Phượng Tiên, nói:
- Không có chuyện gì, bọn Bát lộ địa phương bị tôi khiền cho
một trận, đám vịt trời bị những con diều đến rỉa xác chết làm cho hoảng sợ đấy
thôi!
Thôi Phượng Tiên kéo Tư Mã Khố vào trong phần mộ, nói:
- Có chuyện quan trọng cần nói với anh!
Họ rẽ bụi gại rậm chui vào trong, nhà mồ rất rộng. Gai cào xước
tay Thôi Phượng Tiên, chị ái lên một tiếng. Tư Mã Khố đặt súng xuống, lắp cây
đèn dầu treo trên vách hầm, quay lại nắm lấy tay Phượng Tiên, xuýt xoa:
- Xước tay hả? Đưa anh xem nào!
Thôi Phượng Tiên gỡ tay ra, nói:
- Không hề gì, không sao đâu!
Nhưng Tư Mã Khố đã ngậm ngón tay Phượng Tiên mà mút chùn chụt.
Phượng Tiên rên rỉ:
- Đồ quỉ hút máu!...
Tư Mã Khố nhả ngón tay Phượng Tiên ra, gắn đôi môi vào môi chị,
hai tay chụp mạnh hai bầu vú chị. Phượng Tiên oằn người, chiếc làn tuột khỏi
tay, những quả trứng nhuộm phẩm đỏ lăn lông lốc. Tư Mã Khố bế xốc Phượng Tiên đặt
trên ván thiên của cỗ quan tài rộng như tấm phản... Tư Mã Khố trần như nhộng nằm
trên nằm quan tài, mắt lim dim, đưa lưỡi liếm bộ ria lâu ngày không xén tỉa.
Thôi Phượng Tiên vuốt ve những ngón tay như chuối mắn của anh ta rồi đột nhiên
úp khuôn mặt nóng rực vào ngực, ngay chỗ xương mỏ ác phảng phất mùi đã thú. Chị
cắn nhè nhẹ lên khắp ngực Tư Mã Khố, giọng tuyệt vọng:
- Anh là đồ quỉ sứ, lúc đắc thế thì chẳng ngó gì đến người
ta. Giờ gặp vận đen thì cứ bắt người ta dính vào!... Em biết, người đàn bà nào
gắn với anh đều không gặp vận may, vậy mà em không kiềm chế nổi, chỉ cần anh vẫy
đuôi là em chạy theo như con chó cái!... Nói đi anh, con quỉ chết tiệt, anh có
bùa phép gì mà đám phụ nữ bất chấp tất cả, thừa biết sẽ rơi xuống vục mà vẫn mở
mắt nhảy xuống.
Tư Mã Khố có vẻ xót xa nhưng vẫn mỉm cười, kéo bàn tay Phượng
Tiên đặt vào ngực mình, nơi có trái tim đang dập, nói:
- Chính là cái này, trái tim, sự chân thành của tôi đối với
phụ nữ! Thôi Phượng Tiên lắc đầu:
- Anh chỉ có một trái tim, vậy phải chia làm bao nhiêu phần?
- Dù chia làm bao nhiêu phần thì mỗi phần đều chân thành!
Ngoài ra, còn ở cái này - Anh ta cười chớt nhả, kéo tay Phượng Tiên xuống phía
dưới.
Phượng Tiên giằng tay ra, đặt ngón tay trên môi Tư Mã Khố,
nói:
- Cái quái vật của anh thì có bùa phép gì, bị người ta dồn đuổi
phải ngủ trong nhà của người chết mà còn làm chuyện ma mãnh! Tư Mã Khố cười:
- Càng phải như vậy chứ, đàn bà là thứ ngon lành, là của quí
trong những của quí! Anh ta vừa nói vừa vuốt ve hai bầu vú của Phượng Tiên. Phượng
Tiên nói:
- Trời đất, ở nhà xảy ra chuyện tày đình rồi!
Tư Mã Khố hỏi:
- Chuyện gì? Thôi Phượng Tiên nói:
- Mẹ vợ anh, chị vợ em vợ anh, con trai anh, em trai của vợ
anh, rồi hai đứa con gái của chị Cả và dì Năm, rồi anh trai anh, đều bị bắt
giam trong nhà anh, ngày nào cũng treo lên xà nhà, đánh bằng roi, bằng gậy...
Thảm lắm? Chỉ e chẳng được mấy bữa họ chết hết!
Bàn tay Tư Mã Khố hóa đá ngay trên ngực Phượng Tiên. Anh ta
nhảy từ nắp quan tài xuống, xách súng định chui ra ngoài. Thôi Phượng Tiên ôm
ngang lưng anh ta, nài nỉ:
- Anh định tìm cái chết hay sao?
Tư Mã Khố trấn tĩnh lại, ngồi xuống ăn một quả trúng gà luộc.
ánh nắng lọt qua bụi gai chiếu trên cái cằm bạnh ra và bên tóc mai đã đốm bạc.
Lòng đỏ trứng tắc nghẹn trong họng, anh ta húng hắng ho, mặt đỏ gắt. Phượng
Tiên dấm lưng cho anh, vuốt họng cho anh hồi lâu mới hết nghẹn. Phượng Tiên mặt
đầy mồ hôi, vừa thở vừa nói:
- Cha mẹ ơi, sợ quá đi mất!
Hai giọt nước mắt to tướng lăn trên gò má Tư Mã Khố, anh ta
nhảy dựng lên, suýt nữa đầu chạm nóc hầm, ánh căm thù lóe lên trong mắt.
- Bọn khốn kiếp, tao phải lột da chúng mày! - Anh gầm lên.
- Anh yêu, anh đừng đi! - Phượng Tiên ôm chặt anh, khuyên -
Ngay đàn bà như chúng em còn biết đó là gian kế! Anh thử nghĩ, anh đơn thương độc
mã đến đó, chắc chắn bị mai phục!
- Em bảo anh làm thế nào bây giờ?
Nghe lời khuyên của mẹ vợ anh, đi thật xa. Nếu anh không sợ
em quẩn chân thì em tình nguyện đi cùng anh, đi nát gót chân em cũng không hối
tiếc!
Tư Mã Khố nắm chặt tay Phượng Tiên, cảm động nói:
- Tư Mã Khố này thật có phúc mới gặp được người như em, tốt mọi
mặt, hết lòng hết dạ vì anh, ở đời còn mong gì hơn thế? Nhưng anh không muốn
làm hại em hơn nữa. Phượng Tiên, em về đi, và đừng bao giờ gặp anh nữa? Khi được
tin anh chết, em không được buồn. Anh sống đủ rồi, đáng chết lắm rồi!
Thôi Phượng Tiên nước mắt chan hòa, gật đầu lia lịa. Chị lấy
chiếc lược sừng giắt trên mái tóc, khẽ gỡ từng tí mái tóc hoa râm rối bù của Tư
Mã Khố, nhặt ra rất nhiều hạt cỏ, vỏ hến và những con sâu nhỏ, rồi áp đôi môi ẩm
ướt chị hôn lên những nếp nhăn trên trán anh, bình tĩnh nói:
- Em đợi anh!
Chị xách làn bước lên các bậc thang bằng gạch, rẽ gai chui ra
khỏi phần mộ. Tư Mã Khố ngồi bất động, cho đến khi bóng chị đã khuất từ lâu, anh
vẫn nhìn không chớp vào cành cây đung dua trong tia nắng.
Sáng sớm hôm sau, Tư Mã Khố để lại súng ống đạn được trong hầm
mộ, anh đi ra bờ hồ Bạch Mã tắm rửa sạch sẽ, rồi như một khách nhàn du anh đi dọc
theo mép hồ nhìn ngắm mọi thứ, lúc dừng lại đối thoại với lũ chim, lúc chạy thi
với con thỏ bên đường. Anh men theo bờ đầm, hái một bó hoa dại cả trắng lẫn đỏ,
đưa lên mũi ngửi một cách thèm khát, rồi anh đi vòng đến bên rìa nghĩa trang,
ngó sang ngọn núi Trâu Nằm vàng rục dưới nắng. Anh nhảy nhảy trên cầu đá bắc
qua sông Mực, tựa hồ muốn thử xem cầu còn chắc hay không. Chiếc cầu rung rinh,
kêu cót két. Cặp mắt đen như mờ đi vì sung sướng, ánh mắt dịu dàng như ánh ngọc,
thật phong tình, thật trong sáng? Anh nghịch ngợm thò tay vào sờ nắn cái ấy
trong đũng quần, ngắm nghía nó mà thở dài, rồi đái một bãi xuống dòng sông Mực.
Cùng với tiếng nước tiểu róc rách, anh cất tiếng hét thật to: A... a...a... tiếng
ngân trải dài trên cánh đồng mênh mông. Trên đê, một trẻ chăn dê vụt một tiếng
roi rõ kêu khiến Tư Mã Khố chú ý. Anh ngoảnh lại nhìn thằng nhỏ, thằng nhỏ cũng
nhìn lại anh. Hai luồng mắt gặp nhau rồi đọng lại thành hai nụ cười trên mặt.
Tư Mã Khố cười hì hì, nói:
- Ta biết cháu, hai chân bằng gỗ lê, hai tay bằng gỗ hạnh, ta
và mẹ cháu lấy đất nặn chim cho cháu!
Thằng bé chăn dê cả giận, chửi:
- Đ. mẹ ông?
Câu chửi rất bậy khiến Tư Mã Khố trong lòng rộn lên, mắt ướt
đẫm, vô cùng cảm khái. Thằng bé chăn dê vung roi đuổi con dê đi chỗ khác. Nắng
chiều nhuốm đỏ khuôn mặt nó. Bóng nó đồ dài trên mặt đất. Nó cất giọng trong
như ngọc mà hát rằng:
- Năm một chín ba bảy, Nhật tiến vào Trung nguyên. Chiếm Lư Cầu
Kiều. Chiếm Sơn Hải Quan. Đường sắt kéo dài đến Tế Nam. Giặc bắn pháo, Bát lộ
quân bắn súng trường, ngắm thật chuẩn, bắn chết thằng sĩ quan, hai chân duỗi thẳng,
nó về Tây Thiên!... Khúc hát chưa dứt, Tư Mã Khố đã ứa nước mắt, anh bưng mặt
ngồi thụp trên cầu...
Sau đó anh xuống sông rửa sạch ngấn nước mắt trên mặt, gột sạch
bùn đất trên người, chậm rãi đi theo bờ đê nở đầy hoa dại. Tiếng chim kêu lúc
hoàng hôn nghe buồn thảm, các màu sắc nhòa vào nhau, mùi hoa dại hoặc nồng hoặc
thoang thoảng khiến Tư Mã Khố như mê đi, mùi cỏ dại hoặc đắng hoặc cay khiến
anh tỉnh lại. Đất trời mênh mang, nghìn năm chỉ một chớp mắt, anh nghĩ mà đau!
Mặt đê, trên lối đi con trạch, rất nhiều châu chấu đang đẻ trứng, cắm bụng
trong đất, người dưới thẳng, đau đớn trong hạnh phúc. Tư Mã Khố ngồi xuống lôi
một con châu chấu lên, ngắm cái vòi lủng lẳng như một đoạn ruột của nó, lập tức
nhớ lại thời niên thiếu của anh, lập tức nhớ lại mối tình đầu với một cô gái má
trắng môi son. Anh thích nhất là cọ mũi trên bầu vú của cô ta...
Thôn trấn đã ở trước mặt, khói bếp lan tỏa, hơi người nồng đậm.
Anh ngắt một bông cúc vàng đưa lên mũi ngủi, gạt bỏ những tạp niệm riêng tư, chấn
những ý đồ ngang trái, nhằm hướng cổng xép phía nam nhà mình đàng hoàng tới.
Đám dân quân nấp phía sau cổng xép nhảy ra, lên đạn rộp rộp, quát to:
- Đứng lại, không được vào!
Tư Mã Khố điềm nhiên như không:
- Đây là nhà của tôi?
Lính gác sững người, quẳng súng la rầm lên:
- Tư Mã Khố dây này, Tư Mã Khố đây này! Tư Mã Khố khinh bỉ
nhìn bọn dân quân, cằn nhằn:
- Sao lại bỏ chạy, đúng là...!
Anh ta vừa ngửi bông hoa vàng vừa bước vào cổng xép miệng hát
một đoạn trong bài ca chống Nhật, phong thái ung dung, nhưng anh bị sa xuống cái
hố đào sẵn để bẫy anh ngay trước cổng. Một đám đông binh sĩ của Cục Công an huyện
ngày đêm phục kích ở vạt ruộng trước cổng ùa tới, mấy chục họng súng đen ngòm
cùng chĩa xuống Tư Mã Khố ở dưới hố. Một mũi chông cắm dưới hố xuyên suốt qua
bàn chân của anh. Anh đau đến nỗi miệng méo xệch, chửi:
- Đồ con nít, chẳng ra thể thống gì cả! Ta về tự thú mà lại
dùng bẫy lợn rừng để bẫy ta?
Trưởng phòng trinh sát Cục Công an kéo Tư Mã Khố từ dưới hố
lên, còng tay anh lại.
Tư Mã Khố nói:
- Thả hết những người nhà Thượng Quan ra! Tội ai nấy chịu!
9
Nghe nói để đáp ứng yêu cầu bức thiết của nhân dân vùng đông
bắc Cao Mật, phiên tòa xử Tư Mã Khố sẽ thiết lập tại địa điểm Bác-bít chiếu
phim lần đầu. Đây chính là sân phơi của nhà Tư Mã, trên sân vẫn còn cái bục đất,
dấu vết thời Lỗ Lập Nhân làm cải cách ruộng đất. Để đón tiếp Tư Mã Khố, cán bộ
khu huy động dân quân có vũ trang đốt đuốc làm suốt đêm đào mấy trăm khối đất,
đập một cái đài cao hơn mặt đê sông Thuồng Luồng, đào một rãnh sâu hình chữ U ở
mặt trước và hai bên đài, rãnh đầy nước do bên ngoài thấm vào. Cán bộ khu còn
trích từ quĩ đặc biệt một khoản tiền làm tương đương với một tấn gạo, đi ba
mươi cây số mua về hai xe chiếu cói dày, màu vàng rơm, dụng trước đài một căn
nhà quây bốn bên bằng chiếu cói dán đầy những tấm áp phích lời lẽ khi thì nghiến
răng nghiến lợi, khi thì vui sướng điên cuồng. Số chiếu còn thừa thì trải trên
nền đài và treo kín bốn ta luy. Trưởng khu tháp tùng huyện trưởng đến xem xét địa
điểm phiên tòa. Họ đứng trên đài cao, chân giẫm lên mặt chiếu trơn nhẵn, gió lạnh
từ phía sông thổi phồng ống tay áo và ống quần như những khúc dồi lợn khổng lồ.
Huyện trưởng xoa xoa cái mũi đỏ tía, lớn tiếng hỏi trưởng khu đứng phía sau:
- Kiệt tác của ai đây?
Trưởng khu chưa rõ huyện trưởng hỏi như vậy là có ý châm biếm
hay là lời khen, bèn nói úp mở:
- Tôi tham gia thiết kế, còn chủ yếu là anh ta thực hiện -
Trưởng khu chỉ anh cán sự tuyên truyền đứng phía sau.
Huyện trưởng nhìn một thoáng anh cán sự tuyên truyền mặt mày
tươi tỉnh gật đầu, hạ giọng nói khẽ nhưng cũng đủ cho người đằng sau nghe thấy:
- Đây đâu phải là phiên tòa, chẳng khác lễ đăng quang của nhà
vua?
Phiên tòa quyết định vào buổi sáng ngày mồng Tám tháng Chạp.
Những người hiếu kỳ dậy từ nửa đêm, đội trăng đội sao từ làng trên xóm dưới kéo
về bãi xử. Trời tờ mờ sáng, bãi đất trống đã dầy đặc những người là người, trên
đê Thuồng Luồng, người ta cũng đứng ken nhau như một hàng rào. Mặt trời uể oải
nhô lên, nhuốm hồng những cặp lông mi và những bộ ria bám đầy băng, nhuốm hồng
những làn hơi thở trăng xóa. Mọi người quên bẵng hôm nay là ngày ăn cháo lạp
chúc, nhưng nhà tôi thì không quên. Mẹ giả vờ hăng hái để chúng tôi vui lây
nhưng tiếng khóc thút thít của Tư Mã Lương khiến chúng tôi chẳng còn bụng dạ
nào nữa. Chị Tám như một bà cụ non, lấy miếng bọt biển lau hai dòng nước mắt
cho nó. Nó khóc không thành tiếng, nhưng như thế còn xót xa hơn gào khóc. Chị Cả
bám sau mẹ đang tất bật, luôn miệng hỏi:
- Mẹ, anh ấy chết, con có phải tuẫn tiết không?
Mẹ mắng:
- Điên à, ngay dù cưới xin hẳn hoi, cũng không phải tuẫn tiết?
Chị Cả hỏi đến lần thứ mười hai, mẹ mất hết kiên nhẫn, mắng
té tát:
- Lai Đệ, con không biết xấu hổ sao? Con với nó chẳng qua là
em rể tòm tem với chị vợ chuyện xấu xa chứ hay gì!
Chị Cả sững người nói:
- Mẹ, mẹ khác trước rồi!
Mẹ nói:
- Tao khác trước mà cũng không khác. Mười mấy năm nay, người
nhà Thượng Quan chúng ta như những cây hẹ, búi tàn úa búi mọc lên, có sống ắt
có chết, chết thì dễ, sống mới khó, càng khó càng phải sống! Càng không sợ chết
lại càng phải cố mà sống! Mẹ phải nhìn thấy cái ngày con cháu mẹ mở mày mở mặt
với đời!
Mắt mẹ mọng nước, nhưng ánh mắt thì rục lửa, nhìn chúng tôi
khắp lượt, cuối cùng đọng lại trên mặt tôi như ký thác niềm hy vọng lớn nhất ở
tôi. Tôi cảm thấy vô cùng hoang mang vì tôi chẳng có ưu điểm nào cả, ngoại trừ
khả năng học thuộc lòng ttương đối nhanh bài khóa và hát tương đối chuẩn bài Phụ
nữ giải phóng ca. Tôi hay khóc, dút dát, nhu nhược, chẳng khác một con cừu đực
bị thiến!
Mẹ bảo:
- Thu xếp mau lên, đi tiễn anh ta một tí! Anh ta là đồ đốn mạt,
nhưng cũng là trang hảo hán! Những người như vậy, trước đây cứ khoảng mươi năm
lại có một người. Từ nay về sau chắc là tuyệt chủng.
Cả nhà tôi đứng trên đê. Những người xung quanh đều né tránh
chúng tôi. Rất nhiều ánh mắt nhìn trộm chúng tôi. Tư Mã Lương còn định chen
lên, nhưng mẹ nắm cánh tay nó, nói:
- Thôi con, đứng xa mà nhìn cũng được. Gần quá, cha con sẽ bị
phân tâm?
Mặt trời lên đến hai con sào thì có mấy chiếc xe hơi thận trọng
qua cầu Thuồng Luồng chạy tới chỗ thân đê bị sụt trên xe là các binh sĩ đầu đội
mũ sắt, ôm tiểu liên; nét mặt nghiêm trang như sắp xung trận. Xe chạy đến chân
đài thì dừng lại, binh sĩ từng đôi nhảy xuống và lập tức triển khai thành vòng
cung bao vây lấy khán đài. Cuối cùng, hai binh sĩ chui ra khỏi ca bin, mở nắp
sau của xe đẩy Tư Mã Khố xuống. Tư Mã Khố hai tay bị còng, ngã lăn ra nhưng lập
tức bị hai binh sĩ cao lớn xốc nách đừng dậy, tập tễnh đến trước căn nhà, máu
thấm từng mỗi dấu chân, rồi bước lên khán đài. Sau này một số người nói lại rằng,
khi chưa trông thấy Tư Mã Khố, họ cứ nghĩ anh ta phải là một quái vật mặt xanh
nanh vàng, nửa người nửa thú, nhưng khi trông thấy anh ta, họ cảm thấy hơi thất
vọng. Người đàn ông trung niên đầu bị cạo trọc này có cặp mắt to buồn buồn,
hoàn toàn không có vẻ hung dữ, trái lại, còn tỏ ra chất phác, trung hậu, khiến
mọi người ngờ rằng công an đã bắt lầm người khác.
Phiên tòa được tiến hành rất nhanh. Quan tòa đọc tội trạng của
Tư Mã Khố, rồi tuyên án tử hình. Quần chúng nhốn nháo, người đang ngồi thì đứng
dậy, người đang đứng thì chen lấn nhau lên phía trước. Mấy vệ binh giải Tư Mã
Khố xuống dưới dài, họ khuất sau căn nhà quây bằng chiếu rồi xuất hiện ở đầu
nhà phía đông. Tư Mã Khố bước đi tập tễnh, khiến hai người xốc nách anh ta bước
chân quýnh cả lên. Đến bờ đầm, nơi diễn ra những vụ hành quyết nổi tiếng, họ dừng
lại. Tư Mã Khố quay mặt nhìn lên đê. Có thể anh nhìn thấy chúng tôi, cũng có thể
không nhìn thấy. Tư Mã Lương vừa buột miệng kêu bố ơi thì đã bị mẹ bịt chặt miệng,
ghé sát tai dỗ dành:
- Lương con, nghe lời ngoại, con đừng làm ầm lên! Ngoại biết
con đau xót lắm, nhưng cái chính là con đừng làm cho bố con bối rối, để bố con
ra đi thanh thản!
Lên khuyên của mẹ như có phép lạ khiến Tư Mã Lương thoắt cái
trở lại hiền lành như con cừu non. Hai binh sĩ to lớn nắm vai Tư Mã Khố, cố sức
xoay người anh lại, quay mặt về phía đầm. Nước trong đầm tù đọng hàng mấy chục
năm, xanh màu vỏ chanh, mặt nước phản chiếu khuôn mặt tiều tụy và vết rách do
dao cạo trên má. Lưng quay về đội hành quyết, mặt hướng ra đầm, bao nhiêu khuôn
mặt đàn bà hiện trên mặt nước, bao nhiêu mùi thơm của người đàn bà lan tỏa mặt
đầm, anh bỗng thấy mình trở nên ủy mị, trong lòng đang êm ả bỗng nổi cồn sóng
gió. Anh quay phắt lại và bằng cái giọng khiến viên Trưởng phòng Tư pháp Cục Công
an và những tên đao phủ giết người không chớp mắt sợ tái mặt:
- Tôi không thể để các ông bắn tù phía sau!
Trước mặt những tên đao phủ mà tên nào cũng ngây ngô đần độn,
Tư Mã Khố cảm thấy vết xước trên má bỏng rát. Vết đứt trên má khiến Tư Mã Khố
giận điên lên, những chuyện hôm qua trở lại trong ký ức anh. Viên chấp pháp đến
thông báo cho anh về án tử hình, anh vui vẻ chấp thuận. Viên chấp pháp hỏi anh
có yêu cầu gì không, anh sờ râu ria trên mặt tua tủa như lông nhím, nói:
- Xin cho một thợ đến giúp tôi sửa sang râu tóc một tí? Viên
chấp pháp nói:
- Tôi sẽ báo cáo với lãnh đạo!
Ông thợ cắt tóc xách chiếc hòm gỗ, rụt rè bước vào phòng giam
tù tử hình. Chân tay run lẩy bẩy, ông ta cạo trọc đầu Tư Mã Khố, rồi cạo râu
cho anh. Cạo được một bên, ông ta làm đứt má, chảy máu. Tư Mã Khố gầm lên một
tiếng khiến ông thợ cắt tóc bỏ chạy nấp sau hai lính gác.
- Tóc thằng cha này cứng hơn lông gáy lợn! - Ông thợ cắt tóc
giơ lưỡi dao cạo cho hai người lính gác xem - Lưỡi mẻ hết cả? Râu hắn càng cứng
hơn, như cái bàn chải bằng dây thép. Vậy mà hắn còn vận nội công lên râu?
Ông thợ cắt tóc thu dọn đồ nghề định ra về, Tư Mã Khố chấn: -
Đ. mẹ, sao lại thế hả? Định để ta ra mắt bà con với nửa bộ râu này hả?
- Thằng tử tù, râu đã cứng mà còn vận nội công! - Ông thợ cắt
tóc chửi.
Tư Mã Khố cười dở mếu dở, nói:
- Con ơi, trăm dâu đổ đầu tằm, ta có biết vận nội công là thế
nào đâu?
- Anh cứ nghiến răng ken két, không vận nội công thì là gì? -
Ông thợ cắt tóc nói - tôi có điếc đâu!
- Thằng khốn, đó là vì ta đau quá!
Người lính gác bảo:
- Sư phụ, ai lại thế! Ông chịu khó cạo nốt cho người ta!
Ông thợ cạo nói: - Tôi cạo không được, các ông đi tìm người
khác!
Tư Mã Khố thở dài:
- Đ. mẹ, trên đời lại có loại người như vậy? Này người anh em
- anh ta nói với người lính gác - Mở còng cho tôi, tôi sẽ cạo lấy vậy?
Người lính gác kiên quyết:
- Không được! Nhân đó ông hành hung, chạy trốn hoặc tự sát
thì trách nhiệm đổ lên đầu chúng tôi!
Tư Mã Khố chửi:
- Đ. mẹ các ông, gọi một quan chức đến đây! - Tư Mã Khố dập
còng vào chấn song sắt loảng xoảng.
Một nữ cán bộ công an chạy vào, hỏi:
- Tư Mã Khố, gì mà làm ầm lên vậy?
Tư Mã Khố nói: - Nhìn bộ râu tôi đây này, cạo một nửa rồi
không cạo nữa, cái lý ở đâu thế?
- Chẳng có lý nào như thế cả - Chị ta vỗ vai ông thợ cắt tóc
hỏi - Sao không cạo nốt cho anh ta?
- Râu cứng quá, lại còn vận nội công lên râu nữa chứ!
- Đ. cụ anh, lại còn nói ta vận nội công!
Ông thợ cắt tóc giơ lưỡi dao mẻ ra để thanh minh. Tư Mã Khố
nói:
- Bạn ơi, bạn có dám bạo gan một lần không? Mở còng cho tôi,
tôi cạo lấy, đây là đề nghị cuối cùng của đời tôi?
Người cán bộ công an này đã từng tham gia vây bắt Tư Mã Khố.
Chị do dự một thoáng rồi bảo:
- Mở còng cho anh ta.
Người lính gác run run mở còng cho Tư Mã Khố rồi vội vàng né
sang một bên. Tư Mã Khố xoa bóp hai cổ tay rồi chìa tay ra. Chị cán bộ công an
nhận con dao từ tay ông thợ cạo rồi đưa cho Tư Mã Khố.
Tư Mã Khố đón lấy con dao cạo, nhìn thẳng vào đôi mắt đen láy
ẩn sau cặp lông mày rậm của chị cán bộ công an, giọng cảm kích:
- Chị không sợ tôi hành hung, chạy trốn hoặc tự sát hay sao?
Chị công an cười:
- Nếu vậy thì không phải là Tư Mã Khố!
Tư Mã Khố thở dài: - Không ngờ người hiểu ta hơn cả lại là phụ
nữ!
Chị công an mỉm cười khinh miệt.
Tư Mã Khố thèm thuồng nhìn đôi môi cương nghị của chị công
an, lại nhìn rất lâu bộ ngực nhô cao sau lần áo quân phục màu vàng, nói:
- Này cô em, vú cô không nhỏ chút nào!
Chị công an cắn môi, thẹn quá hóa giận, mắng:
- Quân đạo tặc chết đến nơi còn nghĩ lung tung!
Tư Mã Khố nói nghiêm chỉnh: - Cô em, tôi đã đ. không biết bao
nhiêu phụ nữ, chỉ tiếc rằng cho đến nay vẫn chưa đ. được một nữ đảng viên Cộng
sản!
Chị nữ công an giận dữ đánh Tư Mã Khố một bạt tai. Cái tát mạnh
đến nỗi bụi trên xà nhà rơi xuống. Nhưng Tư Mã Khố vẫn cười, thản nhiên như
không:
- Tôi có cô em vợ là đảng viên Cộng sản, lập trường kiên quyết,
vú vê đồ sộ. Tôi ôm lấy cô ta và bảo: Dì ơi, cho anh mần dì nhé! Cô ta bảo: Này
anh rể, mỡ này không đến miệng mèo được đâu!
Chị công an mặt đỏ như gấc, nhổ nước bọt vào mặt Tư Mã Khố,
khẽ chửi:
- Đồ chó dái, bà thì thiến nhà ngươi!
...
Tiếng kêu gào của Tư Mã Đình bứt Tư Mã Khố ra khỏi những hồi ức
ngọt ngào. Anh trông thấy mấy dân quân sắc mặt hầm hầm xốc nách anh trai, rẽ
đám đông đi tới.
- Oan quá, oan quá? Tôi là người có công, tôi cắt đứt quan hệ
với nó từ lâu...
Tư Mã Đình kể lể, nhưng không ai thèm nghe. Tư Mã Khố thở
dài, trong lòng cảm thấy bứt rút. Quả thực đây là một con người trung hậu, tuy
có ác khẩu đôi chút, nhưng vấn đề then chốt là lúc nào cũng hướng về em trai.
Tư Mã Khố nhớ lại cái lần lên huyện cách đây đã nhiều năm, khi anh mới lớn,
theo anh trai đi thu nợ. Qua ngõ nhà thổ, anh trai bị một đám son phấn lòe loẹt
kéo vào. Khi trở ra thì túi đã rỗng tuếch. Anh trai nói:
- Em này, về nói với bố là chúng mình bị cướp!
Một bận khác, hình như vào dịp trung thu thì phải, anh rượu
say vào mới đến nhà vợ, bị kẻ nào đó lột sạch quần áo treo lên cây hòe.
- Em cứu anh mấy, cởi dây cho anh! Đầu anh chảy máu.
Tư Mã Khố hỏi:
- Anh sao thế?
Lúc đó anh sao mà hài hước, anh nói:
- Em ơi, đầu bé khoan khoái, đầu to oan trái?...
Tư Mã Đình chân mềm nhũn đứng không vững.
Một cán bộ thôn hỏi dồn:
- Tư Mã Đình, kho báu nhà Phúc Sinh Đường chôn ở đâu? Không
nói thì cho đi theo thằng kia?
- Chẳng có kho nào cả, hồi cải cách ruộng đát đã đào hết lượt
sâu ba thước rồi! - Anh trai cố thanh minh một cách thảm hại.
Tư Mã Khố cười:
- Anh đừng la toáng lên như thế!
Tư Mã Đình chửi: - Tất cả là cái thằng khốn kiếp này hại tôi!
Tư Mã Khố lắc đầu cười đau khổ. Một cán bộ công an tay đỡ khẩu
súng bên hông, khiển trách cán bộ thôn:
- Chỉ bậy, giải đi, chẳng hiểu gì về chính sách cả?
Cán bộ thôn nói:
- Bọn tôi nhân tiện thì khai thác thêm đó thôi! - Anh ta vừa
nói vừa kéo Tư Mã Đình đi.
Viên giám quan giơ ngọn cờ bé tí lên, hô sang sảng:
- Chuẩn bị...
Các tay súng nâng súng lên, đợi khẩu lệnh cuối cùng. Tư Mã Khố
nhìn những họng súng đen ngòm, trên mặt thoáng một nét cười băng giá. Một đạo hồng
quang sáng rục trên đê, mùi đàn bà trùm lên tất cả. Tư Mã Khố la to:
- Ôi đàn bà mới là những người tốt nhất trên đời!
Đám đông đứng lặng như trời trồng. Lời hô của Tư Mã Khố tuy
không hùng tráng nhưng nó lại xoáy vào tâm khảm mọi nói. Đàn bà có tốt không?
Có lẽ đàn bà là những người tốt, quả thực đàn bà là những người tốt. Nhưng suy
cho cùng, đàn bà là những người không tốt! Liền sau đó là tiếng nổ đùng đục, đầu
Tư Mã Khố vỡ toác như cái gáo bị dập bể, máu trộn với óc bắn tung tóe. Lúc này,
y hệt vở kịch đến đoạn cao trào trước khi hạ màn, thiếu phụ góa chồng Thôi Phượng
Tiên, áo lụa hồng, quần đoạn xanh, trên đầu cài bông hoa đỗ quyên màu vàng kim,
từ trên đê chạy ào xuống phủ phục bên cái xác Tư Mã Khố. Tôi nghĩ rằng chị sẽ
ôm lấy Tư Mã Khố mà gào khóc, nhưng không phải. Có lẽ cái đầu vỡ toác khiến chị
khiếp đảm. Chị móc cái kéo giắt bên mình ra, tôi nghĩ rằng chị sẽ tự dâm vào ngực
để cùng chết với Tư Mã Khố, nhưng cũng không phải. Trước những cặp mắt nhìn
chăm chú của đám đông, chị thọc lút kéo vào giữa ngực cái xác, rồi hai tay ôm mặt,
chị vừa kêu gào vừa bỏ chạy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét