Thứ Ba, 4 tháng 6, 2019

Báu vật của đời 3

Báu vật của đời 3
Chương 5

1

Hôm Kim Đồng vừa tròn mười tám tuổi, chị Phán Đệ ép Lỗ Thắng Lợi phải đi với chị.

Sau khi Thăng Lợi đi rồi, Kim Đồng ngồi một mình trên đê, buồn bã nhìn những con chim én chao cánh trên mặt sông. Sa Tảo Hoa từ một bụi rậm chui ra, tặng Kim Đồng một chiếc gương nhỏ làm quà sinh nhật. Con nhỏ da nâu này ngực đã nhô cao, cặp mắt hơi hiếng, đen láy như hai, viên đá quạ dưới lòng sông. Kim Đồng bảo:

- Giữ lại để tặng cho Tư Mã Lương.

Sa Tảo Hoa lôi trong bọc ra một chiếc gương nữa to bằng cái đĩa, nói:

- Cái này là để tặng anh ấy! Cái gương phản chiếu ánh nắng lên bức tường sơn đen trông như tường chảy mỡ.

- Mày làm gì mà có nhiều tiền thế?

- Cháu ăn trộm ở Hợp tác xã cung tiêu - nó nói khẽ - Cậu nhất thiết không được cho ngoại biết nhé, cháu có quen một kẻ cắp siêu hạng ở trên chợ đồ dùng gia đình. Anh ta thu nhận cháu làm đồ đệ. Cậu ạ, cháu chưa học được nghề, khi nào có nghề, cậu thích cái gì cháu ăn trộm cho cậu cái đó. Sư phụ cháu lấy trộm được cả răng vàng trong miệng, đồng hồ trên tay các cố vấn Liên Xô nữa kia!

- Trời ơi, thế là phạm tội đấy!

Sa Tảo Hoa lại nói:

- Sư phụ cháu có nói, mèo tha miếng mỡ thì đuổi, hổ tha con lợn thì lại cho qua! Cậu học xong tiểu học nhưng trung học thì không đến phần mình, chẳng thà học nghề ăn cắp với cháu lại hóa hay!

Ra vẻ thông thạo, nó cầm những ngón tay Kim Đồng lên ngắm nghía, nói:

- Ngón tay cậu thon và mềm mại, chắc chắn học được!

- Không, tao không học, tao nhát lắm? - Kim Đồng nói - Tư Mã Lương bạo gan mà tỉ mỉ, nó chắc chắn là học được, đợi nó về học cùng với cháu.

Sa Tảo Hoa cất cái gương vào bọc, rên rỉ như một thiếu phụ:

- Anh Lương ơi là anh Lương, khi nào thì anh trở lại!

Tư Mã Lương đã biến mất cách đây năm năm, trong đêm thứ hai sau khi chôn cất Tư Mã Khố. Đêm ấy gió đông bắc ào ào lạnh thấu xương, chum chĩnh trong sân rên rỉ. Chúng tôi ngồi lặng trước ngọn đèn dầu. Đèn tắt, chúng tôi yên trong bóng tối, không ai nói một tiếng, mọi người đang nhớ lại cảnh tượng chôn cất Tư Mã Khố. Không có quan tài, chúng tôi bó anh trong một chiếc chiếu như người ta cuộn bánh tráng, bên ngoài cuốn mươi mấy vòng dây thừng. Hơn chục người khiêng xác anh ra ngoài nghĩa trang, đào một hố sâu rồi chôn anh ở đó. Khi nấm mồ đắp xong, Tư Mã Lương quì xuống lạy một lạy. Nó không khóc, trên khuôn mặt bé nhỏ của nó đã xuất hiện một số nếp nhăn. Tôi rất muốn an ủi nó, nhưng nghĩ mãi mà không biết nên nói thế nào. Trên đường về, nó nói nhỏ với tôi:

- Cậu ạ, cháu sẽ đi!

- Lương định đi đâu bây giờ? - Tôi hỏi.

Nó đáp:

- Cháu cũng không biết nữa!

Khi gió thổi tắt đèn, tôi bàng hoàng trông thấy một bóng đen lủi đi, biết đó là Tư Mã Lương, nhưng tôi không nói gì. Tư Mã Lương đã biến mất. Mẹ kéo lê cây sào dài, đi tìm tất cả những giếng cạn và hồ ao. Tôi biết đó là một công việc vô bổ, Tư Mã Lương không đời nào tự tử. Mẹ nhờ người đi hỏi thăm khắp nơi, nhận được toàn những tin trái ngược. Có người bảo trông thấy nó trong một đoàn xiếc rong, có người nói trông thấy cái xác của một đứa con trai ở ven hồ, mặt mũi không thể nhận ra vì bị quạ rỉa. Một toán dân công từ đông bắc trở về thì nói chắc như đanh đóng cột rằng, có gặp nó ở gần cầu sông áp Lục. Khi ấy đang có cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên, máy bay Mỹ ngày đêm bắn phá cầu cống...

Vì có cái gương của Sa Tảo Hoa, lần đầu tiên tôi nhìn rõ khuôn mặt mình. Tôi đã mười tám tuổi, mái tóc vàng rực, hai vành tai đầy đặn, trắng nõn, lông mày vàng như tiểu mạch chín, lông mi vàng rộm soi bóng trong cặp mắt xanh biếc. Mũi cao, môi đỏ như son, lông ngực từng mảng rậm. Thực ra, qua chị Tám, tôi cũng đoán ra mình không giống mọi người. Tôi đau xót khi nhận ra rằng, cha đẻ ra tôi, dứt khoát không phải Thượng Quan Thọ Hỷ, mà như người ta vẫn nói vụng sau lưng: Chúng tôi là con riêng của mục sư Malôa, lai một trăm phần trăm. ý thức về sự hèn kém bám chặt lấy trái tim tôi. Tôi lấy mực đen nhuộm tóc, bôi đen mặt, còn con mắt thì không làm cách nào thay đổi được màu sắc, tôi chỉ tiếc là không thể móc bỏ được chúng đi. Tôi nhớ đến chuyện nuốt vàng tự tử bèn lục lọi trong hộp trang sức của chị Lai Đệ, lấy chiếc nhẫn vàng từ thời Sa Nguyệt Lượng, nuốt chửng và lên giường năm đợi chết. Chị Tám mò mẫm quay sợi ở góc giường. Mẹ đi làm Hợp tác xã về thấy bộ dạng của tôi vô cùng kinh hoảng. Tôi nghĩ rằng mẹ sẽ xấu hổ, không ngờ mẹ lại nổi trận lôi đình. Mẹ túm tóc đánh tôi tám bạt tai. Tôi bị chảy máu răng, tai ù đi, mắt nổ đom đóm. Mẹ nói:

- Hoàn toàn đúng, cha đẻ chúng mày là mục sư Malôa! Vậy thì sao nào? Dậy mà rửa mặt, gội đầu cho sạch, rồi ưỡn ngực mà nói rằng: Bố tôi là mục sư Malôa, người Thụy Điển, là hậu duệ của quí tộc, cao quí hơn nhiều cái giống nghêu sò ốc hến nhà các người!

Khi mẹ đánh tôi, chị Tám vẫn ngồi thản nhiên quay sợi, làm như chuyện này không liên quan gì đến chị. Tôi khóc sụt sịt, rửa mặt trong chậu gốm, nước trong chậu lập tức đen kịt. Mẹ đứng sau tôi, miệng vẫn chửi lảm nhảm, nhưng tôi biết không phải mẹ chửi tôi. Rồi mẹ lấy gáo múc nước sạch gội đầu cho tôi, mẹ khóc tấm tức. Dòng nước từ trên đầu chảy xuống cứ trong dần. Mẹ lấy khăn mặt lau đầu cho tôi, vừa lau vừa nói:

- Con ơi, ngày ấy mẹ cũng không còn cách nào khác! Nhưng trời đã sinh ra con thì con phải nhìn thẳng vào sự việc. Con đã mười tám tuổi, là một người đàn ông rồi, Tư Mã Khố dù trăm xấu nghìn xa, nhưng vẫn dáng mặt là một thằng đàn ông, con phải học tập nó?

Tôi gật đầu hứa với mẹ, nhưng lập tức nghĩ ngay đến chuyện nuốt vàng. Tôi định thú thực với mẹ thì thấy chị Lai Đệ vừa thở vừa chạy về. Chị là công nhân nhà máy diêm của khu, chiếc tạp đề chị đang mặc có dòng chữ

Nhà máy diêm ánh Sao khu Đại Lan. Chị hốt hoảng bảo mẹ:

- Mẹ, nó về rồi!

Mẹ hỏi: - Đứa nào về?

- Thằng Câm - chị nói.

Mẹ lấy khăn mặt lau tay, buồn rầu nhìn chị Cả, nói:

- Con ơi! có lẽ số kiếp nó thế!

Thằng Câm đi vào nhà tôi bằng cách đặc biệt của hắn. Mấy năm không gặp, trông hắn có già đi, mớ tóc hoa râm ló ra dưới vành mũ lính đội ngay ngắn. Đôi con ngươi vàng của hắn trông càng u tối, cái cằm rắn chắc chìa ra như chiếc lưỡi cày han gỉ. Hắn mặc chiếc áo quân phục mới tinh, thắt lưng rất chặt đúng quân phong quân kỷ. Trước ngực đeo một lô huy chương. Hai cánh tay dài quá khổ, bàn tay đeo găng trắng bằng vải bông lồng vào hai chiếc ghế nhỏ. Một đệm da gắn dưới đít, như là một bộ phận của mông. Hai ống quần rộng thùng thình buộc lại với nhau trước bụng. Hình như hai chân hắn cụt đến bẹn. Đó là toàn bộ chân dung của Thằng Câm xuất hiện trước mặt chúng tôi sau nhiều năm xa cách. Hai tay hắn tì trên hai ghế, nhích từng bước một, tấm đệm dưới đít thấp thoáng màu huyết dụ.

Sau năm cái nhích lên, hắn dừng lại cách chúng tôi khoảng ba thước rưỡi. Khoảng cách này đủ để giao lưu ánh mắt với chúng tôi mà không phải ngửa mặt lên. Nước bẩn gội đầu lan đến chỗ hắn, hắn chống tay lùi lại một tí. Nhìn hắn tôi mới hiểu rằng, chiều cao của người ta là do hai chân quyết định. Mất đi hai chân nửa người trên của Tôn Bất Ngôn càng đồ sộ. Con người này tuy còn có nửa người, nhưng vẫn tiềm ẩn một sức mạnh kinh người. Hắn giương mắt nhìn chúng tôi, một tình cảm phức tạp hiện rõ trên khuôn mặt xám ngoét, cái cằm rung rung như ngày xưa, lập bập mãi mới thốt được mấy tiếng: - Cởi cởi cởi! Hai giọt nước mắt trong suốt như pha lê ứa ra từ hốc mắt...

Hắn rút tay khỏi ghế, giơ lên cao làm điệu bộ, miệng vẫn: Cởi, cởi, cởi! Tôi lập tức đoán rằng, hắn hỏi thăm Câm anh và Câm em, vì từ khi đi chuyển lên đông bắc, chúng tôi chưa gặp lại hắn lần nào. Mẹ dùng khăn che mặt, vừa khóc vừa chạy vào trong nhà, Thằng Câm đã hiểu ra, hắn gục đầu xuống ngực.

Mẹ cầm ra hai chiếc mũ quả dưa nhỏ vấy máu đưa cho tôi, ra hiệu chuyển cho hắn. Tôi quên bẵng chiếc nhẫn trong bụng, đi tới trước mặt hắn. Hắn ngửa mặt nhìn thân hình cao như cây sào của tôi, buồn bã lắc đầu. Tôi cúi xuống, nhưng thấy vậy bất tiện, liền ngồi xuống đưa hai chiếc mũ cho hắn, rồi chỉ tay về quảng đông bắc. Tôi nhớ lại chuyến đi bi thảm ngày ấy, nhớ lại tình cảnh Thằng Câm cõng một thương binh gãy chân trên đường rút lui, lại càng nhớ hai cái xác Cârn anh và Câm em bị bỏ lại trong hố đạn pháo. Hắn chìa tay lấy chiếc mũ đưa lên mũi ngửi không khác chó nghiệp vụ đánh hơi hung thủ hoặc đánh hơi người chết, rồi đặt xuống giữa hai chân quần, đón lấy chiếc thứ hai đưa lên mũi ngủi rồi đặt lên trên chiếc thứ nhất. Sau đó, mặc dù không một lời mời mọc, bằng hai tay, hắn đi khắp các xó xỉnh trong nhà, hết gian chính đến gian phụ, từ nhà xay đến nhà kho. Hắn thậm chí còn đi một vòng ra chỗ nhà xí, thò đầu vào ổ gà xem xét một luật. Tôi đi theo sau, thích thú nhìn ngắm cách thức đi chuyển nhẹ nhàng của hắn. Vào đến phòng ngủ của chị Cả và Sa Tảo Hoa, hắn biểu diễn động tác trèo lên giường. Hắn ngồi dưới đất, mắt ngang tầm giường, tôi buồn thay cho hắn. Nhưng chuyện xảy ra sau đó chúng tỏ tôi đã lo bò trắng răng. Thằng Câm hai tay bám thành giường rồi từ từ đu người lên. Tôi chưa bao giờ thấy những cánh tay khỏe đến như thế, trừ một lần xem xiếc. Đầu hắn đã cao quá mặt giường, hai cánh tay kêu răng rắc rồi đột nhiên hất người hắn lên giường. Hắn chỉ ngất ngưỡng một hai cái rồi trở lại tư thế ngồi ngay ngắn.

Hắn ngồi trên giương chị Cả, nghiễm nhiên là một gia trưởng, càng giống một thủ trưởng. Tôi đứng bên giường, tự cảm thấy mình là người ngoài.

Trong buồng mẹ, chị Cả vừa khóc vừa nói:

- Mẹ bảo nó đi đi, con không cần nó. Khi nó còn lành lặn, con đã không thích nó, bây giờ nó chỉ còn một nửa người, con lại càng không cần

Mẹ nói:

- Con ơi, chỉ sợ rước về thì dễ, đuổi đi thì khó!

Chị Cả nói:

- Ai rước nó về?

Mẹ nói:

- Đây là sai lầm của mẹ. Cách đây mười sáu năm, mẹ đã hứa gả con cho nó. Mối oan nghiệt này không hiểu thắt nút tự bao giờ?

Mẹ rót một bát nước nóng đưa cho Thằng Câm. Hắn giơ tay đón, mắt chớp chớp, có vẻ rất cảm động, uống một hơi ừng ực.

Mẹ nói:

- Tôi cứ ngỡ anh đã chết, ai ngờ anh còn sống. Tôi không bảo vệ được hai đứa con của anh, tôi đau xót hơn anh nhiều, con là con của anh chị nhưng nuôi dưỡng chúng là tôi. Xem ra, anh là người có công với nước, Chính phủ sẽ có nơi có chốn cho anh hưởng phúc. Chuyện hôn nhân cách đây mười sáu năm là do tôi bao biện kiểu phong kiến. Xã hội mới bây giờ hôn nhân tự do, không ai được ép buộc. Anh là người của Chính phủ thì nên độ lượng, xin đừng chì chiết mẹ góa con côi chúng tôi. Hơn nữa, Lai Đệ chưa lấy anh mà ba đứa em đã chống lại nó. Tôi xin anh, anh hãy về nơi Chính phủ sắp xếp cho anh hồng phúc, anh đi đi!

Thằng Câm không đếm xỉa những lời xin xỏ của mẹ. Hắn chọc thủng giấy dán cửa sổ nhìn ra ngoài sân. Chị Cả tìm đâu ra chiếc kẹp rèn sắt cầm bằng cả hai tay xông vào, chửi:

- Thằng Câm, thằng cụt, cút khỏi đây!

Chị định kẹp Thằng Câm, nhưng hắn chỉ vươn tay một cái là tóm được cái kẹp, chị không sao giằng lại được. Trong cuộc đấu không cân sức đó, Thằng Câm vênh váo nở nụ cười khinh miệt. Chị Cả bỏ tay ra, ôm mặt vừa khóc vừa bảo Thằng Câm:

- Anh Câm, anh từ bỏ ý định ấy đi! Thà rằng tôi lấy lợn đực còn hơn là lấy anh!

Tiếng thanh la rộn ràng trong ngõ, một đoàn người ồn ào kéo vào nhà tôi, đi đầu là ông trưởng khu, theo sau là mười mấy cán bộ, lại còn một đám đông học sinh tiểu học tay cầm hoa. Trưởng khu khom người chui vào nhà, nói với mẹ:

- Chúc mừng! Chúc mừng!

Mẹ mặt lạnh như tiền, hỏi:

- Mừng gì mà chúc?

Trưởng khu nói:

- Bác ơi, mừng từ trên trời rơi xuống. Nghe tôi nói đã!

Các học sinh đứng vẫy hoa trong sân, reo từng đợt:

- Chúc mừng, chúc mừng! Gia đình vẻ vang, chúc mừng chúc mừng!

Trưởng khu gập từng ngón tay, nói:

- Thưa bác, chúng tôi đã phúc tra hồ sơ trong cải cách ruộng đất, thấy rằng qui gia đình bác thành phần trung nông là không thỏa đáng! Sau khi gặp nạn, gia đình bác đã phá sản, thực tế chỉ là bần nông đỏ. Nay chúng tôi đã sửa lại thành phần cho bác, thành phần bác là bần nông. Đó là chuyện vui mừng thứ nhất. Chúng tôi đã nghiên cứu những tư liệu về cuộc tàn sát của giặc Nhật năm một chín ba chín, cho rằng có một sự thực là mẹ chồng và bác giai đều có chống cự lại chúng và hy sinh vẻ vang, vậy phải khôi phục vị trí lịch sử cho họ, gia đình bác dáng được hưởng chính sách ưu đãi. Đó là chuyện vui mừng thứ hai. Do hai chuyện trên, trưởng trung học quyết định tiếp nhận Kim Đồng vào học. Nhà thương sẽ bố trí người phụ đạo những bài chưa học cho Kim Đồng. Đồng thời, cháu ngoại của bác, cô Sa Tảo Hoa cũng có dịp được học tập, đoàn kịch Mậu Xoang tuyển diễn viên, chúng tôi sẽ cố sức bảo lãnh cho cháu được trúng tuyển. Đó là chuyện vui mừng thứ ba. Điều vui mừng thứ tư, tất nhiên là Tôn Bất Ngôn, con rể của bác, đặc dẳng công thần Chí nguyện quân, vinh qui cố hương. Điều vui mừng thứ năm là Viện điều dưỡng quân nhân vẻ vang quyết định tuyển dụng cô Lai Đệ là hộ lý bậc Một, cô không phải đến Viện, hàng tháng có người đem lương đến tận nhà. Điều vui mừng thứ sáu là mừng người anh hùng của chúng ta đoàn tụ với người bạn đời Lai Đệ. Hôn lễ của anh chị sẽ do Chính phủ đảm nhiệm. Bác ơi, bác là bà mẹ cách mạng có sáu chuyện mừng trong một ngày.

Mẹ như bị sét đánh, mắt trợn ngược, cái bát trong tay rơi xuống đất.

Trưởng khu giơ tay vẫy, một cán bộ rẽ đám học sinh đi tới theo sau là một nữ sinh tay cầm bó hoa. Anh cán bộ đưa cho trưởng khu một gói bọc bằng giấy trắng, nói nhỏ: giấy chứng nhận gia đình bị giặc sát hại.

Trưởng khu chuyển cái gói cho mẹ, nói:

- Thưa bác, đây là giấy chứng nhận gia đình bị giặc sát hại!

Mẹ run run đỡ lấy, ôm trước người.~ Em nữ sinh bước tới cài một bông hoa trắng trên kích áo mẹ, chỗ gần nách. Anh cán bộ lại đưa cho trưởng khu một gói bọc giấy hồng, nói: giấy bổ nhiệm. Trưởng khu chuyển cho chị Cả, nói:

- Chị Cả, đây là giấy bổ nhiệm.

Chị Cả giấu hai tay đầy muội than ra sau lưng. Trưởng khu kéo tay chị ấn bọc giấy hồng vào tay, nói:

- Phải vậy thôi!

Em nữ sinh lại cài lên kích áo chị bông hoa tím. Anh cán bộ khu đưa cho Trưởng khu một bọc gói trong giấy màu vàng, nói: đây là thông báo nhập học. Trưởng khu chuyển cho tôi, nói:

- Chú em, tiền đồ của chú sáng sủa lắm, hãy cố học cho giỏi nhé!

Em nữ sinh trao cho tôi một bó hoa màu vàng kim, cặp mắt đa tình nhìn tôi quyến rũ. Tôi ngửi mùi hương thoang thoảng của bông hoa vàng, chợt nhớ đến chiếc nhẫn trong bụng. Trời ơi, biết thế này thì tôi nuốt vàng làm gì? Anh cán bộ khu đưa cho Trưởng khu chiếc gói bằng giấy màu tím, nói: đây là giấy gọi vào Đoàn kịch. Trưởng khu cầm cái gói, nhìn quanh tìm Sa Tảo Hoa. Sa Tảo Hoa từ sau cánh của bước ra đón lấy cái gói. Ông Trưởng khu bắt tay nó, nói:

- Em gắng họ cho tốt để trở thành diễn viên nổi tiếng.

Em nữ sinh tặng Sa Tảo Hoa một bông hoa tím. Khi nó giơ tay nhận bông hoa, chiếc huy chương lấp lánh rơi xuống đất. Trưởng khu nhặt cái huy chương lên, xem hoa văn và chữ trên đó liền đưa cho Thằng Câm. Thằng Câm đeo chiếc huy chương lên người. Tôi vừa sợ vừa mừng khi nghĩ rằng: Một tên trộm cắp siêu hạng đã xuất hiện trong nhà tôi. Trưởng khu nhận cái gói cuối cùng từ tay anh cán bộ, chiếc gói màu xanh lam, chuyển cho Thằng Câm, nói:

- Tôn Bấc Ngôn, đây là giấy đăng ký kết hôn của đồng chí với Thượng Quan Lai Đệ. Khu đã làm thủ tục giấy tờ cho đồng chí, hai người chỉ cần điểm chỉ là xong!

Cô nữ sinh đưa tận tay Thằng Câm một bông hoa màu xanh.

Trưởng khu nói:

- Bác ơi, bác có ý kiến gì không? Xin chớ khách khí, chúng ta là người trong nhà! Mẹ nhìn chị Cả, vẻ khó xử. Chị Cả tay cầm bông hoa, miệng méo xệch, những giọt nước mắt rơi trên bông hoa tím.

Mẹ phát biểu đầy mâu thuẫn: - Xã hội đổi mới rồi, bọn trẻ có ý kiến của chúng, do chúng quyết định?.

Trưởng khu nói:

- Đồng chí Lai Đệ, đồng chí có ý kiến gì không

Chị Cả nhìn chúng tôi, thở dài: - Số tôi nó như thế?

Trưởng khu nói: - Vậy thì tốt rồi! Tôi lập tức cho người đến dọn dẹp. Tối mai làm lễ thành hôn

Đêm hôm đó tôi ị được cái nhẫn ra ngoài. Chính vào giờ phút tôi trút được gánh nặng đó, nhà máy diêm ánh Sao của trấn Đại Lan xảy ra vụ nổ, nhà máy bị cháy rụi, tất cả nữ công nhân của nhà máy, trừ chị Lai Đệ, không một ai sống sót.

2

Tổ y tế gồm hơn chục bác sĩ của bệnh viện huyện, dưới sự chỉ đạo của chuyên gia Liên Xô, đã vận dụng học thuyết Páplốp chữa khỏi chứng luyến nhũ yếm thực° (°chứng bệnh chỉ ăn sữa, không ăn được thứ gì khác) cho tôi. Tôi rũ bỏ những ràng buộc, vào trường trung học. Tôi học rất giỏi, trở thành học sinh ưu tú của khối tiểu, trung học thị trấn Đại Lan. Đây là thời hoàng kim trong cuộc đời tôi. Tôi có một gia đình cách mạng nhất, có một đầu óc thông minh nhất, có một thân thể và tâm hồn lành mạnh có một khuôn mặt mà các bạn nữ không dám nhìn thẳng vào. Tôi ăn rất khỏe. Trong nhà ăn của học sinh, tôi dùng đũa xâu từng xâu màn thầu, tay kia thì cầm củ dưa hành to tướng, vừa cười nói vừa nhai hành rau ráu. Trong nửa năm tôi nhảy hai lớp, là cán sự môn tiếng Nga của lớp 3A, không làm đơn cũng được kết nạp vào Đoàn, và lập tức được bầu là ủy viên tuyên truyền của Chi đoàn, chủ yếu là quản ca, hát dân ca Nga băng tiếng Nga. Giọng tôi trầm lắng, có cái nhuần nhuyễn của sữa và hoang đã của hành dại, tôi cất tiếng hát là đám đông cứ lặng đi mà nghe. Tôi là ngôi sao sáng của trường trung học Đại Lan cuối những năm 50. Cô giáo Hoắc, một phụ nữ có khuôn mặt đoan chính, từng làm phiên dịch cho chuyên gia Liên Xô rất khen ngợi tôi, nhiều lần biểu dương tôi trên lớp, khen tôi rất có khiếu ngoại ngữ. Để nâng cao trình độ Nga văn cho tôi, cô đã móc nối một nữ sinh lớp chín trường trung học thành phố Khác-cốp để tôi trao đổi thư từ. Cô ta là con một chuyên gia Liên Xô từng công tác ở Trung Quốc, tên là Natasa. Chúng tôi gửi ảnh cho nhau.

Trên tấm ảnh trắng đen, Natasa giương đôi mắt to nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên, cặp lông mi cong vút...

Kim Đồng tim đập dữ dội, máu dồn lên đầu, tay cầm tấm ảnh run lẩy bẩy. Cặp môi đỏ mọng của Natasa hé mở, hàm răng trắng muốt, một mùi thơm thoang thoảng của hoa dạ lan vấn vương ngay trước mặt, khiến Kim Đồng thấy sống mũi cay xè. Anh trông thấy mái tóc hoe vàng của Natasa rủ trên bờ vai mịn màng, cổ áo xẻ trễ, có thể là áo của mẹ hay của cô, thấp thoáng cặp vú xinh xắn, cái cổ dài, khoảng lõm giữa ngực trông rõ mồn một. Nước mắt Kim Đồng tự nhiên ứa ra. Qua làn nước mắt, Kim Đồng hình dung toàn bộ cặp vú của Natasa, mùi sữa thơm thơm tràn vào tâm thức, nghe văng vẳng tiếng gọi từ phương bắc xa xôi với thảo nguyên mênh mông, rùng bạch dương bát ngát, căn nhà nhỏ trong rừng, những cây sam tuyết phủ trĩu cành... Phong cảnh mê hồn lướt qua trước mắt như một cuộn phim và từng cảnh đều có Natasa ôm bó hoa màu tím. Kim Đồng đưa hai tay lên bưng mặt, khóc lên vì sung sướng, nước mắt lọt qua kẽ ngón tay...

- Kim Đồng, bạn làm sao thế? - Một bạn nữ có cái cằm nhọn lắc vai Kim Đồng, hỏi.

Kim Đồng vội giấu tấm ảnh, nói:

- Không làm sao cả!

Đêm hôm ấy, Kim Đồng chập chờn trong trạng thái nửa ngủ nửa thức. Natasa với chiếc váy phồng dài lê thê đi lại trước mặt anh. Anh nói với Natasa rất nhiều chuyện bằng tiếng Nga mà anh diễn đạt không khó khăn gì, nhưng thái độ của cô lúc vui vẻ, lúc giận dỗi, đưa anh từ tuyệt đỉnh của niềm vui rơi xuống vực sâu của tuyệt vọng, rồi với nụ cười trêu chọc, đưa tay lôi anh từ dưới vực lên.

Sáng ra, ông bố của hai đứa trẻ là Triệu Phong Niên ngủ giường dưới kháng nghị:

- Kim Đồng, tôi biết là anh tiếng Nga rất giỏi, nhưng anh phải cho tôi ngủ với chứ? Kim Đồng đầu nhúc như búa bổ, khó khăn lắm mới rũ được hình ảnh xinh đẹp của Natasa. Anh buồn rầu xin lỗi Triệu Phong Niên. Nhìn sắc mặt tái nhợt và cặp môi nút nẻ của Kim Đồng, Triệu Phong Niên kinh ngạc hỏi:

- Kim Đồng, cậu ốm rồi!

Kim Đồng lắc đầu đau khổ, cảm thấy dòng suy nghĩ của mình không sao nắm bắt được, y hệt một chiếc xe đang xuống dốc, dưới chân dốc là thảo nguyên mọc đầy hoa tím, Natasa xinh đẹp tay nâng gấu váy lặng lẽ chạy tới.

Anh ôm chặt và đập đầu côm cốp vào cọc giường. Triệu Phong Niên chạy đi gọi giáo viên chủ nhiệm Tiêu Kim Cương. Ông là một cán bộ công nông xuất thân từ đội đặc công, từng tuyên bố bắn bỏ cô giáo Hoắc Lệ Na về tội mặc váy ngắn, cho rằng ăn mặc như vậy là trụy lạc. Đôi mắt ti hí, dữ dằn trên khuôn mặt tai tái của ông khiến Kim Đồng lạnh xương sống.

- Kim Đồng, em làm cái trò gì vậy? - Thầy Tiêu Kim Cương nghiêm giọng hỏi.

- Tiêu Kim Cương, đồ mặt mẹt! Ông không khiến ngươi chõ mõm vào! - Bất chấp hậu quả, Kim Đồng chọc tức thầy giáo, định mượn cái uy của ông rũ bỏ hình ảnh Natasa.

Tiêu Kim Cương đấm cho Kim Đồng một quả vào đầu, chửi:

- Mẹ mày, dám chửi ông hả? Trò cưng của Hoắc Lệ Na đây! Tao quyết không tha mày?

Bữa ăn trưa, Kim Đồng không cưỡng được cơn buồn nôn khi ngồi trước bát cháo ngô. Anh hoảng sợ nhận ra rằng, chứng bệnh luyến nhũ yếm thực lại tái phát. Anh bê bát cháo lên, cố dùng đôi chút lý trí còn lại buộc mình phải ăn, nhưng vừa nhìn vào bát cháo, anh trông thấy hai bầu vú nổi lềnh bềnh trong đó. Bát cháo rơi xuống đất vỡ thành nhiều mảnh, cháo bỏng đổ vào chân vậy mà anh không cảm thấy gì.

Các bạn học kinh hoàng dìu anh đến phòng y tế. Cô y tá nhà trường lau sạch cháo bám trên bàn chân và bôi thuốc mỡ cho anh. ánh nhìn chòng chọc bức tranh giải phẫu sinh lý treo trên trong. Cô y tá đút cái cặp nhiệt độ vào miệng cho anh ngậm, miệng anh chúm chím như mút vú. Cô tiêm cho anh một liều thuốc an thần, bảo các bạn đưa anh về phòng ngủ.

Anh xé cái ảnh Natasa thành trăm mảnh, vứt xuống sông phía sau nhà trường. Những mảnh Natasa trôi theo dòng nước rồi chụm lại ở một chỗ xoáy, anh lại trông thấy một Natasa nguyên vẹn như nàng tiên cá, ngực trần lồ lộ, mái tóc dài chấm mông. Nàng buồn bã nghiêng nghiêng mái đầu, những giọt nước chảy trên cổ, hai tay nâng bầu vú, núm vú đỏ hồng như quả nho chín. Điệu dân ca quen thuộc, buồn buồn, từ lòng sông dâng lên. Natasa nhìn Kim Đồng có vẻ oán trách. Anh nghe rõ lời cô: Anh tàn nhẫn lắm! Kim Đồng lòng như dao cắt, anh cảm thấy mình bị chìm trong mùi sữa xô tới từng đợt như sóng biển.

Từ xa, các bạn học trông thấy Kim Đồng lao đầu xuống sông, còn nghe anh thét lên câu gì đó. Họ nháo nhào chạy ra bờ sông, có người chạy về trường gọi người. Kim Đồng chìm xuống đáy sông. Natasa bơi giữa các bụi cỏ nước như cá, vừa bơi vừa vẫy gọi anh. Nước xộc vào miệng làm anh ngất đi.

Kim Đồng mở mắt, thấy mình nằm trên giường mẹ. Đầu anh trống rỗng, trong tai có tiếng ù ù như gió thổi qua dây diện. Anh thử ngồi dậy, nhưng mẹ ngăn lại. Mẹ cho anh uống một ít sữa dê trong bình. Anh nhớ mang máng rằng con dê của anh đã chết, vậy sữa dê này lấy ở đâu? Đầu óc anh mụ đi, không sai khiến được nữa, anh mệt mỏi nhắm mắt lại. Trong cơn thảng thốt, anh nghe thấy mẹ bàn với chị Cả về chuyện trừ tà. Tiếng mẹ ồm ồm như nói trong chum, nghe như từ một nơi rất xa vọng lại. Mẹ nói:

- Nó bị ma ám!

Chị Cả hỏi:

- Ma nào?

Mẹ nói:

- Theo mẹ thì là con hồ ly tinh.

Chị Cả hỏi:

- Có phải cái cô góa chồng ấy không? Khi còn sống, cô ấy thờ hồ ly tinh.

Mẹ nói:

- Tiên thật quá đáng, chọn ngay Kim Đồng nhà mình! Hừm, mới được ít ngày sống dễ chịu...

Chị Cả nói:

- Mẹ, đối với con bây giờ một ngày cũng không sống nổi... Mẹ ơi, nếu con có làm chuyện gì đó thì mẹ đừng có mắng đấy nhé!...

Mẹ nói:

- Mẹ còn có thể mắng con về chuyện gì?

Kim Đồng nằm hai ngày, đầu óc dần dà trở lại linh hoạt, hình ảnh Natasa lúc nào cũng đứng ngay trước mặt. Anh rửa mặt, thấy Natasa khóc trong chậu. Anh soi gương, thấy Natasa cười trong gương. Anh nhắm mắt lại, nghe thấy tiếng thở của cô, thậm chí còn cảm thấy tóc cô quệt vào mặt, bàn tay âm ấm của cô rờ khắp cơ thể anh. Bà Lỗ sợ đến mụ người trước những cử chỉ kỳ quặc của cậu con trai yêu quí, bà chỉ khóc, suốt ngày luẩn quẩn quanh bên anh. Anh soi khuôn mặt vàng võ trong chum nước, thốt lên:

- Cô ấy ở trong này!

Mẹ hỏi:

- Ai? - Cô ấy?

- Cô ấy là ai?

- Natasa. Cô ấy lại không vui rồi!

Bà trông thấy con trai thò tay vào chum. Trong chum không có gì khác, ngoại trừ nước, nhưng con trai bà vẫn rất xúc động, lẩm bẩm nói những gì mà bà không hiểu. Bà kéo con trai ra, đậy nắp chum lại, nhưng Kim Đồng đã lại quì bên cái chậu bằng gốm nói chuyện với nước trong chậu. Bà đổ hết nước trong chậu đi, Kim Đồng lại dán mặt vào cửa kính, môi dẩu ra như nói chuyện với bóng của mình.

Mẹ tuyệt vọng, ôm lấy Kim Đồng mà khóc:

- Con ơi, con làm sao thế? Mẹ vất vả mới nuôi được con khôn lớn, ngờ đâu con đến nông nỗi này?...

Mắt mẹ mọng nước, Kim Đồng trông thấy Natasa nhảy múa trong đó, từ giọt này nhảy sang giọt kia.

- Cô ấy đây rồi - Anh nhìn chằm chằm giọt nước mắt trên mặt mẹ, nói - Em đừng chạy, Natasa?

- Cô ấy ở đâu? - Mẹ hỏi.

- Trong nước mắt ấy? - Kim Đồng nói.

Bà Lỗ vội lau sạch nước mắt. Kim Đồng thở dài:

- Cô ấy nhảy vào trong mắt mẹ rồi!

Cuối cùng bà Lỗ đã hiểu, bất cứ vật gì có thể soi gương là có Natasa trong đó. Bà đậy nắp tất cả những thứ đựng nước, chôn gương dưới đất, dán kín cửa kính bằng giấy màu đen và không để Kim Đồng nhìn vào mắt. Kim Đồng lập tức nhìn thấy Natasa trong bóng tối. Từ giai đoạn tìm mọi cách tránh mặt Natasa, anh tiến tới điên cuồng đuổi theo Natasa. Còn cô thì từ chỗ lúc nào cũng có mặt, tiến tới giai đoạn né tránh như chơi trò ú tim. Anh nói với xó nhà tối mò: Natasa, nghe anh nói này?... rồi lao thẳng vào. Natasa chui vào hang chuột, Kim Đồng cũng thực sự cảm thấy anh chui vào theo, rượt đuổi cô trong cái hang ngoằn ngoèo, gọi toáng lên: Natasa, Natasa, đừng chạy? Sao em lại chạy tôi? Natasa chui ra từ một lỗ khác, biến mất. Anh tìm khắp xó xỉnh, phát hiện ra cô dán vào tường, người dẹt như tờ giấy. Anh nhào tới, hai tay sờ mặt tường, cho rằng đang sờ mặt Natasa. Natasa luồn qua nách anh chui vào trong bếp lò, mặt đầy bụi tro. Anh quì trước cửa bếp, thò tay vào lau mặt cho cô, mặt cô không sạch nhưng mặt anh thì đen nhẻm.

Mẹ dùng đủ mọi cách mà vẫn chào thua, cuối cùng, mời được Mã Sơn Nhân, một phù thủy có tài trước quỉ trừ tà bỏ nghề đã lâu. Mã Sơn Nhân pháp thuật cao cường, lấy giấy trắng cắt thành con chim bồ câu, niệm câu thần chú thổi phù một cái, con chim bay lên trời. Cối xay bột trong nhà ông đều do bọn tiểu quỉ đảm nhiệm việc đẩy cối. Rất nhiều người trông thấy cối xay lớn trong nhà ông tự động quay, bột rơi rào rào xuống thớt hứng. Ông có một thanh kiếm bằng gỗ đào, ra ngoài là đem theo bên mình. Một bận, ông sơ ý để quên thanh kiếm ở nhà, bị bọn quỉ lâu nay làm không công cho ông, bắt giữ. Bọn chúng lôi ông đến một khúc sông dìm xuống bùn, suýt nữa ông chết ngạt. Ông cắn ngón tay giữa lấy máu trừ tà mới thoát hiểm. Về nhà, ông múc một chậu đầy nước, niệm chân ngôn bắt tất cả bọn quỉ lại, dùng thanh kiếm gỗ đào khuấy nước trong chậu, bọn quỉ la khóc, chậu đầy máu. Ông chém chết hết bọn quỉ. Ông thấy hối hận vì mình quá tàn nhẫn, bèn rửa tay không hành nghề nữa. Ông không những biết trước quỉ mà còn có tài sai khiến linh hồn con người. Một bận, ông mở tiệc, khách khứa rất đông, từ xa có một người đàn bà đi tới, trong đám khách có một ông quan huyện hỏi:

- Ông Mã, ông biết trước quỉ, nhưng ông có chế ngự được con người không?

Mã Sơn Nhân nói:

- Tôi có thể bắt người đàn bà kia cỏi bỏ hết quần áo mà đi đến đây.

Ông giơ tay bắt quyết miệng niệm thần chú. Quả nhiên người đàn bà cởi bỏ hết quần áo rồi thản nhiên đi tới trước mặt Mã Sơn Nhân hỏi:

- Cha lâu nay mạnh khỏe chứ ạ?

Thì ra người này là con gái Mã Sơn Nhân. Ông ta ngượng quá, vội làm phép hóa giải. Người con gái ông ta chợt nhận thấy mình trần truồng trước các vị khách, thẹn quá hóa giận, lui vào hậu đường nuốt nhẫn vàng mà chết. Từ đó, ông sống như người bình thường, không bao giờ trước quỉ trừ tà nữa. Mà thay đổi được ý định của ông ta, quả không dễ.

Sơn Nhân mặc áo chùng đen, xõa tóc, chân không giày, bàn chân nhuộm đỏ, tay cầm kiếm gỗ đào, miệng lẩm bẩm những gì không rõ. Kim Đồng nhìn ông ta, nhớ lại những truyền thuyết ly kỳ về ông, bỗng thấy tinh thần phấn chấn khang khác uống một bát to đầy dấm, hình ảnh Natasa tạm thời biến mất khỏi cái đầu rối mù. Sơn Nhân sắc mặt tím tái, mắt lồi, tướng mạo hung dữ. Ông bị viêm họng, khạc nhổ luôn miệng, đờm trắng như gà bị bệnh cứt cò. Ông vừa múa kiếm vừa nhảy một vũ điệu kỳ quái. Nhảy một hồi xem chừng đã mệt, ông ta dừng lại bên chậu nước, niêm thần chú, nhổ vào chậu một bãi nước bọt rồi thò kiêm vào khuấy nước trong chậu, một lúc sau quả nhiên nước trong chậu đã biến thành màu hồng. ổng ta quẳng kiếm ngồi thở, gọi Kim Đồng lại bảo:

- Cậu xem trong chậu có gì?

Kim Đồng ngửi thấy mùi thuốc bắc trong chậu, bèn nhìn chăm chú mặt nước đã phẳng như gương. Anh giật mình khi thấy khuôn mặt mình thước đây hồng hào là thế mà bây giờ vàng võ đầy nếp nhăn?

- Có thấy gì không? - Sơn Nhân đứng bên hỏi dồn. Khuôn mặt Natasa từ đáy chậu dềnh lên, đầy máu, lồng vào khuôn mặt Kim Đồng. Cô chửi khẽ: - Kim Đồng, anh tàn nhẫn lắm? - Natasa! - Kim Đồng rú lên thê thảm rồi vục mặt vào chậu nước. Anh nghe thấy mẹ nói với chi Cả:

- ổn rồi, khiêng nó vào trong nhà!

Kim Đồng chồm dậy, quyết một phen sống mái với Sơn Nhân. Đây là lần đầu tiên trong đời, anh đánh người, mà lại cả gan, dám tấn công một người làm bạn với ma quỉ. Tất cả vì Natasa? Anh giơ tay trái túm lấy bộ râu đốm bạc của Sơn Nhân cố sức dằn xuống, miệng Sơn Nhân há hốc như hình trứng, nước dãi lòng thòng trên mu bàn tay Kim Đồng. Natasa tay chống cằm ngồi trên đầu lưỡi Sơn Nhân, nhìn Kim Đồng bằng con mắt tán thưởng. Được cổ vũ, Kim Đồng giật càng mạnh, hơn nữa, còn dùng cả hai tay. Ông Sơn Nhân đau đớn oằn người xuống chẳng khác pho tượng nhân sư vẽ trong sách giáo khoa. Ông giơ kiếm gỗ chém vào chân Kim Đồng, nhưng vì Natasa, anh không thấy đau. Đau cũng không bỏ ra, để bảo vệ Natasa đang ở trong miệng Sơn Nhân. Anh nghĩ đến hậu quả đáng sợ một khi bỏ tay ra: Natasa bị Sơn Nhân nhai nát bét rồi nuốt. Ôi cái bụng của ông ta bẩn thỉu làm sao! Tên ác ma chuyên dùng pháp thuật giết hại phụ nữ! Tên ma đầu chuyên bắt bọn tiểu quỉ đáng yêu xay bột không công. Chuyện ông ta có thể cắt giấy thành chim bồ câu thì còn khả dĩ. Chuyện ông ta gấp thuyền giấy thả vào chậu nước rồi ngồi lên thuyền, chỉ một đêm đã tới Nhật Bản, hôm sau trở về đem theo bao nhiêu là quít ngọt biếu bố vợ thì còn khả dĩ. Nhưng tại sao ông ta lại hãm hại Natasa? Natasa, mau nhảy ra đi! Kim Đồng sốt ruột gọi. Natasa hình như bị điếc, vẫn ngồi yên trên đầu lưỡi Sơn Nhân. Kim Đồng cảm thấy chòm râu Sơn Nhân ngày càng trơn. Dòng máu trên vú Natasa chảy dài xuống chòm râu của ông ta, nhuộm đỏ hai bàn tay Kim Đồng. Ông Sơn Nhân vút kiếm, hai tay túm hai tai Kim Đồng rồi ra sức kéo sang hai bên. Miệng Kim Đồng tự nhiên há ra, anh nghe thấy tiếng la hét của mẹ và chị Cả. Anh buộc phải rời tay khỏi chòm râu.

Hai người quần nhau quanh sân. Mẹ và chị Cả cũng chạy vòng quanh Kim Đồng và ông ta. Anh bị vấp không tránh kịp, Sơn Nhân ngoạm đúng mu bàn tay, căn chặt không nhả. Anh hoàn toàn lâm vào thế yếu, hai tai gần như bị dứt đứt, tay bị cắn rách lòi xương. Anh gào khóc vì đau đớn. Nhưng nỗi đau trong tim còn ghê gớm hơn cái đau trên da thịt khi anh cảm thấy tuyệt vọng về Natasa. Nàng đã bị Sơn Nhân nuốt chửng, đang thối rữa trong bụng ông ta, những gai trên thành dạ dày đang chà xát nàng. Mắt anh tối sầm lại như bị con cá mục phóng cả túi mực vào mắt.

Tôn Bất Ngôn uống rượn ngoài phố về, đi vào sân. Bằng con mắt quân sự dày dạn kinh nghiệm, hắn nhận ra ngay ai là ta, ai là địch và tình thế mỗi bên. Hắn từ tốn để chai rượu sát chân tường.

Mẹ kêu:

- Cứu Kim Đồng mấy!

Chỉ nháy mắt, Tôn Bất Ngôn đã lết đến sau lưng Sơn Nhân, nện đồng thời cả hai đòn ngồi ở hai tay vào bắp chân Sơn Nhân. Ông ta quị xuống, Tôn Bất Ngôn nện tiếp hai đòn vào hai vai ông ta, hai tai Kim Đồng được giải phóng. Hai chiếc đòn ngồi trong tay Tôn Bất Ngôn lượn một điều theo thế song lôi quán nhĩ, cùng nện đánh bốp vào hai bên má Sơn Nhân, bàn tay Kim Đồng được nhả ra. Sơn Nhân lăn lộn trên mặt đất rồi nhặt thanh kiếm gỗ đứng lên, miệng mím chặt. Tôn Bất Ngôn hộc lên một tiếng rồi ú ớ điều gì đó. Kim Đồng gào khóc định xông tới rạch bụng Sơn Nhân để cứu Natasa, nhưng đã bị mẹ và chị Cả ôm chặt. Sơn Nhân đi vòng qua Tôn Bất Ngôn đang ngồi chồm hổm như hổ vồ mồi, rồi vắt chân lên cổ mà chạy.

Kim Đồng tỉnh táo dần nhưng vẫn không thể ăn cơm. Mẹ đi gặp trưởng khu, ông ta lập tức sai người đi mua một con dê dắt đến. Mẹ cho nó ra ăn cỏ ngoài bãi. Kim Đồng nằm trong nhà, đôi khi cũng đi dạo ngoài đồng. Mỗi khi nhớ lại cái cảnh Natasa máu chảy nhỏ giọt trên hai bầu vú, anh lại nước mắt đầm đìa. Anh không buồn chuyện trò, đôi khi chỉ lẩm bẩm một mình, hễ trông thấy người là lại im như thóc.

Một buổi sáng trời u ám, Kim Đồng nằm trên giường mà khóc cho bầu vú rớm máu của Natasa. Anh thấy nghẹt mũi, đầu óc lâng lâng, một cơn buồn ngủ ập đến. Chính lúc đó từ buồng Lai Đệ và Thằng Câm vọng lại một tiếng kêu rợn tóc gáy khiến Kim Đồng tỉnh ngủ. Anh dỏng tai lên nghe nhưng không thấy động tĩnh gì, định nhắm mắt lại ngủ tiếp thì một tiếng kêu nữa lại vang lên, lần này kéo dài và thê thảm hơn. Kim Đồng tim đập thình thịch, tóc dựng đứng. Anh nhẹ nhàng bước xuống giường, nhón gót đi tới chái đông, nhìn qua khe cửa vào trong buồng. Anh trông thấy Tôn Bất Ngôn đã cởi bỏ quần áo, trông như một con nhện đen khổng lồ phủ lên người Lai Đệ Cái mồm dẩu ra như mồm châu chấu của hắn sùi bọt, lúc cắn đầu vú trái, lúc cắn đầu vú phải. Cổ Lai Đệ gác lên thành giường, sắc mặt trắng nhợt, hai bầu vú mà Kim Đồng đã từng trông thấy hôm ở chỗ cối xay bột, nằm ườn như hai chiếc màn thầu trên ngực. Đầu vú chị rỉ máu. Trên ngực và hai cánh tay chị đầy vết cào cấu: Chị sạch sẽ mịn màng là thế mà nay Thằng Câm đã biến chị thành con cá trước hết vẩy. Hai chân thon dài không có gì che đậy, đập bình bịch trên giường.

Kim Đồng bật khóc. Tôn Bất Ngôn nhả đầu vú ra, vớ lấy chai rượu trên đầu giường thăng cánh ném ra phía cửa. Trong một thoáng trước khi bỏ chạy, Kim Đồng trông thấy chị Lai Đệ rướn cổ lên, và cũng trông thấy thằng Câm luồn bàn tay hộ pháp xuống phía dưới. Chị hét lên một tiếng như bị chọc tiết. Kim Đồng chạy vụt ra sân nhặt hòn gạch ném vào cửa sổ, chửi:

- Thằng Câm, mày không thể chết yên ổn!

Kim Đồng cảm thấy thân thể rã rời, hình ảnh Natasa biến thành mây khói.

Nắm đấm thép của Thằng Câm đấm vỡ cửa kính thò ra ngoài. Kim Đồng khiếp đảm đi giật lùi mãi đến chỗ gốc cây ngô đồng. Cậu trông thấy cái nắm đấm lại rụt vào trong, rồi dòng nước tiểu màu vàng chảy từ chiếc ống nhựa ra ngoài sân, ngay dưới cửa sổ. Cậu cắn môi bỏ đi, đụng phải một người hình dung cổ quái ở cửa buồng.

Anh ta cúi lom khom, hai tay dài buông thõng, đầu cạo trọc, lông mày chổi xể đã đốm bạc, những vết nhăn chằng chịt vây quanh cặp mắt tụt sâu vào. Không ai dám nhìn thẳng vào cặp mắt đó. Khuôn mặt đầy sẹo, không phải vì bỏng thì là do lạnh gây ra, hai vành tai quăn queo như nấm mộc nhĩ. Bộ quần áo Trung Sơn màu xám không vừa với khổ người còn phảng phất mùi long não. Hai cánh tay gầy guộc, móng tay sút mẻ, ngọ nguậy hai bên đùi.

- Ông tìm ai? Kim Đồng tin chắc rằng người này là bạn chiến đấu của Thằng Câm nên hỏi không chút thiện cảm. Anh ta lễ phép vái một vái, ngọng nghịu nói:

- Lãnh... Đệ... Tôi là chồng... là Hàn... Chim!...

Chương 5 (tiếp)
3

Tôi tôi không nói... gì đâu?... Hai tay Hàn Chim bấu chặt vải trải bàn, ngập ngừng ngẩng) đầu lên, nhìn sang ông hiệu trưởng Khưu Gia Phúc ngồi bên cạnh. Hôm nay ông chủ trì buổi báo cáo của Hàn Chim.

- Tôi chả biết... nói... gì... bây giờ...

Anh ta như bị nghẹn, không nói được thành câu, dù là câu thật ngắn, cái cổ cong lên như cổ chim. Đây là buổi báo cáo đầu tiên của Hàn Chim sau khi trở về quê. Sân bóng rổ nhà trường đông nghịt những người: toàn thể thầy trò trường tiểu học và trung học, các cán bộ khu ủy và nhân dân quanh vùng. Phóng viên nhiếp ảnh của huyện chụp Hàn Chim từ những góc độ khác nhau. Hàn Chim ngồi trên khán đài nhìn xuống đám người đông nghịt, sợ đến rụt cổ lại, chỉ muốn bỏ chạy nấp sau gốc cây cổ thụ hoặc sau tường. Khi không nói, anh ta rụt cổ, hai vai so lên, hai tay đặt trên đũng quần, khư khư ôm lấy cái số ta của anh ta.

Ông Hiệu trưởng đứng dậy, đi tới trước mặt rót cho anh ta một cốc nước nóng nói:

- Đồng chí Hàn uống chút nước nhấp giọng, đừng sợ, dưới kia đều là bà con mình. Mọi người đều rất quan tâm đến đồng chí, đều tự hào vì có một người bà con nổi tiếng như đồng chí! Các em học sinh thân mến, thưa các đồng chí, thưa bà con? - Ông hiệu trường quay về phía mọi người, giọng xúc động - Đồng chí Hàn Đỉnh Sơn sống như người rừng ròng rã mười lăm năm trong núi Bắc-hải-đạo trên đất Nhật. Một kỳ tích trên thế giới? Câu chuyện của đồng chí có tác dụng giáo dục rất lớn đối với chúng ta! Đề nghị nhiệt liệt vỗ tay một lần nữa hoan nghênh bản báo cáo của đồng chí!

Tiếng vỗ tay phía dưới ran lên như sấm? Lời ông hiệu trưởng khiến chúng tôi xúc động úa nước mắt. Hàn Chim giơ tay chạm vào quai ca nước, y như con chuột chạm thử vào miếng mồi ở bẫy chuột, rồi rụt lại ngay. Chạm lần thứ hai, anh ta mới dám lẩy bẩy cầm cái cốc lên, nhíu mày uống một hớp nhỏ. Nước nóng khiến anh ta dướn cổ lên, nhắm tít cả hai mắt. Nước trào ra mép, chảy xuống cổ, anh ta ho khùng khục như con nhím mắt vẫn nhắm làm như đang suy nghĩ rất lung.

Ông hiệu trưởng đi vòng ra phía sau vỗ vai động viên anh ta:

- Nói đi, đây là tổ quốc mình, quê hương mình, bà con mình, có gì mà sợ!

Hàn Chim ngẩng mặt lên, hai giọt nước mắt to tướng lăn trên má, hỏi:

- Nói, ừ.

Hiệu trưởng động viên:

- Phải nói chứ!...

- Vậy... tôi... nói - Hàn Chim vẫn hai tay ôm bẹn, im lặng trong vài phút, rồi vươn cổ, mở mắt, nói một cách khó nhọc:

- Tôi, bẫy chim, hôm ấy, bọn áo vàng nổ, nổ súng, tôi chạy, chúng nó đuổi, tôi bắn mù mắt một thằng. Chúng bắt tôi, trói, đấm dá, đánh bằng báng súng. Một xâu một xâu, một xâu, ba xâu, hơn một trăm người. Thằng áo vàng hỏi, tôi nói, làm ruộng, không giống, tao thấy, mày là không nghề nghiệp, dân lang thang, thế nào là lang thang, tôi không hiểu, bốp, đánh tôi một tát, ông hỏi tôi, tôi hỏi ai, lại một tát nữa, tôi không chịu, nó giằng lấy cây cung của tôi bật dây, tách, thế mà còn cãi, đánh, đánh, đánh, roi, gậy, nói, có phải vô nghề nghiệp không, lang thang. Nhận thì nhận, sợ gì, đến ga xe lửa, cởi trói, người nọ tiếp người kia, leo lên, tôi bỏ chạy, súng nổ trên đầu, ngựa vây quanh, một kiếm chém vào đầu, mấy đầu người rơi xuống đất, mắt trợn ngược, tay đầy máu. Lên xe lửa, đến Thanh Đảo, giải ra cảng, bọn Nhật lùn, đứng hai bên, lên tàu, tàu to, rút cầu, tàu rời bến, đều khóc, cha ơi, mẹ ơi, thế là hết, như cánh chim, trôi đi đâu, không biết, chắc không trở về. Biển, sóng, lắc lư, nôn mửa, đói, chết, vút xuống biển, cá mập, một đớp mất chân, hai đớp cả người, cá mập đuổi theo hàng đàn, đến Nhật, lên bờ, ngồi xe lửa, lại lên thuyền, lại lên bờ, đến Bắc Hải-đạo, vào núi, tuyết ngập bắp chân, rét tím mặt, tai chảy nước vàng, chân đất, ở nhà gỗ, không cho ăn no, dồn xuống hầm mỏ, bọn chúng gác, tiếng Nhật xì xà xì xồ không hiểu, không hiểu thì đánh, khoan gió, đầu đội đèn, đào than, bánh dai ngoách, cắn không đứt, anh em ơi, không thể đợi chết, bỏ trốn, chết trên núi, không đào than cho chúng, không đào than luyện thép, đóng tàu đúc súng, giết người Trung Quốc, không làm, không đào than cho giặc, chết cũng không đào!

Đột nhiên Hàn Chim nói đâu ra đấy, rất hấp dẫn, công chúng ngẩn người vỗ tay tán thưởng. Anh ta giật mình, nhìn xuống dưới rồi lại nhìn sang ông hiệu trưởng; ông hiệu trưởng giơ ngón tay cái về phía anh ta. Anh kể ngày càng trôi chảy:

- Chú Trần bỏ trốn bị bắt lại, bị chó xé xác trước mặt mọi người. Bọn giặc xì xồ, phiên dịch nói lại: Thái quân nói là đứa nào bỏ trốn thì trông gương thằng này. Tôi nhủ thầm, tiên sư chúng mày, còn một hơi thở tao cũng bỏ trốn (tiếng vỗ tay rào rào). Một phụ nữ quét tuyết, vẫy tôi, tôi chui vào lều chị ta. Chị nói: Chào anh, tôi sinh ra và lớn lên ở Thẩm Dương, tôi có cảm tình với Trung Quốc! Tôi không dám bắt chuyện, sợ chị ta là do thám. Chị ta nói: Chui qua nhà xí là vào rừng...

Chính là vào cái hôm Lỗ Lập Nhân cùng đại đội bộc phá của anh ta ăn mừng thắng lợi ở trấn Đại Lan, thì Hàn Chim lách qua nhà xí trốn vào rừng sâu. Anh chạy như điên, cho đến khi sức cùng lực kiệt, ngã gục trong khu rừng mọc đầy cây hoa thụ, mùi lá mục nồng nặc, tiếng nước chảy rót rách như tiếng đàn. Không khí ẩm ướt hơi nước mù mịt, những tia nắng lọt qua kẽ lá như những mũi tên, tiếng chim vàng anh khiến người nghe thổn thức. Trước mặt là thảm cỏ xanh biếc, lẫn trong đám cỏ là không quả chín đỏ mọng. Anh bút quả ăn, nước bọt ứa đầy miệng. Anh ăn tiếp một nắm nấm trắng, bụng đau quặn, nôn mửa. Anh ngửi thấy một mùi thối khẳm bốc lên từ cơ thể mình. Lần ra con suối, anh tắm rửa cho hết mùi hôi thối, Nước lạnh buốt, anh run cầm cập nghe từ phía mỏ than vọng lại tiếng chó bécgiê sủa. Bọn Nhật phát hiện ra mình bỏ trốn khi điểm danh buổi tối. Anh cảm thấy lâng lâng vì sung sướng là đã trả thù được. Này các con, bố mày đã bỏ chạy rồi! Bọn lính gác mỏ ngày càng ít, nhưng chó bécgiê thì ngày càng nhiều lên, anh nghĩ thầm, bọn Nhật sắp đi đời rồi! Không ổn, phải vào sâu hơn nữa, bọn Nhật sắp toi mà để chúng bắt được làm mồi cho chó thì uổng quá! Nghĩ đến con chó bécgiê đầu to đít nhọn anh lại rùng mình. Nó ngoạm một khúc ruột chú Trần, máu rỏ từng giọt hai bên mép.

Anh cởi bộ quần áo của bọn Nhật cấp phát quẳng xuống suối. Cút mẹ mày đi! Chiếc quần phồng lên, như cái bong bóng trâu màu vàng, theo dòng nước trôi đi. Mặt trời sắp lặn, đỏ như máu. Cây cỏ đều thay đổi màu sắc, những cây hoa thụ và tượng thụ, những dây leo và những bụi cây lúp xúp những cây sam, thông đuôi ngựa, những dây nho rừng lá màu vàng kim mọc lưng chừng vách núi, dòng suối nhỏ chảy rót rách... tất cả đều đổi màu dưới nắng chiều đỏ rực. Anh không còn bụng dạ nào để ngắm cảnh, chạy theo bờ suối, nhảy trên những hòn đá trơn tuột đầy rêu, lẩn sâu vào rừng. Nửa đêm, khi biết chân lũ bécgiê không đuổi kịp nữa, anh mới dừng lại ngồi tựa dưới gốc cây. Anh cảm thấy bàn chân bỏng rát, người nóng rực từng cơn, rồi hết nóng lại lạnh. ánh trăng lạnh lẽo trùm lên rừng cây một màu trắng bạc, những hòn đá nhẵn thín mọc đầy rêu như những quả trứng khổng lồ, mờ mờ dưới trăng. Anh nép mình trong bóng tối, vừa đói vừa rét, đau về thể xác và khủng hoảng về tinh thần hành hạ anh. Thậm chí anh còn nghĩ rằng mình bỏ chạy là sai, và mỗi khi ý nghĩ ấy chọt đến, anh lại tự xỉ vả mình nghĩ như vậy là tầm bậy, mình tự do rồi, mình khá đấy chứ, không đào than cho bọn Nhật, không còn bị bọn lính Nhật miệng còn hơi sữa khinh rẻ, hành hạ mình. Anh ngủ thiếp đi trong tâm trạng vừa đau khổ vừa sung sướng. Lúc trời rạng, anh bị tiếng nói mê rất to của chính mình đánh thức dậy. Giấc mơ sợ quá, nhưng tỉnh dậy là anh quên sạch, chỉ còn mồ hôi đầm đìa trên người, tìm lạnh như cục đá. Mặt trăng đã khuất sau rặng núi phía tây vài ngôi sao nhấp nháy trên bầu trời màu sữa. Hơi nước ngùn ngụt trong khe, bóng mấy con thú đang uống nước. Anh ngủi thấy mùi tanh vừa nghe thấy tiếng gầm rung chuyển vách núi.

Trời sáng hẳn, mặt trời lên, sương mù trắng toát, mênh mông. Thấy lạnh, anh ra sưởi dưới nắng, nhìn những vết roi thâm tím trên người, có chỗ đã đóng váy, có chỗ còn sưng mọng, rồi những vết do ruồi muỗi cắn. Đâu còn là người? Suýt nữa thì anh khóc? Phơi nắng, người ngứa ran nhưng con giống ở giữa hai chân thì vẫn lạnh toát, hai hột thót lên trên, bụng ngâm ngẩm đau. Anh nhớ câu nói của người xua: Bìu dái là nơi sợ lạnh nhất của người đàn ông, vú là nơi sợ lạnh nhất ở nguòi đàn bà. Anh xoa bóp bìu dái, cảm thấy nó mềm dần ra. Anh hối hận đã vút bỏ bộ quần áo. Gì thì gì nó cũng là quần áo, ban ngày che thân, ban đêm chống muỗi. Anh tìm thấy quanh gốc cây một số rau dại đã biết: Rau diếp đắng, xa tiền thảo, hẹ rừng... Những thứ này không độc. Có rất nhiều loại rau dại, quả dại trông đẹp mã nhưng không dám ăn vì sợ độc. Anh cũng phát hiện bên sườn núi có một cây lê rùng, những quả lê chín vàng rơi vương vãi trên mặt đất, đã lên men, anh nhặt những quả còn tốt ăn thử, chua chua ngọt ngọt, y hệt lê Trung Quốc. Anh vui mừng quá đỗi, ăn kỳ no. Anh định đánh dấu cây lê, tìm một vật chuẩn, nhưng xung quanh toàn cây là cây, không phân biệt được đông tây nam bắc, tuy rằng mặt trời mọc đằng đông, nhưng đó là định vị kiểu Trung Quốc. Còn mặt trời ở Nhật thì sao? Có phải vẫn mọc đăng đông lặn đằng tây không? Anh nhớ tới lá cờ mặt trời bay phần phật trên ga xe lửa. Anh nghĩ, về nhà, chạy trốn chưa phải là giỏi, chưa phải là mục đích. Về nhà, về Cao Mật, Sơn Đông, Trung Quốc. Trước mắt anh hiện lên hình ảnh người thiếu nữ ngây thơ, nét mặt thanh tú, mũi cao, vành tai trắng trẻo đầy đặn, anh chìm đắm trong hương vị chua ngọt của trái lê mùa thu. Anh láng máng nhận ra rằng, vùng Bắc Hải- Đạo của Nhật Bản là ngang với dãy Trường Bạch của Trung Quốc, nhằm thẳng hướng tây bắc mà đi là có thể về tới đất Trung Quốc. Anh nghĩ, đất Nhật to bằng cái lỗ mũi, mình bỏ ra ba tháng là đến biên giới. Anh thậm chí còn nghĩ rằng, nếu đi nhanh hơn, chưa chừng có thể ăn Tết ở nhà. Mẹ mất rồi, công việc đầu tiên của anh là hỏi con gái nhà Thượng Quan làm vợ, sống một cuộc sống dễ chịu. Quyết tâm như vậy rồi, anh quyết định tìm lại bộ quần áo vứt đi ngày hôm qua. Anh thận trọng dò dẫm từng bước, đề phòng gặp chó bécgiê. Gần trưa, anh cảm thấy hình như đã trở lại chỗ vứt quần áo, nhưng quang cảnh khác với những gì hôm qua anh đã thấy. Hôm qua anh không thấy có bụi trúc, hôm nay lại thấy có một bụi, dưới khe có một cây đại thụ xõa tóc, vỏ cây đen sì, những cây bạch hoa chọc trời, những cây nở đầy hoa, đỏ có, trăng có, tím có mùi thơm thoang thoảng. Rất nhiều chim đậu trên cành, tò mò nhìn anh, có con anh biết tên, nhiều con anh không biết là chim gì, tất cả đều có màu lông sặc sỡ, giá anh có bộ cung tên thì hay biết mấy!

Tròn một ngày, anh không làm sao ra khỏi khe núi. Con suối nhỏ như một đứa trẻ tinh nghịch, chơi trò ú tim với anh. Không thấy chó bécgiê xuất hiện, quần áo cũng tìm không thấy. Giữa trưa, anh thấy rất nhiều mộc nhĩ mọc trên một thân cây mục, anh nếm thử thấy rất giòn và hơi cay thì yên tâm, ăn một bữa no bụng. Chiều tối anh đau bụng, bụng chướng lên như cái trống, sôi ùng ục, rồi sau đó thì thượng thổ hạ tả, mọi vật trước mặt đều trở nên to đùng. Anh giơ tay lên xem: những ngón tay sung mọng. ở chỗ nước lặng, anh nhìn đáy nước thấy mặt mình sưng vù, hai mắt híp lại, các vết nhăn trên mặt biến mất. Đêm hôm đó anh mê sảng, trông thấy những người khổng lồ lảng vảng trước mặt, lại còn trông thấy một con hổ văn cứ đi quanh bụi cây anh nằm. Lúc trời sáng, anh cảm thấy dễ chịu hơn, mặt cũng bớt sưng, anh nhìn mặt mình dưới nước mà giật mình, chỉ sau một đêm vừa thổ vừa tả, anh chỉ còn có da bọc xương! Bảy hay tám đêm đã trôi qua, một buổi sáng, anh gặp hai người quen. Khi ấy anh đang nằm sấp trên bờ, thò đầu xuống như con thú uống nước, thì có tiếng hỏi khẽ từ trên cây tượng thụ vọng xuống:

- Anh Hàn Chim đấy phải không?

Anh nhảy dựng lên, nấp sau một bụi rậm. Đã lâu mới lại nghe tiếng người khiến anh giật thót. Lúc này, anh lại nghe thấy tiếng hỏi từ trên cây vọng xuống nhưng lần này là một giọng mới vỡ của con trai:

- Có phải anh Hàn Chim không?

Anh vừa gào lên vừa nhảy ra:

- Phải anh Đặng đó không? Tôi nhận ra anh, và cả chú Tốt nữa, thế là tôi lại gặp anh và chú rồi!

Anh chạy tới gốc cây tượng thụ ngẩng mặt nhìn lên, nước mắt ứa ra chảy vào tai. Trên cây, anh Đặng và chú Tốt cởi thắt lưng buộc người vào cành cây ra, bám thân cây đầy rêu, lóng ngóng tụt xuống đất. Ba người ôm chặt lấy nhau vừa gọi tên nhau vừa khóc.

Ba người đi cách nhau một quãng, Hàn Chim nhìn lần lượt anh Đặng, chú Tốt, còn anh Đặng chú Tốt thì trước sau chỉ nhìn Hàn Chim.

Cuối cùng, họ dừng lại để hội ý. Lão Đặng từng làm nghề sơn tràng ở núi Trường Bạch, có kinh nghiệm về rừng, căn cứ vào rêu bám trên thân cây, lão có thể xác định được phương hướng. Nửa tháng sau, khi lá cây trên núi nhuốm màu đỏ rục, họ đã đến một sườn núi thấp, lá cây thưa thớt, trước mắt là biển mênh mông, những ngọn sóng xám xịt xô đẩy không mệt mỏi vách đá màu nâu, đuổi nhau như những dàn dê trên bãi cát mịn.

Trên bờ biển, ừ, neo mười mấy chiếc thuyền, một số người, ừ, bà già, đàn bà, trẻ con, ừ, đang phơi cá, ừ, cũng khổ lắm, hát, bài hát buồn lắm, khóc, vừa hát vừa khóc, khóc rồi lại hát. Lão Đặng bảo, qua biển là Yên Đài, ừ Yên Đài cách quê nhà không xa, ừ, mừng quá, muốn khóc, ừ, bên kia biển có dãy núi xanh mờ, ừ, lão Đặng nói, đó là Trung Quốc, ừ, nấp trên núi đến khi trời tối, người trên bãi biển về hết, chú Tốt nôn nóng định xuống, tôi bảo hãy đợi, ừ, hãy đợi, một người đầu đội cây đèn khí, trên bãi, ừ, đi một vòng, ừ, tôi bảo được rồi đấy, ừ, hơn một tháng ăn toàn cỏ và rau dại, ừ, trông thấy cá khô, ừ, như mèo thấy mỡ, ừ, ăn luôn mấy con, ừ, chú Tốt còn bảo cá có gai, ừ, lại ăn rau câu, đau bụng, họng đau như nuốt đậu phụ nóng, đau thắt ruột, ừ, chú Tốt nói, ừ, ruột bị ngạnh cá đâm thủng, ừ, trên dây phơi có chiếc tạp đề bằng vải không thấm nước, ừ, tôi rút xuống, mặc vào người, lại thấy một chiếc nữa, ừ, chiếc áo của phụ nữ, mặc chật cứng, ừ, cởi trần cả tháng nay rồi, có quần áo mới ra người, ừ, nhảy lên một chiếc thuyền, ừ, đẩy, ừ, kéo, ra mép nước, ừ, người ướt đẫm, ừ, thuyền cũ nát, không biết làm thế nào cho thuyền đi, chèo lia lịa, thuyền dở chúng, xoay tròn, ừ, không ổn, ừ, chèo thế này, ừ, không thể về Trung Quốc, ừ, lão Đặng nói, anh em, không được rồi, quay lại thôi, tôi nói, không quay lại, chết cũng về Trung Quốc, chỉ còn cái xác cũng phải về Trung Quốc!

Thuyền lật, nước đến ngực, sóng dẩy vào bãi cát, sóng biển cuồn cuộn, ừ, như ngàn vạn con ngựa phi nước đại, hí vang trời. Sao đầy trời, mặt biển lấp lánh lân tinh. Hàn Chim lạnh đến mức không nói thành lời được. Chú Tốt khóc thút thít. Lão Đặng nói:

- Anh em, trời không dồn ai vào ngõ cụt, điều quan trọng là đừng ngã lòng?

Hàn Chim hỏi:

- Anh Đặng, anh lớn tuổi hơn, anh bảo nên làm thế nào bây giờ?

Lão Đặng nói:

- Chúng mình là những con vịt nuôi trên cạn, không có kinh nghiệm, ra biển chỉ có chết. Trốn được ra đâu có dễ! Thế này nhé, ta hãy lên núi nghỉ một ngày, tối mai, bắt một ngư dân người Nhật đưa chúng ta về?

Tối hôm sau, họ nấp bên vệ đường, tay cầm gậy, đá. Đợi mãi mới thấy người đội đèn hôm trước. Hàn Chim nhào ra, ôm chặt eo lưng, quật anh ta xuống đất. Anh ta kinh hoảng thét lên một tiếng rồi ngất luôn. Lão Đặng gỡ chiếc đèn nhìn kỹ, thì ra là một phụ nữ mặt vàng bủng. Chú Tốt giơ hòn đá lên, nói:

- Đập chết nó đi, nếu không nó sẽ đi báo đấy.

Lão Đặng nói:

- Thôi đừng, bọn giặc bất nhân, chúng ta không thể bất nghĩa, giết người đàn bà này, Thiên Lôi sẽ đánh chết chúng ta!

Họ bỏ lại người đàn bà, vội vã rút vào rùng. Chợt trông thấy trên bãi biển có đốm lửa. Có lửa là có người. Không cần ra hiệu, cả ba nín thở, bò về phía ánh lửa. Hàn Chim nghe thấy chiếc tạp đề mặc trên người miết trên cát lạo xạo ánh đèn hắt ra từ một căn nhà bằng gỗ. Xung quanh nhà là những lọ thủy tinh nuôi rau câu và một số lốp ô tô cũ nát. Hàn Chim ngó qua khe hở của chiếc cửa đơn sơ trông thấy một ông già đầu bạc đang ngồi ăn cơm, mùi thơm của cơm khiến ba người đau quặn ruột. Lửa giận bốc lên đầu, tiên sư chúng mày, bắt chúng ông ăn rau ăn cỏ, ăn lá cây, còn chúng mày thì ăn cơm. Hàn Chim định xông vào thì cổ tay đã bị lão Đặng giữ chặt. Lão Đặng kéo hai người ra một quãng xa, rồi ngồi xuống, chụm đầu bàn bạc. Hàn Chim nói:

- Sao không xông vào? Lão Đặng nói: - Người anh em, đừng vội, cho ông ta ăn xong cơm đã.

- Ông anh tốt bụng thật đấy - Chú Tốt cằn nhằn.

Lão Đặng nói:

- Này chú, chúng ta về được Trung Quốc hay không, hoàn toàn nhờ vào ông già này. Tôi xem ông ta cũng là người nghèo, đừng đánh ông ta, nên từ tốn đề nghị ông ta giúp đỡ. Ông ta nhận lời thì tốt, không nhận lời thì hãy dùng vũ lực. Tôi sợ các vị đã xông vào là hăng lên, nên ra đây ta bàn kỹ một tí.

Hàn Chim nói:

- Anh Đặng, chẳng có gì phải bàn, chúng tôi sẽ làm theo lời anh!

Họ xông vào nhà, ông già sợ cứng người. Ông rót nước mời họ. Trông thấy khuôn mặt ông già héo quắt vì gió biển, Hàn Chim thấy trong lòng không nỡ. Lão Đặng nói:

- Cụ ơi! Chúng tôi là lao công người Trung Quốc, xin ông chở chúng tôi trở về quê hương!

Ông già giương cặp mặt ngây dại nhìn họ, vái lia lịa. Lão Đặng nói:

- Cụ đưa chúng tôi về Trung Quốc, thì dù có phải bán hết nồi niêu xoong chảo, bán vợ đợ con để có đủ tiền cho cụ trở lại nơi này chúng tôi cũng sẵn sàng! Nếu cụ muốn ở lại Trung Quốc thì chúng tôi coi cụ như cha, chúng tôi ăn gì cụ ăn nấy. Kẻ nào không giữ lời thì kẻ ấy không phải giống người!

Ông già quì sụp xuống đất, miệng lẩm bẩm những câu khó hiểu, dập đầu lạy như tế sao, nước mắt nước mũi chảy ràn rụa. Hàn Chim sốt ruột đụng vào ông già một cái, ông già kêu toáng lên như lợn bị chọc tiết rồi bỏ chạy. Hàn Chim kéo ông già lại, ông già cắn Hàn Chim một miếng vào tay. Hàn Chim nổi cơn điên, vó lấy con dao thái rau kề vào cổ ông già, dọa:

- Câm mồm, kêu lên là tôi giết ông?

Ông già im bặt, mắt chớp lia lịa. Hàn Chim nói:

- Anh Đặng này, đã đến nước này thì không thể làm khác, đưa cái của này lên thuyền, dùng dao bắt lão phải chở?

Ba người tìm được dao chẻ củi, gậy gộc, dùng dây ni lông trói ông già lại, rồi vừa đùn vừa đẩy ông ta ra bãi biển. Mặt biển đen kịt, gió gào thét. Nhưng vừa ra khỏi chỗ rẽ thì đã trông thấy một đám đèn đuốc rầm rập chạy tới. Ông già gỡ được dây trói, kêu toáng lên. Lão Đặng nói:

- Anh em, chạy thoát thân đi!

Họ chạy lên núi, buồn đến nỗi không ai nói một câu, ngồi chờ sáng, không biết làm gì. Hàn Chim nói:

- Tại sao cứ phải đi đường biển? Tôi không tin là Nhật Bản không có đất liền với Trung Quốc. Chẳng lẽ bọn lính Nhật đông như kiến cỏ đều lên tàu thủy sang Trung Quốc?

Chú Tốt nói:

- Vậy thì phải bao nhiêu là tàu, làm gì có nhiều tàu như thế?

Hàn Chim nói:

- Ta lần theo bờ biển, thế nào cũng có lúc gặp đường cái, đi vòng thì đi vòng, năm nay chưa gặp thì sang năm, đi miết thế nào cũng về đến Trung Quốc.

Lão Đặng nói:

- Cũng đành vậy thôi. Hồi đốn gỗ ở núi Trắng Bạch, tôi nghe nói Nhật Bản liền với Triều Tiên, chúng ta lên Triều Tiên đã rồi về Trung Quốc, chết bởi tay người Triều Tiên còn sướng hơn chết trong tay bọn Nhật?

Ba người đang trao đổi thì nghe thấy tiếng người ồn ào dưới chân núi, tiếng chó sủa và tiếng thanh la. Hỏng rồi, bọn Nhật lên núi lùng sục rồi! Lão Đặng nói:

- Chúng ta đừng để lạc nhau, một mình là bị chúng tóm đấy!

Nhưng rồi họ cũng bị mỗi người mỗi ngả. Hàn Chim nấp sau một bụi trúc, trông thấy một phụ nữ mặc chiếc áo quân phục cũ của đàn ông, hai tay cầm khẩu súng săn, bên trái bên phải là mấy ông già cầm dao chẻ củi, gậy gộc, theo sau là một bé trai dùng cán xẻng gõ vào chiếc chậu đồng cũ. Mấy con chó gầy nhom chạy phía trước, sủa ăng ăng. Có lẽ để thêm can đảm, người phụ nữ và mấy ông già vừa chạy vừa la hét hoặc đôi khi nổ một phát súng. Một con chó đen đốm trắng chạy đến trước bụi trúc có Hàn Chim nấp thì chững lại, cụp đuôi giữa hai chân sau, vừa giật lùi vừa sủa như điên. Trạng thái khác thường của con chó khiến người phụ nữ chú ý. Chị ta chĩa súng vào bụi trúc quát to, cánh tay khẳng khiu thò ra ngoài ống tay áo rộng, run bần bật. Hàn Chim từ trong bụi trúc nhảy vọt ra, chĩa dao xông thẳng vào người phụ nữ. Bị bất ngờ, chị ta quẳng súng bỏ chạy, Hàn Chim chém một nhát vào đầu chị ta, chiếc nón đội trên đầu bay đi một miếng, lộ ra mớ tóc vàng cháy. Chị ta rú lên một tiếng, ngã lăn ra. Hàn Chim chỉ ba bước nhảy đã khuất sau những lùm cây rậm rạp dưới khe.

Tiếng quát tháo của bọn Nhật, tiếng chó sủa náo động cả khu rừng.

Lão Đặng và chú Tốt bị bắt lại. Thế lại hóa may, sau khi Nhật đầu hàng được một năm, hai người được coi là tù binh, trao trả Trung Quốc. Còn người chạy thoát là Hàn Chim thì sau mười ba năm sống một mình trong rừng sâu, một người đi săn lôi từ trong hang tuyết ra vì tưởng nhầm con gấu ngủ đông mới thoát nạn. Khi mùa đông cuối cùng băng tuyết đầy trời bắt đầu, mái tóc Hàn Chim đã dài hơn một thước. Mấy năm đầu, anh đôi khi cắt ngắn bớt bằng con dao thái rau, nhưng sau vì mài nhiều, con dao hết nước thép, trở thành vô dụng, tóc anh cứ thế mà dài ra. Chiếc tạp đề và chiếc áo cánh phụ nữ đã rách như xơ mướp, anh vắt chúng lên bụi gai, còn anh thì che thân bằng rơm rạ ăn trộm ngoài đồng hoặc bao tải dựng phân hóa học, mỗi bước đi lại kêu sột soạt, chẳng khác quái vật thời khủng long. Giống như thú rừng, anh khoanh lấy lãnh địa của mình. Một bầy sói xám rất nể sợ anh, chưa bao giờ dám chọc tức anh. Anh biết bầy sói này là con cháu của cặp vợ chồng sói già. Mùa đông năm thứ hai, đôi vợ chồng sói này định xơi tái anh, anh cũng rất muốn lột da chúng để làm đệm. Thoạt đầu, hai bên cứ đứng xa mà chiếu tướng nhau. Hai con sói có vẻ sợ anh, nhưng tính kiên trì của loài thú ăn thịt, khiến chúng nằm phục hết đêm này sang đêm khác ở bên kia suối đối diện với hang anh ở.

Chúng ngẩng mặt hú dài dưới ánh trăng lạnh, tiếng hú thê thảm đến nỗi những vì sao run rẩy nhấp nháy liên tục. Về sau, không thể chịu đựng được nữa, anh ăn một lần hai suất rau câu, ăn thêm một đùi thịt nhím, tập trung tinh thần để tiêu hóa những thứ đã ăn, xoa bóp chân tay xương cốt, chuẩn bị xuất kích. Vũ khí chỉ có mỗi con dao thái rau đã sứt mẻ và chiếc gậy gỗ đầu vót nhọn để đào rễ cây. Anh đem theo cả hai, đẩy hòn đá chặn cửa hang, chui ra ngoài. Vợ chồng sói trông thấy một con vật mà chúng chưa bao giờ gặp, một con vật cao to mình đầy vảy vàng kêu loạt soạt, tóc trên đầu dài như làn khói, ánh mắt xanh biếc. Anh vừa quát tháo vừa tiếp cận vợ chồng sói, nhưng khi chỉ còn cách mấy bước, anh ngập ngưng khi nhìn thấy cái miệng rộng, hàm răng trắng nhởn, cái lưỡi đỏ chót của con sói đực, không dám tiến, cũng không dám lui, anh biết rõ bây giờ mà rút lui thì hậu quả sẽ như thế nào. Hai bên trong thế giằng co, con sói hú, anh cũng hú, thậm chí hú dài hơn, thê thảm hơn? Con sói nhe răng, anh cũng nhe răng, lại còn gõ sống dao vào gậy để trợ oai. Con sói nhảy nhót dưới trăng đuổi theo cái bóng của đuôi nó, anh cũng rung rung những thứ khoác trên người, giả vờ vui vẻ nhảy như điên, và quả thật anh rất vui vì trông thấy cái nhìn bè bạn và đầm ấm trong mắt con sói.

Tại buổi báo cáo thứ chín, Hàn Chim đưa thêm cuộc đối thoại giữa người và sói vào đoạn này. Miệng lưỡi anh bây giờ dẻo quẹo vì nói nhiều. Con sói - sói cái chứ không phải sói đực, phụ nữ bao giờ cũng khéo miệng: Hàn đại ca, ta kết bạn với nhau đi! Hàn Chim bĩu môi, nói: Kết thì kết, nhưng tôi nói để các người biết, giặc Nhật tôi còn không sợ, lẽ đâu tôi sợ các người? Sói đực nói: Đánh nhau thật chưa chắc anh đã thắng nổi chúng tôi! Trông kìa, răng anh đã lung lay, hàm anh đã yếu lắm rồi! Sói đực vừa nói vừa ngoạm một phát vào que củi to bằng bắp tay bên bờ suối, que củi gãy đôi. Hàn Chim lạnh cả người, nói: Tao có dao đây! Nói rồi giơ dao chém bay một miếng vỏ trên thân cây. Sói cái nói: Đàn ông các anh chỉ thích đánh nhau. Sói đực nói: Tôi biết anh cũng không phải tay vừa, vậy ta làm hàng xóm với nhau, không ai làm phiền ai, được không? Hàn Chim nghĩ: Mẹ kiếp, mình ở cái thế chẳng đừng, phải hòa giải với chúng, nhưng trong bụng thì sợ, nhưng vẫn phải nói cứng. Tôi nói: Được thôi, hàng xóm thì hàng xóm...

Đoạn đối thoại giữa nói và sói khiến đám đông dưới khán đài không nhịn được cười. Hàn Chim lại càng cao hứng định nói tiếp, khiến người điều khiển chương trình phải đề nghị anh nên chuyển sang chuyện khác. Kim Đồng tin rằng có thể có sự thỏa thuận ngầm giữa Hàn Chim và sói, vì rằng trong khi đánh bạn với động vật cậu vô cùng kinh ngạc về trí thông minh của chúng, chẳng hạn con dê cho cậu sữa thì cậu và nó chỉ thiếu nước nói chuyện với nhau như người.

Hàn Chim biết rất rõ mối quan hệ huyết thống của bầy sói, biết tuổi tác, thứ bậc trong bầy đàn, thậm chí sở thích của chúng. Ngoài bầy sói, ở hẻm núi này còn có một con gấu đực mắc bệnh tâm thần, nó ăn tất cả mọi thứ, rễ cây, lá cây, quả dại, động vật nhỏ. Nó bắt được những con cá vẩy bạc rất to dưới suối, nhai rau ráu, ăn cả vây như ăn củ cải. Một bận vào mùa xuân, nó tha về một cái chân phụ nữ, ăn không hết, nó vứt xuống suối. Ăn no rồi, con gấu không biết làm gì, bèn giải trí bằng cách nhổ cây. Trong lãnh địa của nó, tất cả những cây nhỏ đều bị nó nhổ bật gốc, không còn sót cây nào.

Rồi đến một hôm - trong buổi báo cáo lần thứ hai, Hàn Chim kể, anh ta có một cuộc ác đấu với con gấu. Anh sức yếu, bị con gấu quật ngã. Nó ngồi lên người anh, hai chân trước đấm thùm thụp lên ngực, cất tiếng cười điên dại. Dưới sức nặng của nó, anh có cảm giác xương cốt của mình bị gãy vụn. Trong lúc tuyệt vọng, anh bỗng nảy ra sáng kiến gãi dái con gấu. Nó khoái quá giơ cả hai chân lên. Anh vừa gãi vừa lấy sợi dây trong bọc ra, dùng một tay và miệng thắt thành cái thòng lọng rồi lồng vào cuống dái con gấu thắt lại, còn đầu kia thì buộc vào một gốc cây nhỏ bên cạnh. Sau đó anh luồn ra rồi bỏ chạy. Con gấu chồm lên đuổi theo và nó bị ngất luôn. Hàn Chim nói, cũng là đau nhưng đau ở dái thì kinh khủng, hoàn toàn không như đau ở chỗ khác, đàn ông biết rất rõ chuyện đó, những phụ nữ vô lại cũng biết rõ chuyện đó. Tóm được dái là coi như tóm được tính mạng. Câu chuyện của Hàn Chim khiến những người từng đến Quan Đông ngờ ngợ. Họ có được nghe chuyện như vậy với con gấu, nhưng người làm chuyện đó là một phụ nữ xinh đẹp, mà con gấu thì thuộc loại thích trêu ghẹo phụ nữ. Hàn Chim đang nổi tiếng nên họ đành để bụng, không ai dám bắt bẻ.

Theo lời Hàn Chim kể thì mùa đông cuối cùng anh sống trên một vách núi trông ra biển. Anh nói rằng, mười mấy năm nay, chỗ ở mùa đông của anh cứ nhích dần về đây. Anh đào một cái hang trên vách núi, cửa hang trông xuống một làng nhỏ dưới khe. Anh trữ trong hang một bó rau câu, một bó cá khô và hơn chục cân đậu ván. Sáng sớm và chiều tối mỗi ngày anh ngồi trong hang, hai tay thu trong bẹn, nhìn những cuộn khói bốc lên mà như ngây như dại, những mẩu hồi ức lướt qua trong đầu nhưng chỉ là những mảnh vụn, không sao ghép được một chuyện hoàn chỉnh, kể cả một khuôn mặt. Tất cả đều bập bềnh như trên mặt nước, thoắt cái đã thay đổi, không sao nắm bắt được. Khi tuyết đã phủ kín, người trong làng rất ít khi ra ngoài. Một con chó đi trên đường cũng để lại những dấu chân đen sì. Các ống khói trong làng ngày đêm tỏa khói. Bầy quạ cãi nhau suốt ngày trong rừng cây đầu thôn. Trên bãi cát có mấy chiếc thuyền cũ. Sát mép nước có một lớp băng mỏng, luôn luôn bị thủy triều ngày hai lần phá vỡ. Hàn Chim cứ ngồi thu lu như thế cả một mùa đông, đói quá thì nhấm nháp mấy cọng rau câu, khát thì nhai tuyết, chập chờn lúc ngủ lúc thức, đại tiện thì dùng tay bốc phân vứt ra ngoài hang. Một mùa đông chỉ đi đại tiện hơn chục lần.

Sang xuân tuyết tan, nước thấm xuống nóc hang. Khi anh ra ngoài hang vứt phân, đã trông thấy những mảng màu nâu của mái nhà, nước biển cũng chuyển màu xanh, nhưng trên núi thì vẫn trắng xóa. Một hôm, anh đoán khi đó là giữa trưa, bên ngoài hang có tiếng chân giẫm trên tuyết lạo xạo. Tiếng chân đi vòng quanh rồi lên trên nóc hang. Anh ngồi co rúm trong hang, hai tay không ôm bẹn nữa, mà ghì chặt chiếc xẻng đã mòn vẹt, sợ đến mụ người đi, mỏ hôi tay ướt đẫm, cứ tuột khỏi chiếc xẻng. Trên đầu có tiếng đào đất bình bịch, rồi đất vụn rơi lả tả, một luồng ánh sáng dọi thẳng xuống. Theo bản năng, anh nép sang một bên, mắt nhìn không chớp tia nắng. Phía trên vẫn tiếp tục đào, đất cục lẫn với tuyết lại trút xuống, rồi đầu nòng khẩu súng săn thò xuống nổ một phát, đất bắn tung tóe, mùi thuốc súng nghẹt thở. Anh úp mặt vào giữa hai đầu gối, không dám ho. Sau khi nổ phát súng, người kia chừng như yên tâm nên đi đứng không cẩn thận, thụt luôn một chân xuống lỗ thủng. Khi trông thấy cái chân bọc bằng một miếng da thú, Hàn Chim không kịp suy nghĩ gì nữa, cầm xẻng vụt luôn. Người kia kêu thét lên bỏ chạy, tiếng chân trên tuyết lạo xạo dội vào trong hang. Anh nghĩ, người này thể nào cũng gọi người tới, không để họ bắt sống. Anh cố thoát ra khỏi tình trạng mụ mẫm, suy nghĩ mạch lạc hơn. Phải chạy đi nơi khác. Anh gỡ tấm ván chặn cửa hang, vớ lấy một nắm rau câu, một miếng vải buồm nhặt được ở sân phơi của một gia đình người Nhật từ mùa thu năm ngoái, rồi chui ra khỏi hang. Anh cảm thấy lạnh buốt toàn thân, mắt đau nhói dưới ánh sáng gay gắt, ngã lăn ra như một cây gỗ mục. Anh cố đứng dậy, nhưng lại lập tức ngã lăn ra. Anh đau xót nghĩ thầm: Thế là hết, mình không còn đi đứng được nữa rồi. Anh không dám mở mắt, hễ mở mắt là đau buốt không chịu được Bản năng muốn sống đã mách anh phải theo sườn dốc mà bò xuống. Anh nhớ mang máng rằng, phía bên phải dưới chân dốc có một vạt rùng nhỏ. Anh cảm thấy mình bò đã lâu rồi, đáng lẽ đã đến vạt rùng ấy rồi, nhưng khi mở mắt ra mới biết chưa được năm mươi thước.

Lúc trời gần tối, anh bò đến vạt rừng. Lúc này mắt anh đã quen dần với ánh sáng, dù vẫn còn buốt và chảy nước mắt. Anh vịn vào một cây thông nhỏ, đứng lên, nhìn về cửa hang cách đó khoảng một trăm thước. Trên tuyết còn lưu lại vết tích của anh đã bò qua. Cái làng nhỏ bên dưới có tiếng gà kêu chó cắn, khói lam bốc lên từ những mái nhà đầy vẻ thanh bình. Anh nhìn lại mình, rách như tổ đỉa, đầu gối và bụng rớm máu, những ngón chân lở loét bốc mùi khăn khẳn. Một cảm giác thù hận bỗng lóe lên trong anh, như có tiếng gọi từ trên cao vọng xuống: Hàn Chim, Hàn Chim, người là thằng đàn ông, không được để bọn Nhật bắt lại!

Anh từ gốc cây này bám sang gốc cây kia, rồi cứ như thế anh lần vào rừng sâu. Đêm hôm ấy lại có một trận tuyết rất to. Anh ngồi xổm dưới một gốc cây nhỏ, lắng nghe tiếng gầm gào của biển cả và tiếng hú của bầy sói, rồi lại rơi vào trạng thái mụ mẫm. Tuyết lấp kín anh, xóa sạch dấu vết chiều hôm trước anh để lại.

Sáng sớm hôm sau, anh trông thấy ánh nắng ban mai trải màu ngọc bích lên mặt tuyết. Từ bên kia sườn núi, từ chỗ cái hang cũ vọng lại tiếng người ồn ào, tiếng chó sủa. Anh ngồi yên, lắng nghe những tiếng động ấy như từ một nơi xa xôi vọng tới..

Rồi một quầng lửa bùng lên, ngọn lửa không một tiếng động, mềm mại như lụa dập dòn nhảy múa. Giữa quầng lửa là một thiếu nữ mặc quần trắng, ánh mắt như mắt chim, xa vắng và đơn độc. Anh đội tuyết chồm tới và ngã lăn bất tỉnh.

Những con chó săn đánh hơi rất thính, dẫn theo những người thợ săn đến chỗ Hàn Chim. Anh chống hai tay trên tuyết, ngước nhìn những họng súng đen ngòm. Anh cất tiếng chửi nhưng lại sủa như chó sói. Những người thợ săn nhìn anh ngạc nhiên, còn lũ chó thì hốt hoảng lùi lại

Một người thợ săn bước tới cầm cánh tay lôi anh dậy. Anh cảm thấy lồng ngực như muốn vỡ, vận hết sức tàn còn lại ôm chặt lấy người thợ săn cắn vào mặt anh ta bằng hai hàm răng không còn một chút sức lực rồi ngã lăn ra. Người kia cũng ngã theo. Anh không hề chống cự mặc cho những người thợ săn gỡ từng ngón tay cong cong như móc câu của anh, và hoảng hốt khi thấy người ta kéo anh như kéo một xác chết về làng.

Trong một quán tạp hóa nhỏ, anh bị cơn đau rất khó diễn tả làm cho tỉnh dậy. Anh nghe thấy lửa réo ù ù trong ống khói bằng sắt tây, khắp mình đau buốt như kim châm. Anh giãy giụa, gào thét tránh xa bếp lửa. Những người thợ săn chợt hiếu ra, khênh anh sang một gian để những thứ lặt vặt, gian này không có bếp lò. Người phụ nữ chủ hiệu tạp hóa chăm sóc anh rất chu đáo. Khi anh húp thìa nước đường đầu tiên, nước mắt tự nhiên ứa ra.

Ba hôm sau, những người thợ săn cuốn anh trong một tấm chăn chiên, khênh anh đến một nơi có những người ăn mặc đàng hoàng, hỏi anh gì đó bằng tiếng Nhật. Lưỡi anh ngọng cứng, không nói được thành lời. Sau đó, anh kể lại:

- Họ đem đến một chiếc bảng đen, ừ phấn viết, để tôi viết viết gì nhỉ ừ, ngón tay tôi co quắp như vuốt chim ưng, ừ, cầm phấn mà cổ tay đau buốt, cầm không chặt, viết gì nhỉ, tôi nghĩ, nghĩ mãi, à, nghĩ ra rồi, ừ, Trung Quốc, ừ, Trung Quốc, hai chữ Trung Quốc, tôi viết lên bảng đen hai chữ, Trung Quốc xiên xẹo, hai chữ thật to: Trung Quốc.

4

Sau hai tháng đi khắp vùng Cao Mật nói chuyện hơn năm mươi buổi, Hàn Chim trở lại nhà tôi. Khi sự hâm mộ Hàn Chim dần lắng xuống, người ta bắt đầu nêu câu hỏi về những chuyện mà Hàn Chim kể vì anh ta càng kể càng phong phú, càng ly kỳ. Có thể thế được chăng? Mười lăm năm ở miết trong núi được chăng?

Hàn Chim trả lời:

- Đ. mẹ anh, mười lăm năm của người ta anh nói gọn trong một câu đã hết, chưa kịp mỏi lưng, còn ta thì ngóng hết năm này sang năm khác tháng này sang tháng khác, giờ này sang giờ khác, phút này sang phút khác! Các người có giỏi, cứ thử ngóng năm năm xem nào!

- Mươi lăm năm thì quả là kinh khủng, nhưng những chuyện như đánh nhau với gấu, đấu khẩu với sói liệu có thật không?

Hàn Chim tức điên lên:

- Đ. mẹ anh, nếu không đánh nhau với gấu, đấu khẩu với chó sói thì tôi hỏi các anh mười lăm năm trong rừng sâu núi thẳm ở Nhật, tôi làm những gì?

Cách đây hai tháng, khi bước chân vào nhà tôi lần đầu anh khiến tôi giật mình. Tôi chỉ còn nhớ mang máng những chuyện liên quan đến Tiên Chim, nhưng đó là chuyện quan hệ nam nữ giữa chị với Thằng Câm và chuyện chị nhảy từ vách núi xuống bãi cỏ, hoàn toàn không nhớ chị có người chồng chưa cưới quái đản như thế này. Tôi né sang một bên để anh vào sân. Chính khi đó chị Lai Đệ nửa mình trên ở trần, nửa dưới quấn bằng chiếc khăn trải giường màu trắng, chạy ra sân. Thằng Câm dùng nắm tay đấm thủng một lỗ to tướng giấy dán cửa sổ rồi thò nữa người ra ngoài, quát to: - Cởi cởi! Lai Đệ ngã vật xuống đất khóc hu hu, chiếc khăn giường quấn quanh người thấm máu loang lổ. Chị xuất hiện trước mắt Hàn Chim trong tình cảnh như vậy. Khi trông thấy trong sân có người lạ, chị vội quấn chặt hơn chiếc khăn trải giường, máu từ bắp chân rỏ xuống đất. Mẹ tay dắt chị Tám, tay cầm roi lùa con dê vào sân. Mẹ không ngạc nhiên lắm về tình trạng khó coi của chi Lai Đệ, nhưng khi nhìn thấy Hàn Chim, mẹ ngồi phệt xuống đất.

Về sau mẹ nói với tôi, khi ấy mẹ biết ngay rằng người đòi nợ đã tới. Đã đến lúc phải trả cả vốn lẫn lãi món nợ ăn thịt chim của mười lăm năm trước. Nhà Thượng Quan hy sinh cô con gái đầu lòng đổi lấy vinh hoa phú quí, nay sắp kết thúc cùng với chuyện Hàn Chim trở về. Mặc dù vậy, mẹ vẫn tiếp đãi Hàn Chim tử tế. Con quái điểu như từ trên trời sa xuống này ngồi trong sân nhà tôi, hai tay ôm bẹn theo thói quen, mắt đờ đẫn nhìn mẹ và chị Lai Đệ đang bận rộn quanh bếp. Chị Lai Đệ rất xúc động trước cảnh ngộ của Hàn Chim, tạm thời quên đi nỗi thống khổ mà thằng Câm đã gây ra cho chị. Chị mặc áo ngoài vào, đốt bếp giúp mẹ. Thằng Câm ra sân, nhìn Hàn Chim bằng cặp mắt khiêu khích. Bên bàn ăn, Hàn Chim lóng ngóng cầm đũa, mãi không gắp được miếng thịt gà. Mẹ gỡ đôi đũa trong tay anh ta, ra hiệu bảo anh ăn bốc. Anh ngẩng nhìn mẹ, hỏi:

- Cô... vợ tôi đâu?

Mẹ nhìn thằng Câm bằng ánh mắt căm hờn, hắn đang nhai lấy nhai để cái đầu gà.

Mẹ nói:

- Nó đi xa rồi!

Bản chất lương thiện khiến mẹ không thể từ chối Hàn Chim ở lại, huống hồ còn có lời của ông trưởng khu và ông Cục trưởng Cục Dân chính huyện:

- Anh ấy không có gia đình, không nhà cửa. Với người từ địa ngục trần gian trở về, ta nên thỏa mãn mọi yêu cầu, vả lại...

Mẹ ngắt lời ông Cục trưởng Cục Dân chính, nói:

- Khỏi nói nhiều, xin cho vài người đến dọn dẹp chái hiên phía đông.

Vậy là người anh hùng huyền thoại Hàn Chim ký ngụ tại gian chái phía đông trong nhà tôi, nơi trước kia chị Tiên Chim từng ở. Mẹ lấy bức tranh đầy bụi giắt trên xà nhà xuống, treo lên tường. Bức tranh đã bị mối mọt ăn thủng lỗ chỗ. Hàn Chim đi diễn thuyết trở về, vừa trông thấy bức tranh liền nói:

- Tôi biết kẻ nào hại vợ tôi rồi? Tôi chẳng chóng thì chầy phải trả thù? Cuộc tình kỳ lạ giữa chị Cả và Hàn Chim như hoa cây thuốc phiện, rực rỡ và cuồng nhiệt nhưng độc. Buổi trưa hôm ấy, Thằng Câm ra hợp tác xã cung tiêu uống rượn. Chị Cả ngồi giặt chiếc quần lót đầy vết máu dưới gốc đào. Mẹ ngồi trên giường ghép chiếc phất trần bằng lông gà trống, chợt nghe thấy tiếng kẹt cổng, Hàn Chim xách chiếc lồng có con chim nhỏ lông cánh rất đẹp, bước vào. Anh ta đã trở lại nghề bẫy chim xưa kia. Anh dừng lại bên gốc đào, nhìn không chớp cái cổ chị Lai Đệ. Con chim nhỏ xù lông cổ, cất tiếng hót réo rắt gọi bạn tình, tiếng hót đằm thắm đến nỗi làm rung lên sợi dây tình cảm của những người phụ nữ. Mẹ cảm thấy trong lòng vô cùng áy náy: Con chim này rõ ràng là hóa thân của Hàn Chim, một Hàn Chim đầy đau khổ? Mẹ trông thấy Lai Đệ từ từ ngẩng đầu lên ngắm cái ức rất đẹp và hai con mắt đen nhánh bằng hai hạt vừng của con chim. Mẹ nhìn khuôn mặt ửng hồng và đôi mắt long lanh của chị Lai Đệ, hiểu rằng cái điều mà mẹ lo nhất sắp sửa diễn ra cùng với tiếng hót của con chim nhỏ. Mẹ không còn sức để ngăn chặn vì mẹ biết rằng bọn con gái nhà Thượng Quan một khi đã có cảm tình với người đàn ông nào, thì dù có tám ngựa cũng không kéo lại. Mẹ nhắm mắt, tuyệt vọng hoàn toàn.

Với niềm xúc động sâu xa, Lai Đệ từ từ đứng lên, hai tay đầy bọt xà phòng. Con chim chỉ to bằng hạt quả đào mà có thể đa tình đến thế, hót say sưa đến thế. Chị cảm thấy hình như con chim muốn chuyển cho chị một thông điệp thần bí, một sự lôi cuốn vừa hứng khởi lại vừa dáng sợ. Chị cố thoát khỏi sự dụ dỗ mê hoặc đó, đứng lên định đi vào trong nhà, nhưng hai chân như mọc rễ không nhúc nhích, còn hai tay thì vươn về phía con chim. Hàn Chim lắc tay một cái, con chim bay vụt tới, đậu trên tóc chị Lai Đệ. Chị cảm thấy những cái vuốt tí xíu bám vào mái tóc. ánh mắt chị Lai Đệ bắt gặp ánh mắt hiền lành, u uất của Hàn Chim, và nỗi uẩn khúc mãnh liệt dâng lên trong lòng chị. Hàn Chim gật đầu với chị rồi đi vào trong phòng, con chim bay theo anh.

Chị Lai Đệ ngẩn người. Chị nghe thấy tiếng mẹ gọi giật giọng, nhưng chị không quay đầu lại, chạy vào phòng Hàn Chim, vừa chạy vừa khóc không một chút xấu hổ. Hàn Chim giang rộng hai cánh tay đã từng đánh nhau với gấu, ôm chị. Nước mắt chị thấm đẫm ngực anh. Chị cho rằng chị hoàn toàn có quyền đánh anh, và anh cũng vui lòng để cho chị đánh, hai bàn tay to lớn của anh ve vuốt sống lưng chị, theo vết lõm dọc theo cột sống. Trong khi đó, con chim đậu trên bàn thờ tranh Tiên Chim sung sướng cất tiếng hót, cái miệng xinh xinh đỏ hồng nước bọt lấp lánh như những ngôi sao nhỏ.

Chị Lai Đệ thản nhiên cởi bỏ quần áo, chỉ vào những vết bầm tím trên người, bảo Hàn Chim:

- Anh xem này, Thằng Câm đã giày vò em gái em đến chết, giờ đây nó lại hành hạ em, em cũng sắp chết rồi, không còn chút hơi sức nào nữa? Nói xong, chị nằm phục trên giường, khóc hu hu.

Đây là lần đầu tiên Hàn Chim nhìn kỹ thân thể người con gái. Anh ngạc nhiên nhận ra rằng, đàn bà, linh vật của tạo hóa mà vì số phận hẩm hiu, anh chưa một lần được hưởng, đẹp hơn tất cả những cái dẹp mà anh đã từng trông thấy. Anh xúc động ứa nước mắt khi nhìn cặp chân thon dài, cặp mông tròn lẳn, đôi vú bè ra vì đè lên chăn, màu da trắng như ngà, mặc dù trên đó đầy những vết thâm tím. Ngọn lửa thanh xuân bị kìm nén trong suốt mười lăm năm cơ cực, cháy bùng lên. Anh quì xuống áp cặp môi nóng bỏng hôn lên gan bàn chân mịn màng của Lai Đệ.

Một cảm giác rân rân từ gót chân lan khắp thân thể, khiến khi co rúm lại rồi đột nhiên òa ra như vỡ đê. Chị lật ngửa; hai chân dạng ra rồi ưỡn người vòng tay ghì chặt Hàn Chim. Bằng kinh nghiệm phong phú của mình, chị hướng dẫn người đàn ông còn là trai tân này. Khoảng giữa những cái hôn điên cuồng, chị vừa thở vừa nói:

- Cho cái Thằng Câm ấy, cái thằng nữa người nửa ngợm ấy chết đi, cho quạ mổ mù mắt nó đi!...

Trong tiếng rú vì hoan lạc của hai người, mẹ hốt hoảng đóng sập cửa lại, gõ liên hồi chiếc chảo vỡ để át đi. Ngoài ngõ đẩy những học sinh tiểu, trung học đi tìm đồng nát sắt vụn. Nồi niêu xoong chảo, cuốc xẻng dao búa, cả đến móc cửa, vòng sẹo mũi trâu bò, cặp tóc phụ nữ... của mọi nhà đều được đem đi luyện thép. Vì trong nhà tôi có anh hùng quân đội Tôn Bất Ngôn và anh hùng huyền thoại Hàn Chim, nên các đồ sắt mới còn. Mẹ mong cho cuộc tình giữa chị Cả và Hàn Chim mau chóng kết thúc. Mẹ làm người bảo trợ không hợp pháp cho mối tình của hai người, vì mẹ thông cảm và day dứt khi thấy chị Cả bị Thằng Câm hành hạ, vì mẹ thông cảm với cuộc sống đầy cơ cực của Hàn Chim và món nợ thịt chim ngon lành cách đây mười lăm năm, đồng thời để tỏ lòng thương nhớ và nể trọng chị Tưởng Đệ. Tuy mẹ tiên đoán được kết cục chẳng hay ho gì, nhưng mẹ vẫn cố sức che chở cho họ để cái kết cục bi thảm đó chậm xảy ra. Nhưng trên thực tế, với một người đàn ông như Hàn Chim, sau khi đã cảm nhận ở người đàn bà tình yêu bốc lửa mà vẫn dịu dàng, thì không gì có thể trói buộc nổi anh. Đây là người đàn ông đã sống mười lăm năm trong rừng sâu như thú rừng, người đàn ông trong mười lăm năm đánh đu với cái chết, thì trong con mắt anh ta Tôn Bất Ngôn không đáng một xu! Với Lai Đệ, người đàn bà đã qua tay ba người đàn ông: Sa Nguyệt Lương, Tư Mã Khố? Tôn Bất Ngôn khác nhau hoàn toàn, người đàn bà trải qua lửa dạn, từng nếm mùi vinh hoa phú quí, từng trải qua cuồng hoan tột đỉnh kiểu Tư Mã Khố hoặc bạo ngược đến tởm lợm như kiểu Tôn Bất Ngôn, thì Hàn Chim khiến chị hoàn toàn thỏa mãn. Những cái vuốt ve tỏ vẻ biết ơn của Hàn Chim khiến chị thỏa mãn trong tình cảm làm cha mẹ, sự lóng ngóng vụng về của anh trong yêu đương khiến chị thỏa mãn với tình cảm của người thầy về mặt tình dục, sự ngốn ngấu trong ăn vụng trái cấm của Hàn Chim khiến chị thỏa mãn về dục vọng, đồng thời là sự trả thù Thằng Câm? Vì vậy, mỗi khi làm tình với Hàn Chim, chị đều nước mắt đầm đìa, khóc không thành tiếng, hoàn toàn không mang tính dâm đãng mà coi đây là hành vi cực kỳ nghiêm chỉnh của cuộc đời. Trong quá trình giao hoan, cả hai đều ngây ngất vì những ý tưởng ấy trong đầu...

Thằng Câm vọt lên từng bước rất nhanh giữa dòng người nườm nượp trên đường đầy bụi. Một toán dân công đẩy những xe quặng sắt màu nâu từ phía đông đi sang phía tây; một toán dân công khác cũng đẩy những xe quặng cùng loại đi từ tây sang đông. Thăng Câm nhảy vọt, nhảy vọt, đại nhảy vọt giữa đoàn người. Đám dân công nhìn những huy chương trên ngực thăng Câm bằng con mắt kính nể, tự động dừng lại nhường đường cho Thằng Câm tiến lên, khiến Câm ta cảm thấy thỏa mãn tột đỉnh. Hắn chỉ cao đến ngang đùi mọi người, nhưng về tinh thần thì hắn cao vạn trượng, không ai bằng hắn! Từ đó, hắn dùng toàn bộ thời gian ban ngày cho việc đi lại trên đường, uống dăm hớp rượu cho tinh thần phấn chấn, từ đầu mút phía đông nhảy vọt đến tận đầu mút phía tây của con đường. Trong khi hắn nhảy vọt trên đường, thì ở trên giường, ở dưới đất, Hàn Chim và Lai Đệ cũng không ngừng nhảy vọt. Thằng Câm người đầy bụi, hai chiếc ghế nhỏ độn tay mòn hàng tấc, đệm đít cũng bị thủng một lỗ to tướng. Cây cối trong thôn bị đốn sạch, khói đen cuồn cuộn trên cánh đồng. Kim Đồng đi theo đội diệt chim sẻ, tay giơ cao cây sào buộc mảnh vải đỏ gõ phèng phèng, thanh la dồn đuổi chim sẻ từ thôn này sang thôn kia, khiến chúng không có thời gian nghỉ ngơi, ăn uống, cuối cùng rơi xuống đất như những hòn đá. Do tác động của nhiều nhân tố, bệnh tương tư của Kim Đồng đã hết, chứng yếm thực chỉ ăn sữa, cũng khỏi luôn. Nhưng uy tín thì sa sút nghiêm trọng, cô giáo tiếng Nga Hoắc Lệ Na rất thân với cậu thì đã bị qui là phái hữu, đưa đi lao động cải tạo tại nông trường Thuồng Luồng cách trấn Đại Lan năm cây số. Trên đường, cậu trông thấy Thằng Câm, Thằng Câm cũng trông thấy cậu. Hai người giơ tay chào nhau rồi mỗi người đi mỗi ngả.

Những ngày tháng ồn ào, khắp nơi bập bùng ánh lửa trôi qua rất nhanh. Cơn cuồng nhiệt đi qua, vùng Cao Mật bước vào thời kỳ ảm đạm. Một buổi sáng trời mưa tám tã, đại đội trọng pháo gồm mười hai xe tải hạng nặng kéo mười hai cỗ lựu pháo theo con đường nhỏ hẹp phía đông nam kéo vào thị trấn Đại Lan. Khi các xe kéo pháo tiến vào thôn thì Thằng Câm đang vọt từng bước trên đường một cách uể oải vì có bao nhiêu tinh lực đã dốc vào những ngày tháng đại nhảy vọt mắt mờ đục vì uống nhiều rượu. Thân hình hắn răn chắc là thế mà bây giờ nhão ra. Sự xuất hiện đại đội pháo binh, khiến hắn rất phấn chấn, vì vậy, rất không đúng lúc, hắn lết ra giữa đường chặn đoàn xe lại. Đoàn xe bị dừng đột ngột, các binh sĩ trên xe nheo mắt vì nước mưa, nhìn con người quái dị dưới đường. Một sĩ quan nhỏ bé, súng lục bên hông, từ ca bin nhảy xuống, giận dữ quát tháo:

- Đồ khốn, không thiết sống nữa hả?

Vì đường trơn, xe lớn, Thằng Câm lại vọt ra từ một góc chết lái xe không thể nhìn thấy, mà chỉ cảm thấy có một bóng vàng trước mũi xe liền đạp phanh, dù vậy, thanh chắn vẫn va vào đầu thăng Câm, không chảy máu, nhưng sưng lên bằng quả trứng. Viên sĩ quan định mắng nữa, nhưng tim anh ta giật thót khi trông thấy tấm huân chương trên ngực Thằng Câm. Anh ta vội đứng nghiêm, xin lỗi:

- Xin lỗi thủ trưởng, xin thủ trưởng bỏ quá cho?

Thỏa mãn đến cao độ, Thằng Câm lùi lại bên đường cho đoàn xe đi qua. Các binh sĩ trên xe đều giơ tay chào, Thằng Câm cũng giơ tay chào lại bằng cách đặt cạnh bàn tay lên vành mũ rách nát. Đoàn qua xe đi, mặt đường bị cày xới nham nhở. Gió đông bắc ào ào, những hạt mưa thu rơi theo một đường xiên, trắng xóa mặt đường. Những con chim sẻ sống sót nháo nhào tìm chỗ chú mưa. Mấy con chó ướt lướt thướt, cụp đuôi đứng dưới bảng thông tin, đưa mắt nhìn Thằng Câm như chào hỏi.

Đại đội pháo đi qua đánh dấu chấm hết cho những tháng cuồng nhiệt. Thằng Câm buồn rầu trở về nhà. Khi hắn giơ chiếc ghế gõ cổng như thường ngày, cánh cổng tự động mở ra và hắn bỗng nghe thấy tiếng kẹt cửa rõ mồn một. Hắn vốn sống trong một căn buồng tĩnh mịch, nên trong một thời gian tương đối dài, Hàn Chim và chị Lai Đệ vẫn che mắt được hắn. Tất nhiên, mấy tháng vừa qua, phần lớn thời gian hắn ở ngoài phố hoặc bên lò luyện thép, khi trở về nhà thì đã mệt bã ra, ngủ như chết, trời vừa rạng sáng đã lại ra đi, không còn lúc nào ngó đến Lai Đệ. Đây là lý do chủ yếu khiến hắn không phát hiện ra sự gian dâm giữa Lai Đệ và Hàn Chim. Thằng Câm khỏi chứng điếc chỉ có thể cắt nghĩa là do đập đầu vào thanh chăn ô tô. Có lẽ do cú va đập đó, cái vật đút nút lỗ tai hắn văng ra ngoài. Tiếng kẹt cổng khiến hắn giật mình, tiếp đó, hắn ngạc nhiên đến sững sờ khi nghe thấy tiếng mưa rơi lộp bộp trên lá cây trong sân, và còn nghe rõ tiếng ngáy của bà Lỗ trong buồng. Mẹ đã không làm tròn nhiệm vụ: Quên đóng cổng. Điều khiến Thằng Câm càng lạ lùng là tiếng rên rỉ trong khoái lạc của chị Lai Đệ vọng ra từ chái đông.

Hắn đánh hơi như chó săn, ngủi thấy mùi ngầy ngậy trên người Lai Đệ. Rồi với tốc độ cục nhanh, hắn vọt tới chái đông. Nước mưa trong sân thấm ướt mông hắn, khiến hắn cảm thấy hậu môn buốt như kim châm.

Cửa chái đông mở toang, trong buồng thắp một ngọn nến, con mắt Chim Tiên trên bức tranh lấp lánh những tia sắc lạnh. Hắn nhìn ngay thấy cặp chân thon dài, chắc nịch, đầy lông lá của Hàn Chim, cặp chân luôn làm hắn ghen tị, còn cặp mông thì nhún nhảy. Phía trước Hàn Chim là cái mông vổng cao của Lai Đệ, cặp vú lủng lẳng, mái tóc đen xõa trên gối của Hàn Chim, hai tay Lai Đệ không ngừng vò xé chiếc gối và những tiếng rên từ đó bật ra khiến thần kinh hắn lập tức vỡ tung ra như bị chập điện. Hắn gầm lên một tiếng như con thú bị thương, ném mạnh chiếc ghế trong tay. Chiếc ghế sượt qua vai Hàn Chim đập vào tường, rơi trên gối, ngay bên cạnh má Lai Đệ. Thằng Câm lại ném chiếc ghế còn lại, lần này thì trúng mông Hàn Chim. Hàn Chim ngoảnh lại nhìn Thằng Câm bằng con mắt bốc lửa, nhưng miệng thì mỉm cười đầy vẻ kiêu ngạo. Lai Đệ vội nằm sấp trên giường mà thở rồi kéo chăn che người. Chị nhổm dậy, chửi Thằng Câm:

- Thằng khốn, mi đã thấy rồi đấy!

Thằng Câm hai tay chống đất, trông như một con ếch khổng lồ, rồi chỉ một cái nhún, hắn đã vọt qua ngưỡng cửa, cái nhún thứ hai hắn đã tới trước mặt Hàn Chim, dùng đầu húc ngược một cái thật mạnh. Hàn Chim rú lên một tiếng, hai tay ôm chặt hạ bộ, chưa đầy một giây mà trên mặt mồ hôi đầm đìa. Thằng Câm càng hung hãn, vươn cánh tay dài ngoẵng như vòi bạch tuộc chộp lấy yết hầu Hàn Chim bóp mạnh bằng những ngón tay thép. Hàn Chim từ từ mềm nhũn ra, miệng ngáp như cá bị mắc cạn, mắt đảo tròng, rồi trọn ngược, chỉ còn đầy lòng trắng. Trong con kinh hoàng, Lai Đệ vớ lấy chiếc ghế, cứ lõa lồ như vậy nhảy xuống đất, nện lia lịa vào cánh tay Thằng Câm, nhưng tay hắn chẳng khác hai khúc gỗ lim. Chị nện lên đầu hắn. Đầu hắn như một quả dưa chín, vang lên tiếng bồm bộp. Sau cùng, chị quẳng ghế, vớ lấy thanh chặn cửa phang một nhát vào giữa định đầu hắn. Hắn hực lên một tiếng nhưng vẫn giữ nguyên tư thế cũ, chị bồi thêm một nhát nữa, Thằng Câm mới nhả Hàn Chim ra, rớt xuống đất như một chiếc chum trong khoảnh khắc rồi đổ kềnh. Thân thể Hàn Chim mềm nhũn rơi đè lên Thằng Câm.

Cuộc chiến trong gian chái đánh thúc mẹ dậy. Mẹ xỏ giày chạy ra cửa, nhưng mọi chuyện đã kết thúc. Mẹ đau khổ khi nhìn thấy Lai Đệ không mảnh vải trên người, ngồi rũ rượi bên khung cửa. Chị quẳng thanh chặn cửa, đờ đẫn đi ra sân, mưa rơi chênh chếch, những giọt mưa nối đuôi nhau lăn trên người chị như những dòng nước mắt. Bàn chân chị dẫm nhem nhép trên các vũng nước đọng đục ngầu. Chị ngồi xổm bên chậu, khỏa tay rửa sạch máu.

Mẹ cố sức lôi Hàn Chim đứng dậy, tì bờ vai vào nách anh ta, dìu anh ta lên giường. Mẹ mở chăn, ngán ngẩm đắp cho anh ta. thấy anh ta rên lên một tiếng thì biết rằng người anh hùng huyền thoại này đã sống lại. Mẹ cúi xuống dựng Thằng Câm ngồi dậy, phát hiện ra hai dòng nước đen đen chảy ra từ hai lỗ mũi của hắn, đưa tay thử thấy hắn đã tắt thở. Cái xác Thằng Câm không đổ vẫn giữ nguyên tư thế ngồi.

Mẹ quệt ngón tay dính máu lên tường rồi dở ngây dở dại đi về giương mình, để nguyên cả quần áo mà nằm xuống. Từng chuyện của Thằng Câm khi còn sống lướt qua trước mặt mẹ. Nhớ lại quang cảnh Thằng Câm cầm đầu mấy đứa em xưng hùng xưng bá một thời, mẹ bật cười mỉa. Ngoài sân, Lai Đệ rửa tay hết lần này đến lần khác bằng xà phòng. Bọt xà phòng chảy đầy sân. Buổi chiều, Hàn Chim một tay che cổ họng, một tay che hạ bộ bước ra sân rồi ôm choàng lấy Lai Đệ. Lai Đệ ôm chặt cổ anh ta, cười khanh khách như hóa dại.

Sau đó, viên sĩ quan môi đỏ hồng, bê một hộp quà trên phủ tờ giấy hông điều, đến cùng Bí thư Khu ủy bước vào sân. Họ gọi, không có tiếng trả lời, Bí thư Khu ủy liền dẫn viên sĩ quan vào phòng mẹ.

- Chào bác! - Bí thư Khu ủy nói - Đây là Đại đội trưởng đại đội lựu pháo đến thăm đồng chí Tôn Bất Ngôn.

Đại đội trưởng Tống vẻ mặt áy náy, nói:

- Thưa bác, rất không phải với gia đình về chuyện xe của chúng tôi đụng phải đầu đồng chí Tôn Bất Ngôn?

Mẹ ngồi bật dậy, hỏi: - Chú nói gì cơ?

Đại đội trưởng Tống nói: - Xe chúng tôi... đương quá trơn... đã đụng phải đầu đồng chí Tôn Bất Ngôn, bị sưng lên một cục...

Mẹ khóc to:

- Về nhà, làm ầm lên một trận, chết rồi?

Đại đội trưởng Tống mặt trắng bệch: - Bác ơi, chúng tôi đã đạp phanh, nhưng đường trơn quá?...

Khi pháp y đến khám thi thể, chị Lai Đệ quần áo chỉnh tề, vai đeo một bọc nhỏ, nói với mẹ: - Mẹ, con đi đây chuyện phải như thế nào thì cứ phải như thế, không thể để các chú bộ đội bị oan.

Mẹ nói:

- Con nói với Tòa là xưa nay đã có qui định, với người đang mang thai thì đẻ xong mới...

Lai Đệ nói: - Con hiểu, chưa bao giờ con hiểu rõ mọi việc như lúc này!

Mẹ nói: - Mẹ sẽ nuôi đứa bé!

Lai Đệ nói:

- Mẹ ơi, vậy con không còn vương vấn gì nữa!

Chị bước ra sân, nói vọng vào chái đông: - Không cần khám nghiệm làm gì, chính tôi đập chết hắn, lúc đầu dập bằng ghế, sau đó bằng thanh gỗ chặn cửa, đó là lúc hắn đang bóp cổ Hàn Chim

Hàn Chim xách một xâu chim bước vào sân, nói:

- Chuyện gì thế này? Thằng cha vô tích sự đã chết rồi hả? Chính tôi dập chết hắn đấy!

Công an xích tay Hàn Chim và Lai Đệ dẫn đi. Năm tháng sau, một nữ công an đem đến nhà một đứa bé trai gầy gò như con mèo hen, và bảo mẹ rằng, ngày mai Lai Đệ sẽ bị hành quyết, gia đình có thể nhận xác, nếu không, sẽ đưa vào bệnh viện giải phẫu. Người nữ công an còn cho mẹ biết Hàn Chim bị xử tù chung thân, nơi thi hành án là bồn địa Talimu, cách Cao Mật hàng vạn dặm. Trước khi đưa đi, gia đình có thể đến thăm.

Kim Đồng vì làm gãy một cây con trong vườn trường, bị đuổi học. Sa Tảo Hoa phạm tội cắp vặt, bị đoàn kịch sa thải.

Mẹ nói:

- Chúng ta phải đi nhận xác Lai Đệ về! Sa Tảo Hoa nói:

- Ngoại ơi, dùng nhận làm gì!

Mẹ lắc đầu, nói:

- Nó chỉ phạm tội bị một phát đạn, không phạm tội trăm nhát dao phanh thây.

Hôm xử bắn Lai Đệ, có không dưới mười vạn người đến xem. Một chiếc xe tù chở Lai Đệ đến chân cầu Đoạn Hồn, kẻ đồng phạm là Hàn Chim cũng bị giải đến. Để phòng ngừa phạm nhân nói bậy, nhân viên thi hành án chụp lên miệng chị một dụng cụ đặc biệt để không nói được

Sau khi Lai Đệ bị hành quyết không lâu, gia đình Thượng Quan lại nhận được thông báo về Hàn Chim: Trên đường đi phát vãng, anh nhảy tàu, bị bánh xe nghiến thành hai đoạn.
Chương 5 (tiếp)

5

Để khai khẩn cánh đồng hoang rộng hàng vạn mẫu ở vùng đông bắc Cao Mật, tất cả thanh niên nam nữ trấn Đại Lan đều trở thành công nhân nông nghiệp của nông trường quốc doanh Thuồng Luồng. Hôm phân công, Chủ nhiệm Văn phòng nông trường bộ hỏi tôi:

- Sở thích của cậu là gì?

Tôi bị đói đến nỗi tai ong ong như tiếng ve kêu, nghe không rõ ông ta hỏi. Ông ta nhe hàm răng có chiếc răng giữa bọc thép không gỉ, hỏi lại rất to:

- Biết làm nghề gì?

Tôi nhớ lại vừa rồi gặp cô giáo Hoắc Lệ Na đang gánh phân trên đường, cô từng khen tôi là thiên tài tiếng Nga. Vậy là tôi trả lời:

- Tôi giỏi tiếng Nga.

- Tiếng Nga? - Chủ nhiệm Văn phòng cười nhạt, nhếch mép khoe chiếc răng thép, mỉa mai: - Giỏi đến mức nào? Phiên dịch cho Khơrútsốp và Micôiăng được không? Dịch được thông cáo chung Hội đàm Trung-Xô không? Này chú, ở chỗ chúng ta, sinh viên học ở Liên Xô về đều đi gánh phân, tiếng Nga của cậu có giỏi hơn họ không?

Những thanh niên đang đợi phân công bật cười.

- Tôi hỏi, cậu ở nhà làm gì? Việc nào cậu làm giỏi hơn cả?

- Tôi biết chăn dê.

Ông ta nói:

- Đúng, vậy đó là sở trường? Tiếng Nga ư, tiếng Pháp ư, tiếng Anh tiếng Nhật tiếng ý ư, vô dụng tuốt - ông ta viết nguệch ngoạc mấy chữ, đưa cho tôi - Tìm đội trưởng Mã ở đội chăn nuôi, chị ấy sẽ phân công cụ thể.

Trên đường, một công nhân già bảo tôi, đội trưởng Mã tên là Mã Thụy Liên, vợ của giám đốc nông trường Lý Đỗ, tiếng tăm đang nổi như cồn. Khi tôi cầm mảnh giấy về nhận công tác ở đội, chị ta đang cho tiến hành một thí nghiệm động trời về lai giống. Trên bãi phối giống của đội có một con trâu cái, một con lừa cái, một con cừu cái, một con lợn nái, một con thỏ cái, tất cả đều đang động đực. Năm nhân viên, hai nam ba nữ, làm công việc phối giống, đều mặc áo choàng trắng, đeo khẩu trang chỉ hở đôi mắt, tay đeo găng cao su, dàn thành thế trận lặng lẽ chờ lệnh, công cụ dùng để thụ tinh lăm lăm trong tay. Mã Thụy Liên tóc ngắn rẽ ngôi lệch, không ra nam cũng chẳng ra nữ, dựng lên như bờm ngựa. Chị ta có khuôn mặt tròn xoay đỏ lựng, cặp mắt lươn ti hí, mũi to nhưng nhúc những thịt, miệng rộng môi dầy, cổ ngắn mà thô, ngực rộng, cặp vú đồ sộ như hai nấm mồ. Đồ khốn? Kim Đồng rủa thầm, tưởng ai, té ra là chị Phán Đệ. Vì nhà Thượng Quan chúng tôi tiếng xấu dồn xa, nên chị ta thay tên đổi họ. Qua đó có thể suy ra, cái ông Lý Đỗ kia chính là Lỗ Lập Nhân, trước đó vốn tên là Tưởng Lập Nhân, chưa chừng trước đó nữa còn có tên là X Lập Nhân, Y Lập Nhân cũng nên. Cặp vợ chồng sau khi đã thay tên đổi họ bị đày đến chỗ khỉ ho cò gáy này xem ra không gặp may: Chị ta mặc chiếc áo lót bằng vải bông Nga-la-tư, chiếc quần đen băng vải nhăn như váng đậu phụ, giày thì là giày thể thao cổ cao, gót cao su, tay kẹp điếu thuốc lá nhãn hiệu đại nhảy vọt, làn khói xanh lởn vởn xung quanh những ngón tay nần nẫn như quả dưa chuột.

Chị ta rít một hơi thuốc, hỏi:

- Phóng viên báo nông trường đã đến chưa?

Một ông trung niên đeo kính cận từ sau chỗ buộc ngựa lách ra, lễ phép trả lời:

- Đến rồi đấy ạ!

Ông ta cầm chiếc bút máy đã mở nắp, mở sổ tay ra, đặt ngòi bút lên mặt giấy, sẵn sàng ghi chép. Đội trưởng Mã cười khanh khách, giơ bàn tay mũm mĩm vỗ vai ông trung niên, nói:

- Chủ bút đích thân ra trận hả!

Ông trung niên nói:

- Chỗ chị đây là đầu mối lấy tin, giao cho người khác tôi không yên tâm?

- Lão Vu nhiệt tình thật đấy - Mã Thụy Liên khen, lại vỗ vai ông chủ bút lần nữa. Ông ta mặt trắng bệch, rụt cổ lại như bị lạnh. Sau này tôi mới biết ông chủ bút tờ báo nhỏ in rônêô dày tám trang này họ Vu tên Chính, từng là Chủ nhiệm kiêm Tổng biên tập tờ báo của Tỉnh ủy một nhân vật phái hữu vua biết mặt chúa biết tên.

- Hôm nay - Mã Thụy Liên nói - tôi cung cấp thông tin cấp một cho anh.

Chị ta ném sang Vu Chính một cái nhìn gợi tình, rít hơi thuốc cuối cùng đến bỏng môi rồi phụt đầu mẩu ra xa, giấy cuộn một nơi, những sợi thuốc còn lại một nẻo. Tuyệt chiêu này của Phán Đệ khiến những người định nhặt mẩu thuốc thừa bầm gan tím ruột. Nhả nốt chỗ khói cuối cùng, chị ta hỏi:

- Chuẩn bị xong cả chưa?

Các nhân viên giơ cao dụng cụ thụ tinh trong tay, thay cho câu trả lời. Máu dồn lên mặt, chị ta xoa xoa tay rồi vỗ đánh bốp một tiếng:

- Tinh ngựa, tinh ngựa đâu?

Nhân viên thụ tinh ngựa bước lên một bước nói:

- Tinh ngựa đây?

Mã Thụy Liên chỉ vào con trâu nói:

- Anh bơm tinh dịch ngựa cho con trâu này! Anh nhân viên chần chừ nhìn Mã Thụy Liên rồi lại nhìn bốn đồng nghiệp, như dò hỏi. Mã Thuỵ Liên nói:

- Còn đợi gì nữa? Công việc này phải làm tắp lự mới kết quả!

Anh nhân viên nháy mắt một cái, nói to:

- Xin tuân lệnh đội trưởng Mã!

Rồi anh ta nhanh nhẹn chạy tới chỗ con trâu cái luồn ống thụ tinh vào âm đạo con trâu. Mã Thụy Liên đứng nhìn, miệng hé mở, hơi thở gấp, làm như không phải đang thụ tinh cho con trâu mà là thụ tinh cho chị ta. Tiếp theo, chị ta ra một loạt mệnh lệnh thụ tinh trâu cho cừu, thụ tinh cừu cho thỏ nhà. Theo lệnh chị ta, tinh dịch của lừa được đưa vào tử cung của lợn, tinh dịch của lợn thì lại được đưa vào bộ máy sinh sản của lừa.

Ông Chủ bút báo Nông trường mặt xám như màu đất, môi dưới trễ ra, không hiểu ông định khóc hay định cười. Cô nhân viên phụ trách tinh dịch cừu có cặp lông mày cánh cung, mắt đen láy, dứt khoát không chấp hành lệnh của Mã Thụy Liên. Cô quẳng ống thụ tinh xuống khay tráng men, tháo găng tay, bỏ khẩu trang, để lộ môi trên đầy lông tơ, mũi thẳng và chiếc cằm đường nét thanh tú

- Đúng là một trò đùa! - cô phát âm tiếng phổ thông rất chuẩn, giọng thánh thót như chim.

- Đồ khốn! - Mã Thụy Liên vỗ tay đánh bộp một tiếng, phóng những tia mắt tóe lửa về phía cô nhân viên, dằn giọng nói - Nếu ta nhớ không lầm thì cô không phải là phái hữu có thời hạn, mà cái mũ phái hữu của cô là suốt đời là vĩnh viễn, đúng không nào?

Cô nhân viên cúi mặt, trả lời:

- Bà nói đúng, tôi là phần tử cực hữu. Nhưng tôi nghĩ rằng, khoa học và chính trị là hai vấn đề khác nhau. Chính trị có thể đảo lộn trắng đen, sớm Tần tối Sở, nhưng khoa học thì không thể như vậy!

- Câm mồm! - Mã Thụy Liên nhảy như con choi choi, gầm lên - Ta không cho phép mi tiếp tục phun nọc độc ở nông trường này. Mi mà cũng bàn về chính trị à? Mi thì biết gì chính trị? Mi biết chính trị ăn bằng gì không? Chính trị là thống soái, là linh hồn, chính trị là mạng sống của tất cả mọi việc. Khoa học tách khỏi chính trị thì không còn là khoa học, trong từ điển của giai cấp vô sản, không có khoa học siêu giai cấp. Giai cấp vô sản có khoa học của giai cấp vô sản, giai cấp tư sản có khoa học của giai cấp tư sản.

Cô nhân viên cắt ngang lời Mã Thụy Liên:

- Nếu như khoa học của giai cấp vô sản chờ đợi một loại giống mới qua việc bắt cừu giao phối với thỏ, thì khoa học của giai cấp vô sản chỉ là một bãi cứt chó?

- Kiều Kỳ Sa, người ngông cuồng quá đấy? - Mã Thụy Liên nghiến răng nói - Người hãy nhìn trời nhìn đất để biết thế nào là trời cao đất dày! Người dám bảo khoa học của giai cấp vô sản chỉ là bãi cứt chó. Phản động đến cùng cực! Chỉ một câu này đã đủ tống người vào tù, thậm chí bắn bỏ!... Người trẻ như thế, đẹp như thế... Mã Thụy Liên hạ giọng - Ta tha cho người lần này, nhưng dứt khoát phải thụ tinh cho xong! Nếu không thì dù người có là hoa khôi của Viện Y học, hoặc cỏ đẹp của Viện Nông học, thì ta cũng đưa người vào khuôn phép của ta! Những con ngựa đực vó to bằng chậu rửa mặt mà ta còn trị được, nữa là ngươi!

Ông chủ bút khuyên:

- Cô Kiều nên nghe lời đội trưởng Mã, đây là thực nghiệm khoa học! ở Thiên Tân, người ta lai cây bông với cây ngô đồng, ghép cây lúa nước với cây lau, đều đã thành công, giấy trắng mực đen trên báo Nhân Dân hẳn hoi. Đây là thời đại bài trừ mê tín, giải phóng tư tưởng, sáng tạo những kỳ tích trong thiên hạ, đã phối được ngựa với lừa để đẻ ra con la, thì không ai dám đoán chắc cừu phối hợp với thỏ sẽ không cho một giống mới! Làm đi cô?

Kiều Kỳ Sa, cô hoa khôi Học viện Y khoa, một phần tử cực hữu nước mắt vòng quanh, kiên quyết không chịu:

- Không, không, tôi không thể làm trái với kiến thức cơ bản?

Ông chủ bút nói:

- Cô Kiều, cô lú lẫn quá? Có lú lẫn như thế mới là phái cực hữu chứ?

Sự quan tâm của ông chủ bút đối với Kiều Kỳ Sa khiến Mã Thụy Liên bục mình, chị ta chêm vào một câu. Ông chủ bút đầu cúi gằm, không nói gì nữa.

Một nhân viên nam bước tới, nói:

- Đội trưởng để tôi làm thay cô ấy. Nói gì bơm tinh dịch cừu vào tử cung thỏ, ngay cả bơm tinh dịch của Giám đốc Lý Đỗ vào tử cung lợn nái, tôi cũng không mảy may băn khoăn!

Các nhân viên cười ré lên. Ông chủ bút giả vờ ho để khỏi bật cười. Mã Thụy Liên thẹn quá hóa giận, chửi:

- Đồ khốn, Đặng Gia Vinh! Quá trớn đấy!

Đặng Gia Vinh kéo khẩu trang xuống, để lộ khuôn mặt ngựa bất cần đời, nói:

- Đội trưởng Mã, như tôi đây không phái hữu tạm thời, cũng không phái hữu vĩnh viễn, bốn nhân ba đời công nhân mỏ, đỏ từ đầu đến chân, nhà chị đừng có giơ cái giọng dọa cô Kiều ra dọa tôi?

Đặng Gia Vinh nói xong, ngạo nghễ bỏ đi. Mã Thụy Liên trút giận lên đầu Kiều Kỳ Sa:

- Mi có làm hay không thì bảo? Không làm, ta sẽ không phát phiếu lương thực tháng này, cắt toàn bộ!

Kiều Kỳ Sa cố nhịn mà không được, hai hàng nước mắt rơi lã chã, bật khóc thành tiếng. Cô cầm lấy ống thụ tinh, loạng choạng chạy tới bên con thỏ cái đang động đực đè nó ra. Con thỏ cái giẫy giụa như điên cuồng. Lúc này, Thượng Quan Phán Đệ đội lốt Mã Thuỵ Liên mới nhìn thấy tôi - tôi đoán rằng chị ta đã nhìn thấy tôi từ lâu - hỏi tôi, vẻ lạnh nhạt:

- Cậu đến đây làm gì?

Tôi đưa mảnh giấy, chị ta xem xong, nói:

- Đến trại gà, ở đó đang cần một người làm việc nặng!

Chị ta không thèm nhìn tôi, bảo ông chủ bút:

- Ông Vu về viết bài đi nhé, nhớ viết sao còn có chỗ lui tới đấy?

Ông chủ bút cúi rạp người:

- Bà sẽ đọc bản dập thử trước khi lên khuôn.

Chị ta lại nói với Kiều Kỳ Sa:

- Kiều Kỳ Sa, thể theo đề nghị của chị, cho chị rút khỏi đội phối giống, đến nhận việc tại trại gà.

Cuối cùng, chị ta hỏi tôi:

- Sao vẫn chưa đi!

Tôi nói: - Tôi không biết đường đến trại gà.

Chị ta giơ tay nhìn đồng hồ, nói:

- Đi, tôi cũng có việc đến trại gà, nhân thể dẫn cậu đi!

Khi nhìn thấy từ xa bức tường quét vôi trắng xóa của trại gà, chị ta dừng lại. Chỗ này kề bên bãi pháo, men theo con đường nhỏ lầy lội là đến trại gà, bên đường là rãnh nước bẩn đầy váng đỏ. Bãi pháo được rào bằng dây thép gai, những bụi thanh hao dại mọc trùm lên xích sắt nòng pháo gỉ lốm đốm chĩa lên bầu trời lạnh giá. Dây khiên ngưu quấn quanh một nòng pháo cao xạ gãy một nửa. Một con chuồn chuồn đậu trên đầu nòng khẩu trọng liên trên xe tăng. Lũ chuột chạy lăng xăng trong tháp pháo. Chim sẻ làm tổ, sinh con đẻ cái trong nòng pháo. Chúng chui ra chui vào, miệng ngậm những con sâu xanh. Một bé gái đầu buộc nơ bằng lụa đỏ tết hình con bướm ngồi trên bánh cao su đã lão hóa đen như than, chăm chú nhìn hai đứa con trai dùng đá cuội gõ côm cốp vào buồng lái...

Phán Đệ rời mắt khỏi bãi pháo, lúc này chị khác hẳn với chị ở trại phối giống. Chị hỏi:

- Nhà mình... khỏe cả chứ?

Tôi quay mặt đi, trong lòng trào lên một nỗi căm giận. Ngay cả tên họ, chị cũng đã đổi, chị còn hỏi thăm làm gì

Tôi thầm nghĩ.

- Lẽ ra tương lai của em rất sáng sủa - Chị nói - Anh chị đã. rất mừng cho em. Nhưng Lai Đệ đã làm hỏng hết cả. Tất nhiên không nên chỉ trách Lai Đệ, mẹ cũng lẩm cẩm...

- Nếu chị không còn điều gì chỉ bảo - tôi nói - thì để tôi đi trại gà!

- Hừm, mới có mấy năm không gặp, tính nết thay đổi rồi! - Chị nói - Vậy là chị cũng mừng, Kim Đồng đã hai mươi tuổi rồi, không mặc quần thủng đít nữa, rời vú mẹ được rồi!

Tôi khoác cái bọc lên vai, đi về hướng trại gà.

- Dừng lại đã - Chị nói - em đừng hiểu lầm anh chị. Mấy năm nay anh chị cũng không thuận, quát tháo đến như vậy mà người ta còn cho anh chị là hữu khuynh. Chị cũng chẳng còn cách nào khác, túng thì phải tính thôi.

Chị vận dụng thành thạo câu nói cửa miệng của dân vùng Cao Mật. Chị lấy ra một mảnh giấy, móc chiếc bút máy cài trong nịt vú, viết nguệch ngoạc mấy chữ rồi dúi vào tay tôi, nói:

- Gặp trại trưởng Long, đưa giấy này cho chị ấy?

Tôi cầm mảnh giấy, hỏi:

- Chị còn gì nữa thì nói hết đi!

Chị do dự một thoáng, nói:

- Em nên biết rằng, chị và anh Lỗ có được vị trí như hiện nay không dễ dàng chút nào. Vì vậy, em đừng làm gì phiền đến anh chị. Chị sẽ ngầm giúp em, trường hợp công khai thì...

- Chị không cần nói nữa - Tôi nói - chị đổi tên đổi họ, vậy là không còn dính dáng gì đến nhà Thượng Quan. Tôi hoàn toàn không quen biết chị, vì vậy xin chị đừng giúp ngầm tôi?

- Vậy thì tốt! - Chị nói - Khi nào có dịp, em nói với mẹ là Thắng Lợi rất khỏe!

Tôi không nói gì thêm, rảo bước về phía trại gà theo hàng rào dây thép gai mọc đầy những dây khiên ngưu, nhiều chỗ trâu bò chui lọt, rào một cách tượng trung đống vũ khí phế thải sau chiến tranh. Tôi rất bằng lòng về cách ứng xử của mình vừa rồi, tự cảm thấy xử sự như vậy là đúng, như vừa thắng một trận giòn giã. Quên đi những Mã Thụy Liên và Lý Đỗ, quên đi những bàn đế súng moóc-chiê, những lá chắn trọng liên, những cánh máy bay ném bom. Xéo đi cho khuất mắt? Từ một chỗ cỏ cao lút đầu, tôi rẽ ngang và trông thấy hàng ngàn con gà chen chúc trên bãi đất trống, phía trên được chắn bởi lưới đánh cá, hai bên là hai dãy nhà gạch. Một con gà trống mào đỏ tía đậu trên chạc cây cao uy nghi như bậc quân vương trước đám thê thiếp của mình, cất tiếng kêu cục cục. Đám gà mái cục ta cục tác ầm ĩ, nghe nẫu cả ruột.

Tôi đưa mảnh giấy của Mã Thụy Liên cho chị trại trưởng cụt một tay tên là Long. Qua nét mặt khô khan của chị, tôi đoán đây không phải người phụ nữ bình thường. Chị xem xong, bảo:

- Cậu đến thật đúng lúc. Công việc hàng ngày của cậu như sau: Buổi sáng, chở phân gà lên trại lợn, rồi lấy thức ăn thô từ tổ chế biến đem về. Buổi chiều, cậu cùng Kiều Kỳ Sa - cô ấy sắp đến bây giờ đấy - chở trứng gà đẻ trong ngày lên nông trường bộ rồi đến kho lương thực lĩnh thức ăn tinh của ngày hôm sau đem về. Nghe rõ chưa?

- Nghe rõ rồi! - Tôi nhìn chiếc tay áo rỗng của chị, trả lời.

Chị phát hiện ra điều mà tôi chú ý, giọng lạnh nhạt:

- ở đây chúng tôi làm việc trên hai nguyên tắc, một là không lười nhác, hai là không đưa chuyện đơm đặt!

Đêm ấy trăng sáng vằng vặc. Tôi nằm trên đống hộp giấy cũ trong nhà kho của trại gà, mãi không sao ngủ được vì những tiếng rên rỉ của lũ gà mái. Cách một bức tường là buồng ngủ của mười mấy nữ công nhân. Tiếng ngáy của họ vọng sang chỗ tôi nằm, đôi khi xen lẫn tiếng nói mơ. ánh trăng dọi qua cửa kính và khe cửa ra vào, soi rõ những dòng chữ trên hộp: Vắc xin phòng dịch, chống ẩm chống nắng, dụng cụ thủy tinh, cẩn thận nhẹ tay, không lật sấp. ánh trăng lặng lẽ chuyển dịch. Tôi nghe thấy tiếng máy cày vọng lại. Đó là tổ máy Đông phương hồng làm ca đêm trên cánh đồng hoang.

... Hôm qua, mẹ bế thằng con của Hàn Chim và Lai Đệ, tiễn tôi đến đầu thôn. Mẹ nói:

- Kim Đồng, mẹ nhắc lại một câu rất cũ: Càng khổ lại càng phải sống. Mục sư Malôa nói rằng, lật đi lật lại quyển kinh thánh dày cộp cũng chỉ nói mỗi điều này! Con đừng lo cho mẹ, mẹ cầm tinh con giun, nơi nào có đất là sống được.

Tôi nói:

- Con sẽ để dành lương thực gửi về cho mẹ!

Mẹ nói:

- Nhất thiết không được làm thế? Chỉ cần con no bụng là mẹ cũng no!

Khi đi trên đê Thuồng Luồng, tôi bảo mẹ:

- Con Hoa nó nhiễm cái thói...

Mẹ tỏ ra bất lực, nói:

- Kim Đồng, mấy chục năm trở lại đây, bọn con gái nhà Thượng Quan có nghe lời khuyên của ai đâu...

Quá nửa đêm, đàn gà nháo nhác, kêu ầm ĩ. Tôi bật dậy, dán mũi trên cửa kính nhìn ra ngoài: đàn gà trong sân nhấp nhô như sóng biển, dài ánh trăng vằng vặc, tôi trông thấy một con cáo to lớn màu đen mốc, nhảy nhót giữa đàn gà, trông như một mảnh lụa lúc thu ngắn lại lúc run dài ra. Phòng bên, các nữ công nhân la chí chóe, cứ ăn mặc nửa kín nửa hở như vậy chạy ra ngoài, đi đầu là trại trưởng Long tay cầm khẩu súng lục. Con cáo ngoạm một con gà mái bự, nhảy từng bước dọc theo bức tường, chân con gà kéo lê trên mặt đất. Trại trưởng Long nhằm con cáo nổ một phát súng, lửa tóe ra từ đầu nòng. Con cáo dừng lại, nhả con gà xuống đất.

- Trúng rồi! - một nữ công nhân kêu lên. Con cáo quay đầu nhìn đám nữ công nhân, ánh trăng soi rõ trên khuôn mặt choắt của nó thoáng một nụ cười mỉa mai. Các nữ công nhân lạnh xương sống trước nụ cười ấy. Cánh tay cầm súng của trại trưởng Long buông thõng, nhưng vẫn gắng gượng giơ lên nổ một phát nữa. Viên đạn bắn tung đất ở một nơi rất gần đám nữ công nhân, cách rất xa con cáo. Con cáo ngoạm lấy con gà, thủng thẳng đến chỗ cửa chuồng, chui ra ngoài. Các nữ công nhân đứng ngẩn ra nhìn theo. Con cáo như một làn khói, biến mất trong bãi sắt thép phế thải. Nơi này cỏ mọc um tùm, dom đóm lập lòe trong bụi cỏ, là vương quốc của lũ cáo.

Sáng hôm sau, tôi cảm thấy mi mắt nặng chĩu, kéo chiếc xe chất đầy phân gà lên trai lợn. Vừa đến đầu con đường nhỏ bên cạnh bãi sắt thép phế thải, tôi nghe có người gọi, ngoảnh nhìn thì ra là Kiều Kỳ Sa. Chị nhanh nhẹn chạy tới, giọng lạnh nhạt:

- Trại trưởng bảo tôi đẩy xe giúp cậu?

Tôi nói:

- Chị đẩy để tôi kéo?

Đường chật, bánh xe chốc chốc lại thụt sâu trong bùn. Mỗi lần như vậy, tôi lại đảo tay đi giật lùi để lôi chiếc xe lên khỏi ổ gà Kiều Kỳ Sa cũng vô cùng vất vả. Mỗi khi chiếc xe thoát hiểm, tôi đảo tay để quay mặt đi, chị ta lại nhìn tôi. Mắt chị đen đến lạ lùng, mũi dọc dừa trắng mịn, hàng lông tơ ở trên môi, chiếc cằm xinh xăn, và thái độ úp mở, khiến tôi buộc phải liên tưởng đến con cáo đêm qua, đầu óc tôi như được gợi mở điều gì đó.

Từ trại gà đến trại lợn dài năm cây số, phải đi qua hố chế biến phân của đội chuyên trách trồng rau. Cô giáo Hoắc gánh hai thùng phân đi tới, thân hình mảnh mai của cô oằn xuống, có cảm giác như lưng cô sắp bị gãy đôi. Tại trại lợn, cô giáo dạy tôi âm nhạc Kỷ Quỳnh Chi tiếp nhận phân gà tươi do chúng tôi chở tới. Cô trộn phân gà vào thức ăn cho lợn, mùi chua loét và thối khắm xộc mũi. Trong tổ chế biến thức ăn gia súc, có một kiện tướng nhảy cao. Anh nhảy qua xà một mét tám kiểu úp bụng, kiểu nhảy tiên tiến đương thời. Tất nhiên, anh cũng là phái hữu. Anh tỏ ra quan tâm đặc biệt đến Kiều Kỳ Sa, đối xử với tôi cũng rất tốt. Đây là một con người lạc quan, lúc nào cũng cười cợt, khác hẳn với bộ mặt đưa đám của những người cũng là phái hữu. Chiếc khăn mặt quàng trên cổ, mặt đeo kính râm, anh bận rộn suốt ngày bên chiếc máy nghiền thức ăn gia súc. Tổ trưởng tổ chế biến cũng là một con người đáng quí. Anh tên là Quách Văn Hào nhưng một chữ bẻ làm đôi cũng không biết. Mù chữ, nhưng anh có tài xuất khẩu thành chương, những bài vè do anh sáng tác lưu truyền khắp nông trường Thuồng Luồng. Hôm đầu tiên chúng tôi đến chở dây khoai lang nghiền nhỏ, được nghe anh ứng khẩu đọc một đoạn: Giờ xin nói về đội trưởng Mã Thụy Liên, đầu óc chị ta thật phi thường, dám làm thí nghiệm ở trại giống, cho cừu cùng thỏ kết nhân duyên! Cô Kiều nhà ta tức lộn ruột, nhằm bụng bà Mã thoi một quyền? Ngựa ngủ với lừa sinh ra la, cừu ngủ với thỏ, úm ba la? Nàng thỏ kết duyên cùng cừu đực. Lợn đực có thể lấy Thụy Liên! Thụy Liên ức quá tìm Lý Đỗ, Lý Đỗ lựa lời khuyên bảo vợ, thôi thôi phái hữu chớ coi thường! Con Kiều tốt nghiệp đại học Y, Vu Chính chủ bút tờ báo tỉnh, Mã Minh lưu học Mêricơn, người ta làm được bom nguyên tử, ngay cả Vương Mai Tán đâu phải xoàng, có ngu cũng là vận động viên!...

Quách Văn Hào gọi: - Phái hữu!

Vương Mai Tán đứng nghiêm:

- Phái hữu có mặt!

Quách Văn Hào nói:

- Xúc thức ăn gia súc lên xe cho cô Kiều!

Vương Mai Tán nói:

- Xin tổ trưởng yên tâm!

Vương Mai Tán xúc thức ăn gia súc lên xe cho chúng tôi Trong tiếng chảy ầm ầm của máy nghiền, Quách Văn Hào hỏi tôi:

- Cậu thuộc gia đình Thượng Quan phải không? Tôi đáp:

- Vâng, tôi là thằng con lai của nhà Thượng Quan?

Quách Văn Hào nói:

- Lai tạp thành hảo hán! Gia đình Thượng Quan nhà cậu cũng kinh thật, Sa Nguyệt Lượng này, Tư Mã Khố này, Hàn Chim này, Tôn Bất Ngôn này, Bác-bít này, hơi bị nể đấy!

Trên đường trở về trại gà, Kiều Kỳ Sa bỗng hỏi tôi:

- Cậu tên là gì?

Tôi đáp:

- Thượng Quan Kim Đồng! Chị hỏi tên tôi làm gì?

Kiều Kỳ Sa nói:

- Thuận miệng hỏi thế thôi, lúc lao động thế nào cũng có lúc gọi nhau. Cậu có mấy chị gái?

- Tám, không phải, bảy chị tất cả.

- Thế bà Mã không phải là chị à?

- Bà ấy là quân phản bội - tôi buồn bã trả lời - Chị đừng hỏi nữa!

Kim Đồng bắt đầu cuộc sống tự lập, có qui củ, trở thành nhân viên vận tải chuyên trách của trại, có một cô gái rất xinh giúp việc. Buổi sáng chở phân gà đi, chở thức ăn gia súc về;. buổi chiều chở trúng gà đi, chở thức ăn tinh về. Dọc đường, cậu bắt đầu trò chuyện với Kiều Kỳ Sa, vì chị ta muốn biết rất chi tiết về thân thế của cậu. Cậu hỏi:

- Chị là người của Cục Công an hay của Đội điều tra?

Kiều Kỳ Sa nói: - Tôi chẳng của ai cả, tôi có cái tật là thích tìm hiểu mọi chuyện, nếu không đã không thành phái hữu!

Kim Đồng nói:

- Chị gầy đi vì đói đấy?

Chị nói:

- Đói đến mức không thể gầy hơn nữa. Ba lạng lương thực một ngày, không đủ sống.

Một hôm, trong khi thận trọng chở hai sọt trứng gà lên nông trường bộ, chị hỏi:

- Kim Đồng, cậu có biết những ai được ăn trứng này không?

Kim Đồng nói:

- Chị hỏi tôi, vậy tôi hỏi ai? Chắc chắn không phải tôi và cũng không phải chị được ăn.

Chị mân mê quả trứng trong tay, nói:

- Tôi rất muốn...

Kim Đồng hỏi:

- Chị muốn gì?

Chị nói:

- Tôi rất muốn ăn sạch số trúng này! Cậu biết không, theo đông y thì trứng sống bổ hơn trúng chín.

Kim Đồng nói: Chị bỏ cái ý nghĩ ấy đi! Trại trưởng Long đích thân cầm cân, chính xác tới ba số lẻ, thiếu một quả là bà ấy phát hiện ra ngay

- Tôi không để bà ta biết đâu! - Chị nói.

Kim Đồng nói:

- Tôi không dám làm chuyện này, kiếm được công việc như hiện nay đối với tôi đâu có dễ?

Con cáo đực đêm nào cũng quấy nhiễu trại gà, hơn nữa cứ cách một đêm lại tha đi một con gà mái. Cái đêm nó không bắt, không phải vì không bắt được, mà vì nó không muốn bắt. Như vậy, hoạt động của nó có hai khía cạnh; đêm bắt gà là để ăn, đêm không bắt gà là để quấy nhiễu. Nó làm cho đám nữ công nhân của trại gà bấn tinh lên, không đêm nào được yên ổn. Trại trưởng Long đã bắn hai mươi phát đạn mà không đụng được một sợi lông chân của nó. Các nữ công nhàn nói:

- Con cáo này đã thành tinh, biết niệm thần chú tránh đạn!

- Cứt! Cô gái có biệt hiệu là Ngựa hoang chửi một câu rất tục.

Cô là em gái Quách Văn Hào, tổ trưởng tổ chế biến thức ăn gia súc. Cô nói:

- Cái đồ vét đĩa ấy thì thành tinh thế nào được?

- Nếu nó không là hồ ly tinh, thì tại sao với tài thiện xạ như trại trưởng Long từng nổi tiếng trong đội biệt động, lại bắn không trúng - cô nữ công nhân bắt bẻ.

- Theo tớ thì trại trưởng Long có chuyện nới tay, vì con cáo này là con cáo đực! Ngựa hoang cười dâm đãng, biết đâu cứ đến đêm khuya lại chả có một chàng trai đẹp mã rúc vào chăn trại trưởng?

Trại trưởng Long đứng bên hàng rào, lắng nghe đám nữ công nhân bàn tán, tay nghịch khẩu súng lục, nét mặt đăm chiêu. Tiếng cười như phá của đám nữ công nhân làm chị ta sực tỉnh, dùng nòng súng hất ngực vành mũ đã đổi màu, bước những bước dài vào trong chuồng gà, đến trước mặt Ngựa hoang đang đếm trứng. Chị ta trợn mắt nhìn Ngựa hoang, hỏi dồn:

- Cô vừa nói gì?

Ngựa hoang cầm quả trứng gà lên soi, thản nhiên:

- Tôi chẳng nói gì cả?

- Tôi nghe thấy cô nói mà lại - chi ta giận dữ nói, gõ gõ báng súng lục vào lồng gà.

Ngựa hoang khiêu khích:

- Chị nghe thấy tôi nói gì nào?

Trại trưởng Long mặt đỏ như gấc, gầm lên:

- Tôi quyết không tha cho cô? - Rồi giận dữ bỏ đi.

Ngựa hoang nói với theo:

- Có tật giật mình! Cáo với cầy gì? Chỉ ra vẻ ta đây đứng đắn? Tối hôm nọ... tưởng tôi không nhìn thấy hay sao?

- Ngựa hoang này - Một nữ công nhân có vẻ hiền lành nói - nói in ít thôi, ngày ba lạng bột, hơi sức đâu mà nói khỏe thế!

- Ba lạng, ba lạng, tớ đ. mẹ cái ba lạng ấy?

Ngựa hoang rút kẹp tóc, rất thành thạo thọc hai lỗ ở hai đầu quả trứng rồi đưa lên miệng, mút một hơi, quả trứng chỉ còn cái vỏ. Cô ngắm nghía cái vỏ trứng nhìn bề ngoài tuồng như cò nguyên vẹn, đặt trả lại vào đống trứng, nói:

- Ai muốn tố cáo thì cứ đi mà tố! Dù sao thì một tháng nữa tớ tời bỏ chỗ này, bố tớ đã nhắm cho tớ một chàng quê tận đông bắc, nơi mà đậu tương chất cao như núi! Này anh chàng, anh có đi tố tôi không? - Cô hỏi Kim Đồng khi lấy đang quét phân gà bên ngoài cửa sổ - Anh tố cáo tôi là người ta tin ngay, anh là con gà choai thơm như múi mít thế kia chắc là bà cụt tay thích lắm! Bà ta là bò già khuyết răng chỉ thích xơi cỏ non?

Kim Đồng bị Ngựa hoang chửi tối tăm mặt mũi, anh xúc một xẻng phân gà, dọa:

- Cô định ăn cứt gà thì bảo!

Buổi chiều, khi chở bốn khay lớn trứng gà lên nông trường bộ, đến quãng giữa trại gà và hố ủ phân của đội trồng rau, Kiêu Kỳ Sa nói:

- Kim Đồng, dừng lại đã!

Kim Đồng thận trọng dừng bước, hạ càng xe xuống, quay lại nhìn. Kiều Kỳ Sa nói:

- Cậu thấy rồi đấy. Bọn họ đều ăn vụng trứng, kể cả trại trưởng Long. Cậu có thấy Ngựa hoang đỏ phây phây không? Đám nữ ở trại gà đều thừa dinh dưỡng!

Kim Đồng nói:

- Nhưng số trứng này đã qua cân!

Kiều Kỳ Sa nói:

- Nhưng chúng ta không thể ôm một đống trứng mà bụng đói meo. Tôi đói đến phát điên rồi!

Chị cầm lên hai quả trứng lẻn vào sau hàng rào dây thép gai, mất hút sau chiếc xe tăng hỏng. Một lát sau, chị cầm ra hai quả trứng bề ngoài nguyên vẹn như cũ, vùi sâu giữa đống trứng. Kim Đồng lo ngại hỏi:

- Kiều Kỳ Sa, chị làm thế này khác gì mèo giấu cứt, kho nông trường bộ cân lại là lộ hết.

Chị vừa cười vừa nói:

- Cậu tưởng tôi ngốc lắm hả? - rồi cầm lên hai quả khác, bảo Theo tôi!

Kim Đồng theo Kiều Kỳ Sa chui qua hàng rào dây thép gai, những cây thanh hao nở hoa trắng, mùi thơm hắc đến váng đầu.. Chị ngồi xổm bên xe tăng, lấy gói giấy dầu giấu chỗ khuất sau xích xe, trong gói có một chiếc khoan nhỏ, một chiếc bơm tiêm to đừng, một cuộn băng dính có màu như vỏ trứng và một chiếc kéo nhỏ. Chị khoan thủng một đầu quả trứng, chọn kim tiêm vào rút hết lòng trắng lòng đỏ vào bơm tiêm rồi chúc mũi kim tiêm xuống, bảo Kim Đồng: Há miệng ra! Kiều Kỳ Sa bơm lòng trứng vào họng Kim Đồng. Vậy là dù muốn hay không, Kim Đồng trở thành đồng phạm. Sau đó, chị hút nước đọng trong mũ sắt bơm đầy hai quả trứng, dùng kéo cắt một mẩu băng dính dán vào lỗ kim trên vỏ. Kiều Kỳ Sa làm tất cả những động tác ấy với một sự khéo léo và chính xác. Kim Đồng hỏi:

- Chị học kiểu này ở Học viện Y khoa à?

Kiều Kỳ Sa mỉm cười:

- Phải, ăn vụng chuyên nghiệp! Khi cân lại ở nông trường bộ, số trứng không bị giảm trọng lượng, trái lại còn dôi ra một lạng.

Trò ăn vụng trứng của họ kéo dài được nửa tháng thì bị phát giác. Khi đó là giữa mùa hạ, mưa dầm liên miên, gà mái sang thời kỳ thay lông, lượng trứng giảm hẳn. Xe chở một khay rồi trứng đến địa điểm cũ thì dừng lại, hai người chui qua rào dây thép gai. Những chùm thanh hao chín mọng. Trên bãi sắt thép phế thải hơi nước bay vật vờ như mây. Mùi thép gỉ tanh lợm. Một con nhái ngồi chồm hổm trên bánh chuyền động của xe tăng, màu da xanh biếc của nó khiến Kim Đồng cảm thấy có điều chẳng lành. Khi Kiều Kỳ Sa bơm lòng trứng vào miệng Kim Đồng, cậu cảm thấy buồn nôn. Cậu vuốt họng, nói:

- Trứng hôm nay vừa tanh vừa lạnh?

Kiêu Kỳ Sa nói:

- Chỉ vài hôm nữa, những quả trứng vừa tanh vừa lạnh cũng không còn, trò ăn vụng của chúng ta đã đến lúc kết thúc.

Kim Đồng nói:

- Đúng vậy, gà đến mùa thay lông rồi!

- Cậu ngốc thật đấy hay là cậu có dự cảm gì về tôi?

- Về chị? - Kim Đồng lắc đấu - tôi chẳng có dự cảm gì về chị cả!

- Thôi, gia đình cậu cũng đủ ầm ĩ rồi, tôi chẳng muốn làm nó rối tinh thêm!

Kim Đồng hỏi:

- Chị nói gì mà cứ úp úp mở mở!

Chị nói: - Sao cậu không hỏi tôi một câu về hoàn cảnh của tôi?

Kim Đồng nói:

- Tôi không định lấy chị, vậy tìm hiểu hoàn cảnh của chị để làm gì?

Chị ngẩn người, cười:

- Đúng là đàn ông nhà Thượng Quan, mở miệng là nói ngang! Chẳng lẽ lấy tôi thì mới hỏi hoàn cảnh của tôi hay sao?

Kim Đồng nói:

- Đúng thế, tôi nghĩ nên như vậy. Tôi nghe cô Hoắc nói rằng, hỏi về hoàn cảnh người phụ nữ một cách tùy tiện là rất không lịch sự!

- Cậu nói cái cô gánh phân bắc ấy à?

Kim Đồng nói:

- Cô ấy rất giỏi tiếng Nga.

Kiều Kỳ Sa cười nhạt:

- Nghe nói cậu là học trò cưng của cô ấy?

Kim Đồng nói:

- Cứ cho là như thế đi!

Kiều Kỳ Sa liền dùng thứ tiếng Nga chính hiệu nói một thôi một hồi, rồi chăm chú nhìn Kim Đồng hỏi: - Cậu hiểu không? Kim Đồng nói:

- Hình như chị kể về số phận bi thảm của một bé gái...

Kiều Kỳ Sa nói:

- Trò cưng của Hoắc Lệ Na trình độ cũng chỉ đến vậy, mèo ba chân, hổ nhồi bông, đèn lồng giấy không hơn không kém! Chị tỏ vẻ thất vọng, cầm lấy bốn cái trứng đi ra.

Kim Đồng không phục, nói:

- Tôi học cô ấy mới được một năm rưỡi, chị yêu cầu ở tôi cao quá đấy!

- Tôi thèm vào yêu cầu cậu!

Chị chui ra khỏi bụi thanh hao, quần áo ướt đẫm, cặp vú thây lẩy được nuôi dưỡng bằng sáu mươi tám quả trứng gà, cặp vú không cân xứng chút nào với thân hình gầy guộc của chị. Một cảm giác bàng hoàng say đắm chạy rân rân lên đỉnh đầu, cậu bất giác giơ hai tay về phía chị, nhưng chị đã né tránh, chui qua hàng rào dây thép gai, ra ngoài, ném lại một tràng cười khô khốc.

Trại trưởng Long cầm một quả trứng lên ngắm nghía. Kim Đồng chân run bắn, nhìn không chớp quả trứng trên tay chị ta. Kiều Kỳ Sa tỏ vẻ bất cần, đưa mắt nhìn những nòng sơn pháo, đã pháo và pháo cao xạ im lìm chĩa lên bầu trời u ám. Những giọt mưa phùn đọng trên trán chị, chảy thành dòng qua hai cánh mũi, long lanh như những giọt ngọc. Từ ánh mắt của Kiều Kỳ Sa, Kim Đồng nhận ra cái vẻ phớt đời trước cảnh khốn cùng của tất cả các cô gái nhà Thượng Quan. Và thế là cậu hiểu về cơ bản lai lịch của người thanh nữ này, hiểu được nguyên nhân vì sao suốt mấy tháng qua chị cứ căn vặn mãi về hoàn cảnh của cậu. Trại trưởng Long mỉa mai:

- Quả là thiên tài! Không hổ danh là một cao thủ!

Đột nhiên chị ta dúi quả trứng vào giữa trán Kiều Kỳ Sa. Quả trứng bẹp dí, nước bẩn trong trứng chảy đầy mặt chị. Trại trưởng Long nói:

- Lên nông trường bộ, các người sẽ bị trừng phạt đích đáng!

Kiều Kỳ Sa nói:

- Chuyện này không liên quan đến Kim Đồng. Cậu ta chẳng qua là chưa kịp thời tố cáo tôi đấy thôi? Cũng như tôi chưa kịp tố giác kẻ không những ăn vụng trứng gà, mà còn ăn vụng cả gà mái?

Hai ngày sau, Kiều Kỳ Sa bị cắt phiếu lương thực của nửa tháng, điều đến tổ trồng rau, chuyên chở phân bắc cùng với Hoắc Lệ Na. Hai cô gái rất giỏi tiếng Nga này thường là vô duyên vô cớ vung gáo múc phân lên, chửi nhau bằng tiếng Nga. Kim Đồng vẫn được ở lại trại gà. Gà mái của trại đã chết quá nửa, hơn chục nữ công nhân bị điều đi làm ruộng. Trại gà trước đây náo nhiệt là thế, nay chỉ còn lại trại trưởng Long và Kim Đồng trông nom vài trăm con gà mái trụi lông, phao câu tím ngắt. Con cáo đực tiếp tục quậy phá, chiến đấu với cáo là nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của hai người.

Một đêm hè, mây đen chốc chốc lại nuốt chửng vầng trăng, con cáo đực lại đến. Nó ngang nhiên cắn chết một con gà mái, vẫn theo lối đi cũ, tha con gà ra ngoài. Trại trưởng Long bắn chiếu lệ hai phát súng như một nghi thức đưa tiễn con cáo. Mùi thuốc súng khét lẹt. Kim Đồng đứng lặng bên cạnh trại trưởng Long. ếch nhái kêu từng đợt từ ngoài đồng vọng vào. ánh trăng lọt qua kẽ mây, tắm lên hai người một lớp mỡ. Cậu nghe thấy trại trưởng Long hự lên một tiếng, ngoảnh lại nhìn thì thấy khuôn mặt chị ta dài ra một cách đáng sợ, răng trắng nhởn. Thậm chí cậu còn trông thấy một cái đuôi to tướng đội đũng quần chị ta lên. Trại trưởng Long là cáo? Cậu chợt hiểu tất cả. Chị ta là một con cáo cái, đồng lõa với con cáo đực kia. Đây là lý do vì sao chị ta không bao giờ bắn trúng con cáo đực. Ngựa hoang nói rằng, đêm đêm có một chàng trai bóng nhẫy chui vào buồng chị ta, chính là con cáo này hóa thành người! Cậu ngửi thấy mùi hôi của cáo, nhìn khẩu súng trong tay chị ta còn vương khói ở đầu nòng chĩa thẳng vào cậu, liền quẳng gậy vừa kêu vừa chạy vào buồng của mình, dùng vai chèn chặt cửa buồng. Cậu nghe thấy chị ta trở lại buồng ngủ của nữ công nhân mà giờ đây chỉ còn mỗi mình chị ta, chỉ cách buồng cậu một bức tường ghép bằng những mảnh thùng gỗ. Bên kia tường, chị ta cào vào gỗ bằng những móng tay sắc nhọn cùng với những tiếng rên rỉ khẽ. Đột nhiên, bức tường bị bục một mảng, chị ta chui sang, trên người không một mảnh vải. Giờ đây chị ta mang hình người chỗ cánh tay cụt sát nách trông dễ sợ, da nhăn nhúm như miệng túi. Cặp vú như hai quả cân bằng gang nhô ra phía trước. Chị ta phủ phục trước mặt Kim Đồng rồi dùng cánh tay còn lại ôm chặt hai chân Kim Đồng, nước mắt ràn rụa, chị ta rên rỉ như một bà già:

- Kim Đồng... Kim Đồng... xin hãy thương tôi, tôi là một người đàn bà bất hạnh!...

Kim Đồng cố sức rút được chân ra, nhưng bàn tay rắn chắc của chị ta lại tóm lấy thắt lưng cậu, giật đứt và tụt quần cậu xuống một cách thô bạo. Cậu cúi xuống định kéo quần lên, liền bị chị ta vít cổ xuống, ngã đè lên chị ta. Chị ta xoắn chặt lấy Kim Đồng, lần lượt xé bỏ quần áo trên người cậu, đấm nhẹ một quả vào thái dương khiến cậu mắt trợn ngược, nằm thẳng cẳng như một con cá chết. Trại trưởng Long gặm từng tấc da trên người Kim Đồng vẫn không giúp cậu thoát khỏi cơn sợ hãi. Thẹn quá hóa giận, chị ta xồng xộc chạy về buồng mình lấy khẩu súng lục sang, và trước mặt cậu, chị ta kẹp súng giữa hai chân, nhét hai viên đạn vàng chóe vào kẹp đạn. Rồi chị ta chĩa súng vào bụng Kim Đồng, nói: Một là cương lên, hai là để tôi bắn bỏ nó! Cặp mắt chị ta hung hãn, thái độ tỏ ra không chút e dè, cặp vú rắn như thép nguội nhảy tâng tâng một cách giận dữ trên bộ ngực. Kim Đồng một lần nữa lại trông thấy mặt chị ta dài ra, từ giữa cặp mông mọc ra một cái đuôi dài như chiếc chổi, dài mãi, dài mãi cho tới chấm đất. Kim Đồng ngã sóng soài, người mềm nhũn, mồ hôi thấm ướt cả chăn.

Trong những ngày mưa dầm liên miên ấy, trại trưởng Long không kể ngày đêm, dùng thủ đoạn hết cương đến nhu, hy vọng thức dậy người đàn ông trong Kim Đồng, cho đến khi chị ta bị thổ huyết mà vẫn không đạt mục đích. Mấy phút trước khi tự sát, chị lấy cánh tay chùi máu trên khóe miệng, than thở:

- Long Thanh Bình, mi ba mươi chín tuổi đầu mà vẫn là gái trinh, người ta chỉ biết mi là một anh hùng mà không biết mi là đàn bà. Mi đã uổng phí cả một đời.

Chị ho lên mấy tiếng dữ dội, hai vai nhô lên, mặt trắng nhợt, rồi nôn ra một bụm máu. Kim Đồng tựa lưng vào cánh cửa, sợ đến nỗi hồn xiêu phách lạc. Nước mắt chảy tràn khuôn mặt, trại trưởng Long nhìn Kim Đồng đầy vẻ oán trách, lết bằng đầu gối đến bên giường, cầm khẩu súng lục lên, tì đầu nòng vào huyệt thái dương. Chính trong giờ phút chót ấy Kim Đồng nhận ra tư thế hấp dẫn của người đàn bà. Cánh tay duy nhất giơ lên để lộ một mảng lông nách, eo thon và lẳn, cặp mông xẻ đôi tì trên hai gót chân. Một cụm lửa vàng bùng lên trước mắt cậu, bụng dưới lạnh như băng bỗng nóng ran vì máu dồn về. Chính lúc đó, vì tuyệt vọng đến cục điểm, Long Thanh Bình bóp cò - nếu như trước đó chỉ một thoáng chị nhìn Kim Đồng, thì sẽ không xảy ra bi kịch - Kim Đồng trông thấy một cụm khói vàng ở chỗ tóc mai trại trưởng Long cùng với một tiếng nổ trầm dục. Chị rùng mình một cái rồi đồ vật ra. Kim Đồng chồm tới lật ngửa cái xác, cậu nhìn thấy một lỗ đen ngòm ở thái dương, viền lỗ rách bươm dính đầy thuốc súng, máu rỉ ra ở tai dính nhơm nhớp trên tay cậu. Đôi mắt chị vẫn mở, ánh mắt đầy vẻ ai oán, làn da trên ngực vẫn rung rung như mặt hồ trước cơn gió nhẹ...

Với một nỗi xót xa cùng cực, Kim Đồng ôm chầm lấy chị và thỏa mãn nguyện vọng của chị trước khi cơ thể chị mất cảm giác. Khi cậu mệt mỏi rời khỏi cơ thể chị, mắt chị sáng rục lên rồi tắt ngấm, mi mắt từ từ khép lại. Kim Đồng nhìn cái xác của trại trưởng Long, cảm thấy trong đầu hoàn toàn trống rỗng. Bên ngoài mưa như trút nước, cậu trông thấy những làn nước trắng đục, đợt nọ kế tiếp đợt kia ùa vào trong buồng, nhận chìm thi thể chị và từ từ nhận chìm cơ thể mình.

6

Kim Đồng bị dẫn lên Văn phòng trại gà để hỏi cung. Đôi chân trần của cậu dầm trong nước. Mái hiên nước chảy như thác, mưa rơi ngang sân như những mũi tên, mái nhà kêu ầm ầm. Kể từ lúc cậu cùng trại trưởng Long giao hoan, mưa như xối liên tục đôi lúc có nhỏ đi nhưng chỉ là để trận tiếp theo càng dữ dội hơn.

Nước lụt trong phòng đã sâu hơn nửa thuốc. Trưởng phòng bảo vệ nông trường mặc áo mưa màu đen ngồi xổm trên chiếc ghế băng. Cuộc thẩm vấn đã kéo dài hai ngày hai đêm, không tiến thêm được một bước nào. Ông trưởng phòng hút hết điếu này đến điếu khác, mặt nước nổi lềnh bềnh những đầu mẩu, khói thuốc mù mịt cả gian phòng. Ông ta dụi cặp mắt đỏ ngầu, ngáp một cách mệt mỏi. Như bị lây, anh nhân viên bảo vệ làm công việc ghi chép cũng ngáp theo. Một con rắn nước bơi vào phòng nhưng chịu không nổi khói thuốc, nó cũng há miệng ra ngáp một cái rồi bỏ chạy. Một con lươn rất to quẩn giữa hai chân Kim Đồng, ló đầu lên ngáp rồi quẫy một cái, tạo thành một xoáy nước. Ông trưởng phòng kéo quyển sổ ẩm ướt trên cái bàn đầy nước, nhìn lướt qua vẻn vẹn mấy chục chữ to tướng ghi chép trên đó, xoắn tai Kim Đồng, gầm lên:

- Khai đi, mày hiếp rồi giết cô ấy phải không?

Kim Đồng nhếch miệng khóc, nhắc lại:

- Tôi không giết chị ấy, cũng không hiếp chị ấy?

Ông Trưởng phòng bảo vệ rối như canh hẹ, nói:

- Mày không khai cũng chẳng sao? Lát nữa, công an điều tra sẽ đem chó bécgiê đến. Mày khai bây giờ thì được coi là thành khẩn?

- Tôi không giết chị ấy, cũng không hiếp chị ấy... -

Kim Đồng mệt mỏi nhắc lại lời khai.

Ông trưởng phòng móc bao thuốc ra, nắn thấy bẹp, liền vút xuống nước. Ông dụi mắt, bảo anh cán sự:

- Chú Tôn, lại lên nông trường bộ điện cho Cục Công an, bảo họ đến nhanh đi!

Ông đánh hơi, nói: - Tôi ngửi thấy mùi thối rồi! Họ không đến thì chẳng tìm ra chúng cứ nào đâu!

Anh cán sự nói:

- Anh lẫn rồi hay sao? Điện thoại không gọi được từ hôm kia! Mưa to như thế này, các cột điện bằng gỗ mục chắc là gãy hết?

- Mẹ kiếp? - Ông trưởng phòng nhảy xuống nước, vén áo mưa lội ra cửa, nhìn trời, màn nước mái hiên trút lên lưng ào ào.

Ông ta chạy sang buồng Kim Đồng, nơi diễn ra chuyện tình giữa Kim Đồng và trại trưởng Long, đẩy cửa bước vào. Ngoài sân nước đục ngầu, mấy con gà chết trôi lềnh bềnh. Những con gà còn sống đứng chen chúc trên đống gạch xó nhà, rụt cổ, mũi chảy nước, rên rỉ.

Kim Đồng đầu nhức như búa bổ, răng va vào nhau lập cập hình ảnh lõa thể của trại trưởng Long chập chờn trước mặt. Do kích động nhất thời cậu đã giao hợp với cái xác còn mềm và ấm, nhưng sau đó cậu rơi vào một trạng thái hối hận sâu xa. Cậu căm ghét người đàn bà đó muốn rũ bỏ hình ảnh chị ta khỏi tiềm thúc nhưng không sao rũ được, chẳng khác trường hợp Natasa xưa kia, chỉ khác là, với Natasa thì là một thiên diễm tình, còn với Long Thanh Bình lại là cơn ác mộng. Từ lúc bị người ta thẩm vấn, cậu đã quyết tâm không khai tình tiết cuối cùng, cái tình tiết không đẹp chút nào. Tôi không hiếp chị ấy, cũng không giết chị ấy, chính là chị ấy ép tôi nhưng tôi không làm được, thế là chị ấy tự sát. Đó là toàn bộ lời khai của cậu.

Trưởng phòng bảo vệ chạy trở lại, vuốt nước mưa trên cổ nói:

- Mẹ kiếp, trương lên rồi, y như một con lợn đã cạo lông, kinh quá? - Ông ta vừa nói vừa vuốt cổ họng cho khỏi nôn..

Phía xa, ống khói đồ sộ xây bằng gạch của nhà ăn nông trường bộ bỗng nghiêng đi rồi đổ ập xuống mái nhà ăn có gắn hàng trăm miếng kính để ấy ánh sáng, nước bắn tung toé cùng với tiếng réo ào ào.

- Đổ rồi, nồi cháo mất hết rồi? - Anh nhân viên bảo vệ kinh ngạc kêu lên - Còn thẩm vấn con mẹ gì nữa, cơm không có mà ăn rồi!

Sau khi nhà ăn đổ sụp, cánh đồng phía nam hiện ra lồ lộ Điều kinh khủng là nước lũ kéo dài đến tận chân trời. Con đê Thuồng Luồng uốn khúc trên mặt nước, nước trong đê cao hơn mực nước ngoài sông rất nhiều. Mưa rào không đồng đều, trên trời như có những bình nước khổng lồ đi động, tới đâu là mưa xiên như những mũi tên cùng với tiếng rào rào, mặt nước nổi bong bóng, hơi nước mù mịt, mọi vật nhòa đi, không còn rõ hình thù. Nơi bình không tới thì mặt nước phản chiếu mảng trời tương đối sáng sủa. Nông trường Thuồng Luồng là nơi thấp nhất vùng đông bắc Cao Mật, nước của ba huyện đều dồn về đây. Tiếp theo nhà ăn, những căn nhà mái ngói tường đất của nông trường Thuồng Luồng lần lượt đổ ụp, nhận chìm trong nước lũ, chỉ mỗi dãy nhà kho do phần tụ phái hữu Lương Bát Đồng thiết kế là còn đứng vũng. ở trại gà, chỉ có khu chuồng là con trụ lại được vì xây bằng gạch lấy từ các phần mộ ở nghĩa trang đem về. Nước trong buồng đã lên tới mép dưới cửa sổ, những chiếc ghế băng trôi lềnh bềnh, nước đã ngấm ngang bụng Kim Đồng, chiếc ghế ngồi đội đít cậu lên.

Tiếng khóc như ri trong khu nhà tập thể nông trường, từng đám người ngụp lặn trong nước. Một người kêu to:

- Chạy lên đê, chạy lên đê mau

Nhân viên bảo vệ đạp đổ cửa sổ nhảy ra ngoài. Ông trưởng phòng chửi thề một câu, quay lại bảo Kim Đồng:

- Đi theo tao!

Tôi theo ông trưởng phòng ra sân. Ông người thấp bé, phải dùng hai tay rẽ nước để đi. Kim Đồng nhìn thấy một đàn gà đang đậu trên nóc nhà, bên cạnh chúng là con cáo đực ác ôn. Cái xác Long Thanh Bình từ trong nhà trôi ra, quẩn theo sau lưng cậu, cậu đi nhanh cái xác cũng trôi nhanh, cậu rẽ ngang, cái xác cũng rẽ ngang. Cậu sợ đến són cả ra quần. Cuối cùng, chị ta vướng tóc vào dây thép gai của bãi pháo, Kim Đồng mới được giải thoát. Những nòng pháo cao xạ nhô lên khỏi dòng nước đục ngầu, những xe tăng chỉ hở tháp và nòng pháo, y hệt những con rùa khổng lồ ló đầu ra xem nước lũ. Khi cả bọn ra gần tới đội cày thì khu trại gà đổ sụp.

Tại bãi xe của đội cày, người đứng chen chúc trên hai chiếc máy kéo nhãn hiệu ĐT của Liên Xô. Có người vẫn cố leo lên, nhưng kết quả là làm cho hàng loạt người đứng trên ngã xuống nước.

Ông trưởng phòng bảo vệ bị nước lũ cuốn đi, Kim Đồng được tự do nhờ có sự tiếp tay của nước lũ. Cậu nhập bọn với một số phần tử phái hữu, tay nắm tay tiến lên đê Thuồng Luồng, đi đầu là kiện tướng nhảy cao Vương Mai Tán, đi cuối là công trình sư Lương Bát Đống, đoạn giữa có Hoắc Lệ Na, Kỷ Quỳnh Chi, Kiều Kỳ Sa và một số người Kim Đồng không biết tên. Họ sử dụng cả chân lẫn tay hòa nhập vào dòng chảy phái hữu. Kiều Kỳ Sa nắm tay Kim Đồng. Quần áo dính bết vào da thịt, người nào người ấy trông như khỏa thân. Thói xấu khó bỏ, Kim Đồng thoắt cái đã lướt rất nhanh trên ba cặp vú hình dạng khác nhau của Hoắc Lệ Na, Kỷ Quỳnh Chi và Kiểu Kỳ Sa. Chủ nhân của ba cặp vú trong cảnh khốn cùng nên chúng có phần mệt mỏi; nhưng chúng vẫn đẹp, vẫn thanh khiết, vẫn tự do và lãng mạn, hoàn toàn khác với cặp vú chưa một lần khai hoa của Long Thanh Bình, vú mà rắn như thép nguội. Ba cặp vú trước mặt khiến Kim Đồng thoắt cái trở lại tuổi thiếu niên đầy mộng mơ, cậu cảm thấy mình như con bướm rời khỏi cái xác đen sì của Long Thanh Bình, phơi khô đôi cánh rồi bay lượn giữa mùi hương sực nức của những cặp vú.

Kim Đồng rất mong được lội mãi trong nước lũ, nhưng con đê Thuồng Luồng đã phá vỡ niềm mong ước của cậu.

Người của nông trường đứng đầy trên đê, hai tay ôm chặt bờ vai. Chỗ lòng sông rộng nước chảy chậm, hơi nước mù mịt, không còn chim én hoặc hải âu bay lượn. Phía tây nam, trấn Đại Lan chìm trong sương mù, ba bề bốn bên nước chảy hỗn loạn. Khi khu nhà kho lợp ngói đỏ cũng đổ sập, nông trường

Thuồng Luồng trở thành biển cả. Trên đê tiếng người kêu khóc ầm ĩ, phái tả khóc, phái hữu cũng khóc. Giám đốc nông trường Lỗ Lập Nhân, vị cán bộ ít khi được thấy mặt, gục gặc cái đầu tóc hoa râm, tay ôm ngực khuỵu xuống. Ông chủ nhiệm văn phòng nông trường đỡ anh ta dậy, nhưng lại làm anh ta ngã lăn ra.

- Có ai biết cấp cứu không? Gọi bác sĩ mau lên!

Kiều Kỳ Sa và một phần tử phái hữu chạy tới. Họ bắt mạch, lật mí mắt lên xem, bấm huyệt nhân trung và hợp cốc, nhưng không kết quả. Anh phái hữu đến cùng Kiều Kỳ Sa nói:

- Hết rồi, nhồi máu cơ tim!- Mã Thụy Liên gào khóc bằng giọng của Thượng Quan Phán Đệ.

Đêm xuống, mọi người ngồi co cụm trên đê, run bần bật. Trên trời, một chiếc máy bay bay qua, đèn xanh đỏ nhấp nháy khiến mọi người lóe lên niềm hy vọng. Nhưng chiếc máy bay không quay lại. Nửa đêm thì trời tạnh mưa, dàn hợp xuống của ếch nhái nổi lên đinh tai nhức óc. Trên trời lác đác mấy ngôi sao nhấp nháy như sắp tắt. Khoảng giữa các đợt ếch kêu, nghe rõ tiếng gió thổi qua những ngọn cây ló lên mặt nước. Một người lao đầu xuống dòng sông y hệt một con cá quẫy. Không ai kêu cứu cũng không ai quan tâm đến người kia. Lát sau, lại một người nữa trẫm mình. Lần này thì phản ứng của mọi người càng lạnh nhạt.

Dưới ánh sao mờ tối, Kiều Kỳ Sa và Hoắc Lệ Na đi tới trước mặt Kim Đồng:

- Tôi muốn dùng phương pháp gián tiếp để giới thiệu với cậu hoàn cảnh của tôi Kiều Kỳ Sa nói.

Sau đó, chị nói với Hoắc Lệ Na mấy phút bằng tiếng Nga. Với một thái độ dửng dưng Hoắc Lệ Na dịch lại lời của Kiều Kỳ Sa:

- Khi lên bốn tuổi, tôi bị đem bán cho một phụ nữ người Nga. Không ai biết vì sao người phụ nữ Nga này lại mua một đứa bé Trung Quốc làm con nuôi?

Kiều Kỳ Sa lại nói một tràng tiếng Nga, Hoắc Lệ Na tiếp tục dịch:

- Về sau, người phụ nữ Nga chết vì rượu, tôi lang thang ngoài phố, được một ông trưởng ga đem về nuôi. Gia đình này tốt lắm, coi tôi như con đẻ, cho tôi đi học?

Kiều Kỳ Sa nói tiếp, Hoắc Lệ Na lại dịch:

- Sau ngày giải phóng, tôi học ở Học viện y khoa. Trong phong trào trăm nhà đua tiếng tôi có nói, người nghèo cũng có những kẻ là ác ôn, người giàu cũng có những bậc thánh, và thế là tôi trở thành phái hữu. Tôi phải là chị Bảy của cậu mới đúng!

Kiều Kỳ Sa bắt tay Hoắc Lệ Na tỏ ý cảm ơn. Chị kéo Kim Đồng sang một bên nói nhỏ:

- Tôi có nghe nói về chuyện của cậu. Tôi học y, vì vậy cậu cứ nói thực, cậu ngủ với cô ấy trước khi cô ấy tự sát phải không?

- Sau khi chị ta tự sát - Kim Đồng lẩm bẩm.

- Cậu quả là đồ đốn mạt! - chị nói - Trưởng phòng bảo vệ là đồ giẻ rách? Trận lũ đã cứu cậu, hiểu chưa?

Kim Đồng ngây ngô gật đầu.

Con người tự nhận là chị Bảy của Kim Đồng dặn:

- Tôi đã chính mắt trông thấy cái xác bị nước lũ cuốn đi, tội của cậu đã bị xóa! Cậu phải giữ mồm giữ miệng không được khai là ngủ với cô ta, nếu như cậu còn sống sau trận lũ này!

Đúng như nhận định của Kiều Kỳ Sa, trận lũ đã cứu nguy cho Kim Đồng. Khi trưởng phòng trinh sát Công an huyện và cán bộ pháp y ngồi xuồng cao su xuôi dòng Thuồng Luồng về đến nơi thì quá nửa số người bị nạn đã ngất xỉu trên đê. Những người còn tỉnh thì ngồi bên mép nước vặt cỏ nước đã úa vàng mà ăn như ngựa. Chiếc xuồng cao su cập bờ, những người còn sống chạy ùa tới mong được tiếp tế lương thực, nhưng khi thấy họ rút súng và chìa giấy công tác ra, nói rằng đến để điều tra vụ nữ anh hùng bị hiếp và bị giết, thì mọi người bắt đầu chửi bới. Ông trưởng phòng trinh sát có đôi lông mày rậm đi tìm giám đốc nông trường, mọi người chỉ vào Lỗ Lập Nhân đã trương phềnh đứt cả cúc áo, nói:

- Giám đốc đấy?

Ông trưởng phòng trinh sát bịt mũi, đi vòng qua cái xác đã bắt đầu thối rữa, bu đầy nhặng xanh, đi tìm người lãnh đạo. Lần này ông chỉ đích danh người cần gặp là ông trưởng phòng bảo vệ, người đã gọi diện lên huyện, thì cách đây ba hôm, ông ta cùng với tấm ván trôi ra cửa biển. Ông trưởng phòng trinh sát dừng lại trước mặt Kỷ Quỳnh Chi, hai người nhìn nhau với một tâm trạng phức tạp của một cặp vợ chồng đã ly hôn. Kỷ Quỳnh Chi nói:

- Một mạng người bây giờ khác nhau là mấy so với mạng của một con chó, điều tra để làm gì?

Trưởng phòng trinh sát nhìn xác người, xác súc vật trôi lềnh bềnh trong dòng nước đục ngầu, nói:

- Mỗi chuyện một khác chứ!

Họ gặp Kim Đồng, giở đủ mánh khóe và thủ thuật tâm lý để hỏi cung ngay trên đê. Kim Đồng cắn răng giữ kín điều bí mật cuối cùng.

Mấy hôm sau, vốn tính cẩn thận, ông trưởng phòng trinh sát dẫn viên cán bộ pháp y lặn lội khắp nơi, cuối cùng tìm thấy xác Long Thanh Bình mắc ở hàng rào dây thép gai. Viên cán bộ pháp y giơ máy ảnh lên chụp thì cái xác nổ tung như một quả bom nổ chậm, thịt da chỉ còn là một đám bầy nhầy, tung tóe trên một diện tích gần nửa mẫu, chỉ còn bộ xương là còn vướng trên dây thép gai, nham nhở như bị xẻo bằng dao cùn. Cán bộ pháp y thận trọng nạy lấy miếng xương đầu có vết đạn giơ lên ngắm nghía hồi lâu, rồi kết luận kiểu ba phải: Vết đạn là do đầu nòng kề sát thái dương mà bắn. Có khả năng là tự sát, tất nhiên cũng không loại trừ khả năng Kim Đồng giết.

Khi họ chuẩn bị giải Kim Đồng đi, liền bị đám phái hữu vây quanh. Kỷ Quỳnh Chi dựa vào mối quan hệ đặc biệt với trưởng phòng trinh sát, nói:

- Các anh mở to mặt mà xem chú nhỏ này? Nó có giống thằng hiếp dâm rồi giết người chút nào không? Người đàn bà ấy là một con ác quỉ, còn thằng nhỏ này vốn là học trò của tôi!

Trưởng phòng trinh sát bị cái đói và mùi hôi thối dày vò đến nỗi chỉ thiếu nước nhảy xuống sông tự tận. Ôn ta ngán ngẩm phán:

- Kết thúc vụ án! Long Thanh Bình tự sát, không phải Kim Đồng giết?

Rồi cùng với viên cán bộ pháp y nhảy lên xuồng cao su định cho chạy ngược dòng, không ngờ chiếc xuồng đột nhiên quay đầu, trôi xuống hạ lưu như một mũi tên.
Chương 5 (tiếp)

7

Mùa xuân năm một nghìn chín trăm sáu mươi đầy đói khát, các phần tử phái hữu trong đội Phái hữu của nông trường Thuồng Luồng đều biến thành động vật ăn cỏ. Định lượng của mỗi ngày cho một người là bảy mươi gam lương thực, lại bị ăn bớt qua nhiều khâu, từ thủ kho, quản lý nhà ăn, và các yếu nhân của nông trường bộ, thành thử vào miệng phái hữu chỉ còn là bát cháo loãng có thể soi gương. Đã vậy, các phần tử phái hữu vẫn phải xây dựng lại nhà cửa, và được sự trợ giúp của trung đoàn lựu pháo đóng quân tại địa phương, họ còn trồng được mấy vạn mẫu tiểu mạch xuân. Để đề phòng trộm cắp, người ta trộn hạt giống với thuốc trừ sâu cực độc. Thuốc này kinh khủng đến nỗi những con giun, dế và một số côn trùng mà ngay cả chuyên gia sinh vật học phái hữu Phương Hóa Văn cũng không biết tên, chết dày đặc trên mặt đất, chim ăn phải những xác côn trùng này, đầu ngoẹo sang một bên mà chết, thú ăn phải xác những con chim này, nhảy dụng lên, chết liền. Khi tiểu mạch xuân cao ngang đầu gối thì các loài rau dại, cỏ dại cũng đưa nhau mọc. Những phần tử phái hữu vừa làm cỏ vừa nhặt rau dại bỏ vào mồm, nhai trệu trạo. Những phút nghỉ giải lao, mọi người ngồi trên bờ ruộng, ợ cỏ từ dạ dày lên miệng nhai lại cho kỹ. Nước bọt trong miệng toàn màu xanh, gương mặt người nào cũng vàng bủng ra, soi gương được.

Nông trường chỉ có mười người không bị phù thũng. Ông út Đỗ, giám đốc mới của nông trường không bị. Thủ kho Quốc Tử Lan không bị, Mã Thụy Liên và người nuôi ngựa giống tên là Trần Tam không bị, chắc chắn là họ đánh cắp thức ăn của ngựa. Ngụy Quốc Anh, đặc phái viên của công an không bị, con chó bécgiê của anh ta được nhà nước cung cấp thịt theo định lượng. Còn một người nữa tên là Chu Thiên Bảo cũng không bị. Anh này hồi nhỏ chế tạo bộc phá theo lối thủ công bị cụt ba ngón tay, về sau lại bị hỏng một mắt vì súng tự tạo bị phá nòng. Anh ta làm nhiệm vụ gác đêm cho nông trường, ban ngày ngủ, đêm khoác khẩu súng trường Tiệp, len lỏi các xó xỉnh như một bóng ma. Anh ta ngụ tại một căn nhà nhỏ lợp tôn, bên cạnh bãi vũ khí phế thải. Thường vào lúc đêm khuya có mùi thịt thơm tỏa ra từ căn nhà nhỏ của anh ta, mùi thơm khiến mọi người trằn trọc không sao ngủ được. Quách Văn Hào lợi dụng bóng đêm lần tới ngôi nhà nhỏ, vừa ló đầu vào nhìn liền bị ăn một báng súng. Con mắt độốc nhỡn của Chu Thiên Bảo lóe sáng trong đêm tối:

- Đ. mẹ thằng phản cách mạng, mày nhìn trộm gì đấy?

Anh ta chửi rất tục, tì đầu nòng súng vào sống lưng Quách Văn Hào. Quách Văn Hào cười nhăn nhở:

- Thiên Bảo, thịt gì vậy, cho tớ xin một miếng!

Chu Thiên Bảo ậm ừ:

- Có dám ăn không?

Quách Văn Hào nói:

- Loại có bốn chân thì tớ chưa dám ăn ghế băng; loại hai chân thì tớ chưa dám ăn thịt người!

Chu Thiên Bảo cười:

- Tớ luộc thịt người đấy!

Quách Văn Hào co giò bỏ chạy.

Cái tin Chu Thiên Bảo ăn thịt người chẳng mấy chốc đã lan đi rất nhanh. Mọi người bàng hoàng, đêm ngủ không dám nhắm mắt, chỉ sợ Thiên Bảo lôi đi ăn thịt. Vì chuyện này, Giám đốc Đỗ phải triệu tập riêng một cuộc họp để cải chính. Ông ta nói rằng, qua điều tra, thịt đó là thịt chuột Chu Thiên Bảo bắt trong xe tăng hỏng. Ông Đỗ kêu gọi mọi người, nhất là những phần tử phái hữu đừng làm bộ làm tịch, học tập Chu Thiên Bảo khai thác nguồn thức ăn để cầm cự cho qua những ngày đói kém, tiết kiệm lương thực nhằm chi viện cho những người trên thế giới còn khổ hơn mình. Vương Tư Viễn, phần tử phái hữu của trường đại học Nông nghiệp đề xuất nuôi nấm trên gỗ mục, được giám đốc Đỗ phê chuẩn. Nửa tháng sau, nấm của anh ta đã gây ra một vụ ngộ độc hơn một trăm người thượng thổ hạ tả, tám mười tám người rối loạn thần kinh, nói năng lảm nhảm. Cục Công an coi đây là một vụ đầu độc, do vậy mà giám đốc Đỗ bị kỷ luật, Vương Tư Viễn từ phái hữu trở thành phái cực hữu. Do kịp thời cấp cứu, tất cả đều tai qua nạn khỏi, chỉ mỗi Hoắc Lệ Na ngộ độc quá nặng, không cứu được. Về sau, người ta rỉ tai nhau, nói rằng Hoắc Lệ Na có quan hệ ám muội với Trương Rỗ phụ trách việc chia khẩu phần ở nhà ăn, thường được lợi qua cái muỗng chia cháo của anh ta. Có người nói chính mắt trông thấy trong buổi chiếu phim hôm chủ nhật, khi đèn đóm tắt phụt, Hoắc Lệ Na và Trương Rỗ liền lẻn ra sau đống cỏ. Hoắc Lệ Na chết, Kim Đồng lòng như dao cắt. Cậu kiên quyết không tin một con người xuất thân quyền quí từng lưu học tại Nga như Hoắc Lệ Na, vì một muỗng cháo mà khuất thân trước kẻ tởm lợm như Trương Rỗ. Nhưng sau đó xảy ra vụ Kiều Ky Sa đã gián tiếp xác nhận chuyện Hoắc Lệ Na là có thể xảy ra. Khi mà những người phụ nữ đói đến nỗi vú dán vào ngực, hàng tháng không còn kinh nguyệt, thì lòng tự trọng và tiết tháo sẽ không tồn tại. Thật là bất hạnh, Kim Đồng đã mục kích câu chuyện từ đầu đến cuối.

Dạo mùa xuân, nông trường mua từ tây nam Sơn Đông về một số bò giống, sau vì bò cái không đủ nên nông trường quyết định thiến đi bốn con để vỗ thành bò thịt. Mã Thụy Liên vẫn là đội trưởng đội chăn nuôi gia súc, nhưng vì lão Đỗ đã chết nên thanh thế của chị ta giảm sút nghiêm trọng. Vì vậy, khi Đặng Gia Vinh đem tất cả tám quả cà đi, chị ta đành giương mắt nhìn theo, tức mà không dám làm gì. Mùi xào nấu từ chỗ Đặng Gia Vinh thơm điếc mũi khiến Mã Thụy Liên thèm rỏ dãi, chị ta bèn sai Trần Tam sang xin. Đặng Gia Vinh đề nghị đổi lấy thức ăn của ngựa. Không còn cách nào khác Mã Thụy Liên đành để Trần Tam đem một cân bánh đậu đổi lấy một hòn cà. Kim Đồng chịu trách nhiệm bắt bò đi dạo trong đêm, không cho bò nằm để tránh vết thương há miệng. Sau bữa cơm chiều, trời chạng vạng tối, Kim Đồng dắt mấy con bò vào rừng liễu rồi cột chúng vào các gốc cây. Liên tục trong năm đêm dắt bò đi dạo, mi mắt cậu nặng như chì. Cậu ngồi tựa gốc cây, mi mắt dính lại với nhau, chập chờn nửa ngủ nửa thức. Chính khi đó, cậu ngửi thấy mùi bánh màn thầu mới ra lò thơm phúc, nóng hôi hổi. Cậu cố rướn mắt lên và nhìn thấy cấp dưỡng Trương Rỗ tay cầm đoạn dây thép trên đầu có cắm một chiếc bánh màn thầu trắng bóc, lượn đi lượn lại trong rừng liễu, vừa đi vừa rung rung đoạn dây như nhử mồi. Thực ra là hắn đang nhử mồi. Trước mặt hắn, khoảng cách chừng năm bước chân, là hoa khôi của Học viện Y khoa Kiều Kỳ Sa. Đôi mắt chị dán vào chiếc bánh. Ráng chiều nhuốm đỏ khuôn mặt vàng bủng của chị như thoa lên một lớp máu chó. Chị bước đi khó nhọc, thở hồng hộc. Đã mấy bận chị tuồng như vồ trúng chiếc màn thầu, nhưng Trương Rỗ rụt tay lại khiến chị vồ hụt. Trương Rỗ mỉm cười ranh mãnh. Chị rên rỉ như con chó cún bị lừa Một bận chị đã định bỏ đi, nhưng không cưỡng được sức cám dỗ của chiếc bánh, lại lao đầu vào như ngây như dại. Khi mà khẩu phần mỗi ngày còn được sáu lạng, Kiều Kỳ Sa còn cự tuyệt chuyện phối giống giữa cừu với thỏ, nhưng khi mà khẩu phần chỉ còn một lạng rưỡi thì vẫn cô Kiều Kỳ Sa đó không tin chính trị, cũng không tin khoa học.

Chị đuổi theo chiếc bánh với bản năng của động vật, còn người cầm chiếc bánh là ai không hề có ý nghĩa. Và như vậy chị theo chiếc bánh vào sâu trong rừng liễu. Giờ giải lao buổi sáng, Kim Đồng chủ động rẫy cỏ giúp Trần Tam nên được thưởng ba lạng bánh đậu, do vậy còn kiềm chế được, nếu không, cậu đã tham gia vào cuộc rượt đuổi chiếc bánh. Thời ấy phụ nữ đều tắt kinh, vú lép kẹp, còn đàn ông thì hai hòn dái rắn như đá cuội treo tòn ten trong cái bìu trong suốt, không còn khả năng đàn hồi. Nhưng Trương Rỗ thì khả năng ấy vẫn còn nguyên vẹn. Căn cứ vào hồ sơ tố cáo sau này, trong năm 1960 đói khát ấy, hắn lấy lương thực làm mồi nhử, cưỡng hiếp gần như khắp lượt những phần tử phái hữu là nữ ở nông trường. Kiều Kỳ Sa là lô cốt cuối cùng mà hắn hạ được. Người phụ nữ trẻ nhất, đẹp nhất và rất ngang bướng, không ngờ lại dễ dàng bị đánh gục như những người bình thường. Dưới ráng chiều đo như máu, Kim Đồng mục kích cảnh chị Bảy của cậu bị cưỡng dâm như thế nào.

Năm nào mưa bão lụt lội nhiều thì năm ấy cây thùy liễu cực kỳ tươi tốt, những rễ buông màu hồng như xúc tu của loài sinh vật biển mọc đầy thân cây, dùng dao phạt đứt, chúng chảy máu tươi. Tán cây y hệt người đàn bà điên xõa tóc, lá mọng nước, lúc đầu có màu vàng rơm sau chuyển sang màu phấn hồng, tô điểm cho những cành mềm mại, đàn hồi như cánh cung. Kim Đồng cho rằng những cành và lá liễu non chắc là rất ngon, nên khi câu chuyện xảy ra ở phía trước, miệng cậu đang nhét đầy lá liễu. Cuối cùng, Trương Rỗ ném cải bánh xuống đất Kiều Kỳ Sa nhào tới chụp lấy, khi hai tay chị cầm bánh nhét vào miệng, chưa kịp đứng thẳng lên, Trương Rỗ vòng ra phía sau tốc váy chị lên, kéo tuột chiếc quần lót nhem nhuốc màu phấn hồng xuống tận cổ chân và rất thành thạo, hắn kéo một chân chị ra khỏi quần, còn chân bên kia thì không cần kéo nốt. Hắn tách chân chị ra, nhét cái vật cương cứng của đàn ông chưa bị cái đói năm một nghìn chín trăm sáu mươi biến thành tàn phế, vào người chị. Chị như con chó ăn vụng, mặc cho phía mông bị vùi dập nặng nề, vẫn cố nhịn đau nuốt miếng bánh, rồi lại cố nuốt thêm mấy miếng nữa. Lại nữa, có lẽ niềm vui được miếng ăn mạnh hơn nỗi đau của cưỡng hiếp nên chị hối hả ăn cho bằng hết, mặc cho cơ thể rung chuyển sau mỗi cú huých của Trương Rỗ. Nước mắt chị ràn rụa do phản xạ sinh lý khi được ăn, không hề mang sắc thái tình cảm nào? Có lẽ ăn bánh xong chị mới cảm thấy cái đau phía sau nên đứng dậy ngoảnh lại nhìn, cổ họng đau buốt, phình to như cổ vịt nhồi. Trương Rỗ chưa chịu buông ra, một tay ôm eo chị, tay kia thò vào túi quần lấy ra một cái bánh bẹp dí, quẳng xuống trước mặt chị. Chị cúi người về phía chiếc bánh, Trương Rỗ vẫn nhích theo đằng sau. Khi chị cầm được chiếc bánh thì hắn một tay đè mông chị, tay kia ấn vai chị xuống. Lúc này miệng bận ăn, các bộ phận khác trên cơ thể mặc cho hắn muốn làm gì thì làm, miễn sao không ảnh hưởng tới cái miệng. Cuối cùng, rên lên một tiếng như con thỏ đực sau khi giao phối xong, hắn dán chặt trên mông chị, rùng mình mấy cái như giẫy chết. Kim Đồng cố nhai những cành liễu, cảm thấy đây là loại thức ăn ngon mà người ta không để ý tới. Lúc đầu cậu cảm thấy ngọt, nhưng sau thấy rất chát, không sao nuốt được, cậu hiểu người ta không ăn chúng là có lý. Cậu nhai những cành liễu mà nước mắt ràn rụa, qua màn nước mắt, cậu thấy câu chuyện phía trước đã kết thúc, Truơng Rỗ đã lỉnh đi, Kiều Kỳ Sa thì nhìn quanh bằng cặp mắt đờ đẫn. Sau đó, đầu chị va phải một cành liễu, chị cũng bỏ đi.

Kim Đồng hai tay ôm chặt cây liễu, tì cái đầu như mụ đi vào thân cây nút nẻ.

Mùa xuân dài lê thê sắp kết thúc, lúa tiểu mạch xuân đã sắp chín, hình như đây là giai đoạn cuối cùng của những năm tháng đói khát. Trên phân phối một đợt bánh đậu nhằm lấy lại sức, chuẩn bị cho vụ thu hoạch, mỗi người được bốn lạng. Giống như Hoắc Lệ Na ăn nhiều nấm độc bị chết, Kiều Kỳ Sa cũng chết vì ăn nhiều bánh đậu.

Kim Đồng trông thấy thi thể Kiều Kỳ Sa bụng trương phềnh như cái chĩnh. Lúc phân phối bánh đậu, mọi người xếp hàng, Trương Rỗ và một cấp dưỡng nữa đứng cân. Kiều Kỳ Sa xếp hàng trước Kim Đồng. Cậu trông thấy chị đã lĩnh được một suất, còn trông thấy Trương Rỗ nháy mắt với chị. Mùi thơm của bánh đậu khiến cậu không có thì giờ để ý đến chuyện khác. Mọi người dữ như chó sói, chỉ vì cân tươi hay không mà đánh nhau với cấp dưỡng. Kim Đồng mơ hồ cảm thấy Kiều Kỳ Sa được Trương Rỗ chia cho nhiều hơn mà cảm thấy đau xót. Nông trường bộ đã nói rõ bốn lạng là khẩu phần của hai ngày, nhưng mọi người trùm chăn ăn sạch trong nháy mắt, không sót một mẩu vụn. Đêm hôm ấy mọi người chạy ra giếng uống nước lã. Bánh đậu nở trong dạ dày khiến Kim Đồng có cảm giác no nê đã lâu chưa được hưởng. Cậu ợ liên tục, đánh trung tiện liên tục, hơi ở trên và ở dưới cùng có mùi đậu. Sáng sớm hôm sau, mọi người xếp hàng trước nhà xí, bánh đậu khô đã làm hại những con người đói khát! Mọi người không biết Kiều Kỳ Sa ăn hết bao nhiêu bánh dậu, Trương Rỗ thì biết nhưng không bao giờ hắn nói ra. Kim Đồng cũng không thích nói xấu chị Bảy đã quá cố. Cậu nghĩ, không lâu nữa, tất cả sẽ không chết trương thì chết đói, đã vậy thì nghĩ ngợi mà làm gì.

Do nguyên nhân chết đã rõ, nên không làm án. Trời nóng nực, xác chết không thể để lâu, nông trường lệnh cho chôn ngay, không quan tài, không hành lễ. Các nữ phái hữu lụa ra mấy chiếc quần áo còn coi được định thay cho Kiều Kỳ Sa, nhưng khi nhìn thấy cái bụng to tướng và dòng nước hôi hám rỉ ra bên mép chị, mọi người đành thôi. Bọn phái hữu nam lượm về mảnh vải bạt rách của đội cày bỏ ngoài đồng, bó chân lại, buộc túm hai đầu bằng dây thép, đặt chị lên chiếc xe ba gác kéo ra vạt cỏ tranh phía tây bãi pháo, đào huyệt chôn chị bên cạnh Hoắc Lệ Na. Phía sau là mộ Long Thanh Bình, trong mộ chôn bộ xương, mảnh xương sọ có vết đạn đã bị viên pháp y đem đi...

8

Kim Đồng trông thấy thằng con trai Lại Đệ và Hàn Chim đang ở trong chiếc nôi treo dưới cây ngô đồng. Phía trên cái nôi là mái che mưa nắng lợp bằng giấy dầu và những mảnh ni-lông.

Thằng bé đứng khom khom, hai tay bám mép nôi. Nó tuy gầy và đen, nhưng vào cái thời ấy, nó là một đứa trẻ khỏe mạnh.

- Cháu là ai vậy? - Kim Đồng bỏ cái bọc quần áo xuống, hỏi - Cháu không nhận ra à? Ta là cậu của cháu

- Ngoại ơi, ngoại... thằng nhỏ ngọng nghịu kêu lên, rớt dãi chảy đầy cằm.

Cậu ngồi trên ngưỡng cửa đợi mẹ về. Từ khi bị điều đi nông trường, đây là lần đầu tiên cậu về nhà và không trở lại nông trường nữa. Nghĩ đến hàng vạn mẫu tiểu mạch xuân sắp sửa thu hoạch mà trong lòng sôi sục! Gặt hái xong, cán bộ nhân viên nông trường được ăn cơm. Vậy mà đúng lúc này, cậu và mười mấy thanh niên bị giảm biên một cách tàn nhẫn. Nhưng hơn chục ngày sau, nỗi uất hận của cậu trở nên vô nghĩa, vì giữa lúc hai chiếc máy kéo ĐT màu đỏ được điều ra ruộng chuẩn bị gặt hái, thì một trận mưa đá dữ dội vùi tất cả tiểu mạch xuống bùn.

Thằng nhỏ không còn chú ý đến cậu ngồi trên ngưỡng cửa. Mấy con vẹt xanh đỏ từ trên cây ngô đồng sà xuống bay quanh chiếc nôi. Thằng nhỏ đưa mắt nhìn theo những con vẹt bay lượn. Những con vẹt tỏ ra không hề sợ nó, con thì đậu trên vành nôi, con đậu trên vai thằng nhỏ còn há cái mỏ khoằm cọ xát vào vành tai nó. Lũ vẹt kêu lên những tiếng khàn khàn, thằng nhỏ bắt chước kêu như vẹt.

Kim Đồng ngồi ngẩn ngơ, mắt mở mà chẳng nhìn vào đâu Chân cậu phơi nắng, cảm giác rân rân như kiến bò. Cậu nhớ lại ánh mắt lạ lùng của ông lái đò họ Hoàng khi cậu ngồi đò sang sông. Cầu Thuồng Luồng bị phá hủy hoàn toàn trong mùa lũ năm ngoái, công xã nhân dân cho đặt bến đò này để tiện việc đi lại. Cùng chuyến đò có một anh lính trẻ rất hay chuyện, nói giọng miền Nam. Anh ta chìa bức điện trước mặt lão Hoàng, giục:

- Bác cho sang ngay đi! Bác xem này, điện nói trước mười hai giờ phải có mặt ở đơn vị, tình hình đặc biệt, quân lệnh như sơn, báe ơi!

Trước thái độ nôn nóng của anh lính trẻ, ông già lái đò vẫn trơ ra như một hòn đá. Ông ngồi so vai ở mũi thuyền như một con chim bói cá, mắt nhìn dòng nước xiết. Sau đó có thêm hai cán bộ công xã lên huyện làm việc trở về. Họ nhảy lên thuyền, giục:

- Lão Hoàng, bọn tôi phải về ngay để truyền đạt tinh thần của hội nghị?

Lão Hoàng lầu bầu:

- Đợi một lát, đợi một lát nữa?

Một chị ôm cây đàn tì bà bước lên thuyền, ngồi đối diện với Kim Đồng. Mặt thoa phấn hồng, nhưng phấn không che khuất được nước da khô héo trên mặt chị. Hai cán bộ công xã lẳng lơ nhìn chị, một trong hai người lên giọng đàn anh hỏi:

- Cô người thôn nào?

Chị ngửng đầu nhìn thẳng vào mặt người hỏi, cặp mắt đen trầm uất, cụp xuống từ lúc bước lên thuyền, đột nhiên lóe lên những tia lửa hận thù. Kim Đồng chợt sởn tóc gáy, cậu cảm thấy trong đôi mắt có vẻ già nua của người phụ nữ này toát lên sức mạnh chinh phục tất cả cánh đàn ông mà không một người đàn ông nào chinh phục nổi chị. Những thớ thịt trên mặt chảy xệ, cổ đầy nếp nhăn, nhưng những ngón tay thon dài rất đẹp, móng tay nhẵn bóng chứng tỏ tuổi của chị không đúng với cái vẻ già nua trên mặt, trên cổ chị. Chị liếc xéo ông cán bộ công xã, hai tay ôm chặt cây đàn tì bà như ôm con nhỏ. Lão Hoàng đứng trên đuôi thuyền, dùng sào trúc đẩy thuyền rời bến, quay mũi thuyền hướng ra sông, rồi chống sào đẩy thuyền đi, mũi thuyền rẽ nước trắng xóa. Chiếc thuyền như một con cá khổng lồ trôi xuôi theo một đường xiên. Chim én chao trên mặt nước, mùi tanh tanh của cỏ nước bốc lên. Mọi người ngồi yên không nói gì, ông cán bộ lắm điều không chịu được cảnh im lặng, hỏi Kim Đồng:

- Cậu có phải cái anh... nhà Thượng Quan đấy không?

Kim Đồng nhìn ông ta bằng ánh mắt lạnh như băng, thừa hiểu những lời ông ta chưa nói ra miệng. Thế là cậu vận dụng phương thúc quen dùng, nói:

- Đúng, tôi là Thượng Quan Kim Đồng, con lai?

Ông cán bộ công xã tỏ vẻ lúng túng trước sự thẳng thắn và thái độ tự khinh miệt của Kim Đồng. Sự ngạo mạn đặc hữu của con người lĩnh lương nhà nước ăn cơm thiên hạ bị một đòn đả kích, khiến ông ta mất cân bằng, ông quay sang thao thao bất tuyệt về đấu tranh giai cấp để chửi bóng chửi gió:

- Chú nghe tin này chưa? - Ông ta quay sang hỏi anh lính trẻ đang sốt ruột - Quân và dân Hoàng Đảo vừa tóm được bọn đặc vụ Mỹ-Tưởng lén lút xâm nhập đất liền. Chúng đem theo điện đài, thuốc độc, bom nổ chậm, định bỏ thuốc độc vào giếng, thuốc này cục độc, chỉ bằng con nhộng đủ giết chết hai con ngựa? Chúng còn định phá cầu, làm nổ tung đường sắt, lật nhào các đoàn tàu! Bom nổ chậm là do Mỹ chế tạo, sức nổ mạnh, chỉ bằng hạt quả đào đã tương đương với một tấn TNT! Bọn này vừa cập bờ đã rơi vào thiên la địa võng?

Anh lính trẻ xúc động xoa xoa tay, chỉ hận nỗi không có cánh bay ngay về đơn vị. Ông cán bộ công xã cố ý không nhìn Kim Đồng, chỉ chú ý những giọt nước rớt tong tỏng trên cây sào của lão Hoàng, nói:

- Nghe nói quá nửa số đặc vụ này là người vùng đông bắc Cao Mật, đều là tay chân của Tư Mã Khố. Những thằng cha có nợ máu với dân này được cố vấn Mỹ huấn luyện. Lão Hoàng, lão có biết tên cố vấn Mỹ ấy là ai không? Không đoán ra đâu! Đúng ra là lão đã trông thấy tên Mỹ đó. Nó chính là Bác-bít, cái tên đã từng cùng với Tư Mã Khố làm mưa làm gió ở vùng Cao Mật, cái tên đã chiếu phim ấy. Con vợ thối thây của nó còn mở tiệc tiễn chân bọn đặc vụ, tặng mỗi tên một đôi giày thêu...

Người phụ nữ ôm cây đàn tì bà nhìn trộm Kim Đồng. Cậu cảm nhận đặc ánh mắt như dò hỏi của chị ta, và còn thấy rõ những mụn nhỏ đầy mặt, son phấn không thể che lấp được. Bàn tay chị ta run run trên hộp đàn. Ông cán bộ công xã vẫn thao thao bất tuyệt:

- Chú là bộ đội thì đây là lúc lập công, chỉ cần tóm được một tên đặc vụ là coi như cả đời được bảo hiểm.

Anh lính trẻ lôi bức điện ra khoe:

- Cháu cũng đoán là thời cơ hành động đã tới, vậy mới hoãn cưới, đi suốt đêm trở về đơn vị.

Tối qua có ba phát pháo hiệu trên núi Trâu Nằm - Ông cán bộ công xã nói - có người bảo đó là sao đổi ngôi. Nhận thức về kẻ địch như vậy thì lơ mơ quá?

Ông quay sang hỏi anh cán bộ công xã ngồi bên:

- Chú Hứa này, chú có nghe nói về chuyện mụ giáo viên thể dục trường trung học số 2 chưa?

Anh cán bộ tên là Hứa lắc đầu. Ông cán bộ nói:

- Mụ khoét rỗng quyển Từ Hải, giấu khẩu súng lục trong đó. Còn chiếc điện đài bé tí của mụ thì chắc là các vị không đoán ra mụ giấu ở đâu. Mụ giấu trong vú, đầu vú chính là điện cực, tóc trên đầu là ăng ten, do vậy mà công an lục soát rất lâu vẫn không tìm ra. Bọn đặc vụ này có hàng trăm cách, vì vậy nói chúng tham sống sợ chết là không đúng, rạch vú ra, nhét điện đài vào kinh khủng thật!

Thuyền cập bến, anh lính trẻ nhảy lên bờ đi luôn. Người phụ nữ ôm đàn tì bà rụt rè nhìn Kim Đồng, hình như muốn nói với cậu điều gì đó. Ông cán bộ công xã nghiêm giọng bảo:

- Chị đi cùng chúng tôi đến công xã! Chị luống cuống:

- Sao thế? Vì sao tôi phải đến công xã?

Ông cán bộ công xã giật cây đàn tì bà trong tay chị lắc lắc bên trong có tiếng lạo xạo. Chị xúc động đến nỗi mặt đỏ bừng, sống mũi ngoằn ngoèo như con giun giật giật.

- Điện đài? - Ông cán bộ công xã mừng rỡ kêu lên - không là điện dài thì là súng lục? - Chị phụ nữ chồm tới định chớp lại cây đàn, nhưng ông cán bộ đã né sang một bên, khiến chị giằng hụt.

Chị tức tối nói:

- Trả tôi đây!

- Trả hả? - Ông cán bộ cười ranh mãnh - trong này giấu cái gì?

Chị ấp úng:

- Đồ dùng của phụ nữ!

- Đồ dùng của phụ nữ! Đồ dùng của phụ nữ mà phải giấu trong hộp đàn? - Ông ta kêu lên - Nữ công dân, hãy theo chúng tôi về công xã!

Nét mặt buồn rầu của chị thoắt cái trở nên đanh đá, chị chửi:

- Biết điều thì trả lại cho bà, bà còn lạ gì cái trò cướp cạn của bọn mày

- Chị này làm gì mà dữ thế? - Ông cán bộ chột dạ hỏi. - Làm gì thì ông không cần biết, trả lại cây đàn cho tôi!

Ông cán bộ nói:

- Tôi không có quyền trả lại chị, phiền chị về công xã!

Người phụ nữ chửi:

- Giữa ban ngày ban mặt mà dám cướp của người ta, ngay giặc Nhật cũng không dám như các ông! Ông cán bộ công xã chạy như bay về phía trụ sở công xã thiết lập tại khu nhà Tư Mã Khố. Người phụ nữ không còn cách nào khác, vừa đuổi theo vừa chửi:

- Đồ ăn cướp, quân lưu manh, đồ giòi bọ!

Kim Đồng có linh cảm rằng, người đàn bà ôm cây đàn tì bà có mối liên hệ nào đó với gia đình Thượng Quan. Cậu điểm rất nhanh trong đầu những phụ nữ trong nhà cậu Thượng Quan Lai Đệ chết rồi. Thượng Quan Chiêu Đệ chết rồi. Thông Quan Lãnh Đệ chết rồi. Thượng Quan Cầu Đệ chết rồi. Thượng Quan Phán Đệ đã biến thành Mã Thụy Liên, còn sống nhưng coi như đã chết. Còn lại chỉ có Thượng Quan Trọng Đệ, Thượng Quan Niệm Đệ và Thượng Quan Ngọc Nữ. Người phụ nữ này không phải Niệm Đệ. Niệm Đệ người thanh mảnh, cổ cao, khuôn mặt gọn mà xinh, hàm răng như ngọc. Mà người phụ nữ này thì răng vàng khè, đầu thô, miệng rộng, hai mép trễ xuống một cách đáng sợ khi chùi, mắt lóe lên những tia xanh biếc như mắt mèo. Người phụ nữ này càng không phải Ngọc Nữ. Ngọc Nữ bị thong manh, mắt nguyên vẹn mà không nhìn thấy gì. Đây chỉ có thể là chị Tưởng Đệ, người đã tự bán mình, đã hy sinh to lớn cho nhà Thượng Quan. Nhưng còn cây đàn tì bà?

Giữa lúc cậu đang rối như mớ bòng bong về cây đàn tì bà, thì bà Lỗ gầy như một bộ xương đồ sộ biết đi, bước vào cổng. Cậu vừa nghe thấy tiếng cài then thì đã thấy mẹ đi tắt qua gian chái chạy tới, người cứng đơ. Cậu cất tiếng gọi mẹ, những giọt nước mắt buồn tủi đầm đìa trên mặt. Mẹ hình như ngạc nhiên nhưng không nói gì, tay bịt miệng, mẹ chạy tới chỗ chiếc bồn gỗ đầy nước dưới gốc cây hạnh thì quì xuống, hai tay bám mép bồn, cổ vươn dài, miệng há to, những hạt đậu nối đuôi nhau rơi xuống nước lõm bõm. Nghỉ xả hơi mấy phút, bà nhìn con trai bằng đôi mắt ướt nhèm, nói câu gì đó không rõ, rồi lại cúi xuống ọe tiếp. Những hạt đầu nôn ra lần sau trộn lẫn với dịch dạ dày, dính nhơm nhớp, từng cục rơi xuống. Cuối cùng, sau khi đã nôn hết, bà khỏa tay vào bồn bốc những hạt đậu lên xem, nét mặt tỏ ra bằng lòng.

Khi đó bà mới bước tới chỗ con trai, ôm chặt lấy thân hình cao to nhưng yếu đuối của con.

- Con trai của mẹ, sao con đi biền biệt thế, có năm dặm đường mà không về thăm nhà lấy một lần?

Mẹ hỏi băng giọng trách móc, nói luôn:

- Con đi được ít hôm thì mẹ có việc làm. Công xã thành lập tổ xay xát, chính là cái nhà xay của nhà Tư Mã Khố, gỡ hết các cánh quạt gió, dùng sức người đẩy cối. Mẹ nhờ Đỗ Văn Đẩu xin cho vào làm, một ngày công được nửa cân khoai khô. Không có công việc này thì bây giờ không còn trông thấy mẹ nữa, ngay thằng Vẹt cũng không còn?

Kim Đồng bây giờ mới biết thằng nhỏ con Hàn Chim tên là Vẹt. Nó đang khóc ề à trong nôi.

- Con bế nó xuống đi, mẹ làm cơm cho mà ăn!

Mẹ rửa đậu trong bồn mấy lần bằng nước sạch, đựng trong một cái bát, đầy có ngọn. Nhận ra sự khác lạ ở cậu mẹ bảo:

- Con ơi, mẹ cực chẳng đã đấy thôi, con đừng dè bỉu mẹ Cả đời mẹ phạm rất nhiều sai lầm, nhưng ăn cắp thì lần này là lần đầu!...

Cậu dựa cái đầu to tướng, tóc tai bờm xờm vào vai mẹ, đau xót nói:

- Mẹ đừng nói nữa... Đây không phải là ăn cắp! Có nhiều chuyện còn xấu hổ gấp trăm lần ăn cắp ấy chứ?

Mẹ lôi trong hốc lò cái cối giã bằng tay, giã nát những hạt đậu ra, rồi cho nước lạnh vào quấy thành hồ, đưa cho Kim Đồng một bát:

- Ăn đi con, không dám đốt bếp, hễ thấy khói là cán bộ xộc đến kiểm tra. Họ phát hiện ra là lôi thôi to?

Kim Đồng bê bát lên, cổ họng đau buốt. Mẹ dùng chiếc muỗng gỗ đã bị sứt mẻ, đút cho thằng Vẹt ngồi ngay ngắn trên ghế băng, ăn từng muỗng ngon lành.

- Sợ bẩn hả? - Mẹ nhìn con trai, vẻ áy náy.

Nước mắt Kim Đồng rơi thánh thót trong bát hồ, cậu nói:

- Không, con có sợ đâu?

Cậu húp sùm sụp, chỉ trong mấy phút, bát hồ đã hết nhẵn.

- Mẹ, làm sao mẹ lại nghĩ ra được cách này? - Kim Đồng nhìn mái đầu bạc trắng và không ngừng run rẩy của mẹ, đau xót hỏi.

Lúc đầu giấu trong bít tất, ra cổng họ khám người phát hiện ra, sỉ nhục mình như con chó. Về sau, mọi người đều ăn tại chỗ. Một bận mẹ về nhà thì bị nôn, đêm ấy trời mưa, sáng ra trông thấy những hạt đậu, thằng Vẹt nhặt lên ăn. Vậy mới nẩy ra sáng kiến. Lần đầu tiên muốn nôn thì phải lấy đũa ngoáy cổ họng, cảnh đó thì..., bây giờ quen rồi, cúi xuống là nôn ra. Bụng mẹ bây giờ chăng khác cái bao đựng lương thực...

Rồi mẹ hỏi thăm về những chuyện ở nông trường và những gì cậu đã trải qua trong hơn một năm nay. Cậu nói hết với mẹ, không chút giấu giếm, cả chuyện ngủ với Long Thanh Bình, cái chết của Cầu Đệ, cái chết của Lỗ Lập Nhân và sự thay tên đổi họ của Phán Đệ. Mẹ ngồi im rất lâu, mãi khi trăng lên, ánh trăng rọi qua cửa sổ, mẹ mới nói:

- Con không làm gì sai, hồn phách cái cô họ Long ấy đã được an ủi. Coi như cô ấy đã là người của nhà ta. Đợi khi tình hình khá lên, ta sẽ đưa hài cốt của cô ấy cùng với hài cốt của chị Bảy về đây!

Mẹ bế thằng Vẹt ngủ vạ ngủ vật lên giường, nói:

- Xưa nhà mình đông đúc như một chuồng dê, vậy mà bây giờ chỉ còn mấy mống này!

Kim Đồng thấp thỏm hỏi:

- Mẹ, chị Tám đâu? Mẹ thở dài nhìn cậu tỏ vẻ xấu hổ, hình như muốn được cậu thông cảm.

Khi Ngọc Nữ đã ngoài hai mươi tuổi, tính nết vẫn như một thiếu nữ nhút nhát, luôn co lại như con nhộng trong kén, chỉ sợ làm phiền người khác. Vào một buổi chiều mùa hạ mưa rả rích, trời chạng vạng tối, chị xót xa lắng nghe những tiếng nôn ọe của mẹ. Sấm ầm ì phía chân trời, gió tuốt lá tơi tả, sét đánh khét lẹt, nhưng những tiếng động đó vẫn không át được tiếng nôn ọe của mẹ, nhưng mùi vị đó không át được mùi vị mà mẹ nôn ra. Tiếng lõm bõm của lương thực rơi xuống nước khiến chị run bắn người, mong cho cái tiếng ấy sớm chấm dứt, lại mong nó cứ tiếp tục ra. Chị ớn cái mùi của dịch vị có lẫn mùi máu khi mẹ nôn, đồng thời lại biết ơn cái mùi khó chịu ấy. Tiếng chày giã côm cốp xáo trộn tâm can chị. Khi mẹ đưa cho chị bát hồ nồng nặc mùi đậu sống, nước mắt chị rơi lã chã, cái miệng xinh xinh giật giật, một thìa đưa vào miệng là một hàng nước mắt trào ra. Ngàn vạn lời cảm ơn mẹ chứa chất trong lòng nhưng chị không nói ra miệng.

Sáng sớm ngày mồng Bảy tháng Bảy năm ngoái, khi mẹ đi làm, Ngọc Nữ bỗng hỏi:

- Mẹ, khuôn mặt mẹ như thế nào? - vừa hỏi chị vừa giơ hai cánh tay mảnh mai ra:

- Cho con sờ mặt mẹ một tí!

Mẹ thở dài

- Con gái ngốc nghếch của mẹ? Tình cảnh này mà con vẫn thích đùa?...

Mẹ đầu mặt lại gần tay chị để những ngón tay mềm như không xương sờ mó trên mặt. Mẹ ngủi thấy mùi ẩm ướt lạnh tanh trên tay chị, bèn bảo:

- Ngọc Nữ, con đi rửa tay đi, trong ang còn nước đấy!

Mẹ đi làm rồi, chị Tám mò mẫm bước xuống giường. Chị nghe thấy thằng Vẹt trong chiếc nôi treo dưới tán cây đang líu lô hát, đàn chim ríu rít trên ngọn cây, chim én làm tổ dưới mái hiên. Chị lần theo mùi thơm tinh khiết của nước sạch, đến bên chiếc ang, khuôn mặt xinh đẹp in trong nước, giống như Kim Đồng tìm hình bóng Natasa, chỉ có khác là chị không nhìn được khuôn mặt chị. Rất ít người nhìn thấy khuôn mặt người con gái này của nhà Thượng Quan. Mũi dọc dừa, da trắng như trứng gà bóc, tóc vàng mềm mại, cổ thon dài như thiên nga giỡn nước! Chị cảm thấy nước lạnh thấm ướt mũi, tiếp đến là môi rồi đến toàn bộ đầu tóc dìm trong nước. Khi mùi tanh tanh mằn mặn xộc vào mũi, chị chợt tỉnh, ngẩng đầu lên. Tai ù, mũi vừa cay vừa xót. Trong tai có hai tiếng bục bục, đó là màng nước trong tai vỡ ra khiến chị nghe thấy tiếng kêu khàn khàn của những con vẹt và tiếng gọi dì Tám của thằng Vẹt. Chị đến dưới gốc cây, giơ tay sờ khuôn mặt nhem nhuốc đây mũi dãi của nó, rồi lẳng lặng lần bước ra cổng.

Mẹ dùng mu bàn tay quệt nước mắt, nói nhỏ:

- Chị Tám con bỏ đi vì sợ là gánh nặng cho mẹ!... Mù lòa như thế đi đâu được? Dưới giếng, ngoài vực đều không có... Bọn con gái nhà Thượng Quan số phận đều hẩm hiu, thì làm sao chị Tám con có cuộc đời sung sướng?

Kim Đồng định an ủi mẹ, nhưng không tìm được câu chữ thích hợp. Cậu hiểu sâu sắc rằng, mắt mở thao láo mà còn chẳng ra gì huống hồ mù cả hai mắt? Cậu vờ ho rất to để che giấu nỗi đau trong lòng.

Giữa lúc đó, bên ngoài có tiếng đập cổng, mẹ giật mình đánh thót, vội giấu biến chiếc cối giã đậu, bảo:

- Kim Đồng, con ra mở cửa xem ai!

Kim Đồng mở cổng, người phụ nữ ôm đàn tì bà trên thuyền hồi nãy đang đứng trước cổng, dáng ngại ngùng. Chị hỏi nhỏ:

- Kim Đồng phải không?

Tưởng Đệ đã trở về.

9

Năm năm sau. Một sáng mùa đông, Tưởng Đệ đang nằm trong chái đông chờ chết, bỗng nhổm dậy. Do bệnh cũ tái phát, mũi chị đã thối rữa, chỉ còn là hai cái hốc đen ngòm, hai mắt cũng đã bị mù, mớ tóc dài mượt rụng gần hết, những sợi tóc còn lại ngả màu chì, che không kín cái đầu khô héo. Chị lẩy bẩy đi tới trước rương, bắc ghế đẩu trèo lên lấy cây dàn tì bà đã vỡ hộp xuống, rồi vẫn cái dáng lẩy bẩy như thế, chị lần ra sân. ánh nắng chiếu trên cơ thể người đàn bà lở loét cùng mình và bốc lên mùi hôi thối này. Chị huống cặp mắt mù về phía mặt trời, một dòng nước đặc như keo từ hai hốc đen chảy ra. Đang ngồi đan chiếu cói cho đội sản xuất, mẹ vội đứng dậy, giọng đau xót:

- Con gái khốn khổ của mẹ! Con ra đây làm gì?

Tưởng Đệ co ro ngồi xuống chân tường, duỗi thẳng hai chân đầy vẩy như vẩy cá. Chị cởi trần không chút thẹn thùng, rét buốt cũng không xâm hại được chị. Mẹ chạy vào trong nhà lấy ra tấm chăn chiên đắp lên hai chân chị.

- Con ơi!... Đời con thật... Mẹ gạt nước mắt, tiếp tục đan.

Ngoài đồng vọng lại tiếng hô khẩu hiệu của bọn học sinh tiểu học. Chúng hô Tấn công, tấn công, tấn công nữa kẻ thù giai cấp, tiến hành đến cùng cuộc đại cách mạng văn hóa vô sản. Hô đến khản giọng, rầm rộ hang cùng ngõ hẻm, vẽ những tranh rất trẻ con lên tường mọi nhà bằng phấn màu, những khẩu hiệu dữ dội, lỗi chính tả sai hàng đồng.

Tưởng Đệ bật cười khanh khách. Bằng một giọng khê đặc, chị nói:

- Mẹ, con đã ngủ với hàng vạn người đàn ông, đã kiếm được ối tiền, tất cả đều chuyển thành vàng, đá quí kim cương, đủ dùng cho cả đời. Chị thò tay vào cái hộp đàn đã bị ông cán bộ công xã chọc thủng một lỗ to tướng, nói tất cả để trong này. Mẹ xem, viên ngọc to này là viên dạ minh châu của một thương gia Nhật tặng con, mẹ đính nó trên mũ, đi đêm không cần đèn lồng... Đây là viên ngọc mắt mèo, con đổi bằng mười chiếc nhẫn... Đây là chiếc xuyến vàng, cụ Hùng cho cái lần phá trinh... Chị kể ra từng chiếc mà nay chỉ còn trong ký ức, điểm từng chiếc, bảo:

- Mẹ lấy cả đi, có bấy nhiêu thứ thì còn lo gì nữa, viên ngọc lục bảo này chí ít cũng mua được một tấn bột mì, chiếc kiềng cổ này đáng giá một con la... Mẹ ơi, lúc sa vào nhà chúa con đã thề rằng, đã bán mình thì một lần cũng là bán, vạn lần cũng là bán, chỉ cần các chị em con được sung sướng, thì tấm thân này có sá gì?... Con đi đâu cũng đem theo cây đàn tì bà này... chiếc dây chuyền này là của Kim Đồng, đeo nó vào sống lâu trăm tuổi. Mẹ, những đồ quí giá này mẹ nhớ cất cho kỹ, đừng để trộm nó lấy mất, đừng để Bần nông đoàn đấu tranh tịch thu mất!... Chúng là mồ hôi nước mắt của con. Mẹ cất kỹ cả chưa?

Những dòng nước mắt già nua chảy tràn mặt mẹ. Mẹ không ngại bẩn, ôm chặt Tưởng Đệ khóc không thành tiếng:

- Con gái yêu của mẹ, tim mẹ tan nát vì con, còn nỗi khổ nào trên đời này hơn nỗi khổ của con!...

Kim Đồng bị Hồng vệ binh đánh chảy máu đầu khi quét rác ngoài đường. Mặt bê bết máu, cậu đứng dưới tán cây ngô đồng nghe chị Tư kể mà trong lòng đau nhói từng cơn. Trên cổng nhà cậu, Hồng vệ binh treo một lô biển: Nhà Hán gian, Sào huyệt của bọn Hoàn hương đoàn, Nhà thổ, v.v... Giờ đây nghe chị Tư kể, cậu nghĩ rằng, nên đổi tên nhà thổ thành nhà báo hiếu hoặc nhà liệt nữ mới đúng. Do bệnh tật của chị, cậu lâu nay xa lánh chị, lúc này cậu hối hận quá. Cậu đi tới nắm chặt bàn tay lạnh giá của chị, nói:

- Chị Tư... cảm ơn chị đã cho em dây chuyền... Em đã... đeo vào cổ rồi đây này!...

Nét vui mừng chợt lóe lên trong đôi mắt mù, chị nói:

- Đeo rồi hả? Em không ngại gì chứ? Đừng nói với vợ em là chị... Cho chị sờ xem có vừa không nào...

Vào những giây phút cuối cùng, từng đàn giòi vội vã rời khỏi thân thể chị. Chúng cảm thấy máu chị đã đông lại không hút được nữa.

Trên khuôn mặt chị nở một nụ cười xấu xí. Chị nói, giọng yếu dần:

- Cái đàn của tôi... để tôi dạo một khúc mọi người cùng nghe...

Bàn tay chị rờ rẫm một hồi trên cây đàn rồi buông thõng, đầu ngoẹo sang một bên.

Mẹ khóc mấy tiếng rồi lau nước mắt đứng lên:

- Con ơi, thế là con đã trả hết nợ rồi

Sau khi chôn cất chị Tư được hai hôm, chúng tôi vừa cảm thấy rỗi rãi được đôi chút thì tám phần tử phái hữu của nông trường Thuồng Luồng luân phiên khiêng thi thể chị Phán Đệ đặt trên cánh cửa gỗ ván nhà tôi. Tiểu đầu mục tay đeo băng đỏ, gõ cửa quát to:

- Nhà Thượng Quan ra mà nhận xác!

Mẹ bảo anh ta:

- Nó không phải con gái tôi.

Tiểu đầu mục chính là cậu thanh niên trong đội canh tác ở nông trường, có biết Kim Đồng. Anh ta đưa cho Kim Đồng một mảnh giấy, nói:

- Đây là thư của chị cậu để lại. Vì tinh thần nhân đạo cách mạng, chúng tôi mới đưa chị ta về. Cậu không tưởng tượng nổi chị ta nặng đến như thế nào đâu, bọn phái hữu oằn cả lưng!...

Kim Đồng nhìn cánh phái hữu tỏ vẻ áy náy. Cậu mở tờ giấy Phán Đệ viết: Tôi là Thượng Quan Phán Đệ, không phải Mã Thụy Liên. Tôi tham gia cách mạng hai mười năm, không ngờ kết cục lại đến nông nỗi này. Tôi tha thiết đề nghị quần chúng cách mạng đưa xác tôi về trấn Đại Lan, giao cho mẹ tôi là Thượng Quan Lỗ thị

Kim Đồng bước tới chỗ đặt thi thể Phán Đệ cúi xuống lật tờ giấy che mặt. Mắt Phán Đệ lòi ra ngoài, lưỡi thè ra quá nửa. Cậu vội vàng đậy tờ giấy lại, quì sụp xuống lạy tiểu đầu mục và tám người phái hữu:

- Phiền các ông khênh giúp đến nghĩa trang, gia đình tôi không còn người nữa!

Lúc này mẹ mới kêu gào ầm ĩ.

Sau khi chôn cất chị Năm, Kim Đồng kéo lê chiếc xẻng vừa về đến đầu ngõ liền bị một toán Hồng vệ binh túm chặt. Họ chụp lên đầu Kim Đồng một chiếc mũ hình chóp bằng giấy bồi. Cậu lắc đầu một cái, chiếc mũ rơi xuống đất. Cậu trông thấy tên mình viết trên mũ, bị gạch chéo bởi hai gạch màu đỏ hình chữ nhân, bên cạnh viết: Tội phạm giết người hiếp xác chết. Hồng vệ binh vụt Kim Đồng một gậy vào mông, không đau mấy vì có quần bông, nhưng Kim Đồng vẫn kêu toáng lên. Hồng vệ binh nhặt chiếc mũ lên, lệnh cho Kim Đồng nhún thấp chân xuống như Võ Đại Lang trên sân khấu để chúng chụp mũ vào đầu cậu, ấn lút xuống. Một hồng vệ binh mặt mũi hung tợn, quát:

- Giữ lấy mũ, còn rơi nữa tao sẽ đánh què chân mày!

Kim Đồng hai tay giữ mũ, lảo đảo bước đi. Cậu trông thấy có rất nhiều người cũng bị chụp mũ trước cổng trụ sở công xã, trong đó có Tư Mã Đình da vàng bủng, bụng to như cái trống; có ông hiệu trưởng trường tiểu học; trưởng phòng giáo vụ trường trung học; năm sáu ông cán bộ công xã mới đây còn diễu võ dương oai, và cả một số người năm xưa đã từng bị Lỗ Lập Nhân bắt quì trên khán đài, cũng đều đội mũ cao đứng ở đó. Kim Đồng trông thấy mẹ. Đứng bên mẹ là thằng Vẹt bé tí tẹo, bên cạnh thằng Vẹt là Kim-Một-Vú. Mũ của mẹ có dòng chữ: Đồ giòi bọ Thượng Quan Lỗ thị. Thằng Vẹt không bị chụp mũ. Kim-Một-Vú đầu đội mũ cao, cổ đeo một chiếc giày Hồng vệ binh khua chiêng gõ trống, áp giải bọn đầu trâu mặt ngựa đi diễu phố. Hôm ấy là phiên chợ cuối cùng của năm, người đông như kiến, một số người ngồi xổm bên dương bày bán một số lương thực phụ như khoai lang, rau cải bẹ và giày cỏ. Tất cả mọi người đều mặc đồ đen, những chiếc áo bông bóng loáng vì cáu bẩn do mũi dãi, mồ hôi dầu và bụi bặm bám cả một mùa đông. Những người có tuổi phần lớn dùng dây thừng làm thắt lưng. Cách ăn mặc của mọi người gần như không khác là bao so với mười lăm năm về trước. Những người đi chợ Tuyết quá nửa bị chết trong ba năm liên tiếp mất mùa, người nào sống sót cũng đã trở thành già nua. Cá biệt có người còn nhớ được phong độ của chàng Công tử Tuyết cuối cùng. Khi ấy không ai ngờ công tử Tuyết lại trở thành tên hiếp xác chết. Các đầu trâu mặt ngựa đờ đẫn cất bước, Hồng vệ binh dùng gậy vụt tới tấp vào mông họ, nhưng chỉ đánh tượng trưng, không đau.

Chiêng trống rầm trời, tiếng hô khẩu hiệu đinh tai nhức óc dân chúng chỉ trỏ, bàn tán sôi nổi. Kim Đồng cảm thấy có ai dẫm vào chân nhưng cậu không để ý. Nhưng khi bị dẫm lần thứ hai thì cậu liếc sang bên, thấy Kim-Một-Vú đầu cúi nhưng mắt ngước lên nhìn cậu, mớ tóc ngả màu rơm phủ lên vành tai đỏ ủng vì lạnh. Cậu nghe thấy chị ta hỏi nhỏ:

- Anh chàng công tử Tuyết chết tiệt? Bao nhiêu phụ nữ mong cậu thì cậu chăng mần, cậu lại đi mần cái xác chết?

Kim Đồng giả vờ không nghe thấy, mắt nhìn xuống đất và gót chân người đi trước.

- Diễu phố xong cậu gặp tôi!

Kim Đồng nghe Kim-Một-Vú nói vậy.

Cậu đang rối như canh hẹ, ngán ngẩm về lời gợi ý không đúng lúc của chị ta.

Tư Mã Đình đi bộ đã vất vả lại dẫm phải miếng gạch vỡ ngã lăn ra. Hồng vệ binh đá vào mông, ông cũng không có phản ứng. Một Hồng vệ binh nhảy lên lưng ông dận mạnh. Một tiếng ục như quả bóng xì hơi vang lên và dòng nước vàng vàng ộc ra từ miệng. Mẹ ngồi xổm xoay mặt ông lại hỏi:

- Ông bác, ông làm sao thế này?

Tư Mã Đình hé cặp mắt đã thất thần nhìn mẹ một thoáng rồi khép lại, không bao giờ mở ra nữa. Hồng vệ binh lôi xác ông sang vệ đường, lăn xuống một cái rãnh. Đoàn người tiếp tục tiến.

Kim Đồng thoáng nhìn thấy một bóng người thanh mảnh len lỏi giữa đám đông. Cô mặc chiếc áo chẽn nhưng kẻ sọc màu đen, đầu quấn khăn màu cà phê, mặt đeo khẩu trang to bụ, chỉ hở đôi mắt sắc như dao cau. Sa Tảo Hoa rồi, cậu suýt kêu lên. Từ khi chị Cả bị hành quyết Sa Tảo Hoa bỏ nhà đi biệt, thoắt cái đã bảy năm? Trong thời gian đó cậu nghe rất nhiều huyền thoại về cô nữ tặc này, nói rằng cô đánh cắp khuyên tai của phu nhân Xi-ha-núc, cậu cho rằng nữ tặc đó chính là Sa Tảo Hoa. Mấy năm không gặp, nhìn bề ngoài cô đã trở thành một phụ nữ. Trong chợ, giữa đám dân chúng mặc toàn đen, có một số người đeo khẩu trang, đầu quấn khăn. Đó là những thanh niên trí thức về nông thôn đợt đầu tiên. Sa Tảo Hoa trông có vẻ tây hơn những thanh niên trí thức kia. Cô đứng bên cửa quán ăn của hợp tác xã cung tiêu ngó sang bên này. Cô quay mặt về phía ánh nắng, nên đôi mắt cô lấp lánh như pha lê. Hai tay thọc trong túi ngoài chiếc áo nhưng sọc, cùng màu với chiếc quần cũng bằng nhưng kiểu ống túm, kiểu mốt nhất hiện nay. Một ông già từ trong quán ăn chạy ra, lẩn vào đám đầu trâu mặt ngựa, đuổi theo ông ta là hai người đàn ông nói giọng vùng khác. Ông già rét tím cả người, cạp quần bằng vải bông trắng kéo cao đến ngực. Ông lách trong đoàn người, vừa lách vừa nhét từng miếng bánh nướng vào miệng, mắt mũi trợn trừng vì nghẹn. Hai người đàn ông kia tóm được ông. Ông khóc òa lên, bôi mũi dãi vào đầy miếng bánh, than vãn:

- Tôi đói, tôi đói!

Hai người đàn ông ngán ngẩm nhìn miếng bánh rơi dưới đất, một người ngồi xuống, dùng hai ngón tay kẹp miếng bánh lên xem, thái độ tỏ ra bỏ thì thương vương thì tội. Những người xung quanh khuyên anh ta:

- Bạn ơi, đừng lấy lại nữa, thương ông già một tí!

Anh ta ném mẩu bánh xuống trước mặt ông già, nói:

- Đồ khốn, đúng là của nợ! Ăn đi, cho chết nghẹn con chó già đi! Anh ta lấy chiếc khăn tay nhàu nát trong túi ra lau tay rồi bỏ đi. Ông già chạy đến chân tường, ngồi xuống, nhấm nháp từng tí mẩu bánh đầy mũi dãi, tận hưởng mùi vị thơm ngon đã lâu ông không được hưởng.

Cái bóng của Sa Tảo Hoa len lỏi giữa đám đông. Một người đàn ông mặc trang phục công nhân dầu mỏ, đầu đội mũ lông sói rất đẹp, miệng ngậm điếu thuốc lá thơm ra vẻ ta đây, đi ngang như cua xuyên qua dòng người. Thấy mọi người tỏ ra hâm mộ, anh ta càng đắc ý, càng vênh váo. Kim Đồng biết anh ta. Đúng là người tốt vì lụa, lúa tốt vì phân, anh chàng du thủ du thực Phòng Thạch Tiên rách như tổ đỉa trong thôn, vậy mà một chiếc mũ lông sói đã biến anh ta thành người khác. Bộ trang phục công nhân dầu mỏ mặt ngoài bằng vải xanh trong lót bông dày, chỉ nhìn cũng đã thấy ấm. Một thằng lỏi con gầy nhom như khỉ, đũng quần bị rách lời bông như cái đuôi cừu bẩn, áo chẽn bật hết cúc phơi cái bụng màu nâu, tóc rối như tổ quạ. Nó bám theo Phòng Thạch Tiên.

Mọi người chen lấn xô đẩy nhau để cho ấm người. Thằng lỏi đến sát sau lưng Thạch Tiên, nhảy lên giật lấy chiếc mũ đội luôn vào đầu rồi bỏ chạy. Mọi người càng chen lấn nhau hơn, quát tháo ầm ĩ. Phòng Thạch Tiên sờ đầu ngẩn người ra rồi thét lên một tiếng, đuổi theo. Thằng lỏi không chạy nhanh, hình như có ý đợi. Thạch Tiên xông tới, không nhìn đường, mắt chỉ đóng đinh vào chiếc mũ. Anh ta va phải người, bị người ta đẩy bật lại, gạt sang bên, ngật ngưỡng, mắt nảy đom đóm. Mọi người dừng lại xem màn trình diễn, ngay cả các tiểu tướng Hồng vệ binh cũng bỏ mặc đám đầu trâu mặt ngựa đội mũ cao, len lên để xem. Thằng lỏi chạy tới trước cổng xưởng luyện thép của công xã, ở đó có một số bé gái bán lạc rang. Bán lạc rang là phạm pháp, nên bọn chúng rất cảnh giác, sẵn sàng bỏ chạy bất cứ lúc nào. Trước cổng xưởng là một cái đầm rộng, tuy trời lạnh, nhưng nước trong đầm bốc hơi ấm vì nước thải từ lò luyện thép liên tục chảy vào đầm. Thằng lỏi lột mũ trên đầu quẳng ra giữa đầm. Mọi người ngạc nhiên, nhưng sau đó thì hít hà tỏ vẻ thích thú. Chiếc mũ lông sói bập bềnh trên mặt nước, chưa chìm. Phòng Thạch Tiên chay đến nơi, chửi:

- Oắt con, tao thì lột da mày!

Nhưng thằng lỏi thoắt cái đã mất hút. Thạch Tiên nhìn chiếc mũ, mắt chớp chớp ứa ra hai giọt nước. Anh ta loay hoay bên bờ đầm, một người khuyên:

- Chạy về lấy cây sào mà khều!

Người khác lại bảo:

- Đợi lấy được sào thì mười cái mũ cũng đã chìm nghỉm từ đời tám hoánh rồi?

Chiếc mũ đã bắt đầu chìm. Có người kêu lên:

- Cởi quần áo ra, ai vớt được là của người ấy!

Nghe vậy, Phòng Thạch Tiên cuống lên, vội cởi bộ quần áo bông của công nhân dầu mỏ ra, chỉ mặc mỗi chiếc quần lót rồi rón rén lội xuống nước. Nước sâu, chấm vai anh ta. Rồi anh ta vớt được chiếc mũ.

Nhưng khi mọi người dán mắt vào quang cảnh trên đầm thì Kim Đồng trông thấy thằng lỏi kia nhanh như cắt ôm bộ quần áo của Thạch Tiên chạy vào một ngõ nhỏ, rồi cái bóng mảnh mai kia cũng loáng một cái, mất hút theo. Khi Phòng Thạch Tiên ướt luật thuật trèo lên bờ thì chỉ còn lại mỗi đôi giày rách và đôi tất thủng lỗ chỗ. Thạch Tiên chạy vòng quanh, vừa chạy vừa gào:

- Quần áo tôi đâu rồi, quần áo tôi đâu rồi? Rồi chuyển sang khóc lóc thảm thiết. Khi anh ta hiểu rằng đã bị kẻ cắp đánh lừa, cái mũ chỉ là giương bẫy, còn mục tiêu thực sự là bộ quần áo, thì anh ta kêu to:

- Trời ơi, tôi chẳng thiết sống nữa?

Nói rồi anh ta ôm mũ nhảy xuống đầm. Mọi người kêu cứu nhưng không ai chịu cởi quần áo. Gió lạnh thấu xương, giọt nước vừa rơi xuống đã thành băng, tuy nước trong đầm ấm thật đấy, nhưng xuống thì dễ, lên thì khó. Phòng Thạch Tiên quẫy đạp dưới nước, còn quần chúng trên bờ thì chép miệng than thở bọn kẻ cắp đúng là cao thủ.

Hình như mẹ quên là đang bị đi diễu phố. Người mẹ đã từng nuôi cả một đàn con gái, có những chàng rể vua biết mặt chúa biết tên này dám quẳng cái mũ xuống đất, ngật ngưỡng chạy trên đôi bàn chân bé tí, mẹ tới sát mép đầm, giận dữ nhìn những người đứng xem:

- Sao thấy người ta chết mà không cứu?

Mẹ lấy cây chổi có chiếc cán dài bằng trúc ở một cửa hàng gần đấy, chạy tới mép nước trơn như mỡ, gọi to:

- Cháu Phòng, cháu Phòng, sao cháu dại thế? Túm lấy đầu sào để bác kéo lên? Chắc là ở dưới nước chẳng thích thú gì!

hòng Thạch Tiên không muốn chết nữa. Ướt như chuột lột, anh ta run rẩy bò lên bờ, môi thâm tím, ánh mắt hết vẻ vênh váo, miệng lắp bắp nói không thành lời. Mẹ cởi áo dài bông khoác cho anh ta. Mặc chiếc áo của phụ nữ, trông anh ta thật tức cười. Mẹ bảo:

- Cháu đi giày vào rồi chạy ngay về nhà, chạy thật nhanh cho toát mồ hôi ra, nếu không thì chết là cái chắc.

Nhưng tay anh ta cứng đờ ra, mọi người phải xúm lại giúp anh ta đi giày, xốc anh ta dậy bắt chạy nhưng anh ta không chạy được, hai chân kéo lê trên mặt đất.

Mẹ chỉ còn mặc một chiếc áo cánh mỏng, hai tay bắt chéo cho đỡ lạnh, đưa mắt nhìn theo Phòng Thạch Tiên. Đám đông nhìn mẹ bằng con mắt nể trọng. Kim Đồng không tán thành việc làm của mẹ. Cậu nhớ lại, chính thằng cha Phòng Thạch Tiên năm ngoái làm bảo vệ hoa màu cho thôn, mỗi khi ngoài đồng tan tầm, hắn đứng ở đầu thôn lục soát những nguồn đi làm đồng về. Mẹ nhặt được một củ khoai lang trên đường đi, bỏ trong chiếc bị cói Thạch Tiên khám thấy cho là mẹ ăn cắp, mẹ cãi lại, hắn đánh mẹ hai bạt tai chảy máu mũi. Hôm ấy mẹ cũng mặc chiếc áo này, vết máu không giặt sạch, còn lấm tấm trước ngực. Một thằng vô công rồi nghề, dựa vào thế lục bần nông mà quậy phá, để hắn chết thì có gì đáng tiếc? Thậm chí cậu còn oán mẹ. Trước cửa lò mổ của công xã cậu trông thấy Sa Tảo Hoa đứng trước tấm biểu ngữ nền đỏ chữ vàng. Cậu cho rằng sự rủi ro của Phòng Thạch Tiên có dính dáng tới Sa Tảo Hoa, thằng lỏi kia chính là đồ đệ của Sa Tảo Hoa. Cô ta dám đánh cắp chiếc nhẫn kim cương của bà Hoàng Mônich trong phòng Tổng thống của khách sạn Hoàng Hải, tất nhiên không thèm đánh cắp một bộ quần áo bông. Chẳng qua là cô ra tay trừng trị kẻ đã xúc phạm bà ngoại của cô. Kim Đồng bắt đầu nhìn nhận Sa Tảo Hoa với con mắt hoàn toàn khác. Cậu từng nghĩ rằng trộm cắp là xấu xa, bất luận thời đại nào, bắt gà trộm chó đều xấu, nhưng đạo chích như Sa Tảo Hoa thì thật đáng khen! Cậu có phần sung sướng khi nghĩ rằng một ngọn cờ mới của nhà Thượng Quan đã được dựng nên!

Viên tiểu đầu mục Hồng vệ binh rất không bằng lòng về hành vi của mẹ. Anh ta giơ chiếc loa điện cầm tay, một của hiếm rất thích hợp với tình thế và nhu cầu của cách mạng lúc bấy giờ, cất giọng rè rè bệnh hoạn của nhân vật bự hồi thí điểm cải cách ruộng đất:

- Các đồng chí, các tiểu tướng Hồng vệ binh, các chiến hữu, các bần nông và trung nông lớp dưới thân mến! Các đồng chí không nên để cho những thủ đoạn giả vờ từ bi của Thượng Quan Lỗ thị, mụ già phản cách mạng mưu toan chuyển hướng đấu tranh của chúng ta!...

Viên tiểu đầu mục Hồng vệ binh này tên là Quách Bình Ân. Anh ta rất bất hạnh vì bị ông bố tính nết quái đản tên là Quách Kim Thành hành hạ. Quách Kim Thành đánh gãy chân vợ nhưng không cho vợ khóc một tiếng. Mọi người khi đi qua nhà ông ta thoáng nghe thấy tiếng roi gậy vụt vào da thịt và tiếng phụ nữ khóc ti tỉ. Từng có một ông tốt bụng tên là Lý Vạn Niên định vào can ngăn, nhưng vừa gõ cổng thì một hòn đá rất to từ trong vườn ném trúng lưng khiến ông bị thương nặng. Quách Bình Ân thừa hưởng cái tính hung hãn và thâm độc của bố. Trong cách mạng văn hóa, anh ta đá dập thận thầy giáo Chu Văn. Anh ta hò hét một hồi rồi khoác loa lên vai đi tới trước mặt bà Lỗ, phóng chân đá một phát vào đầu gối bà, quát:

- Quì xuống.

Bà Lỗ rên lên đau đớn rồi khuỵu xuống. Hắn lại xách tai bà lên, quát:

- Đứng lên! Bà Lỗ vừa đứng lên, hắn lại đá bà ngã xuống và còn dận gót chân lên lưng bà. Hàng loạt động tác của hắn là nhằm giải thích khẩu hiệu Đánh kẻ thù giai cấp ngã lăn ra đất đạp thêm một đạp, rất thịnh hành lúc bấy giờ.

Kim Đồng thấy mẹ bị đánh thì cơn giận bùng lên.

Cậu nắm chặt quả đấm, xông tới trước mặt Quách Bình Ân. Cậu giơ nắm đấm lên thì bắt gặp ánh mắt thâm hiểm của hắn. Thằng con trai mới lớn này mới tí tuổi mà hai mép đã có rãnh sâu chạy thẳng xuống cằm chẳng khác loài bò sát thời cổ đại. Bàn tay Kim Đồng tự nhiên mềm nhũn, cậu run rẩy định chất vấn Bình Ân vì sao đánh mẹ mình, nhưng khi thấy Bình Ân giơ tay lên, câu hỏi liền chuyển thành tiếng kêu khóc:

- Mẹ ơi!

Rồi cậu quì sụp trước mặt mẹ. Mẹ nâng cái đầu khá nặng của cậu lên, giận dữ:

- Đồ giẻ rách! Đứng lên cho tôi nhờ?

Kim Đồng đứng lên. Quách Bình Ân chỉ huy đội gậy gộc và đội thanh la áp giải bọn đầu trâu mặt ngựa tiếp tục đi diễu trong chợ. Quách Bình Ân định dùng loa điện hô hào quần chúng cùng anh ta hô khẩu hiệu, nhưng cái giọng quái gở của anh ta được phóng đại qua loa không khác thuốc trừ sâu cực độc, gần như làm ngất xỉu mọi người trong chợ. Quần chúng nhăn mặt cắn răng chịu đựng, không ai hô theo anh ta.

Kim Đồng mơ tưởng đến một ngày huy hoàng nào đó, tay cầm bảo kiếm Long Tuyển, cậu dồn tất cả bọn chúng, từ thằng Quách Bình Ân, Trương Bình Đoàn, thằng Phương Chuột, thằng Chó Lưu, thằng Vu Vân Vũ, Ngụy Sùng Dê, Quách Thu Sinh... lên khán đài, bắt chúng quì thành một hàng dài, rồi vung thanh Long Tuyền chỉ vào từng thằng... Tất nhiên trước tiên là thằng Vu Vân Vũ. Cái thằng đầu đầy mụn nhọt ấy nước mắt như mưa, lắp bắp van xin: Kim Đồng... à không, Công tử Thượng Quan, tha mạng cho tôi, tiểu nhân còn một mẹ già tám mười tuổi không người phụng dưỡng... Công tử Kim Đồng phong thái hào hoa, mặc toàn đồ trắng, một kiếm hiệp nổi danh thiên hạ, ngoắt mũi kiếm cắt luôn một tai Vu Vân Vũ cho chó ăn, nhưng con chó lập tức mửa cái tai đã nát nhừ ra, không thèm nuốt. Công tử Kim Đồng nói: Xéo đi, đồ chó cũng chê không thèm ăn, đồ cóc thối, cút! Vu Vân Vũ lăn xuống chân khán đài. Tiếp theo, đến luật Ngụy Sừng Dê, cái thằng hung dữ hơn sài lang, xảo trá hơn hồ ly, nhút nhát hơn thỏ dế, thằng cha khi rắn thì rắn hơn mũi khoan kim cương, khi mềm, mềm hơn đống phân nhão, quì dưới chân công tử Kim Đồng, dập đầu lạy như tế sao, cặp mắt lươn hấp háy như đếm tiền đồng. Thưa ông Kim Đồng, thưa cha Kim Đồng kính mến?...
Câm mồm, mày không đáng là cháu tao, càng không đáng là con tao. Kim Đồng là bậc anh tài, làm sao đẻ ra cái lũ vét đĩa chúng mày? Tì mũi kiếm sắc lạnh trên cái mũi tẹt. - Mày còn nhớ không? Năm xưa mày đã đối xử với tao như thế nào? - Thưa công tử Kim Đồng, thưa đại hiệp, xin đại nhân bỏ qua cho sai lầm của tiểu nhân. Tể tướng trong bụng chứa cả con tàu, không phải tàu thường, mà là con tàu khổng lồ, sức chở vạn tấn rẽ sóng ra khơi vượt trùng dương? Tên lóng của công tử còn rộng hơn biển cả, mênh mông hơn trùng dương? Mồm mép dẻo quẹo, nghe mà phát ngán. Cắt lưỡi thằng này để nó không còn tuôn ra những lời bẩn thỉu nữa! Ngụy Sừng Dê hai tay bịt miệng, mặt tái mét. Công tử Kim Đồng sẽ rung cổ tay, Long Tuyền rít lên khe khẽ, ánh chớp chói lòa, tiện đứt hai cổ tay Ngụy Sừng Dê như tiện mía. Lưỡi kiếm không hề bị cản trở, sắc ngọt như chém vào không khí. Kim Đồng khéo léo khoanh một nhát cắt đứt lưỡi thằng Ngụy Sùng Dê, miệng nó chỉ còn là cái hốc đầy máu. Tiếp theo là thằng khốn kiếp Quách Bình Ân. Thoạt tiên, Kim Đồng nghĩ chưa ra nên cắt cái gì trên người nó. Chém phăng đi là xong! Kim Đồng giơ kiếm lên: Vì mẹ, tiêu diệt tên vô lại này. Lưỡi kiếm hạ xuống, cổ thằng Bình Ân bị chém vát từ sau gáy, chiếc đầu lăn lông lốc xuống rãnh, một đàn cá vừa đen vừa gầy vẫy đuôi lao tới mà rỉa thịt. Báo thù tuyết hận xong, mắt đầy lệ, Kim Đồng tra kiếm vào vỏ, hai tay khoanh trước ngực, cúi chào quần chúng dưới khán đài. Quần chúng hoan hô, một bé gái thắt nơ bằng lụa hồng, ôm hoa chạy lên khán đài tặng công tử Kim Đồng. Kim Đồng cảm thấy cô bé khuôn mặt có vẻ quen quen, nhìn kỹ thì ra đó là cô bé vẫn đến chơi ở bãi pháo trong nông trường Thuồng Luồng. Cô ngồi trên nòng pháo như cưỡi trên lưng ngựa. Bế cô bé trên tay, cậu chợt nhớ ra thằng Trương Rỗ. Phải trừng trị thằng ác ôn dâm đãng này một trận. Cậu cân nhắc rồi, phải chặt phăng cái trong đũng quần hắn, để hắn không bao giờ tỏ vẻ ta đây được nữa... Chỉ trong chớp mắt đã tóm được tên Trương Rỗ. Thằng mất dạy, quì xuống! Kim Đồng quát, có biết vì sao bắt mày về đây không Trương Rỗ nói, thưa Kim Đồng đại hiệp, tiểu nhân không biết... Kim Đồng đại hiệp dùng mũi kiếm chỉ vào đũng quần Trương Rỗ, nói: Ta báo thù cho chị em phụ nữ! Trương Rỗ hai tay ôm đũng quần, y hệt động tác của Hàn Chim. Kim Đồng đại hiệp dùng mũi kiếm rạch đứt đũng quần Trương Rỗ, định cắt thì trông thấy Cầu Đệ từ trong rừng liễu chạy ra che chở cho hắn. Chị nghiêm giọng bảo Kim Đồng: Kim Đồng, cậu định làm gì vậy? Kim Đồng nói: Chị Bảy tránh ra, để em thiến con lợn đục này, biến nó thành tên thái giám cuối cùng ở Trung Quốc, báo thù cho các chị. Cầu Đệ nước mắt ràn rụa, nói: Cậu em tốt bụng của chị, cậu không hiểu lòng dạ phụ nữ tí nào...

- Quay lại - Một tiểu tướng Hồng vệ binh thoi một quả vào bụng Kim Đồng, chửi - Mẹ kiếp, định chạy trốn phỏng? Kim Đồng cảm ựông rớt nước mắt trước khung cảnh do ảo tưởng cậu tạo ra. Bị một thoi vào bụng, ảo tưởng biến mất, cậu càng cảm thấy hiện thực thật nghiệt ngã, tương lai càng mờ mịt!

Lúc này, đám Hồng vệ binh do Quách Bình Ân cầm đầu mâu thuẫn với Binh đoàn tạo phản Khỉ vàng do Vu Vân Vũ làm chủ tướng. Vu Vân Vũ và Quách Bình Ân, lúc đầu là đấu khẩu, cãi nhau một trận, rồi sau cảm thấy không hả giận, liền giở vũ lục với nhau, thế là nổ ra một cuộc vũ đấu.

Thoạt tiên Vu Vân Vũ đá Quách Bình Ân một đá, Quách Bình Ân hồi thủ một đấm, rồi hai tên xoắn lấy nhau, Quách Bình Ân lột chiếc mũ bảo mạng của Vu Vân Vũ mà cào xé cái đầu đầy mụn nhọt. Vu Vân Vũ thọc ngón tay cái vào mép Quách Bình Ân xé rách ra một mảng. Hai phái Hồng vệ binh thấy chủ soái đánh nhau liền xông lên đánh hội đồng, gậy gộc vung lên, gạch ngói bay tới tấp, các tiểu tướng Hồng vệ binh vỡ đầu chảy máu, tất thảy đều tỏ ra anh dũng bất khuất. Viên tướng cốt cán của Vu Vân Vũ là Ngụy Sùng Dê múa cây trường thương liên tiếp đâm lòi ruột hai người, máu cùng với phân vọt ra nhoe nhoét. Vu Vân Vũ và Quách Bình Ân đều lui về tuyến hai để chỉ huy tác chiến. Lúc này Kim Đồng trông thấy cô gái che mạng rất giống Sa Tảo Hoa lướt qua Quách Bình Ân, hình như cô ta giơ tay sẽ vuốt một cái trên mặt hắn. Vài phút sau, Quách Bình Ân chợt gào toáng lên, thì ra trên má hắn đã bị rạch một vết khá rộng trông như một cái miệng. Máu ứa ra từ vết thương trông gớm ghiếc. Quách Bình Ân bỏ mặc tất cả, ôm má chạy về trạm y tế công xã. Quần chúng thấy xảy ra án mạng, sợ cháy thành vạ lây, vội thu dọn hàng họ, chạy tán loạn vào các ngõ.

Trong trận này, Binh đoàn tạo phản Khỉ vàng của Vu Vân Vũ giành toàn thắng, thâu tóm đội chiến đấu bão táp của Quách Bình Ân, đồng thời bắt sống toàn bộ số đầu trâu mặt ngựa, coi là chiến lợi phẩm. Chiếc loa điện của Quách Bình Ân giờ đây đeo chéo trên vai Vu Vân Vũ. Hai đội viên Bão táp bị Ngụy Sừng Dê đâm lòi ruột, một tên chưa kịp khênh đến bệnh viện đã tắt thở, tên thứ hai Uông Kim Chi được tiếp hai lít máu đã được cứu sống. Máu lấy từ huyết quản các đầu trâu mặt ngựa. Sau khi xuất viện, tất cả các tổ chức Hồng vệ binh từ chối tiếp nhận hắn vì dòng máu bần nông của hắn đã bị lai tạp. Trong này có máu của địa chủ, máu của phú nông, máu của phản cách mạng và máu của kẻ thù giai cấp. Theo cách nói của Vu Vân Vũ thì Uông Kim Chi đã là phần tử xa lạ mang trong người năm loại độc tố, chẳng khác hoa quả đã lai giống. Anh chàng Uông Kim Chi hẩm hiu này, từng là bộ trưởng tuyên truyền của Bão táp. Sau khi bị đối xử không ra gì, hắn đứng ra thành lập đội chiến đấu Tê giác một sừng, cũng khắc con dấu, cũng may cờ đội và băng đeo tay, và còn được sử dụng năm phút trong buổi phát thanh của công xã phát thanh tiết mục Tê giác một sừng, bài vở đều do một mình hắn viết, nội dung là một mớ tả pí lù, từ tình hình chiến đấu của Tê giác một sừng đến lịch sử trấn Đại Lan, từ lượm lặt gần xa đến những tin đồn thổi... Hàng ngày ba lần phát thanh, sáng trưa tối. Đến giờ phát thanh là các phát thanh viên của các phe phái ngồi xếp hàng trên chiếc trường kỷ, đợi đến lượt mình. Tiết mục Tê giác một sừng của Uông Kim Chi xếp cuối buổi phát thanh, phát xong là cử Quốc tế ca, hát xong câu Internationale sẽ là xã hội tương lai, buổi phát thanh kết thúc.

Trong những năm tháng không kịch cọt, không hát xướng, tiết mục dài năm phút của Tê giác một sừng trở thành thú vui duy nhất của quần chúng vùng đông bắc Cao Mật. Trong chuồng lợn, bên bàn ăn, trên giường, mọi người dỏng tai chờ đợi. Một tối Tê giác một sừng phát trên loa: Bần nông và trung nông lớp dưới thân mến, các bạn chiến đấu thân mến, qua tiết lộ của một nhân vật có thế lực, người đã rạch má Quách Bình Ân, nguyên đội trưởng Đội chiến đấu Bão táp, là con nữ tặc nổi danh Sa Tảo Hoa. Sa Tảo Hoa là con gái Sa Nguyệt Lượng tên Hán gian hoành hành ở vùng Cao Mật trong nhiều năm, mẹ đẻ của thị là Thượng Quan Lai Đệ, ngươi đã mưu sát một đặc đẳng công thần, bị Chính phủ nhân dân xử tử hình. Nữ tặc Sa Tảo Hoa hồi nhỏ được một dị nhân ở đông nam Lao Sơn truyền thụ võ nghệ, giỏi thuật phi hành, góc mái đầu tường nhảy qua như bỡn. Tài nghệ móc túi thì lại càng kinh khủng, xuất quỉ nhập thần. Theo sự tiết lộ của một nhân vật có thế lực, Sa Tảo Hoa trở lại Cao Mật đã được ba tháng.

Mụ đặt trạm liên lạc bí mật ở tất cả các thôn trấn, và dùng thủ đoạn cưỡng ép dụ dỗ lôi kéo một số tay chân cung cấp tin cho mụ. Thằng nhỏ vứt mũ của bần nông Phòng Thạch Tiên chính là một đồ đệ của mụ. Mụ gây án khắp nơi, tội ác chồng chất. Mụ có nhiều biệt hiệu, nổi tiếng nhất là biệt hiệu Sa Chim én. Nữ tặc Sa Tảo Hoa trở về Cao Mật lần này là để báo thù cho cha mẹ.

Rạch má Quách Bình Ân chỉ mới là động tác mở màn của đợt phục thù giai cấp, rồi đây hàng loạt thảm án sẽ liên tiếp xảy ra! Đồn rằng, công cụ gây án của con nữ tặc là đồng tiền bằng đồng đặt trên đường ray để bánh xe lửa cán mỏng ra, mỏng như tờ giấy, sắc như nước, thổi sợi lông đứt đôi, rạch vào da thịt, mười phút sau mới chảy máu, hai mươi phút mới thấy đau, ba mươi phút sau là thắng cẳng. Con nữ tặc kẹp vũ khí lợi hại ấy giữa hai ngón tay, vuốt nhẹ một cái là cắt đứt động mạch, toi mạng là cái chắc. Nữ tặc luyện công phu không giống mọi người. Mụ theo thầy học nghệ, thò tay vào nước sôi, lần lượt vớt ra đủ mọi đồng tiền thả trong nước, tay không hề bị bỏng, nhanh và khéo đến như vậy chưa từng thấy trên đời? Các chiến hữu cách mạng thân mến, bần nông và trung nông lớp dưới thân mến! Sau khi kẻ thù cầm súng đã bị tiêu diệt, kẻ thù cầm đồng tiền vẫn tồn tại! Chúng giảo hoạt gấp trăm lần, điên cuồng gấp trăm lần khi đâu tranh với chúng ta!...

- Quá giờ rồi, quá giờ rồi!

Trong loa có tiếng nói xen vào...

- Xong ngay đây, xong ngay đây...

- Không được, không được!... Tê giác một sừng không được chiếm thời gian của Quốc tế ca...

- Kết thúc chậm một chút không được sao?

Nhưng nhạc Quốc tế ca vang lên đột ngột chấm dứt buổi phát thanh.

Sáng hôm sau, loa phát thanh truyền đi một bài dài của Binh đoàn tạo phản Khỉ vàng, bắt bẻ từng câu từng chữ về huyền thoại Sa Tảo Hoa do Tê giác một sừng bịa ra, và kể ra từng tội của Tê giác một sừng. Các phe phái cũng ra tuyên bố chung, quyết định cắt bỏ thời gian phát thanh của Tê giác một sừng, lệnh cho những người lãnh đạo Tê giác một sừng hạn trong hai mươi bốn giờ phải giải tán, hủy bỏ con dấu và các phương viện tuyên truyền.

Binh đoàn tạo phản Khỉ vàng tuy phủ nhận sự tồn tại của nữ tặc siêu hạng Sa Tảo Hoa, nhưng vẫn bố trí ngầm rất nhiều mật thám, chỉ điểm xung quanh nhà Kim Đồng. Cho đến tiết thanh minh năm sau, khi công an huyện đánh xe về bắt Kim Đồng đem đi, thì những mật thám đóng giả thợ hàn nồi, thợ mài dao, thợ sửa chữa giày dép cùng với những trạm bí mật mới rút di theo lệnh của Vu Vân Vũ lúc này đã được vinh thăng là Chủ nhiệm Uỷ ban cách mạng trấn Đại Lan.

Nông trang Thuồng Luồng trong khi thanh lọc đội ngũ giai cấp, tìm thấy quyển sổ tay của Kiều Kỳ Sa, trong đó ghi chép đầy đủ cuộc tình giữa Kim Đồng và Long Thanh Bình. Thế là Cục Công an huyện bắt giữ Kim Đồng với tội danh tình nghi giết người, hãm hiếp xác chết, và không điều tra nghiên cứu gì hết, xử Kim Đồng múc án mười lăm năm khổ sai, nơi thụ án là nông trường lao cải kề bên cửa sông Hoàng chảy vào biển.
Chương 6
1
Vào một ngày xuân của những năm tám mươi, Kim Đồng mãn hạn tù. Với tâm trạng khiếp nhược và hoảng loạn, cậu ngồi thu lu một xó ít người để ý trong nhà chờ, đợi chuyến xe khách đi trấn Đại Lan nay là thủ phủ vùng đông bắc Cao Mật.
Trời chưa sáng hẳn, trên trần nhà treo mười mấy ngọn đèn, nhưng chỉ có hai ngọn đèn trên tường là sáng, một thứ ánh sáng vàng vọt. Một số ghế tựa đen sì trong phòng chờ đã bị những thanh niên thời thượng chiếm chỗ. Họ nằm ngáy như sấm, nói mơ lảm nhảm, có người trong giấc mơ còn giơ cả hai chân đen đủi mặc quần loe lên trời, ống quần cứng đơ như cuốn bằng sắt tây. ánh sáng ban mai lọt qua cửa sổ, phòng chờ sáng dần lên. Qua cách ăn mặc của những người nằm ngồi lố nhố trước mặt, Kim Đồng đã ngửi thấy hơi hướng của thời đại mới. Nền nhà đầy giấy bẩn và đờm rãi, thậm chí nồng nặc mùi nước tiểu, nhưng lát nền là đá hoa Đại Lý. Trên tường bám đầy nhặng xanh béo núc, nhưng phủ mặt tường là ni lông hoa. Với một người vừa rời khỏi căn nhà đất ở nông trường lao cải như Kim Đồng thì đây là điều mới mẻ và lạ lẫm, do vậy tâm trạng bất an càng nặng nề. Khi những tia nắng lọt vào phòng chờ sặc mùi ô nhiễm, những người chờ xe bắt đầu hoạt động. Một cậu tóc bồng, mặt đầy tàn nhang ngồi dậy trên ghế gãi bẹn, mắt vẫn nhắm, lôi ra một điếu thuốc lá thơm có đầu lọc rồi châm hút bằng chiếc bật lửa ga, thở khói, nhổ đờm xuống nền nhà, dùng gót giày di di cục đờm theo thói quen. Cậu vỗ vô mông cô gái nằm sau lưng, cô ta rên lên nũng nịu.
- Xe chạy rồi! - Cậu tóc bồng kêu lên.
Cô gái uể oải ngồi dậy, dụi mắt bằng mu bàn tay đo tía rồi ngáp sái cả quai hàm. Khi biết mình bị lừa, cô thụi cậu tóc bồng mấy cái rồi lại nằm xuống.
Kim Đồng trông rõ khuôn mặt tròn vành vạnh rất trẻ của cô và cái mũi ngắn bóng loáng trên khuôn mặt, khoảng da bụng trắng hếu lộ ra dưới tà áo ngắn. Rồi anh lại còn nhìn thấy cậu tóc bồng ngang nhiên thọc tay trái có đeo đồng hồ điện tử và kẽ hở giữa hai vạt áo, luồn sâu vào ngực cô gái sờ nắn chiếc vú đã chảy xệ. Cảm giác bàng hoàng vì lạc hậu so với thời dại len dần trong tâm trí Kim Đồng như vết dầu loang. Mình hình như chưa kịp lớn đã trở thành người đứng tuổi? Cử chỉ thân mật của bọn thanh niên, khiến người ngoài cuộc thẹn đỏ mặt, chẳng khác ông bố chồng vô tình trông thấy con dâu và con trai đang xoắn xuýt lấy nhau. Anh quay nhìn đi nơi khác. Cái tuổi cố chấp với tâm trạng u ám nay lại càng bi thảm. Những ý nghĩ trong đầu quay cuồng như bánh xe ngựa chạy hết tốc lực: Mình đã sống bốn mươi hai năm trên đời, trong bốn mươi hai năm ấy mình đã làm được những gì? Những năm tháng đã qua y hệt con đường mòn mất hút trong thảo nguyên mênh mông, chỉ nhìn lại được chừng ba bốn mét, xa hơn nữa là khuất trong sương mù. Đã sống già nửa đời người, một cuộc sống tệ hại, tởm lợm, ngay bản thân cũng tự cảm thấy thương hại, buồn nôn! Gần nửa cuộc đời tiếp theo, tính từ khi được phóng thích, coi như đã bắt đầu, chẳng hiểu rồi sẽ như thế nào?
Ngay trước tầm nhìn của anh là bức tranh màu bằng sứ treo trên tường, người đàn ông trong tranh cơ bắp phát triển, che bụng băng mấy chiếc lá xanh, khoác tay một phụ nữ cởi trần, tóc bay như bờm ngựa. Trong cái không gian hữu hạn của bức tranh vẫn dành chỗ cho sự tưởng tượng vô hạn. Nhìn nét mặt đầy khát vọng vươn tới hạnh phúc của đôi nam nữ nửa người nửa tiên này, trong lòng anh cảm thấy trống rỗng ghê gớm. Cái cảm giác xót xa anh đã từng thể nghiệm nhiều lần khi nằm ngửa nhìn lên bầu trời xanh biếc ở cao nguyên hoàng thổ, nơi dòng sông chảy vào biển. Đàn cừu gặm cỏ trên thảo nguyên. Người chăn cừu Kim Đồng nằm ngửa nhìn lên bầu trời, xa xa, nơi có dãy cờ đuôi nheo màu đỏ là đường cảnh giới do cán bộ trại cải tạo vạch ra cho người tù những cán bộ canh tù cưỡi ngựa đeo súng tuần tra trên con đê ngăn sóng biển bên ngoài hàng rào cảnh giới, những con chó lai từ cảnh khuyển với chó địa phương, chạy theo sau, uể oải, thi thoảng lại hướng ra làn sóng bạc đầu ngoài đê, sủa mấy tiếng vô nghĩa. Anh thụ án đã được mười bốn năm. Mùa xuân năm thứ mười bốn, anh kết bạn với Triệu Giáp Đinh, chăn ngựa. Anh ta phạm tội giết vợ, chưa xử. Anh vốn là cán bộ giảng dạy của Học viện Chính pháp, con người nho nhã, đeo kính gọng kim loại. Anh không giấu giếm, kể lại tường tận cho Kim Đồng nghe mình đã giết vợ như thế nào. Kim Đồng cũng kể lại vụ án của mình. Nghe xong, anh ta nói một cách cảm khái:
- Lão huynh, đẹp quá y như một bài thơ, chỉ tiếc là pháp luật bài xích tất cả những gì có tính thơ mộng? Có điều, giá như khi đó tôi, thôi cho qua, nói bây giờ là thừa! Họ xử anh nặng quá tuy nhiên, đã được mười bốn năm rồi thì cũng chẳng khiếu nại làm gì.
Trước đây không lâu, khi lãnh đạo trại tuyên bố anh đã mãn hạn tù, được trở về với gia đình, thì anh lại có cảm giác như mình bị ruồng bỏ. Nước mắt chạy quanh, anh xin được ở lại mãi mãi. Viên quản giáo ngạc nhiên nhìn anh, lắc đầu:
- Sao lại như vậy? Anh nói:
- Rời trại, tôi không biết làm gì để sống, tôi là con người vô dụng?...
Viên quản giáo đưa cho anh một điếu thuốc, châm lửa cho anh, vỗ vai anh nói:
- Người anh em, về đi, thế giới bên ngoài đẹp hơn ở đây nhiều?
Anh không biết hút thuốc, vừa bập một hơi đã bị sặc, nhóc mắt ràn rụa.
Một phụ nữ mắt ngái ngủ, mặc bộ quần áo công nhân màu xanh, mũ rộng vành, tay trái cầm cái hốt rác, tay phải cầm chổi, quét dọn lấy lệ những đầu mẩu thuốc và vỏ trái cây trên nền nhà. Với vẻ mặt chán chường, chị ta chốc chốc lại dùng chân đá hoặc thọc bằng chổi những người nằm dưới đất.
- Dậy, dậy! Chị ta quát, quét nước tiểu tung tóe.
Những người nằm dưới đất vội vàng nhổm dậy. Có người đứng lên vươn vai, người vẫn ngồi yên, mặt nghệch ra, rồi nhảy dựng lên vì chổi quét phải người. Lập tức những tờ báo lót chỗ nằm bị hốt luôn vào xe rác. Kim Đồng mặc dù đã áp sát tường đến mức tối đa, nhưng vẫn bị quát mắng:
- Tránh ra, có mắt hay không đấy?
Ngang ngược là người nhà nước. Thái độ ngang ngược ấy cách đây mười lăm năm Kim Đồng đã lãnh đủ. Anh cho đây là hiện tượng rất bình thường, không phách lối thì sao gọi là người nhà nước? Anh nín nhịn nhảy sang một bên, trông thấy chị ta chỉ vào cái túi hành lý bằng vải bạt của anh, vẻ khó chịu:
- Của ai đây? Xách đi!
Anh lại nhẫn nhục xách cái túi ra chỗ khác, đợi chị ta đưa qua quít vài nhát xong, anh lại để cái túi vào chỗ cũ và ngồi xuống bên cạnh.
Xó nhà trước mặt anh là một đống rác to tướng. Chị công nhân đổ chỗ rác mới gom vào đống rác rồi bỏ đi. Đàn nhặng xanh nghỉ ngơi trên đống rác bay vù lên rồi lại đáp xuống. Lúc này anh trông thấy bức tường phía trước thông ra bãi đỗ xe có trổ mấy cửa nhỏ. Mỗi cửa có bảng ghi số xe và tuyến xe. Phía ngoài có hàng rào bằng những ống thép hàn lại với nhau, một số người đang xếp hàng ở đó để đợi kiểm tra vé. Cuối cùng, anh tìm thấy cửa ghi số xe 831 đi trấn Đại Lan. ở đó đã có mười mấy người đang xếp hàng, người hút thuốc, người nói chuyện, có người ngồi ngẩn ra bên túi hành lý. Họ lấy vé ra xem, trên vé ghi giờ xe chạy là 7 giờ 30, nhưng chiếc đồng hồ treo trên tường đã chỉ 8 giờ 10. Họ cuống lên cho răng chuyến xe mà họ định đi đã chạy trong khi họ ngồi nghĩ vơ vẩn. Anh xách cái túi hành lý rách lên, chạy tới xếp hàng sau một ông tay xách cặp đen, mặt lạnh như tiền. Anh lặng lẽ nhận xét những người xếp hàng, hình như có biết họ, nhưng không thể nhớ ra, dù chỉ một cái tên. Những người kia cũng nhìn anh từ đầu đến chân, anh cảm thấy hình như họ có vẻ ngạc nhiên. Anh bắt đầu lúng túng trong một tâm trạng phức tạp, vừa muốn nhận người quen, lại vừa sợ một quen nhận ra mình. Anh lúng búng hỏi người đứng trước mặt:
- Thưa... đồng chí, đây có phải xe chạy Đại Lan không ạ?
Người này nhìn anh bằng ánh mắt của cán bộ quản giáo ở nông trường lao cải khiến anh hoảng hốt như kiến bò trong chảo. Anh nghĩ, không chỉ trong con mắt mọi người, mà ngay bản thân, anh cũng tự đánh giá là một quái vật. Tối qua trong nhà xí, nhìn vào chiếc gương đã ố vì hơi nước, anh trông thấy cái đầu to tướng của anh. Tóc trên đầu xoăn tít, rối như tổ quạ, đỏ chẳng ra đỏ, vàng chẳng ra vàng, lại thêm lưỡng quyền nhô cao, da mặt sần sùi như da cóc đầy nếp nhăn, cái mũi to tướng đỏ tía như vừa bị véo, bộ râu quai nón màu râu ngô ôm lấy cặp môi sưng mọng. Dưới ánh mắt soi mói của người đàn ông, Kim Đồng cảm thấy mình dơ dáy, mồ hôi ướt sũng lòng bàn tay. Người dàn ông hất hàm về phía chiếc biển treo trên cửa xé vé thay cho việc trả lời câu hỏi của anh.
Một phụ nữ to béo mặc áo bờ lu trắng nhưng trước ngực đen một mảng to tướng, đẩy trước xe nhỏ bốn bánh đi tới, rao bằng cái giọng lanh lảnh của trẻ con:
- Bánh bao đây, bánh bao nhân thịt nóng hôi hổi đây?
Chị ta béo tốt, khuôn mặt hồng hào bóng nhẫy, tóc uốn xoăn từng búi nhỏ trông giống đuôi cừu úc Đại Lợi, mu bàn tay như chiếc bánh bao, ngón tay như những khúc lạp sường.
- Một cân giá bao nhiêu? - Một thanh niên mặc áo bay hỏi.
- Không bán cân, bán chiếc - Người bán hàng nói.
- Bao nhiêu tiền một chiếc?
- Hai hào rưỡi.
- Cho tôi mười chiếc, anh thanh niên nói. Chị bán hàng lật tấm khăn phủ trắng đã ngả màu đen, lấy mảnh báo cũ đã chuẩn bị sẵn, dùng kẹp lấy đủ mười cái bánh bao. Anh thanh niên lôi ra một năm tiền to tướng để chọn tiền lẻ, mọi con mắt đều đổ dồn về phía anh ta.
- Nông dân Cao Mật hai năm nay phất to? - Ông xách cặp đen nói, giọng chua loét.
Anh thanh niên mặc áo bay ngoạm từng miếng to tướng, nhồm nhoàm nhai
- Lão Hoàng, thèm lắm hả?
- Thèm thì vứt quánh bát sắt, đi buôn cá với tôi. - Ông xách cặp nói
- Tiền là cái gì? Là hổ dữ đã xuống núi, tôi sợ nó cắn lắm!
Anh thanh niên cười nhạo:
- Thôi đi ông, chó cắn mèo, mèo cắn người, con thỏ lúc cùng đường cũng dám cắn người, tôi chưa nghe nói tiền cắn người bao giờ!
Ông xách cặp nói:
- Cậu còn ít tuổi chưa hiểu hết đâu!
Anh mặc áo bay nói:
- Ông Hoàng ơi, không nên sống lâu lên lão làng, cũng dùng ra vẻ ta đây làm gì, phải đổi mới cách nghĩ mới có cơm cá cơm thịt! Cho phép nông dân buôn bán kiếm tiền là văn bản hàng đầu mà ông trưởng trấn công bố trước quần chúng.
Ông cặp đen nói:
- Này cậu, đừng vội ngông nghênh, đảng Cộng sản không bao giờ quên lịch sử của mình, cậu liệu hồn đấy!
Anh áo bay nói:
- Liệu hồn về chuyện gì?
Ông cặp đen gằn giọng nói từng chữ:
- Cải cách ruộng đất lần thứ hai!
Anh áo bay ngớ ra, nói:
- Thì cứ cải cách nữa di, ông thì ông đớp hít cho bằng hết, một sợi lông cũng không còn mà cải cách? Ông tưởng tôi cũng ngốc như ông cụ thân sinh ra tôi đấy chắc? Đầu tắt mặt tối, thắt lưng buộc bụng được ít tiền tậu mấy chục mẫu ruộng bạc điền, đến cải cách bị qui ngay là phú ông, bị các ông lôi ra đầu cầu, đoàng một phát vỡ sọ! Tôi không như bố tôi, được đồng nào là tôi hít, tôi đớp! Khi các ông cải cách ruộng đất lần thứ hai, tôi lại là bần nông vẻ vang như ai!
Ông cặp đen nói:
- Kim Trụ Tử, anh được bỏ mũ phú nông mới ít hôm mà đã kiêu ngạo rồi!
Anh áo bay nói:
- Lão Hoàng, nực cười ông châu chấu đá xe, không lượng được sức mình thì về nhà treo cổ lên cho xong? Ông dám chống chính sách của Nhà nước không? Tôi cho là ông chống thế nào được?
Lúc này, một lão ăn xin mặc chiếc áo bông rách, thắt lưng bằng sợi dây diện màu đỏ, tay cầm bát sứ vỡ, trong bát có mấy đồng tiền bằng kim loại và mấy tờ bạc lẻ bẩn thỉu. Lão run rẩy chìa cái bát ra trước mặt ông cặp đen, van nài:
- Con xin ông vài hào mua cái bánh bao.
OOng cặp đen né sang một bên, giận dữ nói:
- Xéo đi, ông còn chưa ăn sáng đây này?
Lão ăn mày liếc nhìn Kim Đồng, ánh mắt tỏ ra khinh miệt. Kim Đồng cảm thấy thương thân đến cùng cục. Kim Đồng ơi Kim Đồng, ngay cả thằng ăn mày cũng tránh né mi! Lão ăn mày quay sang xin anh áo bay, vẫn câu ca cũ:
- Xin cậu rủ lòng thương mà cho vài hào mua bánh bao!...
Anh áo bay hỏi:
- Anh thành phần gì?
Lão ăn mày ngớ ra một lúc, nói:
- Bần nông, tổ tông tám đời đều là bần nông...
Anh áo bay phác một cử chỉ hài hước, cười:
- Ông đây chuyên môn cứu tế bần nông!
Anh ta quẳng vào bát lão ăn mày hai chiếc bánh ăn thừa còn nguyên cả giấy gói bằng báo cũ. Lão ăn mày cầm bánh nhét luôn vào miệng, giấy gói dính cả vào cằm, những chữ in thấm mỡ rõ mồn một.
Phòng chờ trở nên nhốn nháo, hơn chục nhân viên soát vé từ phòng nghỉ đi ra, kẹp vé cầm trên tay. Người nào cũng một vẻ chán chường, lạnh nhạt, làm như hành khách là kẻ thù của họ. Hành khách di theo họ đến cửa kiểm soát. Một người đứng giữa lối ra, nói qua loa điện:
- Xếp hàng, xếp hàng! Không xếp hàng không soát vé! Các đồng chí kiểm soát viên chú ý, không xếp hàng không soát vé?
Nhưng mọi người vẫn dồn cục trước lối ra, tay xách túi lớn túi nhỏ. Trẻ con bị lèn bật khóc. Một phụ nữ tay bế con trai, lưng cõng con gái, tay kia ôm một cặp gà trống, lớn tiếng chửi người đàn ông xô dẩy chị ta, nhưng người kia bất chấp tất cả, giơ thùng bóng điện lên quá đầu, người luồn lách để lên phía trên. Người phụ nữ đạp cho anh ta một cái vào mông, anh ta cũng không thèm nhìn lại.
Kim Đồng bị chen bật ra ngoài vòng, ban đầu sau lưng anh có mấy chục người, giờ đây anh trở thành người đứng cuối cùng. Anh nổi cáu, xách túi hành lý định len vào trong, nhưng một cú huých vào ngực khiến mắt anh nẩy đom đóm, anh rên lên một tiếng, ngã ngồi xuống đất, mồ hôi đầm đìa trên mặt. Phát thanh viên liên tục lặp lại:
- Xếp hàng, xếp hàng, không xếp hàng không soát vé!
Người soát vé chuyến xe khách đi trấn Đại Lan là một cô gái có hàm răng khấp khểnh, dùng chiếc kẹp vé và kìm bấm làm công cụ mở đường, từ cửa soát vé lách ra, chiếc mũ rộng vành đã bị chen bẹp, tóc xõa rối bù. Cô ta tức điên lên, giậm chân bành bạch:
- Chen đi, chen nữa di, chết một hai ngươi càng tốt!
Cô soát vé giận dỗi bỏ về phòng nghỉ. Lúc này, chiếc đồng hồ điện tử treo trên tường, kim giờ và kim phút đã trùng khít trên con số 9. Nhiệt tình chen lấn của mọi người bị xẹp luôn cùng với sự bỏ đi của cô soát vé. Đứng bên cửa sổ, Kim Đồng tự nhiên có cảm giác vui sướng, anh cảm ơn người soát vé đã bỏ đi, coi đó như một cử chỉ bảo vệ những người yếu đuối.
ở các cửa soát vé khác, lối ra bãi đậu xe đã mở, hành khách chen chúc nhau đi ra như nước lũ.
Một thanh niên người tầm thước, ăn mặc sang trọng đi tới, tay xách lồng chim, trong lồng có một cặp vẹt trắng quí hiếm. Cặp mắt rất sáng của cậu thanh niên khiến Kim Đồng chú ý, nhất là hai con vẹt làm anh nhớ lại quang cảnh trong sân hôm anh từ nông trường về nhà, lũ vẹt bay quanh cái nôi treo dưới tán cây, trong nôi là thằng con trai của Hàn Chim và Thượng Quan Lai Đệ. Chẳng lẽ lại là thằng nhỏ? Anh dần dần phát hiện ra cái vẻ bất cần đời của Lai Đệ và nét kiên cường một cách ngây thơ của Hàn Chim trên khuôn mặt chàng thanh niên. Kim Đồng vô cùng ngạc nhiên, nhưng ngay sau đó là sự thán phục, nó lớn quá rồi, thằng nhỏ nằm trong nôi năm nào nay đã trở thành một thanh niên! Tiếp theo, một lần nữa anh lại nghĩ tới tuổi tác của mình, chìm trong một cảm giác trầm uất và trống rỗng không bờ bến. Anh cảm thấy mình như cụm cỏ mao trên đất phèn, lặng lẽ mọc lên, sống lay lắt rồi lặng lẽ từ giã cõi đời!
Hàn Vẹt bước tới bên cửa soát vé, nhiều người trong đám đông chào hỏi cậu, cậu chậm rãi chào lại, giơ tay xem đồng hồ kiểu dáng rất lạ mắt.
- Hàn Vẹt, Hàn Vẹt, cậu di nhiều, ăn nói giỏi, mời bà cô ấy ra đi!- Một người trông có vẻ cán bộ nói.
Hàn Vẹt nói: - Tôi chưa đến thì bà ấy chưa cho ra cửa đâu!
- Nói khoác, cậu gọi được bà ấy ra thì chúng tôi mới phục!
- Các vị đừng có chen lấn nữa, xếp hàng vào, chen gì mà chen ghê thế, giành nhau khăn tang chắc? Xếp hàng vào, mau lên.
Cậu ta nửa đùa nửa thật chửi tất cả, cái nút kẹt được dãn ra, kéo dài đến tận chỗ những chiếc ghế. Hàn Vẹt nói:
- Ai còn chen lên làm mất trật tự là tôi... mẹ người ấy, rõ chưa nào? - Cậu ta phác một cử chỉ tục tĩu, nói tiếp - sớm muộn rồi cũng phải lên, trong xe không còn chỗ thì lên nóc mà ngồi, càng thoáng, càng tha hồ ngắm cảnh. Đ. mẹ, tôi tình nguyện lên nóc! Hãy đợi dấy, tôi vào triệu các mẹ!
Quả nhiên cậu ta mời được nhân viên soát vé ra. Cô ta mặt mày sưng sỉa, hình như vẫn chưa bớt giận. Hàn Vẹt nói như rót vào tai cô:
- Dì nuôi ơi, dì chấp họ làm gì! Họ là đồ cặn bã trong xã hội, trốn chúa lộn chồng, mèo mả gà đồng, trộm gà bắt chó, dì mà tức với họ mất cả cái giá của mình đi! Quan trọng hơn, dì tức mà sinh bệnh thì dượng sẽ thương dì đến chết mất!
- Câm mồm, thằng Vẹt thối tha này! - Cô ta giơ cái kép vé đập một phát vào bả vai Hàn Vẹt - sao lắm mồm thế?
Hàn Vẹt lè lưỡi, nói:
- Dì nuôi ơi, cháu đã chuẩn bị cho dì một đôi chim thật đẹp, khi nào thì đem đến cho dì?
- Cứ diễn mãi một vở - Cô soát vé nói - miệng lúc nào cũng liếng thoắng, hứa lên hứa xuống cả năm rồi mà có thấy bóng dáng con chim nào!
Hàn Vẹt nói:
- Lần này là chính xác, lần này dì sẽ trông thấy chim thật!
Cô soát vé nói:
- Nếu cậu có lòng hiếu thảo như thế thì cho tôi đôi vẹt trắng này?
Hàn Vẹt nói:
- Dì nuôi ơi, đôi này thì không được, đây là chim giống nhập từ úc về, dì có muốn cũng khó. Sang năm nếu Hàn Vẹt này không biếu dì một đôi vẹt trắng thì không phải là con dì!
Cánh cửa kiểm soát vừa mở ra, mọi người lập tức chen lấn nhau túi bụi. Hàn Vẹt xách lồng chim đứng bên cô soát vé, nói:
- Dì thấy đấy, làm sao không nói người Trung Quốc tố chất kém cho được? Mẹ kiếp, cứ thế mà chen, mà lấn, kỳ thực càng chen lấn càng chậm trễ, đúng không?
Cô soát vé nói:
- Dân Cao Mật toàn là đồ thổ phỉ, hung hăng đến khiếp!
Hàn Vẹt nói:
- Dì nuôi ơi, đừng vơ đũa cả nắm, còn có người tốt chứ, thí dụ...
Cậu ta chưa nói hết câu đã ngẩn người ra: Kim Đồng đang từ cuối hàng ngượng ngùng bước tới.
- Nếu cháu nhớ không lầm - cậu ta nói - thì ông là cậu của cháu?
Kim Đồng ngượng nghịu trả lời: Tôi cũng... nhận ra cậu!
Hàn Vẹt vui mừng nắm chặt tay Kim Đồng mà lắc:
- Thế là cậu được về rồi! Bà ngoại khóc ngày khóc đêm vì thương cậu, đến nỗi hỏng cả hai mắt.
Trong xe chật cứng, vài người ló hẳn nửa người ra ngoài cửa sổ. Hàn Vẹt trèo lên giá để hàng trên nóc bằng chiếc thang sắt phía đuôi xe, lật tấm lưới bảo hiểm lên, bố trí chỗ ngồi cho Kim Đồng xong xuôi rồi nghiêng người kéo túi hành lý của Kim Đồng lên, Kim Đồng run rẩy trèo lên theo. Hàn Vẹt trùm lưới lên người Kim Đồng, dặn:
- Cậu bám chặt khung sắt nhé. Thực ra, không bám cũng không có gì đáng ngại. Xe này già quá rồi, ì ạch như con lợn nái ấy!
Ông tài miệng ngậm thuốc lá, tay cầm cốc nước chè khệnh khạng bước tới, nhìn lên nóc xe quát to:
- Hàn Vẹt, cậu đúng là người chim! Tôi bảo này, rớt ngã là tôi không chịu trách nhiệm đâu đấy! Hàn Vẹt móc túi lấy bao thuốc lá ném xuống.
Ông tài giơ tay bắt bao thuốc, xem nhãn, đút luôn vào túi, nói:
- Trời cũng đành chịu phép với cậu!
Hàn Vẹt nói:
- Bố ơi, xin bố mở lòng nhân mà lên xe cho, mà dừng giữa đường in ít thôi!
Ông tài cố buộc chặt cánh cửa rồi ló đầu ra ngoài cửa kính, nói:
- Của nợ này bung ra từng mảnh không biết lúc nào, và tất nhiên lại có người thay thế tôi. Xe này chưa chắc đã ra khỏi bãi!
Lúc này, tiếng nhạc đưa tiễn các chuyến xe lên đường vang lên, rè rè như tiếng cạo nứa của hàng chục lưỡi dao. Cô nhân viên soát vé đứng nghiêm mép bờ ke để tiễn xe theo qui định, hằn học nhìn theo chiếc xe tróc sơn, bẹp dúm đó, kêu cót két khi lăn bánh. Hàn Vẹt giơ tay vẫy: - Chào dì nuôi, lần sau cháu nhất định biếu dì một đôi chim đẹp!
Cô nhân viên không trả lời. Hàn Vẹt lẩm bẩm:
- Tặng mụ hai cái cặc chó thì có!
Xe chạy chậm trên con đường rải đá từ huyện về Cao Mật, chốc chốc lại có ô tô hoặc máy kéo chạy ngược chiều, thận trọng lách qua xe khách. Bụi cuốn mù mịt sau bánh xe, Kim Đồng không mở được mắt.
- Cậu này, cháu nghe người ta nói là cậu bị oan - Hàn Vẹt nhìn thẳng vào mắt Kim Đồng nói.
Kim Đồng nói:
- Bảo oan thì là oan, bảo không oan là không oan!
Hàn Vẹt rút điếu thuốc đưa cho Kim Đồng, anh không cầm, cậu ta lại cất vào bao, nhìn bàn tay thô kệch của Kim Đồng bằng ánh mắt thông cảm, rồi lại nhìn mặt anh, hỏi:
- Khổ lắm phải không cậu?
Kim Đồng nói:
- Khi mới đến trại thì khổ, sau quen dần!
Hàn Vẹt nói:
- Trong khoảng mười lăm năm cậu đi vắng thay đổi nhiều lắm, công xã nhân dân giải tán rồi, ruộng đất chia đến từng hộ, không lo thiếu ăn thiếu mặc nữa. Nhà cửa cũ nát phá bỏ hết, tất cả vào qui hoạch. Bà ngoại không hợp với con vợ cháu, dọn đến ngôi nhà chân tháp ở một mình, chính là ngôi nhà ba gian của Môn Thánh Vũ, cậu trở về, ngoại sớm tối có bầu có bạn rồi!
- Ngoại... còn khỏe không? - Kim Đồng đắn đo hỏi. - Sức khỏe ấy à, còn rắn rỏi lắm - Hàn Vẹt nói - chỉ mỗi tội hỏng mắt, nhưng ngoại vẫn tự lo liệu được? Cậu ạ, với cậu cháu chẳng giấu bó làm gì, cháu sợ vợ, con thối thây ấy không đếm xỉa gì đến hiếu nghĩa! Nó về làm đâu là ngoại bỏ đi liền. Có khi cậu biết nó đấy, nó chính là con gái của lão Cảnh bán mắm tôm và mụ vợ dài ngoẵng như con rắn của lão. Mụ ấy đích thị là một con rắn đội lốt người? Cậu ạ, cháu cố kiếm đủ năm vạn đồng là cháu tống cổ con vợ cháu ra khỏi cửa!
Xe dừng lại chỗ đầu cầu Thuồng Luồng, mọi người tranh nhau xuống xe. Kim Đồng được Hàn Vẹt giúp đỡ, từ nóc xe trèo xuống. Anh trông thấy nhà cửa san sát bên bờ bắc, liền kề với chiếc cầu đá là một cây cầu bê tông mới toanh. Trên bãi trống gần đầu cầu mọc lên một dãy quán bán trái cây, thuốc lá và bánh kẹo. Hàn Vẹt chỉ khu nhà phía bắc con đê, nói:
- Uỷ ban trấn và trường học đều chuyển về đấy, ngôi nhà Tư Mã đã cho Răng Vàng - con trai Vu Vân Vũ, thuê bao. Cái thằng con lừa ấy thành lập xưởng sản xuất thuốc tránh thai kiêm sản xuất rượu rỏm, thuốc chuột rởm, không làm một việc gì, dù là bé tí tẹo, cho con người! Cậu ngửi xem - Hàn Vẹt giơ một tay lên, nói - Cậu ngửi xem trong gió có mùi gì nào? Kim Đồng trông thấy ống khói bằng tôn nhô lên rất cao trên khu nhà Tư Mã, làn khói xanh biếc cuồn cuộn bốc lên. Cái mùi phát lộn mửa chính là mùi của khói xanh.
- Ngoại dọn đi cũng hay! - Hàn Vẹt nói - nếu không, sẽ chết vì hít phải khói độc! Bây giờ mạnh ai nấy chạy, giỏi ai nấy làm, không còn giai cấp nữa, không đấu tranh nữa, người nào người ấy đỏ mắt lên vì tiền! Cháu cũng thuê hai mươi mẫu đất hoang bên cạnh Bãi-Cát-Dài. Cậu ạ, tham vọng của cháu là to lắm đấy, cháu chuẩn bị xây dựng trại chim quí hiếm, trong vòng mười năm trở lại, tất cả các giống chim quí hiếm trên thế giới đều qui tụ về đông bắc Cao Mật này, đến khi đó, cháu có tiền thì khỏi lo không có thế! Có tiền có thế rồi, việc lớn đầu tiên mà cháu làm là dựng tượng cho bố mẹ cháu ở Bãi-Cát-Dài...
Hàn Vẹt bị xúc động bởi chính kế hoạch vĩ đại của mình, mắt sáng lên, bộ ngực lép kẹp ưỡn ra như ức chim bồ câu. Kim Đồng trông thấy những người buôn bán gần đấy cứ nhìn anh và Hàn Vẹt đang hoa chân múa tay. Anh lại cảm thấy xấu hổ vì hình dung tiều tụy của mình, thậm chí hối hận rằng trước khi được tha đã không đến hiệu cắt tóc của mụ Ngụy Kim Chi lẳng lơ để cạo râu.
Sau đó, Hàn Vẹt lấy ra mấy tờ giấy bạc nhét vào tay Kim Đồng, nói:
- Cậu đừng chê ít, cháu hiện đang thời kỳ lập nghiệp, tiền nong rất căng, ngoài ra, có đồng nào con vợ cháu nó nắm hết, cháu không dám và cũng không còn cách nào phụng dưỡng ngoại. Ngoại nuôi cháu khôn lớn đâu có dễ dàng gì! Cho đến khi rụng hết răng cháu vẫn không quên ơn ngoại! Đợi khi cháu thực hiện được kế hoạch, cháu sẽ trả ơn ngoại!
Kim Đồng trả lại Hàn Vẹt mấy tờ giấy bạc, nói:
- Hàn Vẹt này, cậu không thể nhận số tiền này!
Hàn Vẹt nói:
- Cậu chê ít à?
Kim Đồng ấp úng nói:
- Không, không phải thế...
Hàn Vẹt lại dúi năm giấy bạc vào lòng bàn tay nhớp nháp của Kim Đồng, nói:
- Cậu khinh cháu là đồ vô tích sự chăng?
Kim Đồng gạt đi:
- Cậu còn đâu tư cách để khinh rẻ người khác? Cháu giỏi đấy, so với ông cậu vô dụng này, cháu hơn cả trăm lần?...
Hàn Vẹt nói:
- Cậu ơi, người ta không hiểu cậu, nhưng cháu thì hiểu: Gia đình Thượng Quan toàn những người như rồng như phượng, như hổ như báo, chỉ tiếc là không gặp thời! Cậu ơi, nhìn tướng mạo cậu có khác gì Thành Cát Tư Hãn, sớm muộn cậu sẽ làm nên! Cậu hãy về nhà đã, hàn huyên với ngoại ít hôm rồi đến Trung tâm nuôi chim Phương Đông của cháu. Ra trận phải dựa vào anh em ruột, chiến đấu nhờ ở phụ tử binh! Thằng Răng Vàng hiện thời thì đang đắc chí, nhưng hắn là cái đuôi của con thỏ, không bao giờ mọc dài được! Tên ác bá Vu Vân Vũ hai tay buông xuôi, thì thằng Răng Vàng cũng rồi đời!
Hàn Vẹt mua ở quán một nải chuối tiêu, mười mấy quả quít đụng trong túi ni-lông màu hồng, đưa cho Kim Đồng, nhờ anh cầm về cho bà ngoại, rồi hai người chia tay nhau bên cầu bê tông. Kim Đồng nhìn dòng nước trong vắt, mũi cay xè. Anh chọn một chỗ vắng đặt hành lý xuống chân đê, vực nước rửa sạch bụi bặm trên mặt. Cũng phải, anh nghĩ, đã được trở về thì tinh thần cũng phải phấn chấn lên một tí, làm việc gì đó cho ra việc, vì mẹ, cũng là vì mình.
Anh định hướng theo trí nhớ về lại nơi ở cũ. Nhưng trước mặt anh là một công trường, một chiếc máy kéo đang húc đổ những mảng tường còn sót lại. Anh nhớ lại khi còn trên xe khách, Hàn Vẹt nói rằng, ba huyện Cao Mật, Bình Độ, Giao Châu, mỗi huyện cắt một phần đất, thành lập Chợ Mới. Trung tâm của Chợ Mới tất nhiên đặt tại trấn Đại Lan. Nơi đây sẽ nhanh chóng trở thành nơi đô hội, một thành phố phồn vinh. Không lâu nữa, ngôi nhà bảy tầng sẽ mọc lên từ nền cũ của nhà Kim Đồng, ủy ban hành chính thành phố sẽ đặt tại ngôi nhà này.
Đường phố đã được mở rộng, mặt đường này đã trải một lớp dày đá răm, bên vệ đường xẻ rãnh sâu hàng thước, một đám thợ phụ đang đặt đường ống bê tông. Nhà thờ đã bị san bằng, trước cổng nhà Tư Mã treo biển Công ty được Hoa Xương', mấy chiếc xe com măng ca ọp ẹp đỗ trên nền cũ của nhà thờ. Mấy chục cánh quạt cối xay gió của xưởng xay bột nhà Tư Mã, chất thành một đống lớn trên đất bùn. Trên nền xưởng chỉ còn chiếc cột hình trụ chĩa lên trời. Trong tiếng rung ầm ầm của máy trộn bê tông, trong làn khói đen kịt cay xé mũi của nhựa đường đun chảy, Kim Đồng lách qua những nhân viên đo đạc và từng tốp công nhân xây dựng tay cầm bia chai, mặt đỏ dừ vì hơi men, cuối cùng ra khỏi cái thôn đã biến thành công trường, bước lên con đường rải nhựa thông với chiếc cầu đá trên sông Mục.
Khi anh vượt qua cây cầu nhỏ trên sông Mục, trèo qua con đê ở bờ nam, trông thấy ngọn tháp bảy tầng uy nghi xây bằng gạch, thì trời đã hoàng hôn. Ráng chiều nhuộm đỏ thân tháp, những bụi cỏ khô trên kẽ nứt đỏ rục như ngọn lửa. Một đàn bồ câu lượn vòng quanh đỉnh tháp. Một sợi khói trắng đơn độc tỏa trên mái nhà tranh dưới chân tháp. Cánh đồng im lìm, tiếng máy từ công trường vọng lại càng rõ. Ôi sao mà trống trải, trống trải ghê gớm, Kim Đồng cảm thấy đầu như bị rỗng, dòng nước mắt mặn chát chảy vào miệng anh.
Anh cố nén trống ngực cứ dội lên từng đợt, nhằm hướng cây tháp buộc tới.
Từ rất xa, anh đã trông thấy một bà già tóc bạc phơ, chống cây gậy làm bằng cán ô hỏng, đứng trước ngọn tháp nhìn về phía anh. Anh cảm thấy đôi chân gần như không bước đi được nữa, nước mắt thì cứ thế mà chảy dài trên má. Giống như cỏ khô trên tháp, mái tóc bạc trên đầu mẹ thoắt cái trở thành những ngọn lửa. Anh kêu lên một tiếng tắc nghẹn rồi nhào tới trước mặt mẹ, quì xuống úp mặt trên đầu gối xương xẩu của mẹ, cảm thấy như chìm trong vục nước sâu, tất cả những âm thanh, màu sắc, những bóng hình đều không còn tồn tại, mà chỉ còn mùi vị của sữa dâng lên mãnh liệt, dâng lên từ chiều sâu của ký ức, chiếm cứ toàn bộ cảm giác của anh.
2
Sau khi trở về nhà, Kim Đồng bị một trận ốm thập tử nhất sinh. Đầu tiên là chân tay rời rã, các khớp đau buốt, sau đó là miệng nôn trôn tháo, toàn một thứ bầy nhầy như ruột cá, thối nồng nặc.
Mẹ tiêu hết số tiền dành dụm trong mười mấy năm nhặt phế liệu ve chai, mời hầu hết các thầy thuốc vùng Cao Mật, nào là tiêm, nào là thuốc gói, nhưng bệnh không hề thuyên giảm. Một hôm, giữa tháng Tám, Kim Đồng cầm tay mẹ nói:
- Mẹ ơi, cả đời con đã làm khổ mẹ, bây giờ thì tốt rồi, con sắp chết rồi, mẹ chịu tội thế là đủ rồi!...
Bà Lỗ nắm chặt tay con trai, nói to:
- Kim Đồng, không được nói gở! Con đâu đã già! Mẹ đã hỏng mất một mắt mà vẫn còn nhìn thấy những ngày sung sướng sắp tới, ánh nắng chan hòa, hoa thơm sực nức! Phải vượt lên con ạ! Bà nói cứng như vậy, nhưng nước mắt thì rơi thánh thót xuống bàn tay gầy guộc to bè của con.
- Mẹ, chỉ nói hay nói tốt cũng không ích gì! - Kim Đồng nói - Vừa nãy con gặp lại cô ấy. Cô ấy dùng lá cao dán lên vết đạn ở thái dương, tay cầm tờ giấy hồng điều ghi tên cô ấy và tên con, nói rằng đã làm xong giấy đăng ký kết hôn đợi con cùng đi là xong
- Con gái ơi! - Mẹ nước mắt lưng tròng, ngẩng mặt lên trời khấn vái - Con chết thê thảm quá, mẹ biết! Từ lâu mẹ đã coi con như con đẻ của mẹ. Vì con mà Kim Đồng đi tù mười lăm năm. Con ơi, nó không nợ nần gì con nữa, con hãy mở đức hiếu sinh mà tha cho nó để bà già góa bụa này có chỗ nương tựa. Con ơi, con là người thấu tình đạt lý người xưa đã nói, sống chết chia hai ngả, ai đi đường của người ấy, con hãy tha cho nó con ơi, bà già mù này xin con!...
Trong khi mẹ khấn vái, Kim Đồng qua cửa sổ trông thấy thân hình lõa thể của Long Thanh Bình, cặp vú thép phủ đầy gỉ xanh. Cô ta dạng chân một cách lẳng lơ, chỗ bẹn mọc đầy những cây nấm màu trắng, nhìn kỹ thì lại không phải là nấm, mà là một lũ trẻ con ôm nhau, những vật tròn tròn nhẵn nhụi tưởng là mũ nấm, chính là đầu trẻ con. Đầu tuy nhỏ xíu, nhưng các giác quan đầy đủ tóc vàng mềm mại, mũi cao mắt xanh, vành tai mỏng tròn trĩnh, giống vỏ đậu tróc ra sau khi ngâm nước.
Bọn trẻ đồng thanh gọi anh, tiếng nhỏ nhưng nghe rất rõ: Cha ơi cha, cha ơi! Anh hốt hoảng nhắm tịt mắt. Bọn trẻ ùa ra, chạy lung tung khắp giường, cuối cùng tất cả trèo lên người anh, lên mặt anh, đứa kéo tai, đứa béo mũi, đứa lộn mi mắt anh ra. Chúng vừa nghịch ngợm vừa gọi tên anh. Mặc dù mắt nhắm nhưng anh vẫn trông thấy rất rõ Long Thanh Bình đang lấy giấy ráp đánh gỉ trên vú, lớp gỉ làm rách cả giấy nhám, tiếng cọ xát nghe rợn người, bụi gỉ rơi đầy trên đùi cô, hai núm vú, cả hai bầu vú chuyển sang màu trắng ngà cô nhìn anh bằng cặp mắt buồn rầu, trách móc, tay vẫn đánh gỉ hên tục. Dần dà, cặp vú sáng bóng như chi tiết kim loại mới tiện xong, phản quang lấp lánh. ánh sáng tập trung ở hai núm vú rọi thẳng vào tim Kim Đồng. Anh kêu lên một tiếng rồi ngất đi.
Khi tỉnh lại, anh trông thấy một cây nến đang cháy trên bậu cửa sổ, trên tường còn treo cây đèn dầu. Trong ánh sáng leo lét, anh nhìn thấy khuôn mặt buồn rầu của Hàn Vẹt từ từ cúi xuống:
- Cậu ơi cậu, sao cậu đến nông nỗi này?
Tiếng nói của Hàn Vẹt như từ nơi xa vọng tới. Anh định nói câu gì đó nhưng môi cứng nhắc, không cử động được. Hơi chói mắt vì ngọn nến, anh mệt mỏi nhắm mắt lại.
- Cháu đảm bảo là cậu không thể chết được - Hàn Vẹt nói - Gần đây cháu có nghiên cứu sách xem tướng, cậu là có tướng đại phú đại quí, sống lâu trăm tuổi!
Mẹ nói:
- Vẹt này, cả đời ngoại chưa cầu xin ai, giờ thì phải nhờ cháu giúp!
- Kìa ngoại, ngoại nói vậy có khác gì chửi cháu?
- Hàn Vẹt này, cháu quen nhiều, kiếm cái xe đưa cậu lên bệnh viện đi!
- Ngoại, chẳng cần đi đâu hết, ta ở đây là cấp địa khu ° (° Đơn vị hành chính, dưới tỉnh trên huyện), bác sĩ ở đây còn giỏi hơn bác sĩ của bệnh viện huyện. Bác sĩ Lãnh đã khám thì không cần đi đâu nữa. Bác sĩ Lãnh là cao thủ của bệnh viện Hiệp Hòa, từng xuất dương ăn cơm Tây, ông ấy bảo không chữa được là không chữa được?
Mẹ thất vọng, nói:
- Vẹt này, đừng có ở đấy mà bẻm mép nữa! Về nhà đi kẻo muộn, vợ cháu lại cho cháu một trận.
- Thế nào cũng có ngày cháu thoát khỏi gông xiềng, ngoại cứ đợi mà xem! Chỗ này hai mươi đồng, ngoại cầm lấy xem cậu thích ăn gì thì mua cho cậu!
- Cháu cầm lấy tiền!- Kim Đồng nghe mẹ nói: - Về đi, cậu mày không muốn ăn gì cả?
- Cậu không ăn thì còn ngoại. Ngoại vất vả nuôi cháu khôn lớn. Hồi đó, về chính trị thì bị chèn ép, về kinh tế thì không một xu dính túi, cậu bị bắt đi rồi, ngoại cõng cháu đi ăn mày, đi khắp một vạn tám nghìn hộ vùng Cao Mật. Cứ nghĩ đến chuyện đó là cháu lại đau xé ruột, nước mắt đầm đìa? Chúng ta khi đó là phó thường dân, nếu không, đời nào cháu lại lấy con vợ chết tiệt ấy, phải không ngoại? Có điều, cuộc sống tội nợ sẽ qua đi rất nhanh. Đơn xin vay vốn xây dựng Trung tâm nuôi chim Phương Đông của cháu đã được thị trưởng ký duyệt. Ngoại ơi, chuyện này là xong, may mà có cô em Lỗ Thắng Lợi, cô ấy bây giờ hơi bị nể đấy, là Giám đốc Ngân hàng Công thương thành phố Đại Lan, tuổi trẻ năng động, nói một là một hai là hai, chắc như đinh đóng cột. ừ nhỉ, sao cháu quên bẵng cô ta nhỉ? Ngoại đùng lo, để cháu đi tìm cô ấy. Bệnh của cậu, cô ấy không giúp thì ai giúp? Cô ấy là cháu, lại được ngoại nuôi nấng từ nhỏ. Để cháu đi tìm cô ấy. Cô ấy sống trên tài mọi người? Đi đâu thì ngồi xe con, ăn uống thì, hai chân là chim câu, bốn chân là ba ba, tám chân là cua bể, mình cong là tôm, gai mọc đầy mình là hải sâm, có nọc độc là rết rừng, không nọc độc là trứng cá sấu. Thịt gà thịt vịt, thịt chó thịt heo đã bị cô ấy loại bỏ từ lâu. Cổ đeo dây chuyền vàng, nói bậy một tí, to như xích chó; ngón tay đeo nhẫn bạch kim gắn hạt xoàn, cổ tay đeo vòng ngọc, mắt đeo kính gọng vàng, mặc thời trang Pari, xịt nước hoa Pari, cái nước hoa ấy đã ngửi một lần thì suốt đời không thể quên...
- Vẹt, cầm lấy tiền? Đi đi! - Mẹ cắt ngang lời Hàn Vẹt, nói - Cháu cũng không cần đi tìm nó. Nhà Thượng Quan không có cái diễm phúc là thân thích của con người cao quí đó!
- Ngoại ơi, như vậy là ngoại không đúng rồi! - Hàn Vẹt nói - Cháu dùng xe loại xoàng cũng có thể đưa cậu đến bệnh viện, nhưng ngoại nên biết, thời buổi bây giờ, mọi chuyện đều ở mối quan hệ, người bệnh cháu đưa vào so với ngươi bệnh cô ấy đưa vào, khác nhau nhiều lắm!
- Ngày xưa cũng vậy thôi - mẹ nói - Chuyện chạy chữa của cậu mày đành vậy thôi, sống chết có số, số nó không chết, gì thì gì cũng sống; nếu mệnh yểu thì Hoa Đà, Biển Thước sống lại cũng không cứu nổi nó. Cháu đi đi, đừng làm ngoại rầu ruột?
Hàn Vẹt còn định lải nhải nữa, mẹ tông đầu gậy xuống đất, nói:
- Vẹt này, cháu làm ơn cầm lấy tiền, đi ngay cho ngoại nhờ!
Hàn Vẹt đi rồi, Kim Đồng mơ màng nghe thấy tiếng mẹ gào khóc. Gió đêm xào xạc trong những bụi cỏ trên tháp. Sau đó anh nghe thấy mẹ lịch kịch nhóm lửa, rồi lát sau, mùi thuốc bắc xộc vào mũi. Anh cảm thấy trong đầu có một khe hở, mùi thuốc lọt vào khe hở đó như sợi chỉ. Ôi, đó chính là mùi thơm của cỏ tranh, mùi hắc của ngải cứu, mùi chua của lá cây-sống-đời, mùi mặn của bồ công anh, còn mùi cay thì hình như là của cây thương nhĩ, mùi biển sức, mùi bán hạ, mùi vỏ cây dâu, mùi mẫu đơn bì và mùi hạt đào bao tử....
Mẹ hái gần như toàn bộ những cây làm thuốc có ở vùng Cao Mật, cho tất cả vào nồi mà sắc. Cái mùi hỗn hợp ấy len lỏi như con thủy long tẩy rửa những cặn bã bám trong đầu anh, dòng suy nghĩ của anh dần dần hé mở. Anh nghĩ tới cánh đồng bên ngoài cửa sổ phủ một lớp dày cỏ xanh, tô điểm bằng hằng hà sa số những bông hoa dại và những con tiên hạc đi lại khoan thai trong đầm lầy. Một bụi hoa cúc vàng dụ dỗ những con ong mật chân dính đầy phấn hoa, bay tới. Anh nghe thấy tiếng thở trầm trầm của đất và tiếng rơi của hạt tách ra từ những quả chín.
Mẹ bê chậu nước thuốc, lau chùi cơ thể anh bằng một nắm bông. Anh ngượng. Mẹ nói:
- Con ơi, con có sống đến một nghìn tuổi thì vẫn là con của mẹ!...
Mẹ lau ngươi anh khắp lượt, ngay cả chỗ bẹn cũng cọ rửa sạch sẽ. Gió đêm lùa vào phòng, mùi thảo được càng đượm. Anh cảm thấy chưa bao giờ khoan khoái đến thế, sạch sẽ đến thế! Lúc này anh nghe thấy những tiếng u u như núc nở, như than vãn phát ra từ bức tường vỏ chai, có đến mấy vạn chiếc, phía sau nhà. Những âm thanh trầm bổng, biến ảo khôn lường ấy khiến anh chảy nước mắt. Anh nghĩ tới tổ tiên khi mới đứng thẳng làm người dùng gậy gộc tấn công thú dữ mà trong lòng trào lên niềm cảm phục. Anh nghĩ tới bầu trời đầy sao bên ngoài, những tinh cầu quay quanh ban thân và bay theo quĩ đạo dể hình thành những xoáy ốc sáng rực, không biết đâu là tận cùng trên bầu trời. Anh nghe thấy tiếng vận hành khoan thai của sao Mộc, tiếng trầm đục của sao Thổ, tiếng hát tuổi vui của sao Thủy, tiếng xào xạc êm êm của sao Hỏa và tiếng sắc nhọn chói tai của sao Kim. Những âm thanh chuyển động của năm hành tinh hòa quyện với tiếng hu hu trước gió của hàng vạn cái chai, khiến anh lặng lẽ đi vào giấc ngủ, lần đầu tiên anh ngủ một mạch đến sáng bạch, không bị những cơn ác mộng đánh thức nửa chừng.
Sáng sớm hôm sau, khi mở mắt ra cũng là lúc anh ngửi thấy mùi sữa tươi, nhưng rất khác mùi sữa của mẹ và sữa dê mà anh đã quen. Khi anh phán đoán cái mùi ấy vì đâu mà có, một cảm giác tràn ngập trong anh, cái cảm giác khi anh là công tử Tuyết sờ vú cầu phúc cho phụ nữ. Cái vú cuối cùng của ngày hôm đó khiến anh nhớ mãi là vú của mụ Kim, chủ hiệu dầu ăn. Vậy là anh hiểu, cái mà anh mong đợi chính là chiếc vú duy nhất của mụ Kim và dòng sữa tràn trề của nó. Anh nhẩm tính, kể từ chợ phiên Công tử Tuyết cuối cùng, cách đây vừa chăn ba mươi năm, cô Kim khi đó vì muốn xuống thành phần, phải hạ mình lấy Kim-mắt-vuông, tính sơ sơ, chí ít mụ cũng đã trên năm mươi. Người phụ nữ đến tuổi này thì vú đã mướp, giữ sao được tròn trĩnh, nhiều sữa? Anh thất vọng cảm thấy mình tự đánh lừa mình.
Mẹ thấy anh tỉnh táo hẳn ra thì rất mừng, bà nói:
- Con thích ăn gì để mẹ làm. Mẹ đã mượn được tiền của cô Kim, vài hôm nữa, cô ấy sẽ cho xe đến chở số chai thủy tinh sau nhà để trừ nợ!
- Chị Kim...- Kim Đồng tim đập loạn xạ, hỏi - khỏe không mẹ?
Mẹ nhìn anh bằng con mắt trái còn lại, băn khoăn trước thái độ phấp phỏng của con trai. Bà thở dài tỏ vẻ bất lực:
- Bây giờ cô ấy trở thành Vua phế liệu của cả vùng dọc ngang hàng trăm dặm, trong nhà có ô tô, thuê mướn năm chục công nhân đùn nhựa. Tiền nhiều, có điều chồng cô ấy chẳng chịu làm gì cả, cô ấy thì tai tiếng!... Mẹ bất đắc dĩ mới phải nhờ vả. Cô ấy quá vô tư, ai đời đã năm mươi tuổi đầu mà ma xui quỉ khiến thế nào lại đẻ thêm thằng con trai...
Kim Đồng như bị một cái tát vào mặt, anh ngồi nhỏm dậy. Trong khoảnh khắc, anh cảm thấy mình nhìn rõ khuôn mặt đầy đặn, nhân từ của Thượng đế. Cảm giác không đánh lừa mình, anh sung sướng nghĩ thầm và cảm thấy rất rõ mụ Kim đang ưỡn ngực bước nhanh về phía ngôi nhà anh đang nằm. Hình ảnh Long Thanh Bình với cặp vú han gỉ, giận dỗi lùi dần ra xa rồi mất hút. Anh ngượng nhưng thắng thắn bảo mẹ:
- Mẹ, khi chị ấy đến, mẹ lánh đi một lát được không?
Mẹ ngớ người, trả lời dứt khoát:
- Con ơi, con vừa chật đất trở về, chuyện gì mẹ cũng theo ý con. Mẹ đi ngay đây!
Anh thấp thỏm nằm xuống giường và lập tức chìm đắm trong cái mùi vị đầy sức sống ấy, cái mùi không phải từ đâu đưa đến, mà từ trong chiều sâu ký ức của anh. Anh nhắm mắt lại là trông thấy khuôn mặt đã đẫy ra nhưng chưa mất đi vẻ mịn màng của chị, đôi mắt vẫn đen láy như ngày nào, đưa dẩy tình tú, hớp lấy hồn phách người đàn ông. Chị đi khá nhanh, gần như chạy, bầu vú mà năm tháng không lưu lại được vết tích gì trên đó, nhảy tung tung sau lần vải hoa. Núm vú hồng hồng nhô cao, sữa chảy dầm dề do cọ xát, ướt đẫm một mảng trước ngực bằng cái đĩa. Dần dà, yếu tố tinh thần dâng lên trong anh và yếu tố vật chất tràn ra từ bầu vú của mụ Kim nhích lại gần nhau và cuối cùng nhập làm một, y hệt đôi bướm màu trong mùa giao phối. Anh mơ mắt đã thấy mụ Kim đứng bên giương, giống hệt như anh tưởng tượng về chị.
- Người anh em - chị cúi xuống, cầm lấy cánh tay gầy như que củi của anh, nước mắt chạy quanh, giọng thương cảm - Người anh em của tôi, đến nông nỗi này ư. Trái tim anh như tan ra trước tình cảm ấm áp của ngươi phụ nữ. Như con chó con chưa mở mắt, anh dướn người lên, giơ cặp môi nóng bỏng đón dưới ngực chị. Không chút do dự, chị vén áo để bầu vú đầy sữa, màu vàng mật như dưa Ha-mi, thả xuống trước mặt anh. Miệng anh tìm núm vú, núm vú tìm miệng anh. Khi anh run rẩy ngậm được nó, nó cũng lẩy bẩy thả được vào miệng anh, hai người run bắn như bị bỏng, thốt ra những tiếng rên rỉ. Anh cảm thấy hàng chục tia sữa mảnh mai nhưng mạnh mẽ, tia thẳng vào miệng rồi dồn lại thành một dòng nóng hổi, ngọt lịm trong họng, chảy vào khoang dạ dày thường xuyên nôn ra mật xanh mật vàng của anh. Đồng thời chị cũng cảm thấy niềm si mê dồn nén mấy chục năm với người đàn ông đẹp trai, cũng liên tục tràn ra như dòng sữa. Cả hai đều khóc.
Anh uống cạn bầu sữa, và như trẻ nhỏ, anh đi vào giấc ngủ ngon lành, miệng vẫn ngậm đầu vú. Chị dịu dàng vuốt mặt anh khẽ kéo núm vú. Miệng anh chúm chím, màu hồng đã phảng phất trên khuôn mặt vàng bủng.
Chị Kim trông thấy bà Lỗ nét mặt đau đớn đang nhìn chị. Qua nét mặt dầu dãi nắng mưa của bà, chị không nhìn thấy vẻ trách móc và ganh tị, mà là sự trách móc sâu sắc với bản thân bà và sự cảm kích vô hạn. Chị Kim kéo vạt áo xuống giọng dứt khoát: Bác ơi, đây là cháu tự nguyện, cũng là khát vọng của cháu trong đời. Cháu và anh ấy có duyên phận với nhau từ kiếp trước?
Bà Lỗ nói:
- Chị nó này, đã có nghiệp tiền duyên thì tôi không nói lời cảm ơn nữa?
Chị Kim lấy ra một nắm tiền, nói:
- Bác ơi, hôm nọ tính sai, bấy nhiêu chai không chỉ chừng ấy tiền!
Bà Lỗ nói:
- Chị nó này, chỉ sợ anh ấy biết lại không vui!
Chị Kim nói:
- Anh ta chỉ cần có rượu, ngoài ra không cần gì hết! Bác ơi, thời gian này cháu bận, mỗi ngày chỉ đến được một lần, những lúc vắng cháu, bác nấu chút gì loang loãng cho anh ấy ăn!
Được Kim Một Vú chăm sóc, sức khỏe Kim Đồng hồi phục rất nhanh. Như rắn lột xác, lớp da cũ của anh tróc hết, một lớp da mới mọc ra, hồng hào và trẻ trung. Liên tiếp trong hai tháng anh không ăn một hạt cơm, hoàn toàn sống bằng sữa của Kim Một Vú, mặc dù anh luôn trong tình trạng thèm ăn. Cứ nghĩ đến phải ăn lương thục là mặt mày anh tối sầm và dạ dày quặn lên từng cơn. Mẹ vừa thở phào mừng anh qua khỏi căn bệnh chết người, nay lại bắt đầu lo. Mỗi buổi chiều, anh lại ra chỗ bức tường bằng ve chai rên rỉ trong gió, ngóng về phía con đường mòn mà đầu đằng kia là thành phố mới trỗi dậy, sốt ruột như con mong mẹ về chợ, như tình nhân trong buổi hẹn hò, đến là khổ!
Một bận, anh đợi từ sáng sớm đến tối mịt vẫn không thấy bóng dáng chị Kim. Chân mỏi nhừ, mắt nhòa đi, anh ngồi xuống tựa lưng vào bức tường ve chai. Làn gió tây bắc nhè nhẹ thổi vào các miệng chai to nhỏ khác nhau phát ra bản nhạc não nùng, sự tuyệt vọng đè chặt trái tim, anh bất giác trào nước mắt. Mẹ chống gậy đứng trong sương chiều dày đặc, nhìn anh bằng ánh mắt khinh miệt. Mẹ không nói gì, chỉ đứng nhìn một lúc rồi gõ đầu gậy xuống đất thật mạnh đi vào nhà.
Sáng hôm sau, Kim Đồng kiếm một chiếc liềm, một cái sọt, đi ra chỗ con mương. Trong bữa ăn sáng, anh nhắm mắt nhắm mũi gần như nuốt chửng hai củ khoai luộc bây giờ bụng anh nhâm nhẩm đau, cổ họng có mùi chưa. Anh cố giữ cho khỏi nôn, hít thật mạnh mùi cỏ bạc hà. Anh nhớ ra hợp tác xã cung tiêu thu mua cỏ bạc hà. Anh bán cỏ bạc hà cho họ không chỉ kiếm thêm vài đồng chi dùng, mà còn để quên đi mềm si mê bầu sữa của Kim Một Vú. Bạc hà mọc từ ta luy xuống tận lòng mương, bầu không khí mát mẻ khiến anh khoan khoái, mắt hình như nhìn rõ hơn. Anh cố ý hít thở thật sâu để mùi bạc hà tràn đầy hai lá phổi, rồi bắt đầu cắt. Mười lăm năm ở nông trường lao cải, anh nắm được kỹ thuật cắt cỏ, vì vậy chỉ một thoáng từng đám cây bạc hà đổ rạp xếp hàng sau lưng anh.
Anh phát hiện một cái hang to bằng miệng bát bên bờ mương. Thoạt đầu, anh giật thót, nhưng ngay sau đó anh mừng quýnh lên, đoán rằng đây là hang thỏ. Anh rất muốn bắt được một con thỏ để bồi dưỡng cho mẹ. Anh luồn cán liềm vào nghe thấy có tiếng lục cục thì biết rằng trong hang có thỏ. Thế là anh kề lưỡi liềm vào miệng hang. Con thỏ từ từ ló đầu lên, những sợi ria rất dài ngọ nguậy.
Anh giật một cái nhưng con thỏ đã kịp thụt xuống, anh lia hụt. Khi con thỏ ló đầu lên lần thứ hai, anh cảm thấy lưỡi liềm bập sâu vào đầu nó. Anh giật mạnh, con thỏ văng ra dưới chân, máu me đầm đìa, mũi liềm cắm sâu vào một bên mắt. Một cảm giác ớn lạnh rung chuyển toàn thân, anh quẳng cái liềm trên bờ mương, nháo nhác nhìn quanh tìm người cầu cứu, chẳng khác đứa trẻ khi gặp tai họa.
Mẹ đứng sau lưng anh đã từ lâu, cất giọng run run của người già, hỏi:
- Kim Đồng, con làm gì đấy?
- Mẹ... - Anh đau khổ nói - Con đã giết một con thỏ?... Nó đáng thương quá, con rất hối hận, tại sao con lại giết nó kia chứ?
Mẹ với một thái độ nghiêm khắc chưa bao giờ thấy, nói:
- Kim Đồng, thấm thoắt, con đã bốn mươi hai tuổi rồi, vậy mà con vẫn lẵng nhẵng như trẻ con. Mấy hôm trước mẹ chưa nói, hôm nay thì mẹ phải nói. Mẹ không thể bên con suốt đời. Mẹ chết rồi thì con phải tự lập, lo cho cuộc sống của mình. Cứ mãi thế này sao được hở con?
Kim Đồng rùng mình, lấy đất lau máu thỏ trên bàn tay. Mặt nóng bùng, anh khó chịu về những lời phê bình của mẹ.
Anh cất giọng ai oán, nói:
- Con thì làm nổi chuyện gì hả mẹ?
- Con ơi, con nghe đây. Bây giờ, như một người đàn ông thực thụ, con xách con thỏ này xuống sông Mực, lột da mổ bụng nó ra, rửa ráy cho sạch rồi nấu chín mời mẹ con ăn. Nửa năm nay mẹ con chưa được miếng thịt nào vào miệng! Khi lột da mổ thịt, có thể con cảm thấy ghê tay cho thế là tàn nhẫn, nhưng một con người trưởng thành như con mà còn bú tí thì có tàn nhẫn không? Con phải biết, sữa là máu của người phụ nữ, việc con làm còn tàn nhẫn gấp trăm lần giết một con thỏ! Nghĩ như vậy, con mới dám làm thịt con thỏ, con mới cảm thấy sung sướng! Người đi săn bắn hạ con mồi, anh ta không buồn vì đã giết một sinh mạng, anh ta vui mừng vì anh ta hiểu rằng tất cả chim chóc thú vật trên đời đều do Chúa sáng tạo cho con người dùng, còn người là chủ của muôn vật, con người là thiêng liêng so với loài vật!
Kim Đồng gật đầu, trong lòng như cất được gánh nặng. Trái tim bất định của anh như quả bầu nổi trên mặt nước, nay đã có chỗ dựa dẫm, bấu víu.
Mẹ hỏi tiếp:
- Cô Kim vì sao không đến nữa, con có biết không?
Kim Đồng nhìn mẹ nói: - Phải chăng mẹ...
- Đúng - Mẹ nói - Chính mẹ đi tìm cô ấy. Mẹ không thể giương mắt mà nhìn cô ấy hủy hoại con trai của mẹ!
- Mẹ... sao mẹ lại làm như vậy!...
Mẹ không thèm để ý những lời trách móc của anh, nói tiếp:
- Này cô, nếu cô thất tình yêu con trai tôi, cô có thể ngủ với nó, nhưng tôi không cho phép cô tiếp tục cho nó bú sữa của cô!
- Chính là sữa của chị ấy đã cứu sống con! - Kim Đồng gào lên - Nếu không, con đã chết rồi, đã thối rữa ra rồi, bị giòi bọ ăn thịt rồi?
- Mẹ biết, mẹ làm sao quên được chính cô ấy đã cứu sống con - Mẹ chọc chọc gậy xuống đất, nói - Mấy chục năm nay mẹ hồ đồ quá, bây giờ mẹ mới hiểu, có một đứa con cả đời đánh đu trên bầu vú của mình, chẳng thà để nó chết quách cho xong!
- Vậy - Kim Đồng lo lắng hỏi - Chị ấy bảo sao?
- Một con người đáng nể - cô ấy nói - Bác về nói với người anh em hộ cháu, trên giường mụ Kim luôn dành sẵn một cái gối cho anh ấy?
- Nhưng còn chồng chị ấy thì sao? - Kim Đồng mặt tái nhợt.
Mẹ nói với giọng khiêu khích:
- Con cố cho mẹ đẹp mặt một tí. Nếu con còn là con của mẹ thì nên đi tìm cô ấy mẹ không cần một con trai không bao giờ khôn lớn, mẹ muốn có một Tư Mã Khố, một Hàn Chim, dám nói dám làm, dám gây ra tai họa, mẹ muốn có một thằng con trai khi đái thì đái đứng.
Mạc Ngôn
Theo https://vnthuquan.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Câu chuyện củ những cánh lá

Câu chuyện củ những cánh lá Đọc tạp bút Vớt lá trên sông của Cao Thoại Châu, nhà xuất bản Hội Nhà Văn - 2010 Một giáo viên bị động viên đi l...