“Trong âm nhạc có những dấu lặng, tức dấu nghỉ không có âm
thanh, nếu không có những dấu lặng đó thì là một tai họa. Âm nhạc mà không có
khoảng cách im lặng thì chẳng qua đó là sự rối loạn mà thôi“ (TrịnhCông
Sơn). Khi chúng ta ngồi yên với một người bạn mà không nói gì cả, điều đó quý
giá và quan trọng như những dấu lặng cần thiết trong âm nhạc. Những người bạn
ngồi yên lặng được với nhau có thể hay hơn là nói chuyện.
Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ được nhiều người mến mộ. Ông
sinh năm 1939. Ông được gọi là Bob Dylan của Việt Nam. Người ta nói rằng khi
ông qua đời năm 2001, hàng ngàn người đến tham dự buổi hoà nhạc tự phát trong lễ
tang của ông.
Trịnh Công Sơn rất mệt mỏi với những tiếng ồn, cho dù đó là
những tiếng kêu gào khen ngợi hay vỗ tay hoan hô. Ông trân quý những giây phút
tĩnh lặng. Ông viết: “Có những sự có mặt của bạn bè tương đương với một dấu lặng
trong âm nhạc, nên sự có mặt đó thường có khả năng mang đến cho ta sự thoải
mái, thảnh thơi tựa hồ như là niềm hoan lạc. Đó là những trường hợp ta không cần
phải đối phó, không cần phải lấp đầy khoảng trống bằng câu chuyện gắng gượng và
nhạt nhẽo.” Trịnh Công Sơn thích những lúc ngồi im lặng với bạn bè mà
không cần nói năng hay làm gì cả, chỉ nuôi dưỡng bởi tình bạn. Tất cả chúng ta
đều cần những tình bạn như thế.
Ở Làng Mai, chúng tôi thích ngồi thiền, đặc biệt là ngồi với
tăng thân, ngồi như một gia đình tâm linh. Trong suốt buổi ngồi thiền, ta không
nói gì cả. Ấy vậy mà nhiều người trong chúng ta cảm thấy ngồi ba, bốn người hay
nhiều hơn thì vui hơn là ngồi một mình. Ngồi yên với nhau như thế, mỗi người đều
được nuôi dưỡng bởi sự có mặt của nhau.
Trong tác phẩm Tỳ bà hành có kể một câu chuyện về một
người phụ nữ đang chơi đàn Tỳ bà, bỗng dưng ngưng bặt không chơi nữa. Nhưng
giây phút mà người chơi đàn Tỳ bà ngưng đàn thì tuy không có tiếng đàn mà còn
hay hơn có tiếng đàn nữa. “Tiếng tơ lặng ngắt bây giờ càng hay.” (Thử thời vô
thanh thắng hữu thanh.” Thử thời là ngay bây giờ. Vô thanh nghĩa là không có âm
thanh. Thắng là chiến thắng. Hữu thanh là có âm thanh. Vô thanh thắng hữu
thanh, hay nói cách khác là âm thanh nhường cho sự im lặng. Không gian giữa các
nốt nhạc rất hào hùng và rất có ý nghĩa. Nó hùng hồn hơn bất cứ loại âm thanh
nào. Sự im lặng có thể dễ chịu, sâu sắc hơn âm thanh. Trịnh Công Sơn cũng thấy
như vậy.
Một trong những học trò người Mỹ của tôi nói với tôi là ông
David Sanborn người Mỹ, chơi kèn Xắc-xô, cũng nói những điều tương tự như vậy
trong một cuộc phỏng vấn. Khi nhắc đến người bạn cũng chơi kèn Xắc-xô là Hank
Crawford, và Miles Davis, người sáng tác và chơi kèn trumpet nổi tiếng, Sanborn
nói: “Hank hiểu rằng khoảng lặng mà ta ngưng lại cũng quan trọng như âm thanh
ta phát ra… Và khi nghe Miles Davis, tôi đã bị cuốn hút bởi sự đơn giản và cách
sử dụng khoảng lặng của anh ta để làm đầy những khoảng không gian kia.”
Mối quan hệ và sự truyền thông cũng giống như một loại âm nhạc.
Ngồi với bạn bè, ta không cần phải nói gì cả. Chỉ cần có sự hiểu biết cảm thông
và trân quý sự có mặt mà chúng ta hiến tặng cho nhau là đủ rồi. Tôi tin là
trong những năm khổ cực của chiến tranh Việt Nam, điều an ủi lớn nhất của Trịnh
Công Sơn là những giây phút ngồi yên với bạn bè. Tuy nhiên, nếu một người không
biết cách ngồi như thế, nếu anh ta chỉ biết rót rượu hết ly này qua lý khác thì
những giây phút ấy sẽ mất đi.
Một lần nọ, khi Bụt đang ở tu viện Jetavana Ấn Độ, trong khi
200 vị khất sĩ thường trú chuẩn bị cho khoá an cư hàng năm thì có 300 thầy từ
Kosambi đến. Các vị khất sĩ rất vui mừng khi gặp nhau và họ nói chuyện với nhau
rất lớn. Từ phòng của mình nghe ồn, Bụt hỏi vị đệ tử lớn Shariputta: “Có chuyện
gì mà ồn dữ vậy?”
Thầy Shariputta trả lời: “Có quý thầy từ Kosambi đến, gặp
nhau họ mừng rỡ, nói cười lớn tiếng và đánh mất uy nghi. Xin Đức Thế Tôn tha lỗi
cho họ.”
Bụt nói: “Nếu họ ồn ào, thô tháo như vậy thì mời họ đi nơi
khác. Không thể ở lại đây được.” Đức Bụt muốn dạy cho quý thầy sử dụng năng lượng
của mình có ý thức và chánh niệm hơn.
Thầy Shariputta thông báo cho quý thầy nghe những gì Bụt nói.
Quý thầy im lặng và dời đi một nơi khác gần đó để an cư. Trong suốt 90 ngày an
cư, quý thầy nhớ lại lời Bụt dạy, không đánh mất mình trong những cuộc chuyện
trò vô bổ. Họ hết lòng thực tập chế tác niệm định, và cuối mùa an cư họ chuyển
hoá được rất nhiều. Điều này không làm cho họ trở nên nặng nề, nghiêm trọng mà
trái lại khuôn mặt của họ sáng ngời, nụ cười họ rất tươi.
Vào ngày tự tứ, kết thúc mùa an cư, quý thầy muốn trở lại cảm
ơn Bụt đã chỉ dạy cho họ. Khi tin này đến tai thầy Shariputta, thấy nói với Bụt:
“Bạch Đức Thế Tôn, các thầy đã hoàn tất ba tháng an cư và muốn đến bày tỏ niềm
cung kính đối với Đức Thế Tôn.” Bụt cho gọi các thầy đến và chắp tay xá chào.
Lúc đó vào khoảng 7 giờ tối. Ba trăm thầy đến từ Kosambi và
vài trăm thầy thường trú ngồi với Bụt trong thiền đường. Thầy trò ngồi với nhau
im lặng từ 7 giờ tối cho đến nửa đêm, không ai nói với ai lời nào.
Thầy Ananda, thị giả của Bụt, đi đến bên Bụt và bạch: “Bạch Đức
Thế Tôn, bây giờ đã là nửa đêm, Đức Thế Tôn có gì nói cho quý thầy nghe không?”
Bụt không trả lời, và mọi người ngồi với nhau như thế cho đến 3 giờ sáng, ngồi
với nhau mà không nói một lời nào. Thầy Ananda hơi lúng túng, vì vậy thầy đi đến
bên Bụt và nói: “Bây giờ là 3 giờ sáng rồi. Đức Thế Tôn có nói gì với quý thầy
không?” Bụt vẫn tiếp tục ngồi yên im lặng với mọi người.
Đến 5 giờ sáng, thầy Ananda trở lại và năn nỉ: “Bạch Đức Thế
Tôn, mặt trời lên rồi, Ngài không nói gì với quý thầy chăng?”
Cuối cùng Bụt lên tiếng: “Thầy muốn ta nói điều gì? Thầy trò
ngồi với nhau hạnh phúc, bình an như vậy không đủ hay sao?”
Có khả năng hiểu và trân quý sự có mặt của người kia là một hạnh
phúc rất lớn. Đơn giản như vậy thôi. Mặc dù không nói gì, không có một âm thanh
nào phát ra, nhưng hoàn toàn có giá trị hơn bất kỳ một âm thanh nào khác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét