Đặc điểm ngôn ngữ thơ
Xuân Diệu và Xuân Quỳnh
Xuân Diệu và Xuân Quỳnh là niềm tự hào của thơ ca Việt Nam.
Xuân Diệu là thi sĩ tiêu biểu cho thế hệ những nhà thơ mới đầu tiên của văn học
Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Trong khi đó, Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ tiêu biểu
cho văn học Việt Nam những năm từ 1945 đến 1975. Cả hai thi sĩ, người thì được
mệnh danh là “ông hoàng thơ tình”, người thì thì được bạn đọc mến mộ phong tặng
danh hiệu “bà hoàng thơ tình”. Thơ ca của mỗi thi sĩ mang vẻ đẹp riêng, giá trị
riêng. Việc tìm hiểu vẻ đẹp ấy trong thế so sánh sẽ làm sáng tỏ hơn phong cách
của mỗi người, từ đó có được cách nhìn nhận, phân tích tác phẩm đúng đắn, đa
chiều hơn.
1. Mở đầu
Xuân Diệu và Xuân Quỳnh là hai nhà thơ xuất sắc của nền văn học
Việt Nam. Những sáng tác của hai nhà thơ trên luôn là nguồn cảm hứng bất tận
cho nhiều thế hệ độc giả, và trở thành tác phẩm được giảng dạy trong nhà trường
phổ thông. Chính vì vậy, nghiên cứu và tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ trong thơ của
Xuân Diệu và Xuân Quỳnh là một điều lý thú và thật sự cần thiết. Từ trước đến
nay, Xuân Diệu và Xuân Quỳnh là hai tác giả thường được nhắc đến cùng với những
bài thơ tình hay. Đông đảo bạn đọc đều thừa nhận rằng Xuân Diệu và Xuân Quỳnh
là hai tiếng thơ độc đáo, hấp dẫn. Theo chúng tôi, cả Xuân Diệu, Xuân Quỳnh đều
giống nhau ở giọng thơ nồng nàn, da diết và đều có chung tâm trạng lo lắng, cuống
quýt trong tình yêu.
Bài báo khoa học này sẽ nêu ra một vài so sánh về vấn đề sử dụng
ngôn từ của hai tác giả trên nhằm góp phần tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ và phong
cách sáng tác của hai tác giả và để thấy được mối quan hệ mật thiết giữa ngôn
ngữ và văn chương; vấn đề ngôn ngữ và quá trình tiếp nhận văn chương; đóng góp
ý kiến cho việc giảng dạy ngôn ngữ nói riêng và việc dạy học Ngữ Văn ở nhà trường
phổ thông nói chung. Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn
đề này nhưng những bài viết đó thường chỉ đề cập đến hoặc là đặc điểm ngôn ngữ
thơ Xuân Diệu hoặc là đặc điểm ngôn ngữ thơ Xuân Quỳnh, còn rất ít công trình
nghiên cứu về việc so sánh đặc điểm ngôn ngữ thơ Xuân Diệu và Xuân Quỳnh.
2. Đặc điểm ngôn ngữ thơ Xuân Diệu và Xuân Quỳnh
2.1. Nhạc tính trong ngôn từ
Thơ là những xúc cảm mạnh mẽ mà nhà thơ có được trước cuộc đời.
Như nhịp đập của trái tim khi rung cảm, ngôn ngữ thơ cũng có nhịp điệu riêng của
nó. Một bài thơ hay là một bài thơ tồn tại trong nó sự hài hòa giữa âm thanh,
nhịp điệu của từ với ý nghĩa, hình ảnh của từ ngữ ấy. Khi nhận xét về mối quan
hệ giữa ý và nhạc trong thơ, nhà thơ Chế Lan Viên đã từng nhận định: “Nếu thơ
rơi vào cái vực ý thì thơ sẽ sâu nhưng rất dễ khô khan. Rơi vào cái vực nhạc
thì thơ dễ làm say lòng người nhưng dễ nông cạn” [10, 41]. Một trong những đặc
điểm khác biệt giữa thơ và văn xuôi chính là bởi cái âm thanh, nhịp điệu ấy. “Nhạc
điệu là một yếu tính của thi ca. Thiếu nhạc tính thơ trở thành văn xuôi” [4,
24]. Vì vậy, có thể xem tính nhạc là nét đặc thù rất cơ bản của ngôn ngữ thơ.
Nhạc tính chính là yếu tố quan trọng làm nên vẻ đẹp trong
thơ, đây cũng chính là yếu tố tạo mĩ cảm cho người thưởng thức. “Ly khai với nhạc
tính, thơ chỉ còn là một nhan sắc trơ trẽn thiếu duyên” [5, 15]. Từ đó cho thấy,
ngôn ngữ trong thơ là thứ ngôn ngữ đặc biệt, vừa mang nhiều ý nghĩa hình tượng,
vừa giàu nhịp điệu, phong phú về cách hòa âm, tiết tấu. Nhạc tính trong thơ được
tạo nên từ những yếu tố như nhịp điệu, cách gieo vần, phối thanh,…
Một trong những yếu tố tạo nên nhạc tính trong thơ chính là vần.
Vần là bộ phận chủ yếu của âm tiết, là âm tiết trừ đi thanh điệu và phụ âm đầu.
Hiện tượng lặp lại vần hoặc có vần nghe giống nhau giữa những âm tiết có vị trí
nhất định trong câu (thường là câu thơ), được tạo ra để làm cho lời có nhịp điệu
và tăng sức gợi cảm [6, 1104]. Thơ truyền thống thường tuân thủ rất nghiêm nhặt
các quy tắc gieo vần. Đến thơ hiện đại, đặc biệt là thơ mới không còn bó buộc về
hiệp vần, nhưng các nhà thơ vẫn sử dụng vần như một yếu tố biểu cảm làm tăng vẻ
đẹp của thơ. Họ dùng nhạc của ngôn từ để mô phỏng nhạc của cuộc sống và tâm hồn
mình.
Đề cập đến tính nhạc trong thơ, không thể không kể đến thơ
Xuân Diệu. Thơ ông có cái rạo rực của lòng khát khao được sống, được giao cảm với
đời và nhạy cảm với những rung động nhỏ nhất của cuộc sống. Một hồn thơ như thế
không thể không viết về nhạc. Cảm hứng về nhạc của nhà thơ là đi mãi vào cái thế
giới bên trong nhạc. Vào thế giới riêng của Nguyệt Cầm, thi sĩ đã hoà tan
vào một niềm thơ duy nhất, thành mối tương giao kỳ diệu giữa hồn người, hồn nhạc
và hồn tạo vật.
Ở những câu đầu của bài thơ, tác giả đã đưa tâm hồn người đọc
vào thế giới của âm thanh, đó là một thế giới tràn đầy tiếng nhạc của trăng và
đàn:
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm!
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.
Những điệp từ: “trăng” và “đàn”, cùng với cách ngắt nhịp
2/2/3 vừa tạo nên nhạc tính nhuần nhị cho câu thơ vừa gợi lên một bức tranh đã
có hình lại có thanh. Nếu ngôn ngữ là sợi dây đàn thì nhạc tính và âm điệu
là những cung bậc thanh âm ngân lên từ sợi dây đàn ấy. Bằng khả năng sử dụng
ngôn ngữ điêu luyện, Xuân Diệu tạo ra âm điệu cũng chính là tạo nên nhạc
tính trong thơ. Từ đó dẫn dụ người đọc đi vào thế giới lung linh màu nhiệm
của Nguyệt Cầm.
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Câu thơ trên sở dĩ “đầy nhạc” chính vì sự tập trung dày đặc
các nguyên âm mở và phụ âm vang tạo âm điệu cho thơ. Việc sử dụng những từ láy
và lặp lại chúng “long lanh”, “lung linh”… là một trong những biện pháp tạo nhịp
điệu trong thơ. Nhịp điệu có vai trò quan trọng trong việc tạo nhạc tính trong
thơ, đồng thời thể hiện một cách tinh tế những trạng thái cảm xúc của nhà thơ.
Theo giáo sư Hà Minh Đức: “Nhịp điệu là kết quả của một sự chuyển động nhịp
nhàng, sự lặp lại đều đặn những âm thanh nào đó ở trong thơ” [3]. Câu thơ thu
hút người đọc ngoài việc ý hay lời đẹp còn phải thu hút người nghe bằng nhịp điệu
của sự hài hòa.
Ngoài ra, nhạc thơ chủ yếu còn do các thanh điệu tạo nên.
Trong bài Nhị Hồ, để gợi tả điệu nhạc du dương, đưa tâm hồn phiêu diêu bay
bổng cùng tiếng đàn, Xuân Diệu đã viết hai dòng thơ toàn vần bằng:
Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Cái tài của Xuân Diệu không chỉ dừng lại ở việc đưa nhạc vào
thơ, mà còn được thể hiện ở chỗ dùng nhạc của ngôn ngữ để tạo hình. Trong bài
thơ Đây màu thu tới, bằng việc sử dụng chuỗi phụ âm r: Những luồng
run rẩy rung rinh lá. Bằng những từ láy: “run rẩy”, “rung rinh” Xuân Diệu không
chỉ mang đến những xúc cảm mạnh mẽ về mặt thính giác mà còn mang đến cho người
đọc những trải nghiệm về một mùa thu mới lạ và độc đáo. Nhịp của bài thơ là
2/2/3 rất quen thuộc trong thể thơ 7 chữ của thơ Mới, nhưng Xuân Diệu vẫn tạo
được tính nhạc riêng nhờ nghệ thuật láy âm. Ba cặp láy âm: âm “iu” (liễu - đìu
- hiu - chịu), âm “ang” (tang - ngàn - hàng), âm “uông” (buồn - buông - xuống)
làm cho các chữ thơ như quyện chặt vào nhau, dính vào nhau. Đặc biệt là ba chữ
âm “ang” (âm mở) lại là thanh không dấu và dấu huyền đứng ở cuối hai dòng thơ
đã tạo nên một nhạc điệu buồn mênh mang lan toả thấm thía. Câu thơ không thể đọc
nhanh mà phải đọc chậm theo một nhịp dàn trải từng chỗ lên bổng xuống trầm du
dương thú vị. Chính điều này đã tạo nên một mùa thu đầy khắc khoải trong lòng của
bao thế hệ người đọc.
Nhạc tính trong thơ Xuân Diệu và thứ nhạc tính mạnh mẽ với những
âm sắc trầm độc đáo. Cách thể hiện mới lạ, gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc,
dẫn dắt người đọc vào một thế giới hư hư thực thực, đầy âm sắc. Qua đó thể hiện
cái tôi thi nhân mãnh liệt và giàu cá tính.
Nếu như nhạc tính trong thơ Xuân Diệu được tạo nên bởi cách sử
dụng ngôn ngữ độc đáo, cách tân táo bạo làm nên một thế giới nghệ thuật khác biệt
thì đến nữ nhà thơ Xuân Quỳnh nhạc tính trong thơ lại được thể hiện bằng một
cách khác.
Trong quá trình sáng tác, bên cạnh việc sử dụng những thể thơ
tự do, Xuân Quỳnh là nhà thơ rất thích sử dụng những thể thơ truyền thống.
Trong thơ Xuân Quỳnh tồn tại sự đan xen giữa truyền thống và hiện đại, từ đó tạo
nên mạch thơ trữ tình, tươi tắn. Chính điều này đã làm cho thơ của Xuân Quỳnh
có nhạc điệu độc đáo. Khi mới đọc, người thưởng thức có thể cảm thấy quen như
đã gặp ở đâu, nhưng vẫn có trong thơ những cảm nhận mới lạ. Ví như trong
bài Thơ viết tặng anh:
Tháng mười trời trải nắng hanh
Có cô hàng phố phơi chăn trước thềm
Gió qua lay động bức rèm
Tấm gương trong suốt ánh đèn nê ông
Việc sử dụng thể thơ lục bát đã làm cho bài thơ của Xuân Quỳnh
mang âm điệu du dương, nhẹ nhàng, đậm đà màu sắc dân tộc. Mặc dù Xuân Quỳnh thuộc
thế hệ những nhà thơ mới, bà không quá chú trọng đến niêm luật, cho phép những
cảm xúc được tự do trong thơ nhưng không vì thế mà thơ lục bát của bà mất đi vẻ
mềm mại vốn có của nó. Âm điệu trong thơ không trúc trắc mà vẫn êm ái như một lời
thì thầm. Thơ lục bát của Xuân Quỳnh vẫn giữ được những uyển chuyển, dễ đọc và
dễ thuộc như thể thơ truyền thống.
Thành công nhất của Xuân Quỳnh là phải kể đến thể thơ ngũ
ngôn với những tác phẩm như: Sóng, Thuyền và biển, Thơ tình cuối
mùa thu… Ngoài thành công trong việc sáng tạo nên những hình tượng nghệ thuật
điển hình cho phong cách thơ của riêng mình, Xuân Quỳnh còn thể hiện được nhạc
điệu quen thuộc, gần gũi, kéo gần khoảng cách giữa người sáng tác và người tiếp
nhận thơ ca. Thông qua việc thể hiện nhịp điệu trong thơ, Xuân Quỳnh đồng thời
cũng diễn tả nhịp điệu của trái tim mình, vừa nhẹ nhàng, duyên dáng nhưng cũng
vừa sắc sảo, nồng nàn và da diết.
2.2. Ngôn từ nghệ thuật
Nếu như âm nhạc lấy âm thanh làm chất liệu; hội hoạ dùng đường
nét, màu sắc; kiến trúc được tạo nên từ những mảng khối, thì ngôn từ chính là
chất liệu của tác phẩm thi ca. Macxim Gorki đã từng nói: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ
nhất của văn học”. Không có ngôn từ thì không làm nên được tác phẩm văn chương.
Ngôn từ trong thơ có những khác biệt so với ngôn từ bình thường, nó được xem là
phần tinh lọc nhất của ngôn ngữ. Ngôn ngữ thơ ngoài việc biểu hiện tính nhạc
(như đã nêu ở trên) còn biểu hiện hình ảnh, sắc màu trong thơ. Ngôn ngữ thơ là
thứ ngôn ngữ có tính tinh luyện, hàm xúc; ngôn ngữ gợi hình cụ thể; và có tính
biểu cảm cao [2]. Chính vì vậy, nhà thơ phải lựa chọn ngôn từ một cách khéo
léo, sắp đặt chúng để tạo ra một bài thơ hoàn chỉnh. Maiakopxki đã từng nói: “Nhà
thơ trả chữ với giá cắt cổ như khai thác chất hiếm Radium. Lấy một gam phải mất
hàng năm lao lực. Lấy một chữ phải mất hàng tấn quặng ngôn từ”. Và việc sử dụng
ngôn từ như thế nào cũng chính là một trong những yếu tố quan trọng để hình
thành nên phong cách nhà thơ.
Đối với Xuân Diệu, cách sử dụng từ ngữ của ông có vẻ tân kì
và rất Tây. Ví như trong bài thơ Đây mùa thu tới, tác giả sử dụng những từ
như “hơn một” và “rụng cành”, thay vì gọi “luồng gió” thi sĩ đã gọi là “luồng
run rẩy”… Những từ ngữ mới mẻ chưa từng có trước đây trong thi ca, đã tạo cho
người đọc cảm giác kỳ lạ và độc đáo, đồng thời đó cũng là điểm đặc trưng cho
thi cảm của Xuân Diệu. Như một nhà quay phim cận cạnh tài ba, Xuân Diệu đã đưa
sát ống kính thi ca vào từng cảnh vật, cảm nhận tinh tế dù chỉ là rung động khẽ
khàng của nhánh cây nhỏ bé, mảnh mai, đang run lên tựa những dây đàn. Người đọc
không chỉ nhìn mà còn có thể nghe được, cảm được những rung động ấy. Chính vì vậy
mà nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng nhận xét: “Xuân Diệu mới nhất
trong các nhà thơ mới” [8, 119].
Ngoài ra, Xuân Diệu còn đặc biệt ở chỗ, ông là người đã đưa
nhục thể vào thơ một cách đầy tinh tế bằng việc sử dụng những động từ mạnh
như: “muốn”, “ôm”, “riết”, “say”, “cắn”, “ngoàm”, “hút”…
Chúng ta đau, thôi em tới đây mà!
Mơn man nào, em đừng khóc, đôi ta
Thế, riết thế, hãy vòng tay chật nữa.
Cho em hút những chút hồn đã rữa;
Cho em chuyền hơi độc rất tê ngon
(Sầu)
Trong thơ xưa chưa hề có cảm giác như thế, có mạnh mẽ, táo tợn
như Hồ Xuân Hương cũng chỉ dừng lại ở những hình ảnh mang tính chất ám tượng
[1]. Tuy nhiên, không vì thế mà thơ Xuân Diệu trở nên trần trụi hay sống sượng,
xác thịt mà trái lại thơ ông lại gợi lên những nồng nàn, thiết tha, rạo rực của
tình yêu. Thơ ông diễn tả một phần tất yếu của con người, mà khi đọc, người thưởng
thức có thể dễ dàng đồng cảm với ông.
Ngược với thơ Xuân Diệu, Xuân Quỳnh lại có cách thể hiện
khác, nhà thơ ưu tiên sử dụng từ ngữ đơn giản, gần gũi với ngôn ngữ đời thường
nhưng biết cách đặt chúng vào vị trí phù hợp nhất. Vì vậy mà ngôn từ trong thơ
Xuân Quỳnh có tính biểu cảm cao. Xuân Quỳnh viết về người phụ nữ rất gần, rất
thật nhưng thơ vẫn hay và cuốn hút lạ thường.
Chúng tôi chỉ là những người đàn bà bình thường không tên tuổi
Quen với việc nhỏ nhoi bếp núc hàng ngày
(Thơ vui về phái yếu)
Dù rằng hình ảnh người phụ nữ trong thơ được thi sĩ khắc hoạ
rất đỗi bình thường và quen thuộc nhưng bằng cách nhìn nhận tinh tường và sự sắp
xếp khéo léo của mình, Xuân Quỳnh đã khẳng định vai trò không thể thiếu của
phái yếu. Bà đã làm nổi bật lên hình tượng người phụ nữ nhỏ bé nhưng giàu đức
hy sinh, chịu thương chịu khó.
Anh thân yêu, người vĩ đại của em
Anh là mặt trời, em chỉ là hạt muối
Một chút mặn giữa đại dương vời vợi
Loài rong rêu chưa ai biết tới bao giờ
Em chỉ là ngọn cỏ dưới chân qua
Là hạt bụi vô tình trên áo
Nhưng nếu sáng nay em chẳng đong được gạo
Chắc chắn buổi chiều anh không có cơm ăn.
(Thơ vui về phái yếu)
Các nhân xưng trong thơ của Xuân Quỳnh cũng rất gần gũi với
những cách gọi thân mật hằng ngày. Ở ngôi thứ nhất bà xưng “tôi”, “em”, “mẹ”,
“ta”, “chúng tôi”... Ngôi thứ hai bà gọi “anh”, “con”, “các anh”… Ngôi thứ
ba, bà dùng “cha tôi”, “anh ta”, “cỏ”, “thuyền”, “sóng”… Đặc biệt, trong
bài thơ Chị, Xuân Quỳnh đưa cả tên mình vào:
Đi qua đường là phải trông xe
Chị biết Quỳnh rất hay vô ý
Qua những vần thơ tinh tế, chúng ta có thể thấy một hình ảnh
Xuân Quỳnh rất nữ tính, giàu cảm xúc, không chỉ dành cho chồng cho con mà bà
còn thể hiện tình cảm của mình với mẹ chồng:
Chắt chiu tự những ngày xưa
Mẹ sinh anh để bây giờ cho em
(Mẹ của anh)
Với từ “chắt chiu” dường như Xuân Quỳnh đã nói được hết những
tình cảm mà người mẹ đã dành cho con, đồng thời cũng nói lên cả sự biết ơn của
người con dâu đối với mẹ chồng. Nhìn chung, Xuân Quỳnh là một giọng thơ trữ
tình, linh hoạt, tự nhiên và đầy cá tính. Người ta nhận ra sự đằm thắm, sâu lắng
trong mảng thơ tình; sự hồn nhiên, dí dỏm trong mảng thơ thiếu nhi; sự lạc
quan, mạnh mẽ trong mảng thơ viết về cuộc sống. Những cảm xúc tươi mới kết hợp
với kỹ thuật viết tài hoa đã tạo ra một Xuân Quỳnh rất đời mà cũng rất thơ.
Ngoài ra điểm phải nói đến về đặc điểm ngôn ngữ trong thơ
Xuân Quỳnh, chính là cách sử dụng từ ngữ chỉ màu sắc. Bằng nhãn quang bay bổng
và lý tưởng của mình, Xuân Quỳnh đã vẽ ra những bức tranh thi ca đầy màu sắc và
mê hoặc lòng người. Gam màu mà bà thường sử dụng trong thơ thường là những gam
màu tươi sáng. Đó là những màu mô phỏng màu có trong thực tế như: xanh, trắng,
vàng, đỏ… Tần số xuất hiện của từ ngữ chỉ màu sắc trong thơ Xuân Quỳnh là rất
cao. Chính vì điều này mà người đọc thường nhận xét trong thơ Xuân Quỳnh có họa.
Hàng bí ngô bên cạnh hàng bầu
Xanh mườn mượt màu xanh rau muống
Những bắp cải tròn vo đẫm nước
Lớp rau cần óng ả xếp đầy quang
Đỏ ối cà chua, vàng rực đậu vàng
(Rau - Xuân Quỳnh)
Trong thơ Xuân Quỳnh, màu sắc được nữ thi sĩ hay sử dụng nhất
chính là màu xanh. Đây là màu sắc ưa nhìn, không chỉ biểu thị màu sắc của tạo vật
mà đó còn là màu của ước mơ và hi vọng. Thể hiện một tâm hồn thơ đầy mơ ước và
luôn tươi mới của Xuân Quỳnh.
Nắng đùa mái tóc
Chồi biếc trên cây
Lá vàng bay bay
Như ngàn cánh bướm
(Chồi biếc - Xuân Quỳnh)
Đa phần màu sắc trong thơ của Xuân Quỳnh đều là những màu sắc
cụ thể, không pha trộn. Đó là những màu sắc của thế giới thực được phản ánh vào
trong thơ, tạo cho người đọc cảm giác gần gũi và quen thuộc. Đây cũng chính là
điểm khác biệt của thơ Xuân Quỳnh so với thơ của Xuân Diệu. Thế giới màu sắc của
Xuân Diệu có phần đa dạng hơn, vừa có màu thực, vừa có màu hư. Trong thơ của
ông hoàng thơ tình thường tồn tại những màu sắc được pha trộn, đặc biệt là màu
của cảm xúc.
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
(Đây mùa thu tới - Xuân Diệu)
Hay như:
Trăng ở đó. Đất vườn thêu bóng lá
Trời trên kia vàng mạ, sáng như băng…
Hoa lài xanh dưới ánh nguyệt tuôn trời;
Ánh nguyệt trắng trên hoa lài đúc sữa.
(Hoa đêm - Xuân Diệu)
Thêm vào đó, Xuân Quỳnh hầu như không sử dụng những màu sắc
mang tính chất ước lệ. Tức là nhà thơ chỉ sử dụng những màu chuẩn của sự vật,
không dùng màu đã pha trộn. Trong thực tế những gam màu chuẩn thường không đủ để
diễn tả hết những màu sắc của sự vật nên người ta thường dùng thêm những màu
pha tạp của sự vật. Cách sử dụng màu này mang tính chất ước lệ và thường gặp
trong thơ cổ. Việc không sử dụng những màu sắc như vậy đã tạo nên điểm khác biệt
giữa thơ Xuân Quỳnh và thơ Xuân Diệu. Mặc dù được xem là nhà thơ mới nhất trong
những nhà thơ mới nhưng Xuân Diệu vẫn sử dụng những màu sắc ước lệ trong thơ.
Ta gửi trời ta giữa mắt nào
Ở gần má lửa, cạnh mày dao...
Khi ta trở lại, trời đâu vắng
Lạnh lẽo mày xanh phản má đào.
(Gửi trời - Xuân Diệu)
Ngoài việc hai nhà thơ lựa chọn và sử dụng từ ngữ khác nhau,
có đôi lúc các tác giả này cùng sử dụng những từ giống nhau nhưng lại mang ý
nghĩa và hiệu quả thẩm mỹ khác nhau. Cùng xây dựng những hình tượng về biển để
viết đề tài về tình yêu, thậm chí là sử dụng từ ngữ giống nhau cả về mặt con chữ
nhưng mỗi nhà thơ ở mỗi từ lại mang những cách cảm nhận khác nhau. Đối với Xuân
Diệu:
Đã hôn rồi hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt...
(Biển - Xuân Diệu)
Nếu như động từ “tan” của Xuân Diệu diễn tả một tình yêu mạnh
mẽ, ước muốn cháy bỏng muốn làm tan chảy mọi thứ xung quanh, khiến người đọc cảm
nhận được tình cảm mãnh liệt của một người đàn ông với mong muốn khát khao
chinh phục. Thì đến Xuân Quỳnh, nhà thơ cũng sử dụng động từ ấy trong bài Sóng nhưng
lại mang đến cho người đọc những cách cảm hoàn toàn khác so với Xuân Diệu:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Ðể ngàn năm còn vỗ.
(Sóng - Xuân Quỳnh)
Động từ “tan” được đặt trong câu thơ: “Làm sao được tan ra”,
nghe như một câu hỏi tu từ, diễn tả ước muốn được yêu trong một tình yêu rộng lớn
và vĩnh cửu. Rõ ràng cách thể hiện của Xuân Quỳnh có phần kín đáo, nhẹ nhàng và
đằm thắm hơn. Nhà thơ hỏi để mà khẳng định ước muốn, khao khát có được tình
yêu, chứ không bộc lộ một cách trực tiếp và mạnh mẽ như thi sĩ Xuân Diệu.
2.3. Hình tượng nghệ thuật
Một bài thơ hay và để lại trong lòng người đọc những ấn tượng
khó phai là một bài thơ có hình tượng nghệ thuật độc đáo. Hình tượng nghệ thuật
là biểu hiện cho tư duy nghệ thuật của tác giả, là sự phản ánh hiện thực trong
tính toàn vẹn, sinh động, cảm tính, cụ thể theo quy luật của cái đẹp. Thông qua
hình tượng nghệ thuật, chúng ta có thể nắm bắt được quan niệm và phong cách
sáng tác của tác giả.
Trong nền thi ca Việt Nam, Xuân Diệu và Xuân Quỳnh là hai hiện
tượng văn học nổi bật, đặc biệt là trong lĩnh vực thơ tình yêu. Nếu như Xuân Diệu
được mệnh danh là “ông hoàng thơ tình” thì Xuân Quỳnh cũng được bạn đọc mến mộ
phong tặng danh hiệu “bà hoàng thơ tình”. Nói đến tài năng của hai nhà thơ này,
không thể bỏ qua tài năng sử dụng ngôn ngữ của họ. Bằng việc lựa chọn ngôn ngữ
phù hợp, Xuân Diệu và Xuân Quỳnh đã tạo nên những hình tượng nghệ thuật giàu
tính thẩm mỹ. Điều đáng chú ý ở đây là những hình tượng nghệ thuật trong thơ
tình của họ, thoạt nhìn có vẻ giống nhau, như cùng một môtíp nhưng khi tiến
hành khảo sát và phân tích sẽ thấy được nhiều điểm dị biệt thú vị.
2.3.1. Hình tượng trái tim
Đối với Xuân Diệu, ông không phải là người duy nhất đưa trái
tim vào trong thi ca. Trong văn học, đã từ lâu trái tim được coi là biểu tượng
của tình yêu, của tình cảm con người. Hình tượng này đã xuất hiện rất nhiều
trong văn học cũng như trong đời sống. Rất nhiều những tác gia lớn trên thế giới
khi đề cập đến tình yêu thì thường hay nói tới trái tim: “Ái tình không nhìn bằng
mắt mà cảm nhận bằng trái tim. Vì vậy nhân loại khắc hoạ thần tình ái có hai
cánh nhưng con mắt mù loà” (W. Shakespeare).
Ở Việt Nam, hình ảnh trái tim vốn được du nhập từ phương Tây, đã được các nhà văn nhà thơ sử dụng làm biểu tượng về tình yêu trong các sáng tác của mình. Những sáng tác của Xuân Diệu cũng không ngoại lệ. Hình ảnh “trái tim” được sử dụng rất hiệu quả trong việc diễn tả các cung bậc tình yêu trong thơ Xuân Diệu. Xuân Diệu là người nghệ sĩ có sự giao cảm hết mình với cuộc đời trần tục. Bằng hình ảnh trái tim, Xuân Diệu đã thể hiện một tình yêu đích thực, giao cảm tuyệt đối từ nhục dục đến tâm hồn. Ông cảm nhận tình yêu bằng tất cả trái tim và tâm hồn nghệ sĩ của mình.
Ở Việt Nam, hình ảnh trái tim vốn được du nhập từ phương Tây, đã được các nhà văn nhà thơ sử dụng làm biểu tượng về tình yêu trong các sáng tác của mình. Những sáng tác của Xuân Diệu cũng không ngoại lệ. Hình ảnh “trái tim” được sử dụng rất hiệu quả trong việc diễn tả các cung bậc tình yêu trong thơ Xuân Diệu. Xuân Diệu là người nghệ sĩ có sự giao cảm hết mình với cuộc đời trần tục. Bằng hình ảnh trái tim, Xuân Diệu đã thể hiện một tình yêu đích thực, giao cảm tuyệt đối từ nhục dục đến tâm hồn. Ông cảm nhận tình yêu bằng tất cả trái tim và tâm hồn nghệ sĩ của mình.
Trái tim em thức đập
Nơi gốc của thời gian
Một nhịp mạnh nhịp khẽ
Ẩy tay anh nồng nàn
Anh gìn giữ trái tim
Cho em yên giấc ngủ...
… Trái tim em lạc đường
Anh thức hoài thức huỷ
Anh là trái tim thương
(Trái tim em thức đập - Xuân Diệu)
Trái tim cũng chính là nơi thể hiện sự tự cảm thấy mình, là
nơi suy nghĩ và thể hiện lăng kính nhìn sự vật, hiện tượng, cuộc sống, con người
của tác giả. Trong thơ Xuân Diệu, ngoài việc thể hiện trực tiếp hình tượng trái
tim bằng chính từ ngữ ấy, tác giả còn thể hiện hình tượng bằng từ “lồng ngực” dựa
trên mối quan hệ liên tưởng giữa chỉnh thể và bộ phận để nói về những cung bậc
cảm xúc của tình yêu. Từ đó mang lại những nhục cảm rất thực trong thơ.
Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực!
Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài!
Những cánh tay! Hãy quấn riết đôi vai!
Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt!
(Xa cách - Xuân Diệu)
Trong tình yêu, Xuân Diệu là người rất mãnh liệt vì vậy ông
luôn cảm thấy không bao giờ là đủ. Ông muốn người yêu sát lại gần mình, gần đến
mức có thể nghe được từng nhịp thở của nhau, gần hơn nữa để hai trái tim cùng
hòa nhịp yêu thương.
Với Xuân Diệu là thế, còn đối với nữ thi sĩ Xuân Quỳnh, bà lại
có xu hướng đi tìm một cách lý giải khác cho hình tượng trái tim. Xuân Quỳnh
đưa trái tim về đúng với chức năng và nghĩa thực của nó.
Em trở về đúng nghĩa trái tim
Biết làm sống những hồng cầu đã chết
Biết lấy lại những gì đã mất
Biết rút gần khoảng cách yêu tin…
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
(Tự hát - Xuân Quỳnh)
Trong tình yêu, Xuân Quỳnh không nói đến những gì quá cao
siêu, quá bóng bẩy mà chỉ đề cập đến một trái tim bình thường, một trái tim bằng
máu thịt mà ai cũng có. Nhưng lại khác thường là bởi: “biết yêu anh cả khi chết
đi rồi!”. Tình yêu rất đỗi thiêng liêng nhưng cũng vô cùng giản dị, nó ở ngay
xung quanh ta và ta có thể cảm nhận được, không đơn giản là bằng mắt nhìn mà phải
cảm nhận nó theo từng nhịp đập của con tim.
Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực
Giây phút nào tim đập chẳng vì anh.
(Chỉ có sóng và em - Xuân Quỳnh)
2.3.2. Hình tượng hoa
Như đã nói ở trên Xuân Diệu là nhà thơ vô cùng nhạy cảm
với thiên nhiên. Vì thế không thể thiếu trong thơ ông những hình ảnh của cỏ,
cây, hoa, lá. Chúng được nhà thơ sử dụng làm chất liệu để viết lên những trang
thơ tình lãng mạn. Trong số đó, hoa là vật có hương sắc và năng lực quyến rũ nhất.
Hình ảnh “hoa” vì thế không thể thiếu được trong thơ ông. Hình ảnh này xuất hiện
trong thơ ông có khi là hoa thật trong đời sống.
Chen lá lục, những búp lài mở nửa
Hớp bóng trăng đầy miệng nhỏ xinh xinh;
(Hoa đêm - Xuân Diệu)
Nhưng thông thường khi hình ảnh hoa đi vào thơ ông, ông luôn
xem chúng như một chủ thể trữ tình sống động:
Ôi vắng lặng! - Trong giờ mơ ngủ ấy
Bông hoa lài thức dậy, sáng từng đôi…
Sao họ khéo nõn nà mà bợ ngợ,
Những nàng hoa chờ đợi gió phong lưu!
Có lúc ông gọi thẳng: hoa kỹ nữ. Phải chăng kỹ nữ đẹp như hoa
mà hoa cũng là kỹ nữ, người và hoa lúc này là một. “Miệng thở ra hương, hương toả
tình ngầm/ Hoa kỹ nữ đã mở lời trêu ghẹo…”. Chính vì vậy mà ông đã tạo ra sự kết
hợp từ độc đáo: người hoa “Có lẽ người hoa nay đã tươi” (Gặp gỡ I),
môi hoa “Và các môi hoa như sắp nói:/ Ái tình đẹp tợ chúng em đây.”
(Rạo rực). Như vậy, hình ảnh hoa trong đời thực khi bước vào thơ của Xuân Diệu
đã trở nên rất khác biệt, ông dùng hoa để nói đến người, nói đến vẻ đẹp của con
người và tình yêu. Đây chính là điểm khác biệt so với hình tượng hoa trong thơ
của Xuân Quỳnh.
Cũng giống như Xuân Diệu, Xuân Quỳnh cũng có một hồn thơ nồng
nàn và nhạy cảm. Vì vậy, khi bắt gặp vẻ đẹp của hoa, Xuân Quỳnh cũng có những
rung động của riêng mình. Không khó để giải thích vì sao Xuân Quỳnh lại đặt tên
hai tập thơ của mình có liên quan đến hình ảnh này, đó là tập thơ Hoa dọc
chiến hào (1968) và tập thơ Hoa cỏ may (1989). Tuy nhiên, hình
tượng hoa trong thơ Xuân Quỳnh so với thơ Xuân Diệu có nhiều điểm khác biệt.
Nếu thơ tình Xuân Diệu miêu tả vẻ đẹp nao lòng của hoa dưới
ánh trăng đêm: “Hoa lài xanh dưới ánh nguyệt tuôn trời/ Ánh nguyệt trắng trên
hoa lài đúc sữa” (Hoa đêm), thì đến thơ Xuân Quỳnh những hình ảnh hoa được đưa
vào thơ lại là những cánh hoa rất bình dị và nhỏ bé như: “mùa hoa doi”, “hoa ti
gôn”, “hoa tường vi”, “hoa cỏ may”, hay đơn giản chỉ là loài “hoa dại trên núi
Hoàng Liên”… Hoa trong thơ Xuân Quỳnh mang vẻ đẹp mong manh, kín đáo và có phần
thầm lặng, khiến người ta dễ liên tưởng đến hình ảnh e ấp, dịu dàng của những
cô gái tuổi đôi mươi.
Hoa nếp mỏng manh trước tầm gió thổi
Hoa diếp vàng cô độc giữa thâm u
Và bên đường hoa nghệ dại ngẩn ngơ
Hoa sim tím một nỗi buồn hoang dã
Hoa lay ơn góc vườn xưa còn nhớ
Mà thấy người cành lá khẽ lung lay…
(Hoa dại
trên núi Hoàng Liên)
Hình tượng hoa trong thơ Xuân Quỳnh không gắn với người nào cụ
thể mà nó lại gắn với những kỷ niệm về tình yêu. Mỗi bài thơ như một mảnh ghép
nho nhỏ về ký ức. Và vẻ đẹp của hoa như một chất xúc tác mạnh mẽ thổi bùng lên
ngọn lửa yêu thương trong trái tim của người con gái.
Anh có nghe hoa doi
Quanh chỗ mình đứng đó?
Hoa ơi sao chẳng nói
Anh ơi, sao lặng thinh?
(Mùa hoa doi)
Bằng hình tượng những loài hoa có thật trong đời sống, Xuân
Quỳnh làm người ta ngạc nhiên trước những lời tâm tình rất ngây thơ, nồng nàn của
một cô gái chớm yêu, nhưng lại mang giọng điệu trầm tĩnh của một người phụ nữ từng
trải. Nhà thơ thấy được vẻ đẹp thầm kín và lặng lẽ của mỗi loài hoa, thấy được
sự hy sinh, không cần được đáp lại, không cần được biết đến. Phải là người tinh
tế và nhạy cảm mới có thể rung động và cảm thông trước nỗi niềm của hoa kia.
Anh đừng hỏi tên hoa làm chi nữa
Những hoa này chỉ hoa dại mà thôi!…
Chỉ thấy núi muôn màu rực rỡ
Đôi khi giẫm lên hoa mà chẳng nhớ…
Những hoa này chỉ hoa dại mà thôi.
(Hoa dại trên núi Hoàng Liên)
Nhìn chung, thơ Xuân Quỳnh như là nhật ký, là tình yêu, là sự
tri ân… Xuân Quỳnh viết bằng tất cả cái sôi nổi, đắm say của trái tim, chắt hết
phần tinh tuý nhất của mình vào sáng tạo nghệ thuật một cách có trách nhiệm và
đầy tự chủ.
Không khó để nhận ra phong cách thơ Xuân Quỳnh, bởi trong mỗi
trang viết tồn tại một cái tôi trữ tình: trẻ trung mà chững chạc, mãnh liệt mà
nữ tính, mâu thuẫn mà thống nhất. Thơ bà luôn gắn bó mật thiết với cuộc đời, mơ
ước luôn trỗi dậy xanh tươi giữa hiện thực khắc nghiệt. Thơ Xuân Quỳnh đẹp như
một bông cúc xanh tràn đầy hy vọng giữa muôn ngàn sắc hương của thi đàn Việt
Nam.
3. Kết luận
Xuân Diệu và Xuân Quỳnh là niềm tự hào của thơ ca Việt Nam.
Xuân Diệu là thi sĩ tiêu biểu cho thế hệ những nhà thơ mới đầu tiên của văn học
Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Trong khi đó, Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ tiêu biểu
cho văn học Việt Nam những năm từ 1945 đến 1975. Cả hai thi sĩ, người thì được
mệnh danh là “ông hoàng thơ tình”, người thì thì được bạn đọc mến mộ phong tặng
danh hiệu “bà hoàng thơ tình”. Thơ ca của mỗi thi sĩ mang vẻ đẹp riêng, giá trị
riêng. Việc tìm hiểu vẻ đẹp ấy trong thế so sánh sẽ làm sáng tỏ hơn phong cách
của mỗi người, từ đó có được cách nhìn nhận, phân tích tác phẩm đúng đắn, đa
chiều hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Tiến Dũng (1998), Những cách tân nghệ
thuật trong thơ Xuân Diệu giai đoạn 1932 - 1975, NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Hữu Đạt (2000), Ngôn ngữ thơ Việt Nam,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
3. Hà Minh Đức (1993), Nhìn lại một cuộc cách
mạng trong thi ca, NXB Giáo dục, Hà Nội.
4. Bằng Giang (1969), Từ thơ mới đến thơ tự
do, NXB Phù Sa, Sài Gòn.
5. Tam Ích (1966), Nhân nhớ Bích Khê và đọc
Bích Khê bàn về thơ tượng trưng, Văn số 64 ra ngày 15/8/1966, Sài Gòn.
6. Hoàng Phê (2006), Từ điển tiếng Việt, NXB
Đà Nẵng, Đà Nẵng.
7. Trần Đình Sử (1997), Những thế giới nghệ
thuật thơ, NXB Giáo dục, Hà Nội.
8. Hoài Thanh - Hoài Chân (2006), Thi nhân
Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
9. Đỗ Ngọc Thư (2008), Khảo sát
các tín hiệu thẩm mỹ “mùa xuân” và “trái tim” trong thơ Xuân Diệu, Luận văn Thạc
sĩ bảo vệ năm 2008 tại Đại học Thái Nguyên.
10. Chế Lan Viên
(1971), Suy nghĩ và bình luận, NXB Văn học, Hà Nội.
NGUỒN NGỮ LIỆU
1. Xuân Diệu, Thơ tình Xuân Diệu, NXB Tổng hợp Đồng Nai, 2008.
2. Xuân Quỳnh, Thơ tình Xuân Quỳnh, NXB Văn học, 2009.
14/11/2014
Võ Xuân Hào - Huỳnh Lê Chi Hải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét