Thứ Ba, 4 tháng 6, 2019

S. Eliot, nhà cách tân thơ đầu thế kỷ XX

S. Eliot, nhà cách tân thơ đầu thế kỷ XX
Thomas Stearns Eliot (1888-1965) là gương mặt thơ hàng đầu thế giới của thế kỷ XX, mà trường thi The Waste Land - Đất hoang được coi như tác phẩm cách tân trọng yếu mở ra thời hiện đại trong thơ tiếng Anh. Một giải thưởng hằng năm mang tên ông hiện là giải thưởng loại lớn nhất về thơ tiếng Anh, mà nhà thơ Mỹ gốc Việt Ocean Vuong đã nhận được năm 2017 cho tập “Sky Night with Exit Wounds” (bản dịch của Hoàng Hưng “Trời đêm những vết thương xuyên thấu” đã xuất bản ở Việt Nam năm 2018 - NXB Hội Nhà văn và Phanbook).
Nhân cuộc trao đổi về Thơ và Cách tân Thơ trên Văn Việt, chúng tôi xin giới thiệu một tài liệu nghiên cứu về T.M. Eliot, trích từ sách “Creating Minds” (Trí khôn sáng tạo) của nhà tâm lý học Mỹ Howard Gardner, bản dịch chưa xuất bản của Hoàng Hưng.
The Waste Land - Đất hoang thu hồi được
Năm 1968, một bản thảo trong một thời gian dài được coi là đã mất, về nằm trong Bộ sưu tập Berg của Thư viện Công cộng New York. Gói bản thảo gồm 54 trang, phần lớn đã đánh máy, nhưng có vài trang viết tay hai mặt. Vài trang có một số ghi chú, trong khi những trang khác được biên tập rất kỹ bởi nhiều bàn tay khác nhau, và nhiều trang bị gạch bỏ hoàn toàn. Bản thân ngôn ngữ của bản đánh máy cũng khác nhau, nhiều đoạn là tiếng Anh hội thoại, nhiều đoạn là một thứ tiếng Anh lịch lãm hay khó hiểu, và có những dòng rải rác là những ngôn ngữ châu Âu cũng như chữ Phạn.
Không phải là bản thảo thông thường, những trang thu hồi được là các bản nháp tạm thời của The Waste Land - Đất hoang, có thể được coi (tuy còn tranh cãi) là bài thơ nổi tiếng nhất, và hoàn toàn có vẻ là bài thơ tiếng Anh có ảnh hưởng nhất của thế kỷ này. T.S. (Thomas Stearns) Eliot, một nhà thơ sinh ra ở St Louis (Hoa Kỳ), định cư ở Anh, đã bắt đầu viết bài thơ hay những vần thơ sẽ trở thành một đoạn của bài thơ vào khoảng năm 1914, và kết thúc hoàn toàn bản thảo gồm gần 1000 dòng vào cuối năm 1921. Ông đã tặng bản thảo này cho hai người, vợ ông là Vivien (đôi khi đọc là Vivienne) và một bạn thân, Ezra Pound, một nhà thơ gốc Mỹ cũng định cư ở châu Âu. Cùng với Eliot, những “nhà phê bình thân thiện” này đã làm ra những thay đổi căn bản cho bài thơ, trong đó có những thay đổi do gợi ý của Pound làm cho bài thơ giảm bớt khoảng một nửa độ dài. Theo lời của nhà Eliot học Helen Gardner: “Pound làm cho mớ lộn xộn những đoạn hay và dở trở thành một bài thơ”.
Eliot ngay lập tức đánh giá cao ý nghĩa sự giúp đỡ của Pound. Tin chắc rằng bài thơ sẽ được coi như một tác phẩm có ý nghĩa, Eliot đưa nó, như một món quà, cho một nhà môi giới xuất bản người Mỹ là John Quinn; ông này đã đại diện (không lấy thù lao) cho các quyền xuất bản của Eliot ở Hoa Kỳ. Quinn đã chết một năm sau khi nhận bản thảo, và trong quá trình chuyển đổi tài sản nhà đất của ông, bản thảo bị thất lạc; thực tế là Eliot đã đi đến chỗ tin rằng nó đã mất. Việc tìm ra nó 45 năm sau không chỉ giải đáp được một bí mật của văn học, mà còn cho phép nhìn sâu vào sự sinh thành một tác phẩm văn học quan trọng, phát lộ vai trò có thể có của một người phê bình thiện cảm nhưng hồn nhiên. Và nó cũng cô đúc lại câu hỏi vì sao một cặp người Mỹ lưu vong lại viết về sự suy vong của nền văn minh từ lợi thế của họ sau Đại chiến.
Những bến bờ khác nhau trong lý lịch của Eliot
Mặc dù sinh trưởng ở St Louis bên dòng sông Mississipi, Eliot cũng lớn lên trong bóng mát vùng New England. Tổ tiên ông ở cả hai bên nội ngoại đều đến từ vùng Boston, ở đó họ đã là những thủ lãnh về tôn giáo và giáo dục kể từ TK 17. Ông nội của ông, William Greenleaf Eliot đã di chuyển đến vùng St Louis, ở đó, là một thủ lãnh tôn giáo phi học thuyết và một nhà tài chính do năng khiếu, cụ đã sáng lập trường Đại học Washington. Cha của T.S. Eliot, Henry Ware Eliot, một nhà kinh doanh giàu có chỉ lấy thành công làm mục tiêu, là chủ tịch một công ty ép thuỷ lực; mẹ của ông, Charlotte Champe Eliot, là một nhà thơ có tham vọng đáng kể và một tài năng vừa phải thường tự coi mình là một thất bại vì đã không hoàn tất được việc học hành chính thức. Cả hai bậc cha mẹ đều hết sức đạo hạnh, nếu không là quá trọng đạo lý, họ là những người tin tưởng vào một cuộc sống suốt đời “làm việc tốt”; họ cũng là những người cầu toàn. Một người anh em họ xa, Charles William Eliot, đã trở thành chủ tịch Đại học Harvard gần 20 năm trước khi T.S. Eliot ra đời; một thành tích như thế không được xem là không điển hình cho họ nhà Eliot.
Eliot có phần là đứa trẻ ốm yếu được mẹ che chở. Vây quanh cậu là những người phụ nữ - không chỉ mẹ và các chị mà cả những bà con xa cũng như một vú nuôi yêu quý người Ireland, Annie Dunne. Được thừa nhận là cực kỳ thông minh và có tài ngay từ sớm, cậu được trông đợi đạt những tiêu chuẩn rất cao về học thức và đạo đức. Eliot cảm thấy mình mang trong người những ước vọng của tổ tiên Thanh giáo của mình và những sự khắc khổ ấy gây áp lực lớn cho cậu. Niềm vui thích của cậu đến từ những kỳ nghỉ hè chơi dọc bờ sông Mississipi, ở đó cậu đọc sách và thả thuyền. Cậu cũng yêu quý trải nghiệm sống dọc con sông Mississipi hùng vĩ. “Tôi cảm thấy có cái gì đó đã đi qua tuổi thơ của một người sống bên dòng sông lớn, không thể truyền thông cho những ai không có nó”, ông đã viết như thế lúc cuối đời.
Theo mọi lời kể, thì Tom Eliot là đứa trẻ cực kỳ nhạy cảm. Theo người chị của ông, khi Eliot còn đang học nói, cậu đã hay tạo ra nhịp điệu của câu nói không thành lời. Cậu say mê những ấn tượng cảm giác - mùi, tiếng động, hình ảnh - và bị lôi kéo về những hình tượng, cây nến, nén hương. Nhiều thập niên về sau cậu cũng nhớ lại tiếng còi tàu thuỷ rúc ngày đầu năm mới, con sông ngập lụt với xác người trên tàu, xác thú, và những mảnh vỡ đủ loại, cũng như những lời cầu nguyện của bà vú Ireland và những lời bàn của bà về sự tồn tại của Thượng đế. Bị thu hút rất mạnh bởi những ấn tượng cảm giác như thế, tự bản thân nó là không bình thường. Lại càng không bình thường là năng lực của Eliot nhớ lại chúng một cách sống động ngay cả nhiều thập niên về sau và có khuynh hướng thể hiện những ấn tượng ấy trong các dòng thơ.
Ngôn ngữ viết đã là phương tiện truyền thông quan trọng ở cả hai bên nội ngoại của Eliot trong nhiều thế hệ. Charlotte Eliot đã viết nhiều thơ tôn giáo, nhiều bài mang tính giáo huấn. Chàng Eliot trẻ tuổi đã có một trí nhớ về ngôn ngữ rất tốt. Cậu xuất bản tờ báo của riêng mình ở trường học, trong đó có nhiều chuyện khôi hài. Cậu cũng viết các câu chuyện về hàng hải, thơ hài, và thơ nghiêm túc vào tuổi thiếu niên. Cậu nuôi dưỡng đời sống huyễn tưởng của mình bằng cách bịa ra những câu chuyện về Nam Thái Bình Dương và Hawaii. Tuy không thật sự là thần đồng, thơ của Eliot cũng thể hiện một bản năng về hình thức và một giọng điệu rõ ràng. Và năng khiếu giễu nhại của cậu đã được thấy trong một bài thơ bắt chước Ben Johnson mà cậu làm vào năm 16 tuổi.
Eliot cũng là một học sinh đáng để ý. Cậu học rất giỏi ở Smith Academy (cũng do ông nội lập nên) ở St Louis và xuất sắc trong năm học thêm ở Massachusett’s Milton Academy. Cậu đọc rất rộng rãi các sách tiếng Anh, Latin, Hy Lạp, và Pháp, và nhớ được nhiều cái đã đọc. Chỉ có một địa hạt khó khăn với cậu là vật lý; suốt đời, cậu tỏ ra ít hứng thú hay có năng khiếu về khoa học, mà đứng vững chãi trong khoa học nhân văn, là ngành hàn lâm lâu đời hơn trong hai ngành mà nhà khoa học-nhân văn học C.P. Snow mô tả.
Trật chìa ở Harvard
Thật sự mọi cơ sở đều có thể cho ta dự tưởng là Eliot thích hợp hoàn toàn với trường Harvard hồi đầu thế kỷ 20. Gia đình Eliot đã duy trì mối quan hệ lâu dài với Harvard, và đã qua những mùa hè bên vùng bờ biển phía bắc Boston. Eliot là người mọt sách, sính văn chương và sắc sảo - mọi tính cách đáng mong muốn cho một người của Harvard. (Điều thú vị là bản thân Eliot cũng coi mình là kẻ tự cao, trong khi những người đồng thời mô tả anh không giống nhau, như thông minh, dè dặt, ác ý, hấp dẫn, và duyên dáng). Thêm một nét, Eliot là thành viên của một lớp học có lẽ là xuất sắc nhất xưa nay - lớp 1910, trong đó có nhà viết luận văn tương lai Walter Lipmann, chính khách Hamilton Fish, và nhà cách mạng John Reed - giữa một đám sinh viên từ những lớp phụ trong đó có nhà thơ Conrad Aiken, bạn suốt đời của Eliot, và nhà phê bình Van Wyck Brooks.
Phản chiếu sự lãnh đạo của Chủ tịch [Harvard] Eliot và thời của Tổng thống Theodore Roosevelt (bản thân ông cũng tốt nghiệp Harvard), không khí nhà trường nhìn chung được coi là tự do, dân chủ, tiến bộ, duy vật, cá nhân chủ nghĩa, và đa nguyên. Đáng ngạc nhiên nhất, những nét ấy không hấp dẫn Eliot. Harvard đập vào Eliot như cái gì lạnh lẽo, và anh bối rối vì cảm nhận rằng những môn nhân văn là ở tầm thấp kém.
Eliot khám phá trong bản thân những xung động tương phản. Anh coi các tác phẩm văn chương Mỹ của thời đại là rỗng tuếch. Anh khám phá ra rằng mình bị thu hút bởi thứ văn chương khó hiểu của quá khứ và của những miền đất ngoại quốc, hơn là những vần thơ dễ dãi và mang tinh thần ái quốc cực đoan của nhà thơ được ưa thích ở trường Cambridge, Henry Wadsworth Longfellow; anh tìm đến những ông thầy như Irving Bobbit, người được đồng nhất với những lý tưởng bảo thủ và Công giáo La Mã; anh ưa thích sự huyền bí phương Đông hơn là tín điều Một Ngôi giản dị của giới bình dân La Mã [plebeian Unitarian: tín điều của giới bình dân cổ La Mã coi Chúa chỉ có Một Ngôi, không phải Ba Ngôi - Trinity - như niềm tin của Nhà thờ Công giáo - ND] mà tổ tiên anh đã theo.
Tiếp tục viết, Eliot góp thơ cho tờ tạp chí Advocate của sinh viên đại học; những đề tài về sự nhơ bẩn của đô thị và thiên nhiên héo tàn, cũng như một tính nhạy cảm phương Đông chớm nở, có thể thấy được trong những gì mang một tâm hồn trẻ trung không rõ rệt. Cũng như trong thơ của nhiều tác giả trẻ, cảm xúc mạnh nhưng chưa khác biệt rõ và thể hiện rõ bằng ngôn từ của tác giả, và tất nhiên đối với người đọc thì những cảm xúc này vẫn còn xa mới hiển nhiên trong tự bản thân.
Một sự biến then chốt trong khi học ở Harvard là việc Eliot khám phá ra cuốn sách The Symbolist Movement in Literature - Phong trào Tượng trưng trong văn học của Arthur Symon. Eliot nồng nhiệt hưởng ứng sự bác bỏ của Symon đối với chủ nghĩa tả thực tầm thường, việc ông này đối xử với nghệ thuật như một kiểu tôn giáo, việc đi tìm một thị ảnh tâm linh ở đó những biểu tượng thơ có thể bắt được tinh chất của sự vật, và niềm tin rằng một bài thơ có thể tạo nên thế giới của chính nó, không tham chiếu bất cứ gì bên ngoài những yếu tố của chính nó. Symon dẫn dắt sự chú ý của Eliot tới thơ Pháp, và đặc biệt tới tác phẩm của Jules Laforgue, một nhà thơ cuối thế kỷ 19 ít nổi danh.
Eliot lập tức khám phá ra một sự “gần gũi tự chọn” với các tác phẩm của Laforgue, người đã thử nghiệm những giọng khác nhau để thể hiện sự đau đớn, lời ăn tiếng nói thông thường, và sự bình phẩm hống hách. Nhìn thế giới như suy đồi và trầm uất, Laforgue có năng lực đặt liền kề sự nhàm chán của tuổi trẻ với sự thoái lui của tuổi già; ông nhìn những ý tưởng nghiêm túc qua sự mỉa mai, hài hước và xa cách về cảm xúc. Sau này Eliot nói: “Tôi càng cảm thấy biết ơn ông hơn là với bất kỳ ai khác. Tôi không nghĩ rằng mình đã gặp bất kỳ nhà văn nào khác có ý nghĩa với mình nhiều như ông vào thời điểm đặc biệt ấy”.
Chắc chắn là được khuyến khích bởi thơ tượng trưng Pháp mà mình mới khám phá, cũng như tấm gương của nhà thơ Pháp Charles Baudelaire trước đó, Eliot cũng phát triển một sự nhạy cảm cá nhân cao hơn. Anh thấy bản thân mình bước đi qua những vùng thối rữa của Boston, xen kẽ giữa cảm xúc hấp dẫn và khước từ. Cùng lúc, anh vẫn đến những phòng khách của giới Quý tộc Boston [Boston Brahmins], và những câu lạc bộ thời trang và những quán rượu của giới đặc tuyển Harvard. Anh cảm thấy rằng Boston, một thời từng sống động và năng động, giờ đây ù lì, công dân của nó căng thẳng và tha hoá. Đời sống Thanh giáo nhất quán, cũng có thể là khắc khổ, đã bị thay thế bằng chủ nghĩa con buôn ngu xuẩn và sự đổ nát thị thành. Sự xung đột giữa những thế giới ấy - thế giới nhà ổ chuột và thế giới quý phái Cambridge, sự khổ sở của kẻ nghèo và sự đạo đức giả của các nhóm xã hội trung lưu - gây ấn tượng bất ổn sâu xa cho chàng sinh viên trẻ nhạy cảm. Trong những bài thơ viết năm 1908 và 1909, anh đi tìm cách thể hiện tổng thể những tình cảm mới nổi lên của mình.
Đôi khi, những trải nghiệm kết tinh của Eliot thật là chuyên biệt, như trong việc khám phá ra bản in thứ hai cuốn sách của Symon ở Union Harvard vào tháng 10 năm 1908, hay lần đầu anh bị khích động khi đọc Jules Laforgue vào mùa xuân năm sau. Năm sau đó, Eliot có một trải nghiệm ảnh hưởng rất lớn đến mình nhưng không bao giờ anh nói lên được rõ ràng, chính xác. Vào thời gian tốt nghiệp Harvard, trong khi lang thang qua thành phố Boston, anh cảm thấy phố xá chìm xuống và phân cách, và bản thân mình thì chìm đắm trong sự yên lặng lớn lao. “Bạn có thể gọi nó là sự cộng thông với Cái Thiêng liêng hay sự kết tinh tạm thời của tâm trí”, sau này Eliot bình luận về cái dường như đã là một trải nghiệm ảo giác.
Theo tôi, bản thân trải nghiệm tượng trưng cho một thay đổi đang diễn ra trong chàng trai trẻ Eliot - sự chuyển đổi về tình cảm mà anh có thể bắt được qua một hình ảnh thơ. Cho đến thời điểm này trong đời, anh đã phần nhiều đi theo con đường mà gia đình vẽ ra cho mình. Anh đã học chăm, thể hiện giỏi, viết hay, và đi qua dường như không cần nỗ lực những bước đi trong nhà trường và xã hội mà mọi người trông đợi ở anh. Bởi anh đã bị lôi cuốn vào môn triết, nên mọi người cho rằng anh sẽ tiếp tục học ở Harvard và cuối cùng trở thành giáo sư triết.
Tuy nhiên, với ý thức của riêng mình, Eliot đã đi đến chỗ cảm thấy mình ngày càng bị tha hoá. Anh không thích Boston, St Louis, nước Mỹ của thời đại mình. Anh cảm thấy xa cách như nhau với các sinh viên tụ tập trong các câu lạc bộ, giới quý tộc Boston, và tầng lớp dưới hèn mọn của đời sống đô thị. Xuất thân từ một gia tộc trong đó các bà già áp đảo, anh không biết làm sao quan hệ với những cô gái cùng lứa tuổi; anh cảm thấy bị họ đe doạ và thất vọng vì bất lực trong việc xử lý những đòi hỏi sinh lý của mình.
Eliot bị thu hút tới một thế giới khác và một con đường ít người đi hơn. Có cái gì đó cám dỗ về nước Pháp và nước Anh, với lịch sử lâu đời hơn, sự tinh khéo hơn về văn chương, sự định giá cao hơn về những vấn đề tôn giáo và tâm linh, và tinh thần mỉa mai sâu hơn. Trong khi bị lôi cuốn bởi việc nghiên cứu triết học, anh cũng đi tìm một giọng thơ có thể tổng hợp những cảm giác cụ thể, những xúc cảm mạnh mẽ, và những ý tưởng về cuộc sống và văn minh đè nặng lên mình.
“Thời khắc kết tinh” ở Boston, với dấu hiệu của cảm hứng thiêng liêng, đưa ra một khả năng đối xử với những khuấy động cảm xúc mâu thuẫn ấy, và thể hiện sự tha hoá của anh qua thơ. Eliot nhấn mạnh tầm quan trọng của thời khắc bất ngờ này - như anh viết trong Đất hoang, “sự táo bạo tuyệt vời của sự đầu hàng trong khoảnh khắc… mà bởi nó, và chỉ bởi nó, chúng ta đã tồn tại”. Con phố tách làm đôi trở thành một hình ảnh sống động, và những con phố sẽ trở lại như những biểu tượng hoài thai qua suốt những trang viết của Eliot. Nhưng thị ảnh, thời khắc bất ngờ, thì chỉ là một dấu hiệu thoáng qua; trong những năm sau đó, Eliot phải đi tìm lối của mình để thực hiện sự tổng hợp mà anh cảm thấy lờ mờ này.
Những toan tính mới về cuộc sống
Với dữ kiện là những cảm giác mạnh mẽ về sự tha hoá của Eliot và việc anh đi tìm một sự cân bằng dễ chịu hơn, thì quyết định làm một chuyến du hành châu Âu sau khi tốt nghiệp là điều không tránh khỏi. Eliot đến nước Pháp trước, ở đó anh tìm bắt không khí của Laforgue: “Cái loại thơ tôi cần để dạy tôi sử dụng giọng nói của riêng mình không hề có ở nước Anh; nó chỉ tìm được ở Pháp”. Eliot đi dự những buổi nói chuyện của các học giả Pháp như Henri Bergson và Émile Durkheim và thấy mình đặc biệt bị lôi cuốn bởi những quan điểm bảo thủ của Charles Maurras, một gương mặt giống như Irving Babbitt, con người tự gọi mình là người công giáo, cổ điển, và quân chủ. Eliot đánh bạn với một số thanh niên Pháp, đáng kể nhất là nhà tiểu thuyết tương lai Alain-Fournier (Henri - Alban Fournier) và một sinh viên y khoa kiêm nhà văn tên là Jean Verdenal, Eliot trở thành thân thiết với người này và cái chết của anh ta trong Thế chiến thứ Nhất đã tỏ ra đặc biệt chấn thương cho Eliot.
Chàng Eliot du khách ở Paris dường như đã không hạnh phúc bằng chàng Eliot sinh viên ở Boston; anh lại bị sốc bởi sự tương phản giữa những salon trí thức, sự tiên phong trong nghệ thuật với sự nghèo khổ dơ bẩn của đường phố. Nhưng những lá thư gửi về nhà chỉ ra rằng, giống như những nghệ sĩ trẻ có tài khác, anh đang chìm đắm khá sâu trong thông tin và các ấn tượng. Anh cũng đi ít nhất một chuyến tới London, thăm nước Đức, và, mùa hè năm 1911, anh hoàn tất một phác thảo của bài thơ quan trọng đầu tiên, “Bản tình ca của J. Alfred Prufrock”.
Eliot xem xét việc ở lại nước ngoài và tìm cách sống sót như một nhà thơ, nhưng cuối cùng anh quyết định trở về Harvard vào năm 1911 và bắt đầu học tiếp chương trình tiến sĩ triết. Giờ đây nhìn lại, ta có thể thấy thời kỳ này là một quãng nghỉ, thậm chí là sự thụt lùi, khi Eliot một lần nữa lại thực hiện những trông đợi của một gia đình đầy tham vọng, bảo thủ và hướng về một nghề nghiệp ổn định. Thực vậy, Eliot đã nói về “những hoảng loạn hằng đêm” đáng sợ mà mình đã trải nghiệm trong khi cư trú ở châu Âu. Nhưng đó cũng là thời gian Eliot tiếp tục giả định trong tâm trí mình những lựa chọn sống khác nhau, những triết lý cá nhân và những phương thức biểu đạt chính mình. Anh theo những khoá học với Bertrand Russell, người đã coi anh như một sinh viên thầm lặng làm dáng với sự uể oải hay joie de vivre [niềm vui sống]. Anh học chữ Phạn, đọc các kinh sách Ấn giáo và Phật giáo, và tiếp tục làm thơ; theo thuật ngữ của nhà phân tâm học Erik Erikson thì Eliot đang thử nghiệm vô số căn cước và giọng nói khác nhau. Như để làm rõ sự bất định này, tuồng chữ viết của anh thực sự thay đổi nhiều lần trong thời kỳ này.
Sau khi tốt nghiệp đại học, Eliot chìm đắm vào những trang viết của triết gia đương thời người Anh, F.H. Bradley, người đã khai thác mối quan hệ giữa vẻ ngoài và thực tế, trải nghiệm và sự thật, trải nghiệm chủ quan và sự thật khách quan. Những câu hỏi triết học lưu niên này lôi cuốn Eliot, và cuối cùng anh tìm cách xử lý chúng trong thơ của chính mình và những bài viết khác. Không rõ là những giải đáp thực sự của Bradley có gây ấn tượng cho Eliot, nhưng những sự nhạy cảm của hai người là trùng hợp. Eliot chia sẻ với Bradley hứng thú với các nghi lễ và vai trò của trật tự trong sự tồn tại của chính mình, sự thu hút bởi trải nghiệm chủ quan, hứng thú với việc hợp nhất những niềm tin bất hoà, và sự không tin ở trí khôn “mang tính khái niệm”. Chủ điểm bình luận - “Trải nghiệm và các mục tiêu của tri thức trong triết học F.H. Bradley” - đã cho Eliot cơ hội xem xét một vấn đề đặc biệt quan trọng với anh: “một thời khắc thấu thị ngắn ngủi điên rồ và những cách diễn giải mâu thuẫn về nó”. Có lẽ Bradley là triết gia duy nhất tiếp tục nổi tiếng bên ngoài giới chuyên gia do tình cờ là chủ đề luận văn của một nhà thơ hàng đầu.
Eliot dường như đã có phần hạnh phúc hơn khi là một sinh viên cao học so với khi là sinh viên đại học, và anh được khoa triết Harvard đánh giá cao, trong nhiều năm các thành viên khoa này thúc giục anh gia nhập hàng ngũ của họ. Nhưng chẳng bao lâu trước khi nổ ra Thế chiến thứ Nhất, Eliot quay về London và cuối cùng ở lại châu Âu gần 20 năm. Từ chối đời sống đại học miền thôn dã, anh tuyên bố: “Người ta tự ý thức nhiều hơn biết bao khi sống ở một đô thị lớn”. Vào thời gian này, anh bằng lòng sống cuộc đời của kẻ bên lề: anh đã chấp nhận thân phận nhà văn và tự cam kết sẽ thành công ở những bến bờ ngoại quốc.
Hai nhà thơ hợp sức
Phải hết sức tự tin, chàng trai trẻ Eliot mới dám rời bỏ cuộc sống của một người Mỹ dễ chịu và một triết gia hứa hẹn để toan tính cái nghề nghệ sĩ ở nước ngoài. Đặc biệt là Hoa Kỳ vẫn được nhìn từ Paris và London như một vũng ao tù, ít thành tựu đáng kể về nghệ thuật. Chỉ có một cá nhân khác thường nhất, như nhà văn Henry James đã thành công khi tự bứng mình sang châu Âu; và sau nửa thế kỷ, ông vẫn cảm thấy ở đó mình là kẻ ngoài cuộc.
Nhưng Eliot đã có một kẻ đi trước từ năm 1908, một nhà thơ trẻ người Mỹ từ Idaho có thiên bẩm, tên là Ezra Pound. Là một tính cách mạnh mẽ và gây tranh cãi, Pound đã tự mình gây ấn tượng đối với các giới văn chương Anh bởi nhân cách cũng như năm tập thơ đã xuất bản của mình. Gặp anh chàng Eliot chưa có sách xuất bản vào tháng Chín năm 1914, Pound lập tức trở nên nhiệt tình với đối tác là chàng trai trẻ đào tạo tại Harvard này. Ông viết cho Hariett Monroe, biên tập viên tạp chí Poetry [Thơ], rằng “Prufrock” là bài thơ hay nhất mình đã thấy từ một người Mỹ, và nói với nhà văn H.L. Mencken rằng Eliot là “người thông minh cuối cùng tôi tìm thấy”. Như Eliot nhớ lại: “Năm 1914 việc gặp gỡ Ezra Pound đã thay đổi đời tôi. Ông ta đã nhiệt tình với các bài thơ của tôi và cho tôi lời khen ngợi và sự khuyến khích mà từ lâu tôi không còn hy vọng nhận được”. Hai con người, tương tự về lý lịch mặc dù tính khí khác nhau, nhanh chóng trở thành bạn thân.
Nhiều năm sau đó, Eliot, Pound và nhà văn kiêm hoạ sĩ Wyndham Lewis hợp sức để cổ động những hình thức biểu đạt mới bằng tiếng Anh. Theo Eliot thì sự cách tân như thế là cần thiết vô cùng; nghệ thuật của thời đại đang mang tính lãng mạn và tuyên truyền một cách vô vọng. Sau này ông bình luận rằng “tình trạng thơ vào năm 1909 hay 1910 là tù đọng đến độ khó cho bất kỳ nhà thơ trẻ nào của ngày hôm nay tưởng tượng nổi”. Các chàng thiểu số này học hỏi lẫn nhau về kỹ thuật, chẳng hạn, Eliot chịu ảnh hưởng của Pound về sự gián tiếp, phân mảnh và sự xếp liền kề đầy bất ngờ.
Họ cũng là cái phao tâm lý của nhau. Sự ủng hộ của Pound đối với Eliot là đặc biệt quan trọng. Có tính chiến đấu hơn nhiều so với Eliot, Pound đã giới thiệu anh và những trang viết của anh tới một diện rộng các cá nhân cả ở Anh lẫn Hoa Kỳ. Ông như một loại đại lý và nhà tổ chức biểu diễn, tiến cử sự nghiệp của Eliot cho mọi người nghe, thậm chí bảo vệ tư cách lưu vong của Eliot trước gia đình anh. Hoàn toàn có khả năng là, không có Pound thì Eliot sẽ không ở lại nước Anh, thực hiện việc chuyển từ triết học sang thơ, cưới người vợ đầu, gặp đại diện xuất bản Quinn, hay xuất bản thơ ở Mỹ.
Ta có thể tự hỏi một cách chính đáng tại sao các vần thơ của một người Mỹ từng chịu ảnh hưởng chủ yếu của thơ tượng trưng Pháp lại có thể gây hứng thú cho công chúng văn chương Anh? Theo tôi, sự thay đổi nhất định đang diễn ra trong thế giới phương Tây vào thời đó được thấy ít hơn bên trong đảo quốc Anh so với bất kỳ nơi nào khác. Những đế quốc lớn của TK 19 đang tan vỡ; sự đồng thuận mang tinh thần tự do, theo đó một tầng lớp quý tộc được khai sáng cùng nhau làm việc vì lợi ích rộng lớn của xã hội, đã tan biến; sự khác biệt giữa các tầng lớp xã hội trở nên nhức nhói và thành chuyện hơn; sự dơ bẩn của đời sống đô thị, không những không chỉ là căn bệnh nhất thời của việc kỹ nghệ hoá, mà giờ đây được coi như thường trực; và những hình thức tôn giáo và những hệ ý thức được chấp nhận đang bị phá hoại, ngay cả khi nhu cầu về chúng được cảm thấy càng khẩn thiết hơn bao giờ hết.
Các dấu hiệu của những vấn đề trên và những khuynh hướng gãy đổ khác đã bắt đầu nổi lên trong các hình thức nghệ thuật vào khúc quanh của thế kỷ. Các tác giả tiểu thuyết như Émile Zola ở Pháp hay Theodore Dreiser ở Hoa Kỳ tìm cách thể hiện những thăng trầm của thời đại mình; các hoạ sĩ như Picasso và Braque ở Pháp đã phối hợp những hình thức nghệ thuật cao và thấp; các nhà soạn nhạc như Strauss, Schonberg và Stravinsky đã mỗi người một cách bác bỏ những hình thức an ủi lãng mạn của TK 19. Nhưng ở nước Anh, những khuynh hướng trên có phần ít rõ hơn, thì thơ của Alfred, Lord Tennyson và Rudyard Kipling, tiểu thuyết của George Eliot và Thomas Hardy, và các tác phẩm của những nhà soạn nhạc có chiều hướng hàn lâm như Edward Elgar, các hoạ sĩ như Walter Sickert, vẫn giữ được ảnh hưởng.
Đời sống văn học đầu TK 20 ở nước Anh đi đến chỗ chịu ảnh hưởng - thậm chí áp đảo - bởi những cá nhân không phải người Anh - James Joyce, William Butler Yeats, và George Bernard Shaw tất cả đều từ Ireland; Joseph Conrad từ Ba Lan; và Eliot với Pound từ Hoa Kỳ. Những cá nhân này đã là bậc thầy về ngôn ngữ, nhưng có lẽ vì họ chủ yếu là người nước ngoài, nên đã làm nổi bật những khuynh hướng ít quan trọng hơn đối với những người đã coi những tiêu chuẩn của thời đại Victoria là đương nhiên. Chắc chắn là, ngay cả nếu không có những các nhân bên lề ấy, các hình thức nghệ thuật Anh cũng vẫn thay đổi; sau hết, nhà cách mạng Virginia Woolf, là người mang dòng máu Anh (dù có lẽ, một cách đáng kể, ông không phải người Anh). Nhưng những nhà văn bên lề, không phải người bản xứ, đã giúp các hình thức nghệ thuật thay đổi nhanh hơn và cũng đặt lên chúng một dấu ấn quốc tế.
CHỨNG CỨ CỦA THIÊN BẨM THI SĨ
Bài thơ buổi đầu của Eliot “Bản tình ca của J. Alfred Prufrock” là một đóng góp quan trọng cho sự hiện đại hoá văn chương tiếng Anh. Cái tên phi lý của nhân vật, đi với cái nhãn lãng mạn của một bản tình ca, lập tức ghi dấu bài thơ như một tác phẩm thơ đi qua những sự bất tương hợp. Một đề từ, một điệp khúc về những cá nhân “nói về Michelangelo”, và những lời nói về Hamlet, Lazarus, một khách Bộ hành vĩnh cửu, và thằng Khùng, cho thấy người nói là một kẻ có những năng lực cảm nhận giàu kiến thức, với nghệ sĩ tính cao. Những tiếng lóng nói về những khách sạn rẻ tiền một đêm, những nhà hàng mùn cưa, một điểm hói giữa tóc, tay chân mảnh dẻ, váy quét lê trên sàn, và những đường may viền của áo liền quần là dấu hiệu của một tác giả thoải mái (hay khổ sở) y như nhau đối với đời sống và ngôn từ đường phố, phòng hoà nhạc và quán rượu bia.
Thì hãy đi thôi, tôi với bạn
Khi chiều hôm giăng tỏa bầu trời
Như người bệnh chịu thuốc mê trên bàn mổ
Khi đọc dòng mở đầu gây chú ý này, ta lập tức gặp một tiếng thơ có thể thoải mái đặt liền kề nhau những yếu tố xa nhau nhất; một hoàng hôn lãng mạn với một người bệnh hôn mê. Cặp dòng thơ gây bất ngờ này trở lại suốt trong bài thơ: những cuộc chuyện trò giữa những câu hỏi tràn ngập; lúc gặp và giết người; đến và đi và nói chuyện với Michelangelo; đo đếm cuộc đời bằng muỗng cà phê; hành động táo bạo… ăn một trái đào, khuấy tung vũ trụ; bóp vũ trụ thành một trái banh; một cái đầu hơi hói được mang đến trên chiếc đĩa thức ăn. Tất nhiên, cặp dòng thơ kia không chỉ bộc lộ những sự xếp liền kề lạ lùng trên thế giới; chúng cũng gợi lên những cảm nhận kỳ lạ của một cá nhân bị sốc vì những sự bất tương hợp như thế.
Bài thơ cũng nói về những sự bất tương hợp ở một trình độ ý niệm hơn: nhân vật ngay lập tức ở vào tâm điểm của bài thơ và rời khỏi thế giới tầm thường của mình; những tiếng nói thay đổi, trẻ trung, trung niên, và già nua; căn cước cũng mang những yếu tố nam và nữ ngang nhau, cũng như một cuộc sống hành động và ngưng nghỉ trong sự tê liệt. Vần thơ thay đổi từ nhịp và vần thông thường đến những dấu chấm lửng tình cờ và dòng thơ ngắn bất ngờ. Những tâm trạng tức thời được thể hiện, như cách chuyển tải sự phân mảnh của thế giới, nhiều thế giới cùng tồn tại khiến nhà thơ trẻ bất an. Một tinh thần tự trào và mỉa mai kiểu Laforgue lan toả và thống nhất cả bài thơ.
“Prufrock” và một bài thơ ban đầu cùng loại “Chân dung một Quí bà”, đã thông báo Eliot là nhà thơ trẻ có thiên bẩm. Phần lớn các nhà thơ làm thơ khi còn rất trẻ, và Eliot cũng làm thơ mà chưa xuất bản ngay ở tuổi thiếu niên. Thường thì thứ thơ ban đầu này có ít giá trị tự thân, mặc dù trong trường hợp Eliot, như đã nói, nó bộc lộ một kho từ vựng đáng nể, một phác họa về giọng điệu và hình thức, một tính hài hước hứa hẹn, và sự quan tâm đến những đề tài cái chết, sự mất mát, và sự trôi qua của thời gian. Tuy nhiên, trong buổi thiếu thời, hay sau đó ít lâu, thường có sự vọt trào nhanh chóng: trong vòng vài năm ngắn ngủi, nhà thơ khám phá ra một giọng nói rõ rệt - hay, trong trường hợp Eliot, một tổng thể các giọng rõ rệt. Như đã xảy ra một cách đáng lưu ý nhất với John Keats, giọng của Eliot kết hợp cái triết lý với cái nôm na; anh có năng lực nói về những đề tài triết lý trong khi bao bọc chúng với ngôn ngữ và hình tượng của đời sống ngày thường.
Eliot không hề chắc chắn rằng mình vẫn muốn là kẻ phát ngôn của Prufrock hay người quan sát “Quý bà”. Một phần con người anh thăm dò tư cách tác giả với tiếng Pháp, thể hiện các cảnh tượng của Paris qua những đoạn thơ bốn dòng chặt chẽ bằng tiếng Pháp. Tác phẩm ban đầu của anh cũng bao gồm những thử nghiệm với kịch kiểu Elizabeth, xây dựng hình ảnh kiểu bí truyền, châm biếm thẳng thừng, cũng như khai thác những đề tài tôn giáo. Trong thư từ gửi bạn bè, anh phác hoạ những vở kịch thơ cũng như những thứ thơ giễu nhại rẻ tiền. (Những phiên bản thử nghiệm dưới hình thức thư từ dễ dãi này còn tiếp tục suốt đời). Ngay từ sớm, Eliot đã thể hiện năng khiếu nhại kỳ diệu, và anh thấy rất dễ nhại các lối văn khác nhau. Anh cũng viết những văn bản triết học nghiêm túc, những bài nghiên cứu và một luận văn dài, và có những thời kỳ anh không có bài thơ nào hết.
Thực sự, trong khi thừa nhận rằng “Prufrock” có giá trị, Eliot cũng không vội vã xuất bản nó và có thể cũng không hề xuất bản nó ít ra trong một thời gian, nếu không vì Aiken và Pound thúc giục; anh thú nhận rằng theo kiểu nào đó nó có vẻ như khúc ca thiên nga [trước khi chết] của mình. Tuy có thể rõ ràng là đã thành đạt trong mắt mọi người, Eliot vẫn chưa chắc chắn mình muốn trở thành cái gì, hay thành ai. Mãi mãi là con người bên lề, anh hiếm khi thể hiện sự tự tin rõ rệt như Freud, Einstein và Picasso thời trẻ.
Định cư ở châu Âu
Khi Đại chiến bắt đầu, Eliot cảm thấy hơn bao giờ hết rằng tương lai của mình nằm ở châu Âu. Từ chối học năm thứ hai theo một học bổng của Harvard cho du học sinh, anh chọn việc thử sống ở vùng London với nghề dạy học và viết văn.
Cho đến lúc này, Eliot thực sự chưa hề có trải nghiệm tính dục hay đời sống tình ái. Như anh thú nhận trong một bức thư gửi Conrad Aiken: “Đôi khi tôi nghĩ rằng sẽ tốt hơn nếu mình đã từ bỏ tình trạng trai tân và sự e thẹn từ nhiều năm trước; và thực sự đôi khi tôi vẫn nghĩ rằng làm thế trước khi cưới vợ thì cũng hay”. Nhưng vào năm 1915, vài tháng sau khi gặp Pound, con người truyền nghị lực, anh gặp một cô gái người Anh thông minh, giàu sức sống, gây ấn tượng, ngây thơ và nhạy cảm tên là Vivien Haigh-Wood. Tom và Vivien phải lòng nhau và cưới nhau ngay.
Đã có nhiều giai thoại về cuộc hôn nhân lần thứ nhất của Eliot (ngay cả trong Tom và Viv, một vở kịch mới đây ở London), xét về mọi mặt thì rất độc đáo, thậm chí bi thảm, bất hạnh. Rõ ràng sự lôi cuốn ban đầu là giữa hai mặt đối lập: chàng trai tân người Mỹ giàu suy tư, ẩn dật, có học thức và cực kỳ hướng nội với cô gái Anh sống động, thích vui đùa, ăn vận táo bạo, từng trải hơn về tình trường. Họ tất phải xem những tính cách và ước vọng của mình là bổ khuyết cho nhau, coi mỗi người là một giải pháp cho những mối lo và thất bại của người kia. Mặc dù họ vật lộn trong gần hai năm để cho cuộc hôn nhân suôn sẻ, nhưng rõ ràng nó không bao giờ tiến triển. Bertrand Russell, người đã biết và thích Eliot trong mấy năm và có vẻ như đã có tằng tịu ít lâu với Vivien trong những năm đầu của cuộc hôn nhân, đã diễn giải như sau: ông tin rằng Eliot đã cưới Vivien với hy vọng được khuyến khích bởi cuộc hôn nhân, nhưng sớm khám phá ra rằng việc này chỉ đơn giản là không thể. Rõ ràng Eliot đã không thoải mái trong tình trạng tính dục của mình, mặc dù không có chứng cứ thuyết phục cho thấy anh có khuynh hướng đồng tính đáng kể.
Ngay sau đám cưới, rõ ràng Vivien đã thường xuyên bị yếu mệt. Vài triệu chứng mang tính thể chất rõ ràng (xưng mặt, rối loạn tuyến yên, viêm màng phổi, đau cột sống), nhưng cô cũng bị rối loạn đáng kể về thần kinh, và hoàn toàn có thể cũng có vài yếu tố căng thẳng về tâm thần và hysteria. Dường như cô đã rất yếu mệt, tuy vậy vẫn có thể làm tổn thương anh chồng cực kỳ nhạy cảm bằng những nhận xét của mình. Ít ra trên bề mặt, Eliot đã là một người chăm sóc vợ khá tốt, chú tâm đến những rối loạn của cô, thể hiện sự quan tâm đáng kể về tình trạng của cô và luôn chung thuỷ. Song cùng lúc, anh đau khổ sâu xa vì sự bất tương hợp của hai người, anh thú nhận ngay sau hôn lễ: “Tôi đã sống đủ chất liệu cho những bài thơ dài trong sáu tháng qua”. Bản thân Eliot đã trở nên ngày càng bất an, cuối cùng thì suy sụp vào những tháng ngay trước khi viết Đất hoang. Điều chưa xác định là mức độ mà sự rối loạn thần kinh của mỗi người góp phần vào những khó khăn của người kia - liệu mỗi người có làm cho người kia phát điên vì việc làm hay lời nói của mình hay không.
Trong một thời gian ngắn, Eliot tìm cách theo đuổi cuộc sống điển hình của người nghệ sĩ trẻ, ban ngày dạy học và ban đêm thì viết lách. Mọi chỉ dấu đều cho thấy, anh đã là một ông thầy tận tuỵ và hiệu quả, được học trò đánh giá cao. Tuy nhiên, một lần nữa, Eliot lại rời bỏ. Anh quyết định làm việc cho một ngân hàng, và, trước sự ngạc nhiên của mọi người và của chính anh, anh thấy rằng mình thích công việc không có gì là nghệ sĩ này. Eliot vui vẻ chơi với các con số, gia nhập lề lối lặp đi lặp lại của công việc bàn giấy, và ăn vận cũng như làm tròn vai trò của một nhà quản lý chuyên nghiệp. Có lẽ không đáng ngạc nhiên, nếu xét về dòng dõi, khi Eliot chứng tỏ là anh tinh thông việc này và cuối cùng đã được trao cho trách nhiệm ghê gớm là giải quyết những món nợ của cuộc chiến tranh.
Ezra Pound, người biên tập thơ 
của Eliot thời đầu
Bìa The Watse Land, bản in đầu tiên năm 1922
NHỮNG TÁC PHẨM MỞ RỘNG VÀ TIẾNG TĂM NGÀY CÀNG TĂNG
Mặc dù Eliot phải vật lộn để đủ sống, làm thơ tương đối ít, và đi qua một cuộc hôn nhân đau khổ khác thường với rất ít tưởng thưởng, nghề nghiệp văn chương của anh bắt đầu đơm hoa. Với sự trợ giúp đáng kể của Pound, Eliot đã có thể xuất bản nhiều tác phẩm của mình. Tập Prufrock and Other Observations - Prufrock và những quan sát khác được xuất bản vào tháng 6 năm 1917 ở Anh và ba năm sau ở Hoa Kỳ. Eliot xuất hiện như một nhà văn, nhà phê bình và nhà thơ trên những tập san hàng đầu của Anh và Hoa Kỳ thời đó, như Poetry [Thơ], Dial, và Nation [Quốc gia]. Một cuốn sách phê bình có ảnh hưởng, The Sacred Wood [Rừng thiêng] được xuất bản vào năm 1920. Vào đầu thập kỷ 1920, mới bước vào độ tuổi ba mươi, Eliot đã được thừa nhận là một trong những gương mặt văn chương ở cả hai bờ Đại Tây Dương, được tôn kính (và đôi khi sợ hãi) vì những tài năng văn chương ghê gớm của ông và quyền lực ngày càng lớn trong thế giới xuất bản.
Chắc chắn tư cách thành viên của Pound (và tiếp đó là của Eliot) trong giới văn chương hàng đầu đã thúc đẩy nghề nghiệp của Eliot tiến xa hơn. Eliot ít nhất cũng là một du khách bạn bè trong nhóm Bloomsbury, nhóm văn chương và trí thức có ảnh hưởng trong đó có các nhà văn như E.M. Forster, Lytton Strachey, và Virginia Woolf. Đặc biệt, ông đã khám phá ra rằng mình có sự gần gũi về con người và nghề nghiệp với Woolf. Việc thực sự có một thế hệ trẻ người Anh ra mặt trận, và nhiều người trong số tài năng nhất không bao giờ trở lại, đã tạo ra một khoảng trống về lĩnh vực văn hoá, mà những người nước ngoài như Pound và Eliot có mặt và chắc chắn là hăm hở lấp đầy.
Dẫu sao, thành công của Eliot cũng đòi hỏi sự cố gắng của bản thân tác giả. Thư từ của ông được công bố gần đây cho thấy rõ rằng Eliot ngay từ đầu đã quan tâm đến việc bảo đảm cho tác phẩm của mình được thừa nhận. Chàng Eliot một thời e thẹn đã có được sự mạnh dạn và uy quyền. Ông thận trọng vun trồng những nhà bảo trợ có ảnh hưởng ở Hoa Kỳ như Schofield Thayer ở tờ Dial, nhà bảo trợ giàu có Isabella Stewart Gardner ở Boston, nhà xuất bản quan trọng ở New York Alfred Knopf, và John Quinn, người đại diện xuất bản trung thành của mình. Ở nước Anh, ông hành động một cách cẩn trọng để luôn thân thiện với Richard Aldington, Bruce Richmond, và những gương mặt văn chương hàng đầu. Ông giữ một mức độ tôn kính hay quyền uy thích đáng với từng người trong số ấy, sẵn sàng điều chỉnh khi cần đối với từng lá thư, cuộc gặp, và năm này qua năm khác.
Trong một lá thư dài, có nội dung chỉ đạo đáng kinh ngạc, viết cho người em trai, ông dạy Henry Eliot cách thức tiếp xúc với những người có ảnh hưởng ở Boston và New York, những báo chí phải tới thăm, những sự giới thiệu phải có, v.v. Eliot khuyên em mình “bảo đảm có những lời giới thiệu với các biên tập viên từ những người có vị trí xã hội cao hơn họ”. Ông thể hiện ham muốn “được các tạp chí kể trên biết đến tên một cách đích danh… và có được sự kết nối vững bền, như [được đặt] viết một “lá thư Anh quốc” hay bàn luận về một đề tài đang sôi nổi về nước Pháp”.
Eliot cũng có thể phân tích theo cảm tính vị trí của mình; trong một lá thư gửi ông thầy già dạy triết của mình là J.H. Woods, ông tuyên bố:
Chỉ có hai cách làm cho một nhà văn trở nên quan trọng - viết một lượng tác phẩm lớn, và làm cho chúng xuất hiện ở khắp mọi nơi, hai là viết rất ít… Tôi viết rất ít và sẽ không trở nên quan trọng hơn bằng cách gia tăng sản lượng… Tiếng tăm của tôi ở London được xây dựng trên một tập thơ nhỏ… Điều duy nhất quan trọng là mỗi tác phẩm phải hoàn hảo trong loại của nó, để cho mỗi cái là một sự kiện. Còn với Hoa Kỳ: ở đây [nước Anh], tôi là một người quan trọng hơn nhiều so với ở quê nhà… Do đó, nếu ta phải kiếm sống, thì cái nghề an toàn nhất là cái nghề xa cách nhất với nghệ thuật.
Và xin lỗi người đại diện xuất bản Quinn vì một tập sách kết hợp văn xuôi với phê bình, ông nói: “Đây là lúc tôi có một cuốn sách ở Hoa Kỳ và đây là cách duy nhất để có được nó”.
Các thành viên gia đình và các cố vấn có ảnh hưởng thường chỉ cho nhà sáng tạo trẻ những kỹ thuật có thể giúp họ tạo ảnh hưởng với trường. Eliot rõ ràng đã lấy những sách lược từ người mẹ, bà đã từ lâu toan tính thay mặt đứa con có thiên bẩm của mình thao túng sàn diễn, và từ Pound, người đã thân thuộc địa bàn văn chương Anh-Mỹ. Tuy thế, Eliot vẫn là một nhà hoạch định bậc thầy cho nghề nghiệp của chính mình. Thực vậy, có lẽ vì đã học được từ những sai lầm của người khác, nên ông ít tỏ ra hăng hái ở chốn công cộng hơn Pound và ít khăng khăng hơn bà mẹ trong những mối quan hệ riêng tư. Từ lúc chuyển đến thường trú ở nước Anh vào năm 1914, cho đến khi đã trở thành một danh nhân văn học quốc tế được xác định vào thập niên 1930, Eliot cực kỳ có kế hoạch và suy nghĩ kỹ về mỗi bước chuyển trong nghề nghiệp.
Trong khi vẫn còn hơi e thẹn, cứng ngắc, và khó chịu với bản thân, Eliot đã gây ấn tượng xuất sắc với những cá nhân có quyền lực và ảnh hưởng nhất mà mình gặp: sự duyên dáng, dè dặt, kiến thức bách khoa (mà anh thể hiện nó một cách nhẹ nhàng), chút hài hước, và hơi hướm bên lề lưu liên của anh, tất cả đã giúp anh làm vừa lòng người khác. Hình ảnh hấp dẫn của anh trước công chúng không gây khó chịu; và trong khi không có sức mê hoặc một cách lộ liễu, có lẽ Eliot có được đức tính quan trọng là làm cho những cá nhân có quyền lực muốn đến giúp đỡ mình. Ngay cả khi sách của anh nhận được những bài phê bình ít tích cực và không bán chạy, chúng vẫn gây ấn tượng mạnh mẽ với các thủ lãnh trí thức của nước Anh; cuối cùng thì tình trạng tranh tối tranh sáng có tính tích cực này chứng tỏ là một bước ngoặt.
The Waste Land: Bối cảnh và sáng tác
Ngay từ năm 1914, Eliot đã bắt đầu lao động cho “một bài thơ dài”, và anh tiếp tục thu thập các mảnh nhỏ cho nó trong suốt nhiều năm sau. Không rõ là Eliot đã tìm xong đề tài hay cấu trúc chưa, nhưng chắc chắn anh muốn nó là một tuyên ngôn quan trọng “định nghĩa” về thời đại của mình, cũng như một mô tả thuộc loại hành trình tâm linh mà anh và mẹ anh đã từ lâu bị mê hoặc. Có nhiều sự khởi đầu sai lầm rồi bị bỏ rơi, cũng như những dấu hiệu ban đầu hiệu nghiệm hơn như trong một bài thơ Pháp tên là “Dans le restaurant” [Trong tiệm ăn]. Vào đầu năm 1921 Eliot có thể trưng ra bốn phần của bài thơ, tên là “He Do the Police in Different Voices” (Anh ta làm cảnh sát với những giọng khác nhau) [1], với người bạn và cộng sự Wyndham Lewis. Anh viết cho người đại diện xuất bản Quinn rằng mình muốn hoàn tất bài thơ vào tháng sáu, nhưng những vấn đề gia đình đã xen vào.
Có hai nhân tố đã giúp thúc đẩy một cách khác nhau việc sáng tác bài thơ, cuối cùng nó trở thành The Waste Land. Thứ nhất, nhân tố tích cực là việc Eliot đọc cuốn sách của Jessie L. Weston về truyền thuyết Chén Thánh, From Ritual to Romance (Từ Nghi lễ tới Truyện truyền kỳ). Ý niệm về một cuộc truy tìm bắt đầu trong hoài nghi và tàn phá đã nằm trong tâm trí Eliot từ lâu, nhưng sự mô tả phong phú của Weston về những cuộc truy tìm và đề tài thần bí từ những nền văn hoá khác nhau đã cung cấp một phương tiện chuyển tải hấp dẫn mạnh mẽ cho những ý niệm còn tản mác của Eliot. Thứ hai, nhân tố thoạt mang tính ngăn trở là sức khoẻ suy giảm nhanh chóng của Eliot.
Vào tháng 9 năm 1921, những sức ép về đời tư cộng với những sức ép về nghề nghiệp đã đưa Eliot đến gần kề sự suy sụp thần kinh nghiêm trọng. Một bác sĩ khuyên ông nghỉ ngơi hoàn toàn, và Eliot đã ra đi, thoạt tiên tới Margate trên bờ biển Kent, rồi tới Lausanne Thuỵ Sĩ. Trong chuyến đi ba tháng gần như một mình, Eliot viết xong phác thảo bài thơ, giờ đây dài tới khoảng 1000 dòng.
Trong khi các học giả vẫn tranh cãi về chuyện tiến trình sáng tác của The Waste Land, thì có một điểm đã rõ ràng: Eliot đưa bản thảo cho Pound vào khoảng cuối năm 1921, và Pound biên tập nó một cách nghiêm khắc. Bản thảo được ghi chú bề bộn này là vật mà Eliot tặng cho Quinn như món qùa tạ ơn và chính là bản được tìm thấy lại nhiều thập kỷ về sau. Các học giả về Eliot giờ đây đã nghiên cứu kỹ lưỡng những chỗ xem lại mà Pound đề xuất, cũng như những chỗ xem lại của Vivien Eliot và của bản thân Eliot, và tiến trình sáng tác bài thơ giờ đây được hiểu cặn kẽ như bất kỳ tác phẩm văn học nào khác của TK 20.
Qua năm tháng, và đặc biệt vào những tháng cuối năm 1921, Eliot đã viết ra một loạt đoạn hay chương hồi bao quát nhiều tình huống rộng rãi: đời sống của tầng lớp dưới ở London đương thời; những màn kinh điển dính líu đến những tính cách thần bí; mô tả những cảnh thiên nhiên về mùa đông, xương xẩu, hoang mạc, và những yếu tố khơi gợi khác; những cuộc chuyện trò bằng nhiều thứ tiếng; những dòng và mảnh từ văn chương cao cấp (Shakespeare, Dante, Baudelaire); giễu nhại các tác giả được đánh giá cao (Pope); những tụng ca; những lời giảng cháy bỏng; những chuyện kể của thuỷ thủ; và những câu văn tiếng Phạn. Phẩm chất nhất thời của “Prufrock” và “Portrait” đã được cải tiến rất nhiều. Giờ đây ta đứng trước một ngôn ngữ không chỉ xuất phát từ một người trung niên có phần ngơ ngác mà cũng từ một mớ giọng nói phản ánh ý thức của những diễn viên và sự vật cất lên từ khoảng thời gian và không gian hết sức mở rộng.
Trong khi có những đoạn có sức khơi gợi rất cao và đầy đặn, có sức mạnh không thể chối cãi, thì bản thảo gốc vẫn quá tải. Thay vì thể hiện một cảm nhận về những vũ trụ khác nhau nói trên, phiên bản đầu tiên lại khiến người đọc nhớ đến những thất bại của chúng và đưa người đọc trở đi trở lại từng cái. Có nhiều sự bất định, lặp lại, và đơn điệu: quá nhiều giọng và quá ít nghĩa lý cho sự chỉ huy, kiểm soát bao trùm và từng chỗ. Công khó của Pound là ở việc cắt gọt những đoạn thừa lời đã kéo bài thơ theo nhiều hướng phân tán và việc làm cho những vần thơ còn lại thêm sắc sảo bằng cách gạch bỏ những từ ngữ không cần thiết hay gây hiểu nhầm, cũng như huỷ bỏ nhiều hàng rào và những âm điệu mâu thuẫn. Ông không thương tiếc vứt bỏ những toan tính giễu nhại cố ý hay vô tình của Eliot, vì thấy phần lớn là thấp kém và không cần thiết, và cũng xoá bỏ hay thách thức những mệnh đề ông thấy rõ là chứa đựng tinh thần ghét phụ nữ [myoginist], bài Do Thái hay nếu không thế thì lại thể hiện sự kỳ quặc của con người tác giả. Ông khuyên tác giả xuất bản những bài thơ đã nhập sâu trong tổng thể riêng rẽ với những bài thơ mới thêm vào. Ông giúp nâng cao các phẩm chất âm nhạc của tác phẩm, cả về nhịp của các dòng thơ riêng rẽ cũng như trong các đề tài và tiết tấu chung của nó. Cùng lúc, ông giữ nguyên những đề tài quan trọng và vấn đề bao trùm của chủ đề, giới hạn những cố gắng của mình trong việc làm cho rõ, tăng cường và truyền đạt chính xác thông điệp gần như hoàn toàn vô vọng của Eliot.
Chính Pound tự gọi mình là “bà đỡ”; Eliot thì gọi Pound là il miglio fabbro - người thợ mỹ nghệ thiện nghệ hơn. Kết quả là một bài thơ sắc sảo, cô đúc hơn nhiều và nói đúng cái phải nói. Mỗi đoạn thơ đều được phát biểu một cách trực tiếp hơn, trong khi những đường dẫn thực sự giữa năm đoạn của bản cuối cùng giờ đây được để ngỏ cho người đọc tạo dựng.
Những thay đổi mà Vivien Eliot đề nghị, tuy ít hơn nhiều, nhưng đã bổ sung rất đẹp cho những đề nghị của Pound. Có một thính giác tuyệt vời về các dòng thơ chuyên biệt, cũng như một kỹ năng đáng ganh tỵ trong việc giễu nhại lời ăn tiếng nói của người London thường ngày, Vivien ca tụng những vần thơ hay nhất, cải thiện vài dòng đã có, và gợi ý vài dòng thơ mới hàm xúc - chẳng hạn “nếu không thích nó thì anh có thể cặp kè với nó” và “Cưới nhau làm gì nếu anh không muốn có con”.
Sẽ có thể là đơn giản hóa và sai lạc khi tuyên bố rằng Pound cho lời khuyên về văn chương trong khi Vivien Eliot thì nâng đỡ về tình cảm. Thực ra, cả hai người dường như đã đóng cả hai vai trò. Nhờ có hợp lực của cả hai người biên tập tài năng, Eliot đã nhận được sự giúp đỡ về cả tổng thể bài thơ và về việc chọn từ ngữ cho những dòng thơ chuyên biệt.
Bản thân Eliot cũng biên tập đáng kể cho bài thơ, về cả những vấn đề cấu trúc lẫn những vấn đề của từng dòng thơ. Ông không phải lúc nào cũng nghe theo gợi ý của Pound, và một số nhà bình luận cảm thấy rằng nếu như ông ít nghe theo những gợi ý ấy hơn thì có lẽ sẽ tốt hơn. Nhưng ít ai tranh cãi rằng bài thơ chung cuộc về tổng thể thì hay hơn bản thảo gốc; nếu phải lựa chọn một cách nghiêm khắc, thì sẽ tốt hơn cho Eliot nếu chấp nhận mọi gợi ý của Pound hơn là chối bỏ tất cả.
Tiến trình sáng tác The Waste Land cho ta một ví dụ xuất sắc về vai trò không thể thiếu mà những người khác có thể đóng trong sự ra đời một kiệt tác sáng tạo. Trong thời gian viết, Eliot đang ở vào hoàn cảnh tuyệt vọng. Đời sống riêng của ông bất hạnh, và ông vẫn thiếu tự tin về chỗ đứng của mình trong thế giới văn chương. Ông làm ra một bản thảo ngổn ngang đầy hứa hẹn nhưng khó cho người đọc tiêu thụ. Eliot may mắn có hai người mà ông cảm thấy thân gần, lại có thể làm việc với ông, và cũng may mắn là ông có thể tiếp nhận một cách xây dựng sự phê bình của họ.
Giống như mọi người sáng tạo khác trong một sự khai phá quan trọng, Eliot cố gắng sản sinh một hệ thống biểu tượng hay ngôn ngữ mới, một giọng thơ có thể thể hiện được, một mặt là những tình cảm tuyệt vọng của đích thân ông, mặt khác là sự suy vi của văn minh châu Âu. Những mảnh khác nhau mà ông đưa ra qua năm tháng giống như những phác hoạ riêng rẽ có trước bức Les demoiselles và bức Guernica, cũng như những trích đoạn ngắn và những bài dân ca sau đó được nhập vào Le sacre và Les noces của Stravinsky. Hai nhà phê bình được chọn lựa của Eliot nhận ra rằng ông đã tìm thấy giọng điệu thích hợp và những cách thức thích hợp để hoàn thành mục đích của mình, cho nên đừng tìm cách phê phán về thiết kế và thông điệp của The Waste Land sau khi nó đã định hình. Đúng hơn, giống như các bậc cha mẹ tìm cách giúp đứa con nhỏ của mình truyền đạt ý nghĩ của nó một cách hữu hiệu, các bà đỡ của Eliot tỉa bỏ những ngôn từ thừa thãi để cho số khán giả đông đảo nhất có thể bắt được giọng điệu và tình cảm chủ đạo của nó. Một lần nữa, như ta đã thấy với Einstein, Freud, Picasso và Stravinsky, một người sáng tạo trên ngưỡng cửa của những thành tựu hấp dẫn nhất, đã hưởng lợi từ những mối kết giao thân thiết, gần như từ cha mẹ hay anh chị em ruột, cho đến những người mà mình thân kính.
Ý NGHĨA CỦA THÀNH TỰU
Ít tác phẩm thơ trong lịch sử đã được thừa nhận là quan trọng một cách nhanh chóng như thế, như một cống hiến mang tính cách mạng đối với văn học cũng như một chữ ký tinh thần của một thế hệ. Dù cho một Eliot về sau già hơn và sùng đạo ra mặt có giảm bớt tham vọng của bài thơ, nói rằng nó là “một lời cằn nhằn riêng tư và hoàn toàn vớ vẩn về cuộc đời…, một mẩu càu nhàu có nhịp điệu”, nó đã có ý nghĩa rất nhiều đối với một thế hệ người đọc Âu Mỹ.
Eliot thể hiện được qua ngôn từ và hình thức sự khó ở đang lan rộng, buổi tận thế của nền văn minh châu Âu từng có lúc dường như toàn vẹn và thống nhất, nhưng giờ đây dường như ngày càng phân mảnh, bất định và thậm chí cùn mòn. Eliot đã hoàn tất thông điệp này một cách gần như gián tiếp, thông điệp đã được đưa ra rõ ràng trong cuốn Decline of the West - Sự suy vi của phương Tây của Oswald Spengler chỉ vài năm trước. Không có chỗ nào trong bài thơ nói rõ đến văn minh phương Tây, sự phân rã của con người, hay sự suy vi hay vắng mặt của các giá trị. (Pound đã bảo Eliot không sử dụng một lời đề từ của Joseph Conrad trong đó một nhân vật lên tiếng về những tình cảm tuyệt vọng của mình). Thay vì thế, cảm nhận này được chuyển tải qua những chân dung sống động - chẳng hạn, việc làm tình hờ hững giữa ả đánh máy chữ và cậu thư ký công ty mua bán nhà đất; việc sử dụng những hình ảnh từ văn học kinh điển như Phlebas, con người từng có lúc đẹp trai, và nhà tiên tri Tiresias lưỡng tính đã chịu mọi khổ nạn; sự tương phản ngấm ngầm giữa phương Tây suy sụp, không còn màu mỡ với một phương Đông khôn ngoan và bình yên hơn, đã được tiêu biểu bằng bản tam ca huyền bí “Shantihs” cuối cùng, lấy từ kinh Upanishad, gợi lên “sự yên bình với hiểu biết từ quá khứ”.
Thành tựu của Eliot gây ấn tượng mạnh về một khía cạnh khác. Bài thơ khó đọc và khó chịu, đầy những dòng thơ chỉ người có học là có thể hiểu và những ám dụ mà ngay cả những cước chú dài dòng cũng không đủ làm sáng tỏ. Thế nhưng, thay vì đánh đố hay làm người đọc mất hứng - và ở đây tôi đặc biệt nói những người đọc trẻ - thì cái phẩm chất bí hiểm và tối tăm của The Waste Land lại dường như góp phần vào hiệu quả của bài thơ và đưa người đọc vượt qua sự hấp dẫn của vẻ làm dáng hiển nhiên khi đọc một tài liệu có chiều sâu rõ rệt như thế. Eliot có phần thành công trong việc chuyển tải thông điệp của bài thơ ngay cả khi những dòng thơ riêng rẽ và những phần riêng biệt có vẻ vô nghĩa. Khi ta đọc đi đọc lại bài thơ - và, giống như những tác phẩm hiện đại khác, nó đòi hỏi và thưởng thưởng việc đọc lại - những đoạn riêng rẽ có thể không trở nên trong sáng, nhưng tâm trạng bi ai của Eliot thì xuyên suốt với niềm tin và sức mạnh rõ rệt hơn. Ở chỗ này, lần nữa, ta lập tức nghĩ đến những sự tương tự với Les demoiselles và Guernica, Le sacre và Les noces.
Các phản ứng với The Waste Land
Những bài báo điểm bình về The Waste Land tích cực hơn rất nhiều so với những gì mà những tác phẩm mang tính thời đại tương đương, chẳng hạn như Le sacre của Stravinsky hay Les demoiselles của Picasso, đã nhận được. Chắc chắn cũng có những phản ứng tiêu cực. Nhà thơ Amy Lowell gọi nó là “một mẩu mề heo [nguyên tác: “tripe” nghĩa là lớp niêm mạc dạ dày súc vật – ND]”, nhà thơ Williams Carlos Williams than rằng “tôi cảm thấy ngay lập tức nó đưa mình ngược về 20 năm trước”, và tờ báo Manchester Guardian thì nói về “quá nhiều giấy lộn”. Nhưng phần lớn những cây bút bình luận trên báo đều có cái nhìn tích cực hoàn toàn hoặc dè dặt. Conrad Aiken nói đến “một loạt bức tranh xuất sắc, ngắn ngọn, rời rạc hay có liên quan mờ nhạt, qua đó một ý thức trút hết những nội dung đặc trưng của nó”; Edmund Wilson tuyên bố rằng nó “nâng cao và tàn phá cả một thế hệ”; Karl Schapiro gọi nó là “bài thơ quan trọng nhất của TK 20”. Và tờ Times Literay Supplement - Phụ trương Văn học của báo Times tuyên bố vào ngày 26 tháng 10 năm 1922: “Chúng ta có ở đây bề rộng, chiều sâu, và sự diễn đạt đẹp đẽ. Còn cần gì thêm nữa cho một bài thơ lớn?”
Từ khi xuất bản, The Waste Land đã được soi xét nhiều nhất trong mọi tác phẩm văn chương TK 20. Sự đa thanh của nó đã sinh ra vô số cách đọc và sự tranh cãi. Sự tranh cãi trong trường [giới văn chương] xoay quanh một số điểm. Mội số người nhìn bài thơ chủ yếu như một tuyên ngôn tuyệt vọng riêng tư, trong khi những người khác cảm thấy rằng nó cố gắng đạt đến sự biểu đạt phổ quát. Phần lớn nhìn nó như mang tính thể nghiệm cao độ và tiên phong, nhưng một ít người cảm thấy rằng nó lạc hậu một cách cố tình hay vô tình. Một điểm thường trở đi trở lại trong tranh luận liên quan đến một trong những đức tính của văn chương theo Aristotle - bài thơ có thống nhất một khối hay không. Người phê phán nặng nhất than phiền là nó rời rạc, chắp vá tình cờ hay vô nghĩa mà không có sự liên tục hay phương hướng. Đáp lại, một nhóm người bảo vệ tuyên bố rằng sự rời rạc thực ra chính là điểm mạnh của bài thơ: vì đời sống và sự cảm nhận hiện đại là hỗn mang, nên một bài thơ chuyển tải một cách trung thành không khí ấy phải tự nó làm ví dụ cho sự vô trật tự. Những người bảo vệ khác tuyên bố dù sao cũng tìm thấy trật tự. Nhà phê bình I.A. Richards, một trong những người đọc sớm và suy nghĩ sâu sắc nhất, mô tả bài thơ là thống nhất về cảm xúc chứ không về logic, nó đạt hiệu quả bằng “âm nhạc của các ý tưởng”; ông nói về sự tương phản và tương tác của những hiệu ứng xúc cảm như sợi chỉ xuyên suốt. Theo Cleanth Brook, thì thái độ mỉa mai chủ đạo đã tạo nên tính nhất thể qua các trải nghiệm và các đoạn của bài thơ. Cũng có sự tranh luận nóng bỏng về giọng điệu: có nhiều hay một giọng điệu? Nếu như là một giọng, thì đó là giọng Eliot, một giọng thay mặt Eliot, giọng nhà hiền triết Tiresias, hay tinh thần châu Âu hiện đại? Với thời gian và những nghiên cứu tiếp tục, nhiều nhà văn đi đến chỗ tập chú vào những yếu tố tự truyện phản ánh một Eliot trầm cảm, bất lực và bên lề.
Dù được phản ứng ra sao, thì Eliot cũng đã trở thành một nhà thơ quan trọng, và The Waste Land rõ ràng là một tác phẩm ghê gớm, tuyên bố - có lẽ cũng thực hiện - tham vọng của tác giả về sự lớn lao của nó. Ngay cả một Eliot lúng túng vì không tự tin cũng dám nói rằng nó là “một tác phẩm tốt”, “tốt nhất mà tôi từng làm được”. Như với Le sacre, một nghệ sĩ còn trẻ tuổi đã xoay xở để thuyết phục trường [giới âm nhạc] rằng tác phẩm mới nhất của mình đánh dấu một tuyệt đỉnh, một thời khắc quyết định trong sự phát triển của chính mình, trong sự phát triển của những nhạc sĩ cùng thời, và, có lẽ, trong sự tiến triển của lĩnh vực. Không chỉ có việc bài thơ có được tầm quan trọng trong tâm trí Eliot và ông đã nghĩ tốt về nó, mà vấn đề là ông đã thành công trong việc chuyển tải cảm nhận về sự đặc biệt này tới người khác. Vượt lên trên mọi giá trị nội tại của nó, độ dài, khuôn khổ, và ngay cả sự tự phụ và tự đắc trong cách giới thiệu, tất cả hợp sức để làm cho nó thành một tác phẩm quyết định trong con mắt tác giả và công chúng của ông.
THÀNH TỰU ĐẶC BIỆT CỦA NHÀ THƠ
Theo tôi, The Waste Land, hơn bất kỳ tác phẩm thơ nào cùng thời đại, chuyển tải những giọng điệu và đề tài chiếm lĩnh ý thức của những người đồng thời trong giới văn chương. Với không đầy 500 dòng thơ, Eliot đã thành công trong việc chạm đến và đi vào một số lượng thế giới nhiều đến kinh ngạc. Mỗi dòng thơ và chắc chắn mỗi khổ thơ, đều mang nặng ý nghĩa và có thể tự thân khởi lên một bài thơ riêng rẽ về một chủ điểm riêng rẽ. Thiên tài này không chỉ chuyển đến người đọc một vũ trụ thơ (hay thực ra là nhiều vũ trụ thơ) mà còn cung cấp một số lượng đồ sộ những điểm vào cho khán giả. Vài đoạn thơ tung ra thứ ngôn ngữ nói, sự hí hoạ sống động, sự mô tả thiên nhiên bền vững, những hình ảnh thần bí, lời đáp sắc sảo, những cảnh tượng đô thị ảm đạm, những mẩu chuyện kể, một cuộc chơi âm thanh thuần tuý, những chớp hình đập vào mắt, và nhiều hơn thế. Giống như trong những kiệt tác đỉnh cao khác của kỷ nguyên hiện đại, như Ulysses hay À la recherche du temps perdu - Đi tìm thời gian đã mất, đám đề tài chồng lấn nhau xuất hiện lúc ban đầu rồi sau đó được phát triển theo cách này cách khác trong tác phẩm, cũng góp phần mạnh mẽ vào hiệu quả của tác phẩm. Giữa các đề tài trong The Waste Land, có những đề tài về sự phồn sinh và những lễ nghi sinh thực khác, ông Vua Ngư Phủ - Fisher King, cỗ bài Tarot, câu chuyện Chén Thánh, vẻ u ám của London với những cây cầu và nhà thờ cổ, cuộc tán phễu giữa tửu khách quán bar, cuộc chuyện trò nghe lỏm được giữa các thành viên của xã hội thượng lưu, những mong đợi hành lạc mà không có tình yêu, khả năng cứu chuộc, và những âm vang dụ khị của triết học hay tôn giáo phương Tây. Những mô típ có ý nghĩa này xuất hiện trong một bài thơ có những dòng thơ mạnh mẽ và những tuyên ngôn trần trụi, được chuyển tải chủ yếu trong hình thức câu thơ năm chân [pentameter] cổ điển. The Waste Land nổi lên như một chân dung đậm đặc và mạnh mẽ của giàn dài những tư tưởng chiếm lĩnh một tâm trí rối loạn sâu xa, thực vậy, tâm trí hiện đại. Và dẫu không phải là câu chuyện kể trực tiếp, nó đưa ra cùng lúc những cuộc tìm tòi đã cũ một cách khá thấu đáo, đủ cho người đọc cảm giác về một trải nghiệm hoàn hảo, chu toàn.
Cuối cùng, tôi muốn gợi ý rằng tâm trạng của bài thơ ăn nhập một cách chính xác với những tình cảm của dân chúng châu Âu khi kết thúc một cuộc chiến tranh kéo dài và phần lớn là chẳng ích gì - một thị ảnh mà Eliot đã tiên cảm khi bước đi qua các phố Boston hơn một thập niên trước. Giữa giới trẻ và giới trí thức - là mục đích của bài thơ này, trường của nó - có sự đồng thuận rằng chiến tranh đã không đem lại bao nhiêu và những trông đợi về một nền văn minh có sức sống, tiến bộ, thật mỏng manh và ngày càng giảm. Tôn giáo có vẻ già yếu, sự phi luân được chấp nhận, và những thành phố từng sống động giờ đây già yếu và rời rã; nhiều người trong số đó đi tìm những sản phẩm biểu đạt có thể thể hiện những tâm trạng thất vọng ấy. The Waste Land thành công hơn bất kỳ tác phẩm nào khác trong việc này; do đó, nó được dùng như một biểu hiệu cho cả một thế hệ những kẻ bị mất hết, “thế hệ lạc lối” (lost generation) của Gertrude Stein. Như nhà thơ C. Day Lewis đã nói: “[The Waste Land] cho ta một ấn tượng đích thực về não trạng của những người có học trong sự suy trầm về tâm lý diễn ra ngay sau chiến tranh”. Mặc các nhà phê bình văn học nói gì, những người đọc thông thường đã trở nên cái trường làm cho The Waste Land nổi tiếng.
[1] Một dòng trích dẫn từ “Our Mutual Friend” (Người bạn chung của chúng mình) của Charles Dickens.
SUY GIẢM TRONG HIỆU QUẢ SÁNG TÁC
Eliot đã viết “Prufrock” ở đầu tuổi 20 và The Waste Land ở đầu tuổi 30. Qui luật 10 năm mà tôi đã mô tả có thể được thấy ở đây, với những cột mốc quan trọng trong sự phát triển tác phẩm và tư tưởng của Eliot xảy ra cách nhau khoảng một thập niên. Eliot đã sống bốn thập niên sau The Waste Land, và ông đã sáng tác thêm những vần thơ đáng chú ý hơn, một kiệt tác thơ nữa, và tuôn trào một cách đáng kể những văn bản thuộc những thể loại khác; thế nhưng thành quả tột đỉnh trong thể loại ưa thích nhất mà ông đã đạt được vẫn là việc xuất bản The Waste Land, một thành tích không giống như thành tích của những nghệ sĩ khác cùng tầm mức. Sau đó không có thêm những cách tân đáng kể nào nữa, và nếu Eliot ngừng làm thơ sau năm 1923, có thể ông vẫn giữ được vị trí như thế trong lịch sử thơ ca, dù không phải vị trí như thế trong lịch sử văn học.

Ta có thể nghĩ về những lý do cả về mặt con người lẫn về mặt liên quan đến lĩnh vực [văn chương] gây ra sự suy giảm về hiệu quả theo sau thành công ban đầu của nhà thơ. Về mặt con người, cuộc sống của Eliot chuyển qua một giai đoạn ngày càng bảo thủ sau những năm đầu thập kỷ 1920, và sự bảo thủ này dường như đã góp phần vào sự suy giảm cả về số lượng thơ được viết lẫn sự hứng thú đối với những người đọc thơ đương thời. Như đã nói ở trên, thơ nói chung, và thơ trữ tình (cá nhân) nói riêng, là một tác phẩm nghệ thuật trong đó người nghệ sĩ thường đóng góp khi tuổi còn trẻ. Phần lớn các nhà thơ lớn của những thế kỷ gần đây đã sáng tác tác phẩm quyết định của mình ở lứa tuổi 20 hay 30, và nhiều người hoặc là chết, ngưng làm thơ trong những thập kỷ tiếp theo, hoặc là tiếp tục viết theo cùng một lối mà không có sự tiến triển hay thay đổi đáng chú ý. Các nhà thơ đạt được sự đột phá vào tuổi trung niên hay muộn hơn như William Butler Yeats hay Robert Penn Warren, thường hãn hữu hơn những tác giả đồng đẳng trong thể loại tiểu thuyết, âm nhạc, hay nghệ thuật thị giác. Như nhà tiểu thuyết Marcia Davenport vừa nói: “Tất cả các nhà thơ đều chết trẻ. Hư cấu [văn xuôi] là nghệ thuật của tuổi trung niên. Và luận văn là nghệ thuật của tuổi già”.
Eliot như một con người của công chúng
Bất kể việc xuất bản The Waste Land và sự thừa nhận Eliot như tiếng nói của thế hệ mình, đời sống trong gia đình của Eliot vẫn là một nguồn gây ra ưu tư cho ông. Bệnh tật của Vivien và những sự bục vỡ công khai vẫn tiếp tục, và Eliot, trong khi bị lệ thuộc vào sức khoẻ thể chất, lại vẫn ở trong tình trạng tâm lý mong manh. Ngay sau khi hoàn tất The Waste Land, Eliot đã tuyên bố: “[Tôi] sắp sẵn sàng nôn ra hết văn chương và nghỉ khoẻ; tôi không thấy lý do mình nên tiếp tục mãi việc đấu tranh trong cương vị hậu vệ chống lại thời gian, sự mệt mỏi, và bệnh tật, và hoàn toàn không chịu thừa nhận ba thực tế ấy”.
Hoàn cảnh gia đình đã không cải thiện. Cuối cùng, năm 1933, khi đang đi chơi ở Hoa Kỳ, Eliot quyết định không còn tiếp tục mối quan hệ đã gây cho mình nhiều đau khổ và chỉ ngày càng xấu đi. Ông đã thu xếp thông qua một luật sư để có được sự ly thân với Vivien, và sau khi trở về nước Anh, ông rất ít khi thăm lại người vợ đã ly thân của mình. Vivien không bao giờ hồi phục khỏi sự gạt bỏ tàn nhẫn và hèn nhát ấy; cuối cùng bà được đưa vào một cơ sở tâm thần, và chết ở đó vào năm 1948.
Eliot đi tìm sự giải khuây khỏi những đau khổ cá nhân của mình qua việc đắm mình vào nhiều cố gắng với yêu cầu cao. Ông tích cực tham gia việc xuất bản những cái gọi là tạp chí nhỏ (tập họp thơ, văn xuôi và bình luận) ở cả hai bờ Đại Tây Dương. Ông làm việc từ 12 đến 15 giờ mỗi ngày, dạy sớm, để hết thì giờ ở văn phòng, viết thư và điểm sách cho đến đêm khuya, và nặn ra các bài báo, có tới hằng trăm - một số không ký tên, nhiều bài vẫn chưa được sưu tầm hết. Một phần những hoạt động điên rồ này chắc chắn bắt nguồn từ ham muốn và tham vọng, nhưng ít ra có một phần từ nỗi sợ hãi có thời gian hai tay rảnh rỗi và không làm được thơ nữa.
Quan trọng nhất là vai trò của ông trong tờ tạp chí Criterion, mà ông tung ra cùng lúc với The Waste Land (bài thơ dài thực ra đã được công bố trong số đầu tiên của nó) và ông chủ trì nó cho đến cuối những năm 1930. Mục đích của tờ tạp chí như ông nói, là “tập họp những gì hay nhất trong tư tưởng mới và sáng tác mới của thời đại”. Vì những nỗ lực không mệt mỏi của Eliot và vì ảnh hưởng ngày càng tăng của ông trong thế giới văn chương và xã hội, ông đã đạt được những thành công đáng kể, dù cho (như điều khó tránh khỏi với các tạp chí nhỏ) có tiếng hơn là có miếng.
Đọc hết những thư từ nảy sinh liên quan đến vai trò biên tập của Eliot trong tờ Criterion và những tờ tương tự, ta gần như cũng gặp lắm mưu mô và tranh cãi như trong thế giới âm nhạc của Stravinsky. Eliot đã làm om xòm chỉ về một từ hay một dấu chấm câu; nịnh nọt hay thúc ép những nhà văn nộp bài chậm; dây vào chuyện mưu mô tiền nong và đấu đá quyền lực. Một cạm bẫy như thế trong trường dường như phải gặp trong địa hạt trở thành một gương mặt trung tâm trên thế giới nghệ thuật và ý tưởng, đặc biệt khi người ta không có nguồn tiền riêng để dựa vào. Thế nhưng, không như Stravinsky và Picasso, Eliot dường như đã không mấy vui thú (ngay cả một cách vô thức) với sự ngang trái liên kết với vị trí của mình. Coi những việc ấy là cái tồi tệ cần thiết trong đời sống văn chương, ông dường như đã được giải toả khi có thể bỏ được những tranh cãi vặt vãnh như thế và có được vị trí người phát ngôn đàn anh.
Sau khi ở trong ngành ngân hàng mấy năm, Eliot đã có được cơ hội gia nhập công ty xuất bản do Geoffrey Faber lãnh đạo vào năm 1925. Cho đến hết đời, Eliot vẫn là gương mặt quan trọng trong công ty xuất bản Faber and Faber, ở đó ông có thể khuyến khích những nhà thơ trẻ, trong đó có W.H. Auden, Ted Hughes, Louis Mac-Niece, và Stephen Spender. Eliot đã chứng tỏ là một biên tập viên hàng đầu và một thành viên xuất sắc của phòng biên tập. Dù ông không đích thân dạy dỗ, nhưng đã cho những phản hồi hết sức hữu ích và chính xác cho các nhà văn có khát vọng, đó cũng là trả món nợ của mình với Pound. Có lẽ đáng ngạc nhiên nhất, ngay cả khi quan điểm triết học của cá nhân ông ngày càng quay sang bảo thủ, ông (giống như Stravinsky) vẫn có cái nhìn rộng rãi về văn chương và khuyến khích các nhà văn sử dụng những phương pháp và bút pháp khác nhau. Và, tương phản với vai trò kẻ van nài, một biên tập viên của tạp chí nhỏ có khát vọng to nhưng nguồn lực nhỏ, ở đây ông đã có cơ hội vừa là phán quan vừa là người ban phúc, những vai trò ngày càng phù hợp với ông trong những năm tháng sắp tới.
Eliot, gương mặt văn chương vào thời trung niên
Cũng sáng chói như lúc Eliot vụt lên thành nhà thơ của thế hệ mình, là việc ông thăng tiến đột ngột lên vị trí nhà bình luận văn học đầu bảng ở nước Anh của thời đại. Eliot đã viết nhiều về văn học Anh của thời kỳ này và thời quá khứ; ông cũng chủ trì về văn chương trong những ngôn ngữ và truyền thống châu Âu khác mà ông quen thuộc. Ông đã viết nhiều và hay. Nhưng tầm vóc của ông, lại lần nữa dường như phần lớn đã bắt nguồn từ cái cách viết của ông.
Để bắt đầu, Eliot có năng lực nói từ bục giảng của nhà thơ, một vai trò được kính trọng nhất trong văn chương châu Âu. Ông giữ vững quan điểm nhà thơ là người có năng lực nhất để viết về thơ, ngay cả khi tra vấn về tính khả tín của những người không phải nhà thơ mà tự cho mình phán xét thơ. Ông chuyên trị đưa ra những phán xét về các tác phẩm hay tác giả, những kết luận đưa ra như những bài thơ trào phúng tự tin, nhiều khi là những dòng vắn tắt từ một bài thơ của mình. Bất kể trong đàm thoại, thư từ, hay những bài viết được công bố, ông đều có thể đưa ra những phán xét nhanh và tự tin - một kỹ năng cần thiết cho ai dấn thân vào nghề báo viết về văn học. Những phán xét này không phải bao giờ cũng được ủng hộ bởi lập luận logic hay có hệ thống, nhưng được tổ chức cẩn thận theo một khuôn mẫu thuyết phục về mặt tu từ. Trên hết, ông đã học được cách đưa ra ý kiến của mình một cách ôn hòa, không thiên vị.
Có một giọng điệu của vị giám khảo Olympia, tung hô một số cá nhân hay những tác phẩm cho đến bấy giờ bị bỏ qua hay đánh giá thấp, và đặt vấn đề về những cá nhân hay tác phẩm đã được đón nhận. Dù sự thích thú và đặt cược riêng của ông vào danh tiếng của nhà văn này hay nhà văn nọ có thế nào, Eliot vẫn giữ cách thế của một người quan sát vô tư, mà công việc là bảo vệ văn chương.
Việc tái phân bố địa hạt văn chương của Eliot đã tỏ ra thành công một cách đáng kinh ngạc. Cũng như có nhiều người đã cảm thấy sốc khi đọc thơ ông, nhiều người cảm thấy sốc khi đọc những phán xét về văn chương và văn hoá thường gây bất ngờ của ông. Việc ông bảo vệ Dante như một người có thiên bẩm ngang bằng nhưng liêm chính hơn Shakespeare đã được đón nhận nghiêm chỉnh. Những lời ông phê phán Milton như trí tuệ quá mức đã được ghi nhận; sự khó chịu của ông với các trí thức thành thị, phụ nữ, người theo khuynh hướng tự do, người Do Thái, và “những chủng tộc không thuần chủng” được một số tiếng nói hưởng ứng. Sự quan tâm của ông đến những nhà thơ siêu hình, các nhà tượng trưng Pháp, và những bài thuyết giáo của Lancelot Andrews ảnh hưởng đến thói quen đọc sách và cảm nhận của hơn một thế hệ sinh viên văn. Và trong khi quan điểm chính trị bảo thủ của ông có thể khiến cho một ít người thay đổi suy xét của họ, nó đem đến sự kính trọng nhất định cho những quan điểm có thể đã bị đơn giản coi là ghê tởm.
Tất nhiên, thật trái khoáy khi một cá nhân cảm thấy mình ở bên lề quá mức lại tự cho là mình nói cho một dòng chính của Anh, thậm chí là của châu Âu. Đây là Eliot - một người xứ New England [của Hoa Kỳ - ND] sống ở vùng Trung Tây, một kẻ bảo thủ tại trường Harvard cấp tiến, một người Mỹ ở Anh Quốc, một trí thức thành thị mềm yếu như nữ nhi với những quan điểm tiêu cực công thức về phụ nữ và trí thức - tự cho mình đặt định các thái độ cho những ai chắc chắn là ít bên lề hơn. Sự trái khoáy này không mất đi ở Eliot, ông tiếp tục suốt đời nghĩ rằng mình là kẻ đứng ngoài cuộc. Nhưng Eliot cho rằng đó là một đức tính cần thiết. Ông tuyên bố rằng chỉ người nước ngoài mới có thể lãnh việc tổng kết và đánh giá mà ông đã dấn thân vào; những người Anh bản xứ sẽ gặp quá nhiều khó khăn để nhìn vào vùng đất bằng con mắt sáng suốt, không định kiến. Và, vọng lại Henry James, ông giữ vững ý kiến rằng một người Mỹ có thể trở thành một người châu Âu theo cái cách mà không người châu Âu nào có thể.
Trong khi những phát ngôn của Eliot về nhiều lĩnh vực giờ đây dường như lạ lẫm, thì các quan điểm của ông về thơ - nhiều quan điểm được nói lên khi ông còn rất trẻ - đã tiếp tục gây (và xứng đáng được) chú ý. Eliot đã nhìn thơ không như sự tuôn trào cảm xúc hay cái tôi mà là sự trốn khỏi những yếu tố ấy; nhưng ông chỉ ra một cách sắc bén rằng chỉ có ai sở hữu tính cách cá nhân và cảm xúc mới biết mong muốn trốn khỏi những cái đó nghĩa là gì. Như ông nói: “Người nghệ sĩ càng hoàn hảo, thì cái phần hoàn toàn tách biệt trong anh ta sẽ càng là con người đau khổ và tâm trí sáng tạo”. Vọng lại gần như chính xác những tình cảm của các bạn bè hiện đại chủ nghĩa Picasso, Stravinsky và Graham, ông ghi chú rằng các nhà thơ chưa chín thì bắt chước, nhưng các nhà thơ đã chín thì ăn cắp, trong tiến trình biến nội dung đạo văn thành cái gì đó riêng của mình, và, không phải không thông thường, thành cái gì đó hay hơn.
Eliot phản ánh rất rõ tiến trình thơ. Ông thấy, nhà thơ có sự nhạy cảm có thể tiêu hoá bất kỳ loại trải nghiệm nào. Tâm trí nhà thơ là một kho tiếp nhận, nắm giữ và lưu trữ vô số cảm nhận, câu nói, hình ảnh, v.v...; những thứ đó được giữ trong vô thức và hình thức chưa thành cho đến khi có thể hợp thành một hợp thể mới trong đó chúng được thể hiện cùng nhau. Ông nói về một “logic của tưởng tượng”, nó cũng mạnh mẽ, theo một cách riêng biệt của nó, như logic của các khái niệm và ý tưởng. Hơn nữa, ông lập luận rằng, đọc thơ là một trải nghiệm về cảm xúc, giống như nghe nhạc, có thể bị cản trở bởi sự thực thi sức mạnh luận lý. Theo ông, thơ hay nhất là thơ có thể nhớ một cách vô thức; nó cất lên từ, được xây nên trên cơ sở, và liên quan đến một nhịp điệu trong vô thức.
Trong cái có thể là đóng góp nổi tiếng nhất của ông cho việc phân tích văn học, là ý tưởng về sự tương liên khách quan. Các nhà thơ không trực tiếp truyền thông cảm xúc, ông nói. Đúng hơn, họ tạo ra tình huống hay hình ảnh sao cho cảm xúc ấy, khi được thể hiện, thì sẽ được truyền thông một cách thành công và hiệu quả. Ông nói, ta cần “một tập hợp sự vật, một tình huống, một chuỗi sự kiện sẽ phát biểu rõ ràng cái cảm xúc riêng biệt ấy, sao cho khi những ngoại diện - phải kết thúc trong trải nghiệm giác cảm - đã được cung cấp, thì cảm xúc được gợi lên”. Những nhà thơ đáng ghi nhận nhất là những người sở hữu thiên bẩm sáng tạo những sự tương liên khách quan ấy. Ông kết luận rằng “trừ phi chúng ta có số ít người kết hợp một sự nhạy cảm đặc biệt với một quyền lực đặc biệt về ngôn từ, không thì năng lực của riêng ta không chỉ không diễn đạt, mà thậm chí không cảm nhận được gì hết ngoài những cảm xúc thô thiển nhất, năng lực ấy sẽ thoái hóa”.
Khi viết về sự tương liên khách quan, Eliot có thể nghĩ nhiều đến những trải nghiệm của mình, trong đó có những cố gắng để thể hiện bằng ngôn từ những sự chìm đắm trong giác cảm thuở ban đầu và cuộc dạo bước kỳ lạ qua phố xá Boston. Tuy nhiên chắc là những quan điểm của Eliot về văn chương, và đặc biệt về thơ, đã vượt quá những trải nghiệm và định kiến cá nhân của ông. Ông đã đạt tới những sự thấu hiểu thực thụ về tiến trình của thơ, và đặc biệt những sự thấu hiểu về kỷ nguyên của chính mình, trong đó có tác phẩm của chính mình. Khi sử dụng vốn đào tạo về phê bình và triết học của mình để soi sáng nghệ thuật của thời đại, Eliot có thể kết hợp các vai trò thường được làm tròn bởi những cá nhân khác nhau có sự đào tạo khác nhau và những cảm nhận tương phản. Sự thành công và sự công nhận mà ông đạt được với tư cách nhà thơ cũng như nhà phê bình đã được nhân lên bởi thực tế là ông có thể sẵn sàng làm tròn cả hai vai trò ấy như bất kỳ cá nhân nào trong thời đại của mình.
Những suy nghĩ của Eliot về thơ giúp cho những thiên bẩm trí tuệ của riêng ông bừng sáng. Tất nhiên, là nhà thơ, ông chủ yếu di chuyển trong những biểu tượng ngôn ngữ - trong các nghĩa, sắc thái, và những kết hợp từ ngữ trong mỗi ngôn ngữ mà ông viết. Nhưng khi viết các bài thơ, ông dựa vào những vật liệu từ những lĩnh vực khác - những khái niệm thuộc loại logic-triết học, những nguồn lịch sử và văn chương từ nhiều nền văn hoá, những hiểu biết về thế giới của những người khác, và, có lẽ trên hết, là sự cảm nhận đời sống cảm xúc của chính mình. Trừ phi trong những bài viết về văn chương và triết học, Eliot không trực tiếp sử dụng những vật liệu ấy. Đúng hơn, ông khai thác chúng thông qua những hình ảnh và thành ngữ văn chương tạo thành bài thơ. Nhiều thay đổi trong các bản thảo của chính ông, cũng như những gợi ý xuất sắc cho các nhà thơ khác, đã phản ánh những cố gắng thể hiện những nghĩa này một cách chính xác và trực tiếp trong khuôn khổ phương tiện ngôn ngữ thơ.
T.S. Eliot và Vivien Eliot
Howard Gardner
Hoàng Hưng dịch
Nguồn: Văn Việt
Theo http://www.hocviet.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Nước mắt thi ca “Bố ơi! Con đau…”. Cố gạt đi hình ảnh đứa con nhỏ nằm bất động trên giường điều trị của bệnh viện, Hạnh gò mình bên bàn ...