Vẻ
đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại
Nguyên tác
Mộ
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bào túc ma hoàn lô dĩ hồng
Dịch nghĩa:
Chiều tối
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng
Thế nào là cổ điển? Chữ “cổ điển” ở đây được hiểu theo hai
nghĩa, thứ nhất là từ chỉ những tác phẩm văn học đã được thử thách qua thời
gian, được công nhận như mẫu mực, cổ điển là những yếu tố/tác phẩm nghệ thuật
đã đạt tới sự hoàn thiện cao về mặt thẩm mỹ. Thứ hai, cổ điển là một tính từ chỉ
lối viết, cách thể hiện đã trở thành một truyền thống văn học. Như vậy, phạm
trù cổ điển thuyết minh cho tính ổn định, bền vững, tính gần gũi quen thuộc,
giúp ta hiểu thêm sự gặp gỡ, đồng điệu giữa những tâm hồn và sự uyên bác của một
nhân cách văn hoá.
Vậy, đâu là vẻ đẹp cổ điển của thi phẩm Chiều tối? Nói
rộng ra là vẻ đẹp cổ điển của Nhật ký trong tù?
Bài thơ Chiều tối được làm theo thể thất ngôn
tứ tuyệt Đường luật. Đây là thể thơ có ưu thế trong miêu tả tâm trạng, thường
tạo ý ở ngoài lời, xây dựng hình ảnh tượng trưng ước lệ, và biểu lộ chủ đề ở một
vài nhãn tự. Nhà văn Pháp, Roger Denux từng nhận xét: “Thơ Người nói ít mà gợi
nhiều, là loại thơ có màu sắc thanh đạm, không phô diễn mà như cố khép lại
trong đường nét để cho người đọc tự thưởng thức. Phải yên lặng một mình đọc thơ
Người. Phải thỉnh thoảng phải ngừng lại để suy nghĩ mới cảm thấy hết những âm
vang của nó và nghe những âm vang ấy cứ ngân dài mãi”. Tất cả những đặc điểm đó
được thể hiện rõ nhất trong “Chiều tối”.
Trước hết phải khẳng định rằng, cái tứ của bài thơ nằm ngay ở
nhan đề: “Chiều tối”. Cách thức triển khai tứ thơ ấy của tác giả tạo ra cảm
giác thời gian đang vận động: trời chiều đang chuyển vào đêm, cô em xóm núi xay
ngô xong thì bếp lò cũng đỏ rực. Xét theo mạch thơ chữ “hồng” giữ vai trò
quan trọng. Chữ“ hồng” gợi không gian ấm cúng, tươi vui yên bình, chất chứa
một sức sống mạnh mẽ và làm cho không gian thơ bừng sáng. Tư tưởng nhân đạo và
cái nhìn nhạy cảm tinh tế, lạc quan của Bác thể hiện tập trung trong từ này. Do
vậy, có thể xem, chữ hồng là một nhãn tự.
“Chiều tối” gặp gỡ với cổ thi trong nghệ thuật kết cấu câu
thơ. Cặp câu nào cũng hài hòa đăng đối. Đó là sự đối lập giữa cánh chim bay mỏi
với chòm mây trôi nhẹ, giữa không gian hữu hạn (chốn ngủ) với không gian vô hạn
(từng không), đối lập giữa tối và sáng, giữa hai câu thơ đầu miêu tả cảnh vật hắt
hiu tàn tạ với hai câu thơ sau miêu tả con người lao động khỏe khoắn.
“Chiều tối” là bài thơ chữ Hán. Từ ngữ Hán Việt tự
nó tạo ra vẻ đẹp cổ điển, trang trọng, với hàm nghĩa phong phú, giàu sức gợi. Cảnh
thơ trong Chiều tối thâu tóm được linh hồn tạo vật, ở đấy nhân vật trữ
tình giàu tình cảm đối với thiên nhiên, hòa hợp tâm hồn với thiên nhiên vũ trụ.
Bác không để cho cảnh ngộ đau khổ trói buộc cảm xúc của mình; hồn thơ của Bác vẫn
rung động trước thiên nhiên vùng sơn cước đẹp đẽ. Có lẽ vì thế ta bắt gặp sự
tương đồng giữa cảnh ngộ tâm trạng của người tù - thi sĩ với trạng thái, hướng
vận động, của cánh chim trời bay về tổ và đám mây trôi chưa biết dừng nơi nào
trong thời khắc một buổi chiều tàn. Trong thơ xưa, chẳng hạn như thơ của Nguyễn
Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm… cảm xúc đó cũng được thể hiện rõ nét. Nhìn chung cảm hứng
trước thiên nhiên và ngôn ngữ thơ góp phần tạo tên màu sắc cổ điển của bài thơ
này .
Màu sắc cổ điển của bài thơ được thể hiện ở cả thi liệu. Người
đọc đã từng gặp trong ca dao, thơ trung đại hình ảnh đám mây trôi qua ngang trời,
cánh chim chiều đập cánh vội. Đi giữa miền thơ, ta đã quen lắm với cảnh tượng ở
một khung trời miên viễn nào đó, chợt xuất hiện cánh chim lẻ loi. Ngàn đời vẫn
vậy xui khiến con người nhớ tới cảnh ngộ cô đơn của mình, từ đó thấm thía về sự
xa xăm phiêu bạt của đời người. Thi nhân xưa thường đặt hình ảnh cánh chim
trong tương quan với bầu trời, đám mây, ngọn gió. Đặt trong tương
quan với bầu trời để cảm hết được cái rộng dài hun hút của không gian, trong
tương quan với đám mây để gợi cảm giác chia ly, và phải đặt trong quan hệ với
ngọn gió mới thấy hết được cái khó khăn, vất vả của cánh chim đang đập cách vội
(Thơ Vương Bột, Lý Bạch, Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan…)
Trong phép làm thơ Đường luật, câu thơ đầu của bài thơ thường
phải nói rõ được đề tài. Đề tài của bài thơ là “ chiều tối”. Câu khai của
bài thơ quả thực đã giới thiệu được rất cụ thể khoảnh
khắc thời gian đặc biệt trong ngày. Chiều tối vừa là thời gian vật lý vừa là thời gian tâm trạng. Hình ảnh cánh chim bay về tổ ở đây không thể thuộc
về một thời gian nào khác khoảnh khắc ngày tàn. Câu thừa của bài thơ
tiếp tục làm nổi bật không khí của buổi chiều muộn nơi xóm núi. Thực ra mây
trên trời lúc nào cũng có, song phải là đám mây với dáng vẻ hiu hắt, chậm chạp
riêng biệt đó mới phù hợp với không khí buổi hoàng hôn. Vẻ đẹp cổ điển của bài
thơ được tạo nên bởi đề tài.
Nhưng có lẽ việc sử dụng bút pháp nghệ thuật quen
thuộc trong thi ca xưa mới là bằng chứng sinh động nhất về vẻ đẹp cổ điển đặc sắc
của tác phẩm Chiều tối. Bút pháp chấm phá tinh tế tạo ra những
câu thơ nhiều tầng nghĩa, mở ra nhiều kiểu liên tưởng trong tâm tư người đọc, cùng bút pháp tả thực tự nhiên giàu chất hoạ khiến cho cảnh vật hiện
lên trong bài thơ với những đường nét rất có thần:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bào túc ma hoàn lô dĩ hồng
Trong nguyên tác không có chữ tối. Câu thơ dịch thêm từ
“tối” làm cho ý thơ hơi lộ. Dụng ý của tác giả chỉ muốn người đọc cảm thấy trời
tối thôi chứ không thông báo trực tiếp thời gian, không gian tối. Dùng ánh sáng
để tả bóng tối, không nói tối mà tả được tối đấy là biểu hiện của thủ pháp
hoạ vân hiển nguyệt thường thấy trong thơ Đường. Âm vang của thơ Đường
trong Chiều tối còn biểu hiện ở chỗ, nhà thơ xây dựng các mối quan hệ, người
đọc phải bằng liên tưởng của mình khám phá ra sự thống nhất giữa chủ thể trữ
tình và thiên nhiên.
Chiều tối cũng sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình. Cảnh
vật thiên nhiên như cùng tâm trạng với con người, đồng điệu với tâm hồn con người. Câu
khai phác hoạ cánh chim mệt mỏi sau một ngày kiếm ăn giờ đang về rừng tìm
chốn đậu. Hình ảnh đó gợi ta nhớ tới một người tù bị cùm xích, bị giải suốt một
ngày ròng rã đương khao khát chốn nghỉ ngơi yên bình. Thêm nữa, chi tiết chòm
mây cô đơn giữa một không gian vắng vẻ… rất tương ứng với cảnh ngộ của chủ thể
trữ tình chưa biết dừng lại, hay tới nhà lao nào. Cánh chim, chòm mây vừa là đối
tượng của niềm thương cảm vừa là biểu hiện bên ngoài của nỗi buồn trong lòng
người tù trên con đường đày ải. Hai câu cuối cảm hứng thơ chuyển sang một hướng
khác: cảnh thiên nhiên buồn nhường chỗ cho cảnh đời bình dị, tươi sáng. Tâm trạng,
hướng nhìn của nhà thơ cũng đổi thay theo từ buồn sang vui. Nếu thiên nhiên
trong hai câu thơ đầu nói hộ tâm trạng của Hồ Chí Minh sau một ngày chuyển lao
mệt mỏi, thì bức tranh phong cảnh trong hai câu kết lại gói ghém khát vọng tự
do. Nhìn chung bức tranh ngoại cảnh được nội tâm hóa trở thành tâm cảnh. Nguyễn
Du từng nói “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” trong trường hợp này, điều đó
rất đúng.
Trong thơ xưa gắn với thời gian buổi chiều thường có hình ảnh
một người lữ thứ tha hương (Qua đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà, Hoàng Hạc lâu…).
Nhân vật trữ tình của bài thơ Chiều tối là một con người như vậy: cô
đơn mỏi mệt, trong lòng không lúc nào nguôi nhớ nhà, nhớ quê hương, nhớ đồng
bào, đồng chí (câu 1). Tác giả không cần tả nhiều nhưng vẫn gợi được ở người đọc
nhiều cảm xúc. Bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh kín đáo thể hiện niềm
khát khao được tự do, sum họp, được trở về quê hương của người tù trên đất khác. Cách cấu tứ của bài thơ, vì thế, cũng mang màu sắc cổ điển.
Thế nào là hiện đại? Tính hiện đại của tác phẩm văn chương biểu
hiện phong phú, trước hết và có lẽ rõ rệt nhất trong sự đổi mới tạo ra những
nét riêng, không lặp lại. Một tác phẩm văn chương mang trong mình tinh thần của
thời đại, phản ánh quan điểm nghệ thuật, hệ giá trị và ý thức tư tưởng của con
người trong xã hội mà nó nảy sinh, thậm chí vượt trước thời đại… đều được gọi
là tác phẩm mang màu sắc hiện đại. Phạm trù hiện đại giúp ta phân biệt thế giới
nghệ thuật này với vũ trụ nghệ thuật khác, xác định cá tính sáng tạo trong văn
học ở những thời đại, giai đoạn khác nhau.
Biểu hiện rõ rệt nhất của tính hiện đại trong bài thơ là hai
câu cuối. Thơ tứ tuyệt Đường luật tạo bất ngờ cho người đọc ở câu chuyển.
Câu chuyển bất ngờ nhưng phải tự nhiên hợp lý. Bài thơ Chiều tối của
Hồ Chí Minh đạt được phẩm chất cổ điển này. Sự chuyển đổi bất ngờ thể hiện ở chỗ:
mạch thơ vận động hướng về mặt đất, sự sống và ánh sáng, thể hiện tinh thần lạc
quan cách mạng. Nói tính hiện đại được thể hiện ngay trong vẻ đẹp cổ điển là
như vậy.
Nếu ở thơ cổ con người thường ẩn đi trong thiên nhiên, thiên
nhiên là chủ thể, thì con người và sự sống trong thơ Bác lại hiện ra, chiếm vị
trí chủ thể trong bức tranh phong cảnh .Con người lao động được khắc hoạ qua
cái nhìn lạc quan của Bác có vẻ đẹp bình dị khỏe khoắn, trở thành nhân vật
chính của bức tranh .Người đọc nhận thấy: Trong bất kì hoàn cảnh nào, chủ thể
trữ tình cũng giữ được phong thái ung dung tâm hồn phóng khoáng, dường như tác
giả quên hẳn cảnh ngộ của mình để đồng cảm với nỗi vất vả, với niềm vui nhỏ
nhoi, đời thường của người lao động. Hình ảnh cô gái xóm núi và lò than rực hồng
tỏa ấm, tỏa sáng là cảnh của một tâm trạng hào hứng, tươi vui. Ánh sáng lò lửa
nhỏ không chỉ sưởi ấm tâm hồn Bác lúc bị lưu đày, mà còn có tác dụng nhóm lên
trong lòng người đọc niềm tin bền bỉ vào cuộc sống. Đó là biểu hiện của chủ
nghĩa nhân đạo cao cả, biểu hiện độc đáo của chất thép.
Điểm nhìn nghệ thuật của bài thơ cũng khá tiêu biểu cho phong
cách thơ hiện đại của Hồ Chí Minh. Trong thơ xưa không gian trên cao chiếm ưu
thế. Nhưng ở “Chiều tối” những quan sát về mặt đất dần thay thế hướng nhìn
lên bầu trời. Thơ của Bác thường tập trung thể hiện mọi buồn vui trong cuộc sống
con người, Bác đưa vào cảnh thiên nhiên vĩnh cửu của thơ xưa một nội dung xã hội
cụ thể.
Chiều tối viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt nhưng cơ bản
không theo lối tư duy hướng về các mẫu mực cổ xưa. Ở đây tác giả hướng người đọc
vào tương lai và hiện thực trước mắt, hướng về quần chúng lao động. Theo Hoài
Thanh, chữ hồng trong câu thơ kết có hai nghĩa, nghĩa đen là màu sắc
thực của ánh sáng lò than, nghĩa bóng là màu cách mạng, màu của chiến thắng, của
tương lai. Nếu thiên về cách hiểu sau, chúng ta thấy sự vận động của hình tượng
thơ, xét đến cùng là sự vận động của cách mạng. Tính hiện đại của bài thơ là ở
đó.
Vẻ đẹp cổ điển hoà quyện tự nhiên với tính hiện đại tạo nên sức
sống lâu bền ,sức hấp dẫn của tập thơ Nhật ký trong tù nói chung và bài
thơ Chiều tối nói riêng.
Hai câu thơ đầu tả không gian núi rừng rộng lớn, nhưng lại gợi
thời gian chiều tối. Giọng the nhẹ nhàng, nhịp thơ thong thả. Hình ảnh thơ đậm
tính ước lệ, người đọc tưởng như tác giả tả cảnh theo công thức có sẵn cứ nói tới
chiều thì nhắc tới chim bay về tổ, mây trôi lững lờ… Thực ra, sự xuất hiện của
hình ảnh cánh chim mỏi mệt và chòm mây cô đơn rất hợp với quy luật tự nhiên của
cảnh chiều, đồng thời hài hòa với tâm trạng của người tù sau một ngày đi đường
mệt mỏi đang bơ vơ nơi đất khách quê người. Nghĩa là ở đây, tác giả miêu tả cảnh
thiên nhiên một cách chính xác đúng như cảnh thật mà mình quan sát, cảm nhận được.
Qua những nét vẽ thấm đượm phong vị Đường thi ấy, ta vẫn thấy ánh lên nét đẹp
riêng của hồn thơ Hồ Chí Minh. Thiên nhiên trong thơ Bác không chết lặng mà chứa
đựng biết bao dấu hiệu của sự sống. Giữa bầu trời cao rộng, chòm mây dẫu nhỏ bé
đơn độc nhưng vẫn cứ chậm trôi. Nó không đứng lặng chơi vơi cả nghìn như đám
mây trên “Lầu Hoàng Hạc”. Hình ảnh cánh chim chiều cũng thế, dẫu mệt mỏi vẫn
không mất hút vào vô tận như trong thơ cổ:
Nghìn non chim hết vẫy vùng
Vắng tanh muôn nẻo tuyệt không dấu người
Áo tơi nón lá ông chài
Con thuyền giữa tuyết ngồi hoài buông câu
– Giang tuyết, Liễu Tông Nguyên
Cánh chim trong thơ Liễu Tông Nguyên mất hút giữa không
gian bao la vô cùng, dường như nó không hề tìm thấy nơi trú ẩn giữa ngàn núi
trùng điệp. Trong Chiều tối của Nguyễn Ái Quốc, cánh chim mệt mỏi,
nhưng vẫn có đường bay xác định, nó quay trở về khu rừng quen thuộc tìm tổ ấm.
Chủ thể trữ tình trong Chiều tối như quên mình là tù nhân, quên nỗi
nhọc nhằn vất vả để hòa mình vào thiên nhiên, yêu thương trìu mến với cảnh vật,
nâng niu, thiết tha với từng dấu hiệu của sự sống. Một sức mạnh tinh thần như
thế chỉ có thể bắt nguồn từ một tâm hồn chiến sĩ.
Xét về tứ thơ. Ta thấy, tứ thơ được mở ra bằng khung cảnh vắng
vẻ, thấm đẫm nỗi buồn, nỗi cô đơn của người xa xứ. Người đọc tưởng sẽ khép lại
bằng hình ảnh bóng tối, bằng niềm thương thân, than thân, xót thân của chủ thể
trữ tình, nhưng thật bất ngờ: cảnh tràn đầy hơi ấm của tình đời, tình người toả
lan từ hồn thơ Hồ Chí Minh. Từ hai câu đầu đến hai câu kết không chỉ là sự chuyển
cảnh mà còn thay đổi về bút pháp: từ ước lệ sang tả thực, hình ảnh thơ cổ điển
sóng đôi với vẻ đẹp hiện đại, cái giản dị chân thực của cuộc sống đời thường
hài hòa với cái trang trọng, thanh cao. Nói khác đi, Chiều tối góp phần
xác nhận một bản sắc thơ độc đáo trong đó có sự hài hoà tinh tế giữa thi pháp
văn học phương Đông cổ điển với những dòng chảy của thi ca hiện đại. Hoàng
Trung Thông rất đúng khi cho rằng: “Thơ Bác rất Đường mà lại không Đường”.
Vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại của thi phẩm thống nhất
trong một kiểu tư duy nghệ thuật mới. Nếu không phải là một người ngay từ
nhỏ đã được học chữ Hán, thơ phú Đường Tống, hấp thụ nhuần nhuyễn văn hóa phương Đông, không phải là một người hoạt động cách mạng, một kiểu nhà văn mới,
nhà văn chiến sĩ am hiểu văn hóa phương Tây, thì chắc chắn thế giới thi ca sẽ
không có được vẻ đẹp riêng, độc đáo đó.
Thúy Liên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét