Nẻo về của ý 2
Chương 8
Hôm thứ bảy, nghĩa là sau đó hai hôm, tôi đi chùa lễ Phật cầu
nguyện cho mẹ bởi vì hôm đó nhằm ngày rằm tháng chín âm lịch, ngày giỗ của mẹ.
Tình cờ hôm đó tại chùa cũng có đại lễ kỷ niệm bảy mươi năm ngày Phật giáo du
nhập Hợp Chủng Quốc. Lễ này tổ chức liên tiếp trong ba ngày và có nhiều đại biểu
từ các tiểu bang đến dự. Ngôi chùa không to lớn gì, thành thử giảng đường nơi
hành lễ cũng chỉ lớn bằng giảng đường chùa Ấn Quang. Vậy mà họ gọi là đó
là Mỹ Quốc Phật Học Viện (American Buddhist Academy). Cái tên thì lớn,
kỳ thực chùa chỉ có một số lớp dạy giáo lý và thực hành cho các cư sĩ, còn
ngoài ra thì dạy pha trà, cắm hoa và đàm thoại Nhật ngữ. Chùa thuộc hệ phái Tịnh
Độ Chân Tông và do hai vị trông nom: Hozen Seki vị trú trì. Và giáo sư Phillips
giảng sư. Vị này trước là giáo sư ở đại học đường Delaware.
Để tôi nói sơ lược về Phật giáo bên này cho Nguyên Hưng nghe.
Ở Hiệp Chủng Quốc có vào khoảng tám mươi ngàn người theo đạo Phật, trong đó phần
lớn là người Nhật và người Trung Hoa hoặc đã trở thành công dân Mỹ, hoặc chưa.
Trung tâm Phật giáo đặt tại 1710 đường Octario, Cựu Kim Sơn. Các “tăng sĩ” đều
là tân tăng của phái Tịnh Độ Chân Tông, khoảng bảy mươi vị, hầu hết là người Nhật
rải rác trong các tiểu bang, một số có mặt trong các đại học Mỹ để dạy về ngôn
ngữ và văn chương Nhật Bản. Có năm mươi bốn ngôi chùa lớn nhỏ rải rác khắp toàn
lãnh thổ. Ngôi chùa ở Nữu Ước so với các ngôi chùa ở Cựu Kim Sơn thì nhỏ bé hơn
nhiều. Trong số những người về dự lễ, tôi gặp hai tu sĩ Nam Tông khoác áo vàng,
đại đức Anuruddha và đại đức Vinita một người từ tiểu bang Connecticut, còn một
người từ Massachusetts. Lễ dâng hương cử hành lúc ba giờ chiều. Vị đại sứ Tích
Lan, ông Susantha de Fonseka, cũng có mặt để đọc diễn văn chúc mừng.
Tôi đi bộ một mình đến chùa và đi thật thong thả. Chùa chỉ
cách nơi tôi ở có năm ô (bloc) ở vào số 331 đường Riverside Drive. Khi tôi đến
thì gần đến giờ thuyết pháp. Khán giả chỉ chừng hai trăm người gồm nhiều quốc tịch
trong đó đa số người Nhật. Bài giảng không gây nổi cảm hứng làm tôi thất vọng. Ở
đất này mà giảng như thế thì không làm sao gieo được hạt giống đạo Phật trong
quần chúng. Nguyên Hưng cũng biết, giáo lý Tịnh Độ Chân Tông cũng như tổ chức của
Tịnh Độ Chân Tông không khác giáo lý Thệ Phản là mấy, cả hai đều chú trọng đến
tha lực. Vậy thì món ăn đó không thể nào được gọi là mới lạ đối với người Anh
và người Mỹ. Thêm nữa để diễn giải giáo lý Cơ đốc của họ, đã có biết bao viện
thần học, bao nhiêu nhà truyền giáo xuất sắc; trong khi đó tổ chức Tịnh Độ Chân
Tông ở đây thiếu cơ sở giáo dục và đào tạo bắt chước một cách thiếu thông minh
nên không thể không chứng tỏ sự kém cỏi non nớt của mình. Thực ra dân Mỹ là một
dân có tinh thần tự lập tự cường; trong gia đình cũng như ở ngoài xã hội, con
người được đào luyện để có tinh thần tự lập ấy và để khỏi phải nương tựa và sống
bám vào những kẻ khác. Như thế chắc chắn một giáo lý như giáo lý tự lực của Thiền
Tông sẽ rất thích hợp với họ. Giáo lý Thiền Tông hoàn toàn căn cứ vào tự lực để
xây đắp, phát triển và giác ngộ bản thân trong lúc giáo lý Cơ Đốc và Tịnh Độ tự
nhận khả năng thiếu kém của con người và nhấn mạnh đến năng lực cứu độ của một
thế lực bên ngoài. Cho nên Nguyên Hưng sẽ không lấy làm lạ khi thấy sự truyền
bá của đạo Phật Tịnh Độ ở đây chưa gặt hái được những kết quả nào đáng kể.
Chúng ta cũng không ngạc nhiên khi thấy tư tưởng Thiền được hâm mộ một cách nồng
nhiệt ở đây. Giáo sư Suzuki đã gây được những tiếng vang lớn lao về thiền học ở
đất nước này. Sống trong một xã hội quá hoạt động, quá náo nhiệt, và khi đã mệt
mỏi vì những tính toán những suy luận hình thức, cố nhiên người ta khao khát một
cái trầm tĩnh, tươi mát và tự tại như tinh thần Thiền học. Có sống ở đây Nguyên
Hưng mới thực chứng được điều đó.
Để bù lại sự thiếu kém về nội dung giá trị tư tưởng, các nhà
truyền giáo Tịnh Độ ở đây phải dùng đến những hình thái sinh hoạt văn hóa Nhật.
Người Mỹ ưa món ăn Nhật, nghe đàn Koto, chứng kiến các cuộc pha trà, cắm hoa,
vân vân. Thế cho nên sau thời thuyết pháp, có một buổi trình diễn đàn Koto. Mà
buổi trình diễn đàn Koto độc chiếc ấy đã kéo lại thăng bằng cho buổi giảng. Ngồi
hai bên tôi là những người Mỹ. Họ tỏ vẻ lơ đãng trong thời thuyết pháp như họ lại
đã tỏ ra rất thích thú khi nghe đàn Koto.
Tôi cũng thích những bài đã được trình diễn hôm ấy lắm,
Nguyên Hưng. Nhạc sĩ Kimioto Eto. Chàng còn trẻ, vào khoảng ba mươi tuổi, khuôn
mặt hiền hậu và dễ thương. Trong chiếc Kimono màu đen, chàng bước chậm chạp lên
diễn đài, theo tay dìu đỡ của một chàng thanh niên khác. Tôi nghĩ có lẽ vì mắt
chàng không trông được rõ. Sau lời giới thiệu của đại đức Saki, chàng chậm rãi
ngồi xuống, mỉm cười lặng lẽ, và không nói năng chi. Sao mà tôi yêu cái dáng điệu
ấy quá. Chẳng bao giờ chàng nhìn xuống khán giả. Chàng chỉ để tầm mắt trên khoảng
rộng của chiếc đàn phủ khăn trắng. Và nụ cười của chàng, nụ cười thật lạ kỳ, thật
là lặng lẽ, thật là hàm xúc. Tôi không ngờ ở đất này mà có được một nụ cười như
vậy.
Chàng nói là chàng sẽ đàn để cúng dường ngày kỷ niệm 70 năm
Phật giáo du nhập Mỹ quốc, để dâng lòng thành lên đức Từ Bi. Con số bảy, chàng
nói, nó rất quan trọng đối với chàng. Cha chàng mất đây bảy năm, và mẹ
chàng cũng từ trần bảy tháng trước. Nay là lễ bảy mươi năm
kỷ niệm Phật giáo du nhập. Và đôi mắt nhỏ lệ. Khuôn mặt trầm lặng, tràn đầy xúc
cảm; một niềm cảm xúc lẫn lộn trong tín ngưỡng, thương nhớ và bâng khuâng.
Chàng đàn, những bản tự do tay chàng sáng tác. Bản đầu tiên là bản tiếng
hát hy vọng. Điệu nhạc tuy trầm buồn thao thức nhưng chứa đầy sức sống nhẫn nại,
chứa đầy ý chí cố gắng đi tới. Bản thứ hai là bản Gió mùa thu ngát hương
thương nhớ, và bản thứ ba. Tiếng nói tin tưởng của chàng đối với đạo
Từ Bi. Mỗi bài được cách khoảng với bài khác bằng một thời gian lặng yên trong
nụ cười trầm tĩnh. Xong bản thứ ba, chàng nói cho mọi người biết là hai mắt
chàng mù và chàng không thấy gì hết. Mọi người xúc động; tôi cũng xúc động cả
tâm hồn, bởi vì trước đây không ai nghĩ rằng chàng lại là một người mù.
Nước mắt tôi muốn trào ra; tôi đứng dậy ra về trước mọi người,
bỏ nữa chừng cuộc trình diễn. Tôi thấy như vậy là quá đủ. Trên con đường Bờ
Sông tôi đi thong thả từng bước một, lòng thấy bâng khuâng. Nụ cười của Kimioto
vẫn còn nguyên vẹn, huyền diệu, trầm lặng. Nếu không biết khổ đau, không bao giờ
người ta có thể có được một nụ cười như thế. Và tôi hiểu tại sao nụ cười đã làm
cho tôi xúc động ngay từ khi tôi mới trông thấy chàng.
Đường Riverside Drive vắng vẻ. Đột nhiên tôi nhớ tới lời những
người bạn dặn dò không nên đi một mình trong đêm khuya trên các con đường vắng
đô thành. Nữu Ước có rất nhiều bọn bất lương như bất cứ thành phố nào trên thế
giới. Nghĩ như thế, tôi định rẽ sang đường 108 để trở vào Broadway. Vừa rẽ sang
đường 108 tôi bỗng thấy mặt trăng, tròn như khuôn mặt hoa sen đức Phật, hiện ra
giữa mảnh trời do hai nhà hàng nhà cửa cao vút bên đường chừa lại. Thật là mầu
nhiệm. Mặt trăng ở về phía trước mặt tôi, và cũng đi về phía tôi đi.
Mặt trăng Rằm tháng Chín. Chắc là mẹ tôi cũng đi theo tôi đến
chùa khi trăng mới mọc.
Cái mặt trăng ấy đã chiếu sáng trên nóc chùa lúc tôi ngồi
nghe thuyết pháp, đã chiếu sáng trên nóc chùa lúc tôi ngồi nghe trình diễn đàn
Koto. Và mặt trăng ấy bây giờ cũng lại đi theo tôi về tận nhà. Sáu năm về trước,
mẹ tôi mất vào ngày trăng tròn tháng chín… Trăng khuya bao giờ hiền hòa êm dịu
và mầu nhiệm như tình mẹ. Trong suốt bốn năm trời tôi có cảm giác rất rõ rệt là
tôi mất mẹ. Nhưng mà có một đêm tôi nằm mơ thấy mẹ, và từ lúc đó, cảm giác kia
không còn nữa. Tôi thấy mẹ tôi chưa bao giờ mất cả, và những đau khổ xót xa trước
kia chỉ là những ảo giác trong một giấc mộng. Tôi còn nhớ đó là một đêm tháng
tư ở cao nguyên. Tôi nằm mơ thấy mẹ tôi, dung nhan không có gì biến đổi. Tôi
nói chuyện với mẹ tôi rất tự nhiên, không có một mảy may cảm giác rằng tôi
trong bốn năm, chịu đựng ý tưởng mất mẹ. Chắc Nguyên Hưng muốn hỏi tôi rằng
trong bốn năm ấy tôi có lần nào nằm mơ không. Có, tôi nằm mơ thấy mẹ tôi vài lần,
nhưng mà những lần thấy như thế không có tác dụng gì rõ rệt sau khi tôi tỉnh thức
cả.
Lần này, khi tỉnh thức, tôi cảm thấy tâm hồn bình yên một
cách kỳ lạ và tôi thấy một cách rất hiện thực rằng sự sinh diệt của mẹ tôi là một
cái gì do tôi tạo ra mà không phải là một thực tại khách quan. Sự hiện thực của
mẹ tôi không tùy thuộc vào sinh diệt; không phải nhờ sinh mà mẹ tôi có, không
phải vì diệt mà mẹ tôi không có. Cái có với cái không là sáng tạo phẩm của nhận
thức chủ quan và do có không hẳn là có và không không hẳn là không.
Có là để đối với không, và không là để đối lại với có. Thực ra, đã có thì không
thể nào là không, và từ không thì không thể nào sinh ra có. Tôi không muốn lý
luận với Nguyên Hưng, tôi chỉ muốn nói với Nguyên Hưng, thế thôi. Bữa
đó, tôi thức dậy vào lúc một giờ rưỡi khuya và thấy phép mầu hiển hiện. Niềm
đau xót không còn nữa và tôi chứng thực rằng ý tưởng mất mẹ trong suốt bốn năm
vừa qua chỉ là những ý tưởng. Thấy được mẹ trong giấc mơ ấy rồi tức là thấy mẹ
tôi mãi mãi. Điều này tôi càng thấy rõ hơn khi tôi đi mở cửa đi ra vườn. Vườn đầy
ánh trăng khuya dịu dàng và nhiệm mầu. Đó là sự có mặt của mẹ, nhớ thương, đó
không là một sự tự an ủi mình. Tôi có thể thấy mẹ tôi bất cứ ở đâu và lúc nào
tôi muốn.
Nguyên Hưng, hồi tháng tám trong lúc còn ở Medford, tôi có viết
để làm quà cho những người trẻ tuổi quen biết ở nhà một đoản văn tôi là Bông
Hồng Cài Áo. Ngồi ở trong nhà gỗ Pomona, tôi đã viết ra những dòng chữ giản dị
kia trong lúc chim hót vang rừng. Khi tôi gửi nó đi rồi - tôi gởi cho Nhiên -
tôi mới biết rằng những cảm nghĩ trong ấy phát sinh từ một cái nhìn khá mới lạ,
cũng là cái nhìn mà tôi đã diễn tả trong lá thư viết cho thầy Thanh Từ. Ngày
xưa nói về văn học Việt Nam, tôi cứ giảng đi giảng lại mãi câu thơ:
“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
đình tiền tạc dạ nhất chi mai”.
của Mãn Giác Thiền Sư đời Lý, rất khâm phục ý tưởng của tác
giả nhưng mà chưa bao giờ đón nhận được cái tâm tư của tác giả một cách đích thực.
Thì ra trong lúc nhận thức cởi mở, trong lúc cái vỏ cứng nứt rạn, ta có thể
trông thấy những điều thật là mầu nhiệm. Cũng như ta có thể thấy được sự hiện hữu
của cành mai trong một đêm tăm tối và lạnh lẽo của mùa Đông.
Chúng ta sinh vào thời đại trong đó sự xung đột giữa các giá
trị cũ và mới đang sắp đi đến chỗ kết thúc. Tuy vậy nó chưa kết thúc được, và dấu
vết của sự xung đột còn hằn lên rõ ràng trong tâm hồn chúng ta. Những câu hỏi mới
của triết học đã làm cho chúng ta bơ vơ thêm, lạc lõng thêm, thao thức thêm.
Trong trạng thái rối bời của tâm trí, ý niệm về sự vô lý của hiện hữu xấu xa,
con người xấu xa; con người muốn tốt cũng không thể nào tốt được, hiện hữu muốn
đẹp cũng không thể nào đẹp được. Trong tình trạng đó lắm khi chúng ta còn có ảo
tưởng rằng chúng ta có tự do, chúng ta còn là chúng ta. Nhưng hẳn Nguyên Hưng
cũng đã từng biết rằng kinh nghiệm bản thân rằng chúng ta nhiều khi chỉ viết
chính tả, mà kẻ đọc cho chúng ta viết vốn không phải là ta mà lại là những dấu
vết được ghi trên chúng ta, hoặc nói một cách khác hơn là mệnh lệnh của nghiệp
lực cộng đồng. Chúng ta đã không được là chúng ta thì, nếu chúng ta có tự do đi
nữa, tự do đó cũng không phải là tự do của chúng ta. Có lúc chúng ta không còn
“ham” tự do nữa, có lúc chúng ta sợ hãi tự do: đó là tại vì chúng ta không thực
là chúng ta. Chúng ta bị bao phủ rất là nhiều lớp rong rêu và vôi gạch. Chúng
ta cần đập vỡ tất cả để được giải thoát. Nhưng chúng ta sợ sự đập vỡ đó, bởi vì
chúng ta cứ tưởng những lớp vôi gạch rong rêu đó mà vỡ thì chúng ta cũng vỡ
luôn, mà những lớp vôi gạch rong rêu đó, than ôi, có phải là chúng ta đâu.
Ngày tôi khám phá ra cái điều mà tôi nói đó, tôi bổng thấy
tôi nhìn tất cả mọi vật với một cặp mắt khác lạ. Trước hết, tôi nhìn vào tôi,
và tôi thấy thân thể tôi quả là một cái gì mầu nhiệm. Tôi chưa bao giờ nhìn tôi
như thế. Tôi thấy không có lý do gì mà ta lại có thể nhìn thân thể ta, một
trong năm phần của hợp thể ngũ uẩn, với một cặp mắt coi thường. Chúng ta có
khuynh hướng coi thường những gì nằm trong tầm tay của chúng ta. Chúng ta đánh
giá chúng một cách quá hạ và lắm khi vì u mê chúng ta nguyền rủa sự tồn tại của
chúng. Như đôi mắt của tôi đây chẳng hạn. Vì tôi có đôi mắt, và vì tôi cho đó
là một sự thực hiển nhiên - mà hiển nhiên sao được, làm gì mà hiển nhiên được một
cách dễ dàng thế - cho nên tôi không chú trọng tới chúng, không cần hỏi han
chúng, không nhận được thông điệp của chúng và do đó tôi mất chúng. Có cũng như
không. Chỉ khi nào người ta bị mù đột ngột, người ta mới cảm nhận được sự hiện
hữu trước kia của đôi mắt; nhưng cảm nhận như thế thì muộn quá rồi. Một người
mù được sáng mới biết thế nào là sự hiện diện quý giá của một đôi mắt; người đó
có thể sống sung sướng ngay trên trái đất, sung sướng hơn cả trên thiên đường.
Thế giới đầy màu sắc này, cùng với đôi mắt kia là những gì thật mầu nhiệm, là
những gì có thể hiến dâng cho chúng ta những sung sướng ngây ngất. Từ lúc đó chẳng
khi nào nhìn mây trắng trời xanh mà tôi lại không nhìn với nụ cười. Thế giới đột
nhiên giầu có hẳn lên và tươi sáng hẳn lên. Người mù mới sáng có thể tìm thấy
thiên đường, nhưng hắn sẽ làm quen với thiên đường trong một thời gian ngắn, rồi
vẫn coi thường thiên đường, cho thiên đường là cái gì hiển nhiên. Và vì vậy, hắn
sẽ mất thiên đường trong vài ba tuần lễ, nhiều lắm trong vòng ba tháng. Trong
khi đó một con mắt tâm linh của Nguyên Hưng sẽ không bao giờ làm mất thế giới
pháp thân.
Hồi nhỏ chúng ta được dạy rằng những đau khổ lớn của con người
là sinh, lão, bệnh, tử, là ước mong mà không được thành tựu, là hợp nhau mà
không được chung nhau, là khắc nhau mà vẫn vẫn phải gần nhau. Nhưng mà Nguyên
Hưng ơi, những đau khổ đích thực của con người không nằm trong sinh, lão, bệnh,
tử, không nằm trong trường hợp ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc. Nó nằm ở
trong cái cách chúng ta nhìn thực tại. Quả là như vậy đó, Nguyên Hưng. Sinh lão
bệnh tử, sự chia cách, sự kết hợp vẫn có những mầu nhiệm của chúng, vẫn là những
đặc tính quý giá của hiện hữu. Điều quan trọng nhất là làm như thế nào ngồi yên
lành trên những đợt sóng hiện tượng đó với một nụ cười của bản thể không sinh
không diệt.
Tôi nhớ trong kinh Bảo Tích có một đoạn như sau đây. Phật
nói: Có một người nhặt cục đất ném vào con chó. Con chó đau quá, tức giận chạy
theo cục đất để cắn trả thù. Con chó không biết rằng kẻ thù không phải là cục đất
mà là người ném cục dất. Cũng như vậy, những kẻ khờ dại nghĩ rằng mầu sắc, âm
thanh, hương vị v.v… là nguyên do khổ đau và kết luận rằng muốn hết khổ đau thì
phải tiêu diệt hoặc lánh xa sắc, thanh, hương, vị, xúc… Kỳ thực đau khổ không nằm
trong sắc, thanh, hương,vị xúc. Đau khổ nằm nơi cách nhìn và sử dụng của
chúng ta đối sắc, thanh hương vị xúc. Vấn đề là như thế. Chúng ta khổ đau
không phải vì thực tại chất chứa khổ đau, mâu thuẫn và vô lý mà vì chúng ta đã
nhìn thực tại qua những lớp màn nhận thức đen tối mang nặng tư kiến tư dục của
chúng ta để thấy thực tại chất chứa khổ đau, mâu thuẫn và vô lý. Có lần đi xa
quê nhà hằng năm phải nói tiếng ngoại quốc cả ngày tôi bổng thấy nhớ những giọng
nói quen thuộc quá chừng. Lắm khi tôi ao ước được nghe những giọng nói quen thuộc
ấy đến nỗi tôi nghĩ rằng vài ba phút thôi cũng đủ làm cho tôi sung sướng suốt
ngày. Mà kỳ lạ thực, Nguyên Hưng, tự nhiên - sao lại tự nhiên - một buổi sáng
chuông điện thoại reo và tôi được nghe tiếng của Phượng từ bên nhà gọi sang.
Câu chuyện tuy ngắn ngủi và chỉ gồm có một số câu hỏi về công việc nhưng tôi
cũng thấy quý giá và do đó cũng sung sướng đến mấy ngày. Từ đó mỗi khi nói chuyện
với một người thân là tôi để hết tâm ý vào câu chuyện và ngthe thấy cả tiết điệu
của giọng nói. Tôi phân biệt được giọng nói và cả những lo âu những cảm động những
thao thức vân vân… chứa đựng trong giọng nói. Đó thật cũng là một điều mầu nhiệm.
Dễ gì mà nghe được như thế, hiểu được như thế và cảm nhận được như thế. Tuy vậy
trong chúng ta ai cũng có điều kiện để nghe, để hiểu để cảm nhận. Tôi không bao
giờ còn thái độ khinh suất và lơ là với bất cứ một hiện tượng nào xẩy ra đến
trước giác quan của tôi. Một cái lá rơi vào phòng hay một tiếng kêu của em bé
chơi đùa dưới bãi cỏ non cũng là một sứ giả của hữu thể. Tôi nhìn ngắm, lắng
nghe tiếp nhận thông điệp của hữu thể đó do chúng mang đến. Sự xa cách người
thân yêu, sự thất vọng sự chạm trán với những gì ta không ưa thích cũng trở nên
mầu nhiệm và tràn đầy tính cách xây dựng. Nhờ những thứ đó mà tôi mới được là
tôi. Nguyên Hưng mới được là Nguyên Hưng và nụ cười kia mới có thể là một nụ cười.
Dưới ánh sáng của cái nhìn ấy, thấy những yếu đuối những dại dột của con người
cũng có những khía cạnh mầu nhiệm của chúng. Có những bông hoa khi nở rồi thì
không bao giờ còn héo tàn nữa. Nhìn dưới ánh sáng ấy thì sinh diệt nào có khác
chi niết bàn. Vì vậy có một đêm trong giờ tư duy tôi bỗng muốn la lên rằng: sự
nghiệp của các đức Phật đã được hoàn tất tự những bao giờ, và sở dĩ nó đã hoàn
tất cũng vì nó chưa bao giờ thực sự khởi đầu cả.
Nguyên Hưng, nhìn lại lịch sử nhân loại và nhìn lại quá khứ của
chúng ta, Nguyên Hưng sẽ phải công nhận rằng quả tình Nguyên Hưng không thể
phân biệt được cái gì là thực sự may và cái gì thực sự rủi, cái gì thực sự tốt
và cái gì thực sự xấu. Chắc Nguyên Hưng còn nhớ câu chuyện người trại chủ mất
ngựa. Mất ngựa có hẳn đó là rủi ro không, điều đó chỉ có một cái nhìn bao quát
thời gian và không gian mới trả lời được. Bất cứ sự thành công nào cũng kéo
theo sự bất lợi của nó và bất cứ sự thất bại nào cũng đóng góp được vào cái ánh
sáng trí tuệ hoặc cái thành công của tương lai. Ta có thể nói rằng cái kia vừa
may lại vừa rủi, vừa tốt lại vừa xấu, và như thế có khác chi nói rằng không thực
sự có may, rủi, tốt, xấu mà chỉ có nhận thức ngắn và hẹp của con người tạo nên
tốt xấu. Tất cả đều là những phân biệt biến kế của nhận thức. Nguyên Hưng, người
ta nói rằng không thể nào thành lập được một nền luân lý nếu không thiết lập được
tiêu chuẩn thiện ác. Nhưng mà mây bay hoa nở, gió thoảng, nước trôi có cần đến
luân lý đâu, có cần đến tiêu chuẩn thiện ác đâu. Thế mà nhiều kẻ lại khen ngợi
họ là những bậc thánh, những nhà đại luân lý, nhiều kẻ lại nhìn vào họ, xét
nghiệm hành động ngôn ngữ và tư tưởng họ để cố thiết lập ra một nền đạo đức
luân lý có cơ sở tiêu chuẩn thiện ác đàng hoàng, và gán cái nền luân lý tìm ra ấy
cho họ. Họ chỉ mỉm cười. Nếu nói rằng chính họ, họ không biết thế nào là thiện
là ác, thì chắc là không ai không nghĩ rằng họ nói đùa. Chỉ có người điên mới nói
thực một câu như vậy. Cho nên người điên nào cũng khó tìm ra một tri kỷ để
trao tâm ấn của mình. Một nhà thi hào là gì? Đó là một người không biết gì hết
về kỹ thuật vần điệu. Chỉ khi nào anh không phải là thi hào, anh mới biết thế
nào là vần điệu mà thôi.
Thế thì, Nguyên Hưng, thứ cam lộ mỗi ngày mà họ uống có thể
được bọn phàm nhân xem là độc dược. Mà nói cho ra lẽ, thì độc dược bao giờ cũng
là độc dược đối với ai. Đối với người đã nhìn thấy sự vật, thì nhận thức đồng
thời là hành động; đâu có thể nói rằng ta phải thiết lập triết lý hành động
trên cơ bản triết lý nhận thức, khi chúng ta còn là tù nhân của ý niệm ngôn từ
thì chúng ta mới vướng vào sự phân biệt nhận thức và hành động mới có cái hăng
hái trẻ con để bàn luận về triết học hành động. Đối với kẻ đã nhìn thấy thì
không có sự nhận thức chân lý cũng như không có phương châm hành động. Không có
sự chứng đắc và không có đối tượng của chứng đắc. Tâm Kinh đã chẳng nói thế là
gì. Và bởi vì đã là sự sống chân thực, đã là gió thoảng, là mây bay, là nước
trôi, là hoa nở, kẻ kia cần gì phương châm hành động. Khi người ta bay thì người
ta không cần biết đến những luật lệ những dấu hiệu đi đường của xe cộ, dù là xe
lớn hay xe nhỏ. Ngôn ngữ kẻ kia sẽ là ngôn ngữ của mây, của gió, của
hoa, của nước. Anh đừng đến đặt cho họ những câu hỏi vớ vẫn về triết học. Họ sẽ
trả lời anh bằng một câu thơ, hoặc giả họ sẽ hỏi anh xem anh ăn cơm chưa, đã rửa
bát chưa. Nếu anh bị bó chặt trong câu hỏi họ sẽ chỉ ra núi rừng:
“Bất tín, chỉ khán bát cửu nguyệt.
Phân phân hoàng diệp mãn sơn xuyên!”
Phải rồi. Không tin, hãy ngắm mùa thu đến; tơi bời lá rụng
ngập sơn xuyên. Còn nếu anh cứng đầu thì họ có thể lấy gậy đánh anh cho
anh chừa đi cái thói quen đem kính khái niệm đi soi chân lý. Nguyên Hưng ơi, ở
Phương Bối chúng ta mà có được một thi sĩ như thế thì núi rừng đã đẹp lại càng
thêm đẹp, phải không.
Trong kinh Phật, từ ngữ trang nghiêm được dùng theo
nghĩa làm cho đẹp và Bồ-tát trang nghiêm Phật độ có nghĩa
là sự hiện hữu của các vị Bồ-tát làm cho đất Phật đẹp đẽ hẳn lên. Tôi nhớ có lần
vua Huệ Tông nhà Lý nghe danh Hiện Quang thiền sư, cho người lên núi mời ngài về
cung. Người từ chối, trả lời rằng nội các vị Thiền sư tài đức hiện đang phục vụ
ở thủ đô cũng đã là trang nghiêm đến điện các rồi. Sự có mặt của người đạt
đạo quả có thể làm đẹp cuộc đời bằng chính đạo đức vô hành của họ. Mà đạo đức
vô hành thì làm gì có tiêu chuẩn, có phương châm hả Nguyên Hưng.
Bây giờ là mấy giờ, Nguyên Hưng biết không? Còn mười lăm phút
nữa là nửa đêm. Lễ Giáng Sinh sắp đến rồi. Nghĩ cũng thật là một điều mầu nhiệm.
Tôi thức trong cái giờ linh thiêng này, ngồi đây viết cho Nguyên Hưng. Những ý
tưởng của tôi trào lên và tôi cảm thấy dễ chịu khi trút chúng bớt xuống đầu
ngòi bút. Tôi vừa nói cho em nghe về nguồn linh cảm đã khiến cho tôi biết nhìn,
biết nghe thế giới hiện tượng một cách cẩn thận. Có những giây phút chỉ xảy đến
một lần hoặc vài lần trong đời, xảy đến như sự xuất hiện của một vị sứ giả của
chân như, một thông điệp của thực tại, và nếu ta vô tâm, ta sẽ để cho chúng đi
qua và không bao giờ trở lại. Bí quyết của Thiền tông chắc hẳn là ở chỗ khám
phá được đường đi nẻo về của những giây phút như thế và sửa soạn, cống hiến cơ
hội cho chúng trở lại. Và cuối cùng, làm cho ánh sáng rạng rỡ của nó tỏa chiếu
rạng rỡ trong một chuyến trở về, không từ đâu tới mà cũng sẽ không đi về đâu. Để
tôi đọc cho Nguyên Hưng nghe bài thơ sau đây của Quách Thoại nóivề sự hiện diện
của bông hoa thược dược:
“Đứng yên ngoài hàng dậu
em mỉm nụ nhiệm mầu
lặng nhìn em kinh ngạc:
vừa thoáng nghe em hát
lời ca em thiên thâu
ta sụp lạy, cúi đầu…”
Nguyên Hưng có nghe gì không? Tôi thấy rất rõ là giây
phút đã xuất hiện bức màn đã hé, dù trong giây lát, và thi sĩ đã thấy.
Bông hoa thược dược đứng ngoài hàng dậu kia, có lẽ vì “hiển nhiên” quá, nên
không ai thực sự trông thấy. Khi tâm linh ta nghe được tiếng
hát bất diệt của nó và nhìn thấy nụ cười nhiệm mầu của nó thì nó
không còn là một bông hoa thược dược tầm thường nữa. Nó là sứ giả, nó là thông
điệp, nó là pháp thân. Tôi nhớ có lần Trụ Vũ ca ngợi:
“Cánh hoa là tứ đại
mà tỏa hương tinh thần
mắt em là tứ đại
mà rạng ngời yêu thương”
Tôi tưởng Trụ Vũ không ca ngợi mà thốt ra những lời biểu lộ một
sự ngạc nhiên. Giây phút cũng đã tới, ánh sáng lòe lên rồi lại tắt. Nhưng trong
một đời người mà có được một lần thấy, nào có phải là ít ỏi gì đâu. Đã thấy
được một lần thì có thể thấy mãi. Vấn đề là ở chỗ ta có tha thiết không, có
thành khẩn không, có cẩn trọng không, thế thôi. Trong thế hệ những người trể tuổi
đang bị giam giữ vào ngục tù của chán nản, của sự vô lý và sự tự khinh, ta thấy
không biết bao nhiều người nhận thức thực tại như một cái gì nhầy nhụa và thân
thể tâm hồn mình như một vũng bùn tanh hôi. Thảm thương biết bao. Sự giải
thoát, như thế, chỉ có thể đi tìm nơi hủy diệt. Tứ diệu đế nên áp dụng trong mục
đích tìm ra và tiêu diệt nguyên nhân của nhận thức đen tối ấy thì là một điều
quý hóa. Còn nếu, vì muối giải thích biện hộ cho sự thực thứ nhất bằng cách phải
bôi lem bức tranh thực tại, gán cho thực tại tính cách khổ tự nó
không có gì đó là bắt đầu một cuộc vu khống to lớn. Thực tại không khổ không lạc,
chỉ có qua nhận thức ta nó mới là khổ hay lạc mà thôi. Nói như thế, Nguyên Hưng
ơi không phải là nói rằng những trận động đất, những con vi trùng, những trận
chiến tranh, những hiện tượng sinh lão bệnh tử… là không có thực. Chúng có thực
chứ, cũng như muôn ngàn hiện tượng khác. Nhưng tự thân của chúng không phải là
sự đau khổ. Và con người có thể giảm thiểu sự hiện hữu của chúng đến một giới hạn
nào đó. Còn tiêu diệt chúng hoàn toàn, đó là điều không thể thực hiện. Cũng như
muốn có trắng mà không có đen, có dài mà không có ngắn, có sinh mà không có tử,
có một mà không có nhiều. Tính cách biến kế của nhận thức tạo tác ra thế giới
khổ đau, những như người thợ vẽ vẽ ra hình ma quỹ và khiếp sợ chính những bức
hình của mình. Những bức hình ấy, Nguyên Hưng ơi, nào phải là ảo ảnh: nó là những
bức hình có thực.
Nguyên Hưng, đêm mùng hai tháng mười tiếp sau đó là một đêm
tôi cần ghi nhớ. Nguyên Hưng cứ tưởng tượng một trời đầy sao sáng, không trăng;
nhưng ngôi sao nào cũng sáng cũng đẹp cũng lấp lánh, cũng to như đôi mắt của trẻ
con, trên một nền trời không gợn mây. Cố nhiên khung trời đó chỉ là khung trời
nội tâm. Vì hôm ấy ở thành phố tôi ở mưa gió về đầy trời. Các cửa phòng đều
đóng kín. Suốt một đêm tôi không ngủ, vì có muốn đi ngủ thì “cũng không thể nào
ngủ được”. Đầu hôm tôi thức để đọc Bonhoeffer, và giai đoạn chót của đời chàng
đã giúp tôi làm bừng tỉnh dậy cái bầu trời đầy sao sáng sẵn có trong tâm linh mỗi
người. Tôi bỗng thấy sung sướng lạ kỳ và có cảm nghĩ rõ rệt rằng tôi có thể chịu
đựng nổi. Viết đến đây tôi còn thấy tâm hồn rạt rào những cảm xúc mới lạ, và có
lẽ Nguyên Hưng cũng đang chia xẻ những cảm xúc ấy với tôi. Bonhoeffer chỉ là một
giọt nước cuối cùng làm tách nước tràn đầy, một nhân duyên cuối cùng, một làn
gió nhẹ thổi tới cho trái cây chín muồi rụng xuống. Được sống trọn một đêm như
thế thì ta không nên than trách chi hết nữa về cuộc đời. Những đêm như thế đẹp
lắm Nguyên Hưng; lòng ta ngập tràn thương yêu. Can đảm và nghị lực dâng tràn,
ta thấy óc và tim ta là những đóa hoa; những cảm xúc, những
rung động, những đau khổ của chúng ta đều hiện hữu một cách rất mầu nhiệm, tuy
ta biết rằng hình hài ta vẫn là hình hài của chính ta. Nguyên Hưng chớ cho rằng
đó là một trạng thái tôn giáo, đạo đức hay thánh thiện của tâm hồn, khơi động
do một nguồn cảm thông hay một ân huệ thiêng liêng nào. Trạng thái tâm linh ấy
hoàn toàn nhân bản. Tôi biết, ngay trong giờ phút đó, không có thần thánh,
không có giác ngộ ngoài tim tôi, phổi tôi, những hạch tiết tuyến, những tế bào
của cơ thể tôi. Sự sống đã mầu nhiệm mà khổ đau cũng mầu nhiệm. Cuộc đời sẽ xấu
xí sẽ đen tối và sẽ không thể có, nếu không có khổ đau. Trong cuộc đời không có
thường có ngã nhưng cũng không có vô thường vô ngã. Không có sự chết nếu quả thực
ta thấy được sự sống. Chỉ nên nói sự sống, và đừng bao giờ dại đột
nói Sự sống miên viễn; mệnh đề sự sống miên viễn cũng như ý niệm trường
sinh bất tử tự nó là một sự mâu thuẫn, một sự dốt nát, một sự tham lam. Tham
lam chỉ là dốt nát; và tham lam dốt nát đánh mất chính sự sống.
Suốt một tháng, tôi tiếp tục tư duy và quán tưởng hình dung
các vị Bồ-tát trong Kinh Pháp Hoa và Bát Nhã. Chân dung các vị ấy đẹp lắm, hèn
gì các vị ấy không “trang nghiêm” được cho đất Phật. Mà cần gì là đất Phật. Cứ
nói đến trái đất của chúng ta đây, sự có mặt của các vị Bồ-tát như thế cũng đủ
làm cho đất chúng ta trở thành đất Phật? Cây nêu mà dân Việt dựng lên để ăn tết
cũng phản chiếu ước muốn của dân ta rằng đất này là đất Phật, có phải không
Nguyên Hưng.
Có khi tôi thấy các vị Bồ-tát trong hình dáng nghèo nàn và
lem luốc nhưng khỏe mạnh của họ. Như Trì Địa như Thường Bất Khinh. Một người
thì chuyên môn đi nối lại những cây cầu gãy và đắp lại những con đường hư làm
gián đoạn giao thông và liên lạc. (Thế giới chúng ta hôm nay có biết bao niều
cây cầu đã gãy đổ và bao nhiêu nẻo giao thông bị cắt đứt, hả Nguyên Hưng? Và thế
giới chúng ta hôm nay đã có được bao nhiêu Trì Địa, đem tâm lực và thân lực
mình để nối lại những nhịp cầu thông cảm và hiểu biết giữa con người với con
người, giữa quốc gia này với quốc gia khác, giữa nền văn hóa này với nền văn
hóa khác?) Người thứ hai thì đi đâu cũng nói vào tai mọi người rằng: ông có đủ
khả năng tiến tới, vậy hãy tin ở sức mình, đừng nên có mặc cảm bất lực, đừng
nên thụ động. “Tôi không dám khinh ngài, ngài sẽ thành Phật”. Bức thông điệp của
bình đẳng, của tinh thần tự tín tự lực ấy nếu không do những con người kiên nhẫn
như Thường Bất Khinh mang đi thì biết do ai? Nguyên Hưng cứ nghĩ đến những người
dân quê ở xứ ta và những người dân quê ở các nước chậm tiến khác. Ai nói cho họ
biết rằng họ tin nơi sức lực của chính họ để tạo một tương lai cho chính họ, một
tương lai mà họ có quyền nắm lấy như bất cứ ai? Thế giới của chúng ta đang cần
có thêm nhiều vị Bồ tát như thế, luôn luôn trên các nẻo đường về, gieo rắc niềm
tin, sự tự lực tự cường cho nhân loại. Còn Bồ tát Quan Thế Âm nữa, mà sau này
được gọi là Quán Tự Tại. Chân dung của người là chân dung của sự cảm thông và của
sự tìm tới với khổ đau không ngần ngại không e sợ bất cứ một trở ngại
nào. Nghe tiếng kêu đau thương của cuộc đời và tìm tới bằng mọi
cách. Tìm tới trong bất cứ một hình dáng nào thích hợp. Nguyên Hưng, một vị
tăng sĩ, một nhà chính trị, một nhà tư bản, một nhà cư sĩ, một người đàn bà, một
em bé, một thiên thần, một con ác quỷ… hình dáng nào thích hợp thì dùng hình
dáng ấy. “Ưng dĩ trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà la môn, phu nữ thân đắc độ
giả, tức hiện trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà la môn, phụ nữ thân nhi vị thuyết
pháp. Ưng dĩ đồng nam đồng nữ thân đắc độ giả, tức hiện đồng nam đồng nữ thân
nhi vị thuyết pháp. Ưng dĩ thiên, long, dọa xoa, càn thát bà, atula, khẩn na
la, ma hầu la già, nhân phi nhân đẳng thân đắc độ giả tức giai hiện chi nhi vị
thuyết pháp”. Nguyên Hưng có nghe không? Thế giới chúng ta ngày nay phải được cứu
nguy bằng mọi mặt bằng mọi hình thức mọi hình thức mọi phương tiện theo tinh thần
đại bi tự tại của Quan Thế Âm, phải được xây dựng bằng thái độ dấn thân của
tinh thần Thường Bất Khinh, Trì Địa. Lại còn hình dung của Địa Tạng nữa; hình
dung của một con người muốn có mặt nơi chốn nhiều đau khổ nhất của cuộc đời. Chừng
nào địa ngục còn chưa trống không thì chừng ấy tôi còn phải ở lại địa ngục. Dấn
thân mà với tinh thần như thế thì mới thực là dấn thân, có phải không Nguyên
Hưng. Tôi tưởng ở đâu có những con người như thế là ở đấy đất phải nở hoa, dù
cho ở địa ngục. Dù cho ở bất cứ địa ngục nào.
Nguyên Hưng, tiếp tục đi tìm hình dung các vị Bồ-tát, lắm lúc
tôi thấy họ trong những chiếc áo thật đẹp, ngọc minh châu sáng ngời trên đầu,
trên tay và trên cổ. Nguyên Hưng hãy nghĩ đến Vô Tận Ý xem. Các vị tăng sĩ thì
không bao giờ được miêu tả bằng những hình dáng như vậy. Chắc chắn là hình dáng
đó tượng trưng cho sự trang nghiêm tịnh độ. Sự có mặt của họ làm dẹp cho cuộc đời.
Áo của các vị Bồ-tát đẹp như những chiếc áo trẻ em ngày Tết. Tôi nghĩ đến một
ngày hội đầu xuân. Không ai nhìn thấy khổ đau của con người rõ bằng các vị.
Nhưng cũng không ai giữ được nụ cười tươi không bao giờ héo như các vị. Tôi
nghe họ nói: chúng tôi không có mặt để khóc than; chúng tôi có mặt để làm đẹp
cho cuộc đời. Cám ơn, cám ơn các vị. Cám ơn các bạn. chúng tôi sẽ mặc những chiếc
áo đẹp nhất mà chúng tôi có thể cùng với các bạn tô điểm cho cuộc đời. Các vị sẽ
sung sướng lần đầu được những người sùng bái các vị gọi các vị là bạn. Các bạn
sẽ không còn bị xa cách và bị hiểu lầm do những người quá sùng kính các bạn nữa.
Chúng tôi thấy sự có mặt của các bạn rồi. Chúng tôi đến đây, và chúng
tôi không có một mảy may tự hào, một mảy may kiêu ngạo, phạm thượng. Chúng tôi
chỉ đến với tình thương, với sự hiểu biết. Chúng tôi đã thoát khỏi chiếc vỏ cứng
đã từng giam hãm chúng tôi. Này con chim hoàng oanh, cổ họng ngươi tuy bé nhỏ
nhưng ngươi hãy hát lên sáng nay, để ca ngợi tính cách mầu nhiệm của thực hữu.
Chuỗi ngọc mà Vô Tận Ý vừa trao tặng cho Quan Thế Âm thì long lanh, sáng ngời,
trong suốt; tràng nhạc của người cũng sẽ long lanh, sáng ngời trong suốt như thế.
Để cho nắng mai tuôn chảy trên các sườn đồi như những dòng thủy tinh và để cho
tất cả các bông hoa lớn nhỏ trên cánh đồng cỏ xanh đều cùng nở một lượt đón
chào sự tỉnh thức mầu nhiệm.
Nguyên Hưng, tôi đã nói đến cái đêm mầu nhiệm trong đó óc tim
tôi nở như những đóa hoa, và tôi tìm thấy các vị Bồ-tát không như những thần
linh xa cách con người mà là những người bạn quý mà ta có thể gặp ngay trong cuộc
sống này. Tình cờ mà những điều tôi thấy phù hợp với những điều trong bài “nguyện
sinh” mà chúng ta thường đọc hàng ngày: Hoa khai kiến Phật ngộ vô sinh, bất thối
Bồ-tát vi bạn lữ. Tim ta và óc ta một khi đã nở thành những đóa hoa thì những
đóa hoa này sẽ không bao giờ héo cũng như những đóa sen nở ở Tịnh Độ. Sen nở
thì thấy được ánh sáng và tìm được bạn đường.
Nguyên Hưng, hôm qua viết cho Nguyên Hưng, đến đúng nửa đêm
Giáng sinh thì tôi ngừng lại. Tôi mặc áo thật ấm, mở cửa ra ngoài và đi đến
Campus Center. Tuyết vẫn lặng lẽ rơi. Đến Campus Center tôi gặp anh Ralph
Nelson đang ngồi bó gối xem TV một mình trong gian phòng rộng thênh thang. Tôi
đến ngồi cạnh Ralph và theo dõi chương trình đặc biệt đêm Giáng sinh. Tôi nghĩ
có lẽ Ralph buồn lắm, và cô đơn lắm trông một đêm như đêm nay. Ralph quê ở tận
miền Nam, xa quá không về nhà được trong dịp lễ Giáng sinh này. Ralph đã lái xe
hơi từ hôm qua, về miền tây Pennsylvania, để thăm một người bạn. Và trên đường
về Princeton hôm nay, Ralph bị kẹt tuyết và suýt phải ngủ giữa đường. Ngủ giữa
đường thì nguy hiểm lắm, dù là ngủ trong xe, dù là quay kín các cửa xe lên. Bởi
vì trời rét lắm không thể chịu nổi. May mắn Ralph vượt khỏi chướng ngại và trở
về Campus lúc mười một giờ. Tôi hỏi: “Anh cảm thấy buồn không, trong đêm Giáng
sinh này, khi mọi người đều en famille? “Tôi sống lẽ loi cũng quen rồi, Ralph
đáp, thành ra không buồn lắm”. Tuy vậy khi ngó anh ta, tôi biết anh ta đang buồn.
May mắn lúc đó, máy truyền hình bắt đầu trình bày một phim trào lộng nên tôi thấy
trên miệng Ralph một nụ cười. Một giờ rưỡi khuya chúng tôi đi Campus center.
Thì ra tuyết vẫn tiếp tục rơi. Tuyết lên cao tới gần đầu gối. Tôi phải lội về
Brown Hall từ giả Ralph, rồi vào phòng lau chân thay bít tất, hơ chân vào lò sưởi.
Năm ngoái tôi đi chơi suốt một ngày Giáng sinh bằng xe hơi ở
vùng quê và đã chứng kiến được không khí thân mật của các gia đinh vào ngày lễ ấy.
Thật không khác gì ngày tết bên ta. Trẻ con và người lớn ai cũng có quà, và có
rất nhiều quà. Tôi bị một em nhỏ hỏi: “Ông theo đạo Phật hả? Vậy ở xứ ông, người
theo đạo Phật như ông có ăn lễ Giáng sinh không?” Tôi trả lời: “Có chứ, bên xứ
tôi người Phật tử ăn lễ giáng sinh vào ngày rằm tháng tư và họ gọi ngày Giáng
sinh là ngày Phật đản.” Tôi nghĩ đến những chú bé con như thế ở trại
Cherroskees và ngủ một giấc ngon lành cho đến sáng.
Chương 9
Những dòng chữ này có lẽ sẽ đến tay Nguyên Hưng vào những
ngày cuối năm, trong khi ở các chợ Saigon thiên hạ đang tấp nập mua bán. Tôi có
thể tưởng tượng được những núi dưa hấu cao ngất, những trái dưa hình thật tròn,
da thật xanh và ruột đỏ thắm. Mùa này, ở đây, không sao tìm ra được một trái
dưa hấu. Nếu có thì chắc chắn thế nào tôi cũng mua một vài trái rồi gọt thành
những cái đèn dưa thật đẹp rồi. Hôm qua tôi có nhận được từ bên nhà gởi qua một
gói quà tết, trong đó có mấy miếng trầm, mấy cây đèn bạch lạp, một hộp trà, một
ít mức gừng, một ít mức trái tắc, và hạt dưa… Tôi mừng lắm. Tối qua, như một
người rất nhàn rỗi, tôi đun nước pha trà, thắp bạch lạp và ngồi cắn hạt dưa một
mình. Steve không chịu cắn hạt dưa, nói cho đúng là không biết cắn hạt dưa. Steve
cũng không thể ăn mứt gừng; chú ta có nếm một tí và nhăn mặt kêu cay quá. Cậu
chỉ uống được trà và nhắm nháp ít trái tắc.
Steve hỏi tôi ăn cái thứ hạt dưa ấy thì có ích lợi gì. Tôi
nói: có nhiều cái lợi lắm chứ. Ở đây tuy người ta ăn rất nhiều trong
các cuộc lễ, lễ giáng sinh, lễ tạ ơn vân vân… nhưng người ta không nói đến tiếng ăn.
Còn bên xứ chúng tôi người ta nói thẳng thắn là ăn. Ăn Tết, ăn lễ sinh nhật, ăn
cưới, ăn hỏi, ăn khảm tháng, ăn ngũ tuần, ăn lục tuần, ăn thượng thọ, ăn giỗ,
vân vân… Mà Tết thì kéo dài những ba ngày; trong ba ngày liền phải ăn luôn miệng.
Đi đâu, gặp ai mời, cũng ăn, cũng phải ăn. Mà thức ăn cũng mau no, chỉ có hạt
dưa là ăn mãi không no. Như vậy cái lợi thứ nhất là ăn mãi mà không sợ phải no.
Cái lợi thứ hai là ăn hoài mà không sợ hại cho sức khỏe. Ăn cái gì nhiều cũng
có thể đau bụng, đau gan, trúng thực nhưng mà ăn hột dưa thì không sao; vì tuy
cái miệng ăn hoài mà cái dạ dày không bao giờ đầy. Cái lợi thứ ba là đỡ phải
nói chuyện nhất là khi ta không biết chuyện gì mà nói. Dù sao thì cái miệng của
tôi cũng đang làm việc mà: Tôi ít nói vì cái miệng tôi đang ăn hạt dưa, chứ
không phải làtôi không biết nói chuyện. Cái lợi thứ tư là tránh được cái hại đa
ngôn đa quá. Hạt dưa dạy người ta ít nói, dạy người ta im lặng để suy nghĩ về
những điều mình muốn nói, dạy người ta biết nghe những người khác. Từ đứa trẻ
năm tuổi cho đến ông già tám mươi ai cũng có thể dạy cho ta được nhiều điều bằng
các câu chuyện của họ – người ta thường là thế. Hạt dưa khiến cho ta chín chắn
hơn, và giúp ta tránh được những câu nói vô ích, lầm lỡ, nhất là câu tuyên bố bừa
bãi không dựa trên căn bản suy tư và nhận xét nào cả. Trong trường hợp này, biết
thì thưa thốt, không biết thì “cắn hạt dưa” mà nghe. Khỏi phải dựa cột. Steve
cười ngất khi nghe tôi nói như vậy và bảo rằng tôi có thể viết những ý đó thành
bài nói về cái triết học của hạt dưa đỏ.
Ở nơi Nguyên Hưng ở, bây giờ đã bớt rét chưa? Bên này cố
nhiên là trời còn rét lắm. Còn độ hai tháng nữa mùa đông mới qua. Tôi chắc ở
chùa Từ Hiếu, các đồi thông đã bắt đầu xanh mướt rồi. Các đọt thông ở đấy vào
mùa Xuân sao mà thẳng mà đẹp đến thế. Tôi biết thế nào Nguyên Hưng cũng để rất
nhìêu thì giờ đi giữa những cây thông xanh mướt. Tôi chưa bao giờ nỡ bẻ một
cành thông, thế nhưng tôi biết những đồi thông mang nhiều thương tích vào những
ngày đầu Xuân khi thiên hạ đi hái lộc. Một cái vườn chùa đẹp đến mấy mà sau bữa
hái lộc cũng trở thành xác xơ. Tôi nhớ có một năm nọ, chùa Xá Lợi phải trồng một
ít cành thông để cho tín đồ hái lộc, như vậy đỡ hại cho những cây cảnh mà chùa
phải săn sóc hết hơi mới có lên được. Tôi không biết cái gì đã xảy ra vào tối
giao thừa. Không lý chùa phải yết thị rằng hái lộc thì chỉ được hái những cây
thông còn các cây khác thì chừa ra. Nếu thế thì sẽ không ai hiểu tại sao. Mà nếu
hiểu tại sao thì người ta sẽ không hái lộc nữa, bởi vì người ta nghĩ những cành
thông kia không phải thực sự hút nhựa từ đất Phật, không thật sự mọc lên từ đất
Phật. Cái tục hái lộc thì thật đẹp nhưng mà đông người hái lộc quá thì không
còn đẹp nữa. Tôi nghĩ đến những buổi cầu nguyện đông đảo những buổi thuyết pháp
đông đảo và tôi ao ước chúng ta còn có thể duy trì được những cảnh chùa thật
thanh tịnh, những buổi gặp mặt truyền tâm giữa một thầy và một trò. Tôi ưa đi
vào một chánh điện thanh tịnh và nhỏ bé, một chính điện dành cho sự đối thoại
cá nhân giữa con người và đức Phật. Sự đối thoại ấy mới dễ trở thành một sự đối
thoại tâm linh của chính mình. Chùa chiền và giáo đường bây giờ có khuynh hướng
xây cất cho sự cầu nguyện tập thể. Đó là nhu yếu. Tôi cũng khát khao sự truyền
tâm giữa một thầy một trò trong đó trò biết là tất cả con người của thầy đang
hướng về mình, kêu gọi sự thức tỉnh và đáp ứng nơi mình, và thầy cũng biết là
trước mặt mình cũng chỉ có một trò với tất cả con người trọn vẹn và đặc thù của
nó. Trong đại hội Linh Sơn, khi Phật đưa cành hoa lên thì chỉ có Ca Diếp mỉm cười.
Đột nhiên đại hội Linh Sơn biến mất, sự có mặt của mọi người trở nên không có.
Chỉ có hai người: Phật và Ca Diếp là những người thật sư có mặt. Đám đông
Nguyên Hưng ơi, trong những trường hợp như thế, chỉ là một con số không.
Có một buổi chiều đi bộ từ Nam Giao lên chùa tôi gặp một đoàn
thiếu niên thiếu nữ Phật tử đi cắm trại từ các đồi thông Từ Hiếu về. Họ đi rải
rác, người đi bộ, kẻ đi xe đạp. Người đầu tôi gặp cầm trên tay một cành thông.
Người thứ hai cũng vậy. Rồi người thứ ba cũng vậy. Rồi đến cả đoàn. Tôi thấy
xót ruột và đau xót cho những đồi thông. Có lẽ ngày Tết cơ sự cũng xẩy ra tương
tợ như thế. Tết nầy Nguyên Hưng nhớ “bảo vệ” giúp các đồi thông nhé.
Giờ mà Nguyên Hưng đón giao thừa bên đó thì bên này là giữa
trưa. Nghĩ cũng là một điều hay. Năm ngoái tôi đón giao thừa ở Princeton vào
lúc mười hai giờ trưa, cùng với một em bé Việt Nam mời được ở cách đó không xa.
Giờ đó, thành phố đó, thời tiết đó mà trong phòng chúng tôi cũng có giao thừa.
Thiên hạ bên này vẫn đi làm việc tám giờ một ngày, chẳng ai để ý rằng ở Việt
Nam Nguyên Hưng đang đón giao thừa, đang ăn Tết. Tại vì tôi biết tôi còn ở đây
cho nên tôi cũng biết Nguyên Hưng còn ở đó, Việt Nam còn ở đó, và đêm Giao thừa
vẫn hiện hữu. Tất cả chỉ là vấn đề nhận thức, chủ thể nhận thức không rời đối
tượng nhận thức. Tôi nhớ có một bữa trưa tôi vào đọc sách nơi phòng triết học của
thư viện Butler. Khi vào, tôi chỉ thấy có hai người đang ngồi tra cứu, hai người
đàn ông lớn tuổi. Bữa đó tôi đi tìm đọc một cuốn sách của giáo sư Sneider. Đọc
được một lúc, không biết rõ là bao lâu, bỗng dưng tôi thoáng thấy mùi hoa bưởi.
Ban đầu tôi ngạc nhiên hết sức vì tôi nghĩ rằng ở địa phương này làm gì có hoa
bưởi. Nguyên Hưng nên nhớ rằng tôi xa nhà đã lâu và bất cứ hình sắc âm thanh
hương vị nào của quê hương đối với tôi cũng vô cùng quý giá, cứ tưởng tượng
ngòi tại một xứ xa thật xa, mấy năm trời tự dưng được nghe thấy mùi hoa bưởi kỳ
diệu ấy:
Bông lài, bông lý, bông ngâu,
Mùi hoa bưởi, mùa hoa của quê hương của ca dao, tôi không đọc
Sneider được nữa. Tôi suy nghĩ, và tôi kết luận rằng mùi đó không có thực,
không phải là từ tánh cảnh, đới chất cảnh mà từ độc ảnh cảnh tới, nghĩa là ảnh
tượng khứu giác được phát hiện trở lại từ tiềm thức. Như thế thì đã có một vài
lần tôi trải qua trường hợp ấy rồi. Tôi yên trí, tiếp tục đọc Sneider. Nhưng chỉ
một lát sau, mùi hoa bưởi trở lại, hiện thực hơn nhiều, khiến tôi ngừng đọc, ngồi
xét lại. Tôi nghĩ rằng có người nào mới vào phòng đọc sách, trong số đó có thể
có một cô nữ sinh có sức nước hoa mùi hoa bưởi. Kỳ thực tôi không biết có thể
có thứ nước hoa chế tạo bằng hoa bưởi không. Nhưng tôi cứ cho là có. Và tôi
nghĩ, trong lúc đầu vẫn cứ nhìn vào trang sách như từ khi mới ngồi xuống đọc, rằng
người phụ nữ trang điểm bằng thứ nước hoa kia phải là một người thanh nhã, có
dáng dấp Việt Nam, ít nhất là dáng dấp đông phương. Có một cái gì thúc đẩy tôi
nhìn lên coi ai mang theo mùi hoa bưởi thân yêu đó. Nhưng mà tôi vẫn không ngửng
đầu lên. Tôi tinh nghịch nhủ rằng nếu ngửng đầu lên và tìm thấy một người không
giống gì hết với sự tưởng tượng, nghĩa là một người không trang nhã, không có
tính cách đông phương, một người béo tốt đẫy đà phấn son trát đầy đầu đầy cổ
thì tôi sẽ bị nếm một thứ thất vọng nào đó. Như vậy mà tôi ngồi cho tới năm
phút, không ngững đầu lên mà cũng không đọc Sneider. Rồi kết cuộc thì ra làm
sao, tôi biết, Nguyên Hưng sẽ hỏi. Nhưng mà tôi không nói đâu, Nguyên Hưng tự
đoán lấy. Ai dại gì mà nói điều ấy cho Nguyên Hưng nghe. Tôi mắc cở lắm. Chỉ
khi nào Nguyên Hưng giỏi thật giỏi không cần biết tới các kết thúc của câu chuyện
thì tôi mới nói cho Nguyên Hưng nghe mà thôi.
Nguyên Hưng, tôi đã phải học thêm Duy Thức từ lúc mười sáu tuổi
và cái tuổi non nớt đó không cho phép tôi hiểu thấu được những cái như kiến phần
tướng phần, sở sở, duyên duyên. Rất khó mà hiểu tại sao kiến phần và tướng phần
là những cái không thể rời nhau mà hiện khởi, tại sao mà chủ thể không thể tồn
tại biệt lập ngoài đối tượng. Ấy thế mà hồi đó tôi cũng biết đàm luận về Duy Thức
cũng làm bài thi và cũng được điểm cao. Tôi lý luận như thế này: Duy thức
là nhờ vào nhận thức thì vạn hữu mới trở thành thực hữu. Không có nhận
thức thì do đâu mà biết có với không tức cũng như không có gì cả. Đó, tôi chỉ cắt
nghĩa ngây thơ như vậy, còn các lối giải bày khác tôi không nắm được, hoặc tôi
cho là vô lý không thể chấp nhận được. Những dòng này do tôi viết và Nguyên
Hưng sẽ đọc. Những dòng nầy hiện giờ Nguyên Hưng chưa đọc. Vậy thì những dòng nầy,
kể cả bản chất tư tưởng tình cảm, giấy, mực, thời gian, không gian, nét chữ vân
vân… chỉ nằm trong nhận thức tôi. Và cả Nguyên Hưng nữa, Nguyên Hưng đối tượng
của những dòng chữ này, cũng nằm trong nhận thức tôi. Mà tất cả mọi hiện tượng
khác như quê hương Việt Nam với những cây cam cây bưởi đầy hoa, những cây dừa
duyên dáng những cây cau cao vút và thẳng băng, cũng như thành phố náo nhiệt
tôi ở đây, cũng như mặt trời, tuyết, mây, trăng, sao… đều nằm trong nhận thức
tôi. Tất cả đều là khái niệm và thế giới của tôi trong đó có Nguyên Hưng, có
cây bưởi, cây chanh cây khế, cũng là một thế giới khái niệm. Vài bữa nữa thì những
dòng chữ nầy tới tay Nguyên Hưng. Nguyên Hưng sẽ thấy tôi hiện hữu trong đó,
thành phố tôi hiện hữu trong đó, nhưng mà tất cả những thứ ấy cũng trở thành
khái niệm trong nhận thức Nguyên Hưng và không thể được đồng nhất đối tượng của
nhận thức tôi. Và ta cứ cho rằng thực tại bản chất tánh cảnh vô chất nằm trong
phần căn bản của nhận thức cộng đồng, hoặc có thể gọi là tự thể phần của thức
hay của thức cộng đồng cộng biến; còn thế giới khái niệm, thế giới đới chất và
độc ảnh, là thế giới được tạo tác nên do khuynh hướng biến kế chấp trong đó tướng
phần và kiến phần là hai mặt hiện tượng của một tự thể… Điều này tôi thấy rõ
trong một buổi khuya ở chùa Trúc Lâm cách đây chưa đầy hai năm. Đêm đó tôi thức
dậy lúc hai giờ rưỡi khuya và không ngủ lại được nữa. Tôi nằm yên lặng cho đến
khi chuông khuya bắt đầu ngân nga mới chỗi dậy. Tôi đưa chân xuống tìm đôi dép
nhưng không tìm ra, có lẽ đôi dép đã bị tôi đẩy vào gậm giường từ hồi tối. Tôi
không tìm đôi dép nữa, cứ đi chân trên nền đất tìm ra cửa sổ. Nền đất lạnh gây
cảm giác mát lạnh nơi gang bàn chân của tôi, và sự thấm lạnh ấy đột nhiên khiến
tôi tỉnh táo và minh mẫn một cách lạ thường. Tôi đi từng bước tìm tới cửa sổ và
tỳ tay nơi cửa sổ nhìn ra ngoài. Trời đất vẫn còn đen tối và tôi không nhìn thấy
được gì cả. Tuy nhiên trong đêm đen, tôi vẫn biết cây lá trong vườn còn đó, và
bụi trúc đào cũng còn đó ở bên góc kia. Cây hoa dại vẫn còn ở trước cửa sổ tôi.
Mà sở dĩ như vậy là tại vì chủ thể nhận thức không thể tồn tại ngoài đối tượng
nhận thức. Trong lòng đêm thâu hay trong lòng nhận thức cũng vậy, khóm trúc,
cây hoa dại đang đóng vai trò đối tượng sở duyên, chủ thể nhận thức và đối tượng
nhận thức không thể rời nhau. Và ngoài kia, núi sông, trời đất, những ngôi sao
lớn nhất, và thực hữu, và mặt trời của tôi cũng chỉ nằm trong lòng nhận thức. Đột
nhiên thời gian và khoảng cách tự nhiên tiêu diệt, tan biến. Đột nhiên năng và
sở tan biến. Đột nhiên diệt và sinh tan biến. Dù em có xa cách vạn muôn do tuần
ấy cũng được nối liền trong một lân hư trần. Dù cho bách thiên vạn kiếp thì
bách thiên vạn kiếp ấy cũng trở về nối liền với hiện tại trong một sát na. Hiện
hữu của em tự nhiên trở về bừng hoa nơi nhận thức tôi. Đột nhiên tôi mĩm cười.
Có lẽ lúc ấy mà có một người rình thấy được tôi đang cười trước một đêm đen
không trông thấy gì, không trông thấy ai mà cũng không có gì trông thấy mình,
không có ai trông thấy mình, người ấy sẽ ngạc nhiên, hoặc có thể hoảng sợ lạnh
tới xương sống. Bởi vì cái cười của tôi đối với người ấy có thể có tính cách ma
quái hoăïc là của một người sắp sửa điên tới nơi rồi. Có chi mà đáng
mỉm cười trước một cái màn đêm đen nghịt và vô nghĩa như vậy. Nhưng Nguyên Hưng
biết rằng màn đêm tuy có đen nghịt thật nhưng không vô nghĩa chút nào. Nó trở
thành rạng rỡ vô cùng trong nhận thức tôi. Và hiện hữu mầu nhiệm trở thành bừng
tỏa nơi nụ cười huyền diệu ấy. Tôi biết là em còn đó vì tôi còn đây và tôi biết
tôi còn đây vì em còn đó. Nếu có thì năng duyên và sở duyên cùng có, nếu không
thì năng duyên và sở duyên cùng không. Cho nên chủ và khách cùng thuộc về một tự
thể vào trong chủ đã có sẵn khách.
Tôi biết rằng lát nữa khi bình minh về thì sẽ cũng không có
gì khác lạ xảy ra trên bình diện hữu thể. Mầu trời xanh biếc phương tây và màu
chân trời hồng đỏ phương đông cũng chỉ là xanh là hồng trong nhận thức tôi.
Xanh không phải thuộc về tự thể xanh và hồng cũng không thuộc về một tự thể hồng.
Xanh cũng có nghĩa là xanh đối với tôi, trong nhận thức tôi. Cũng như hồng.
Cũng như Sinh. Cũng như Diệt. Cũng như Đồng. Cũng như Dị. Cũng như Lai. cũng
như Khứ. Tất cả đều chỉ là hình ảnh nhận thức. Nhìn vào mắt tôi đi và em sẽ thấy
em trong đó. Em rạng rỡ thì mắt tôi cũng rạng rỡ. Em mầu nhiệm thì nhận thức tôi
cũng mầu nhiệm. Và ngược lại, tôi xa xăm thì em, hình bóng em va tự thể em,
cũng trở nên xa xăm. Hãy nhìn vào mắt tôi thì em sẽ biết vũ trụ của tôi sáng
hay tối, thiện hay ác, vô cùng hay hữu hạn, sinh tử hay niết bàn. Có lần Trụ Vũ
nói:
Bởi vì mắt thấy trời xanh
Cho nên mắt cũng long lanh mầu trời
Bởi vì mắt thấy biển khơi
Cho nên mắt cũng xa vời đại dương.
Nguyên Hưng, khi nụ cười trong đêm thâu bừng nở rồi thì tôi
có cảm giác nhẹ nhàng như mây khói và tôi thấy tôi nằm ngữa bơi nhẹ nhàng trên
một giòng suối trong mát lạnh. Đầu tôi gối trên những chiếc gối sóng nhỏ. Nhìn
lên trời tôi thấy trời xanh mây trắng của ngày cũ. Mây vẫn trắng, trời vẫn
xanh. Mây có thể trắng hơn và trời có thể xanh hơn. Đó phải chăng là dấu hiệu của
thực tại bất sanh bất diệt? Tôi nghe lá thu khô xao xác trong rừng cây, tôi ngửi
thấy hương thơm ngất ngây của cỏ rơm đồng nội.
Những cảm giác ấy thoáng qua mau khi tôi trông thấy một ngôi
sao trên trời. Ngôi sao đưa lối cho tôi trở về trước cửa sổ, hai chân trên nền
đất mát và hai bàn tay tỳ lên song cửa. Tôi còn đây, tôi hiện hữu cho thế giới
hiện hữu, cho em hiện hữu. Cũng như hòn sạn kia, cũng như đám mây kia. Sự hiện
hữu của chúng kéo theo sự hiện hữu của tôi. Và nếu viên cuội kia mà không thật
sự hiện hữu thì tôi đây làm sao hiện hữu được? Đã có thì có từ hạt bụi. Mà hạt
bụi đã không thì tam thiên đại thiên thế giới cũng không. Tôi cũng không. Em
cũng không.
Nguyên Hưng, tôi thấy tôi rất bằng lòng cái quê hương này của
chúng ta. Dòng sông kia là hình bóng trôi chảy dịch hóa của vạn tượng. Nhờ có sự
trôi mà có sự sống. Sự chết cũng nằm trong sự Sống bởi vì không có chết thì
không thể có sống. Hoan nghênh sự trôi chảy. Hoan nghênh vô thường vô ngã. Bởi
vì có vô thường vô ngã nên mới có thế giới đẹp đẽ của thi ca của thiền. Và còn
vườn chuối của đồng bằng kia nữa. Hình bóng của êm mát, ngọt ngào, hiền lành.
Và cũng còn những hàng cau thơm ngát… Mặt trái đất sở dĩ đầy tràn cát bụi, là
vì chúng ta chỉ nhìn xuống cát bụi. Không, tôi không muốn rời bỏ chốn này để đi
về cực lạc hay thiên đường. Quê hương của tôi là đây, ngay trên mặt đất. Chỉ cần
ngẫng đầu nhìn lên là tôi trông thấy trăng sao của đêm rằm, của tâm linh. Chính
vì được ở đây, vì được dứng đây nên tôi mới thấy được như thế. Điều quan yếu
không phải là từ giã, chối bỏ, trốn tránh. Điều quan yếu là nhận thức ra rằng hễ
mắt ta mở thì ta trông thấy… Cảnh giới niết bàn quyết định có đủ những thứ cây
như cây bàng, cây cau, cây khế, cây chanh, cây bưởi. Tôi thấy như thế. Và tôi
buồn cười quá. Tôi buồn cười cho chính tôi, ngày xưa, đã đi tìm niết bàn như một
cái gì cách biệt và trái chống với thế giới sinh diệt… Chân như hiển hiện mầu
nhiệm nơi tử sinh.
Nguyên Hưng chắc còn nhớ những cơn mưa lớn ở miền Nam đất nước
ta. Có một lần tôi ngồi ở nhà một người bạn tôi trông thấy một cảnh tượng mà
nhìn ngắm mãi không biết chán. Trời mưa lớn. Bên kia đường. Đối diện với chỗ
tôi đang ngồi là một tiệm bán chạp phô lụp xụp. Trong tiệm treo đầy những guốc
giây thừng, dây kẽm, song chảo, và bày biện một ngàn thứ lặt vặt khác như nước
mắm, đèn cầy, tương kẹo đậu phọng, vân vân… vì vậy tiệm tối om. Lại thêm trời
mưa to nữa. Tôi thấy một đứa bé chừng sáu tuổi đang ngồi ăn cơm một mình trước
cửa tiệm ngay chỗ bậc cửa ra vào, gần sát giọt nước trên mái chảy xuống. Đứa bé
ngồi trên một chiếc đòn thấp. Nó ở trần và chỉ mặc một một chiếc quần cụt. Thân
hình đứa bé đen nám, có lẽ tại nó hay chạy chơi ngoài nắng quá. Tay trái nâng một
bát cơm, tay phải thì cầm đũa. Nó ăn rất dè dặt, mắt hết ngước nhìn những giọt
nước rơi từ mái tôn theo những chiếc bong bóng trước sân. Tôi ngồi cách nó chừng
mười thước, nhưng tôi có thể biết được đứa bé đang ăn cơm với trứng vịt chan nước
mắm. Những miếng trứng vịt nhỏ xíu chôn dưới đáy bát. Nó lấy đũa moi lên và ăn
từng miếng cơm một cách dè xẻn. Vừa ăn nó vừa ngắm mưa một cách thích thú vô
cùng và cũng bình tĩnh vô cùng. Tôi ngắm nhìn nó và theo dõi nó trong từng cử
chỉ từng cách nhìn. Thân hình nó có vẻ rắn chắc, mạnh khỏe. Ngắm nó tôi thấy sự
an lạc. Có lẽ cái chữ le bien-être của tiếp Pháp theo nghĩa chính xác
nhất là dùng vào đấy thì rất đúng. Và rất hay nữa. Tôi thấy tim nó đập điều
hòa. Phổi nó, dạ dày nó, ruột nó, gan nó, các hạch tiết tuyến của nó làm việc
điều hòa. Cái gì cũng thông suốt, cái gì cũng không bị trục trặc. Giả dụ nó bị
nhức răng thì cái diện mạo của nó sẽ nhăn nhó, sẽ khó chịu, nó không thể nào an
nhiên hạnh phúc như thế kia được. Tôi ngắm nó như ngắm một sự toàn bích, như ngắm
một bông hoa, như ngắm một cảnh bình minh. Và tôi chợt thấy chân như và niết
bàn hiện hữu. Tôi bị thâu hút vào hình bóng đó và an nhiên trầm tĩnh ngắm nhìn
đứa bé như biểu hiện của pháp thân, của niết bàn, của sự an lạc. Tôi thấy sự an
lạc đó nơi cách nhìn, mỗi cái và cơm, mỗi cái ngước mắt. Tôi biết chắc rằng lúc
đó nó không có ý thức phân biệt rằng nó thuộc giai cấp nghèo, nó không thấy cái
quần cụt đen đúa của nó là xấu xí so với quần áo sang trọng của những đứa trẻ
khác, rằng chân nó không có giày đẹp, rằng ghế nó ngồi là một cái đòn khập khểnh
nghèo nàn. Không không phân biệt, nó không tủi thân, nó không ham muốn. Mà nó
sung sướng hoàn toàn, an lạc hoàn toàn. Chỉ nhìn nó, tôi cũng thấy an lạc tràn
ngập cả bản thể. Lúc đó có mấy cái bóng đi qua đường, mầu tím mầu đỏ. Tôi thấy
nó ngước lên nhìn một một chút - tôi theo dõi nó rất tỉ mĩ - rồi lại đưa mắt trở
về với đám bọt nước trước sân, miệng vẫn nhai và cái đầu gục gặc có vẻ thích
chí lắm. Tôi biết nó không mảy may chú ý về những người vừa đi qua đường mà tôi
biết chắc là hai người thiếu nữ mang dù, vài tôi thoáng thấy những cái áo màu
tím màu đỏ. Và chắc chắn cũng vì những cái màu đó, những cái màu chói lọi đó,
mà nó ngước mắt lên mà thôi. Mặt nó không lộ một tí thay đổi nào khi nhìn lên.
Bỗng tôi thấy nó đưa mắt về phía đầu đường và miệng nó nở một nụ cười rạng rỡ.
Nó hoàn toàn bị thu hút bởi cái cảnh tượng đầu đường. Thấy rõ sự sung sướng cực
độ biểu lộ trên mặt nó, tôi cũng nhìn về đầu đường. Tôi thấy có hai đứa trẻ đẩy
một chiếc xe mây có bốn bánh gỗ đi lại, trên xe có em bé ngồi. Tất cả đều ở truồng.
Và cả ba đứa nô đùa thích thú trong mưa. Những chiếc bánh xe gỗ lăn mau, thỉnh
thoảng gặp những vũng nước trên đường bắn tung tóe ra hai bên. Tôi nhìn trở lại
đứa bé đang ăn cơm. Nó ngừng hẳn công việc ăn và theo dõi trò chơi của ba đứa
trẻ ngoài đường. Hai mắt sáng như sao. Tôi không biết hai mắt của tôi có phản
chiếu hai mắt của nó không, nhưng có một điều tôi biết rõ là lúc đó tôi cũng
sung sướng cực kỳ. Có lẽ là không sung sướng bằng nó, cũng có thể là tôi sung
sướng hơn nó, hơn ở chỗ tôi biết sung sướng.
Bỗng tôi nghe nó dạ một tiếng và ôm bát đũa vào nhà. Có lẽ
cha mẹ nó gọi vào để bảo nó xới thêm một bát cơm nữa. Hồi lâu tôi thấy n ó
không trở ra. Nó có thể trở vào ngồi ăn chung với bố mẹ nó. Cũng có thể nó bị mắng
là ăn một chén cơm lâu quá không xong chỉ lo ngồi chơi ở ngoài ngưỡng cửa.
Nhưng mà bị mắng như thế thì tôi nghiệp quá. Người ta không biết được rằng nó
được sống ở thiên đường ở niết bàn, ở chân như. Người ta không biếùt được rằng
những phân biệt, những mừng tủi, những toan tính giết chết thiên đường. Xin đừng
la mắng ánh sáng, đừng la mắng những con chim mùa xuân bé nhỏ.
Làm sao anh lên thiên đường được nếu anh không trở thành trẻ
thơ. Làm sao anh thấy được chân như bằng con mắt phân biệt. Những hàng chữ này
tôi muốn tự nhiên mà trở thành thơ dại. Tôi muốn đè cổ Nguyên Hưng xuống để xem
cái xoáy tóc ở phía nào. Một xoáy ở với cha, hai xoáy ở với mẹ, ba xoáy ở với
dì… mấy xoáy thì ở với quê hương nhỉ. Tôi đang ngồi đây, chờ Nguyên Hưng trả lời.
Tuyết giờ này đang rơi. Tôi muốn liệng về cho Nguyên Hưng một nắm lạnh buốt.
Ngày xưa chúng ta đã từng ước muốn làm những chàng dũng sĩ cần
thiết cho cuộc đời, “bể trầm luân lấp cho bằng mới thôi”. Nhưng chúng ta không
biết rằng những chất liệu nào người ta có thể tạo nên một chàng dũng sĩ. Chúng
ta muốn được như những chàng dũng sĩ trong các truyện kiếm hiệp. Bây giờ ngồi
đây, nhớ lại ước ao đó mà bấc giác mỉm cười. Bộ mặt chúng mình không giống gì một
dũng sĩ cả. Thà như ngày xưa cầm kiếm tre đánh nhau và bắt chước y hệt của những
lời kiếm khách. Bây giờ nơi thành phố náo nhiệt và lạnh buốt này viết cho
Nguyên Hưng lòng tôi cũng vẫn còn đôi chút rộn ràng về cái mộng ngày xưa. Thì
ra cuộc đời từ khi có cái mộng của chúng ta vẫn là một cuộc đời kiên nhẫn, kiên
nhẫn chờ đợi những chàng dũng sĩ không thể không có trong cuộc đời. Nhưng mà
các chàng dũng sĩ ngày xưa trước khi xuống núi cứu giúp đời đều được huấn luyện
võ nghệ thời gian lâu dài với các bậc kiếm tiên sư phụ. Còn vốn liếng của chúng
ta chỉ có một cuốn Tỳ Ni Nhật Dụng và những cái tài nấu cơm, quét
sân, gánh nước, bổ củi. Đã thế trong những kẻ học làm dũng sĩ như chúng ta, có
nhiều người không nắm được về kỹ thuật nào về sự nấu cơm, quét sân, gánh nước
và bổ củi ấy. Rồi bị bắt buộc vào núi, hoặc tình nguyện xuống núi. Tài nghệ
không có, bản lĩnh không có làm sao mà cứu giúp đời. Ấy vậy mà một số người
trong chúng ta đã tưởng mình là những chàng dũng sĩ thực thụ. Những chàng dũng
sĩ cần thiết cho cuộc đời. Và chính cuộc đời cũng nói như thế, cũng công nhận
như thế! Cuộc đời chỉ cần những chàng dũng sĩ giả hiệu, và các chàng dũng sĩ
như chúng ta vì thế càng ngày càng tin chắc mình là dũng sĩ. “Cuộc đời nếu
không có ta…”
Nếu không có ta, chắc cuộc đời đã tàn lụi rồi nhỉ. Nhưng mà Nguyên Hưng ơi trong những năm ở Phương Bối và chính ngay bây giờ nữa, cuộc đời đã tàn rụi đâu. Cuộc đời còn đó, kiên nhẫn chờ đợi mà. Chỉ sợ những người muốn làm dũng sĩ không chờ đợi được chính mình mà thôi. Chúng ta đã gặp những chàng dũng sĩ trên bước đi của chúng ta. Không có bản lĩnh thực của dũng sĩ, họ phải mượn tạm khí giới của cuộc đời. Họ sử dụng được tiền bạc, danh vọng và thế lực. Nhưng mà những khí giới ấy chỉ có thể đối phó với cuộc đời thôi chứ không thể đối phó với bản thân và bảo vệ cho đời sống thực sự của chính các chàng dũng sĩ. Để đối phó với vấn đề sinh tử của chính mình, các chàng dũng sĩ phải dùng sự bận rộn. Sự bận rộn, sự bận rộn. Ai chế tạo ra hóa phẩm kỳ diệu này mà sức tàn phá không khác bom nguyên tử, không khác chi khói thuốc phiện. Cái thế giới nội tâm trống trải quá, và con người bây giờ có thể đối phó với một cuộc chiến tranh dễ dàng hơn đối phó với một cái trống trải của lòng mình. Bận rộn công việc thì than phiền là bận rộn chẳng có thì giờ nghỉ ngơi được. Con người bây giơ không biết nghỉ ngơi. Hoặc giả chỉ biết nghỉ ngơi bằng những loại bận rộn khác, cũng được gọi là bận rộn. Hễ có được một chút thì giờ rỗi rãi ngừng tay thì không chịu đựng nổi. Phải với tay vặn cái nút thu thanh. Hoặc phải vớ lấy một tờ báo, đọc bất cứ bài vở gì, tin tức gì. Đọc quảng cáo cũng được. Phải có một cái gì để nhìn, để nghe, để nói, để trấn giữ đừng để cho cái đầu của sự trống trải xuất hiện. Mặt mũi của sự trống trải sao mà kinh khiếp quá.
Nếu không có ta, chắc cuộc đời đã tàn lụi rồi nhỉ. Nhưng mà Nguyên Hưng ơi trong những năm ở Phương Bối và chính ngay bây giờ nữa, cuộc đời đã tàn rụi đâu. Cuộc đời còn đó, kiên nhẫn chờ đợi mà. Chỉ sợ những người muốn làm dũng sĩ không chờ đợi được chính mình mà thôi. Chúng ta đã gặp những chàng dũng sĩ trên bước đi của chúng ta. Không có bản lĩnh thực của dũng sĩ, họ phải mượn tạm khí giới của cuộc đời. Họ sử dụng được tiền bạc, danh vọng và thế lực. Nhưng mà những khí giới ấy chỉ có thể đối phó với cuộc đời thôi chứ không thể đối phó với bản thân và bảo vệ cho đời sống thực sự của chính các chàng dũng sĩ. Để đối phó với vấn đề sinh tử của chính mình, các chàng dũng sĩ phải dùng sự bận rộn. Sự bận rộn, sự bận rộn. Ai chế tạo ra hóa phẩm kỳ diệu này mà sức tàn phá không khác bom nguyên tử, không khác chi khói thuốc phiện. Cái thế giới nội tâm trống trải quá, và con người bây giờ có thể đối phó với một cuộc chiến tranh dễ dàng hơn đối phó với một cái trống trải của lòng mình. Bận rộn công việc thì than phiền là bận rộn chẳng có thì giờ nghỉ ngơi được. Con người bây giơ không biết nghỉ ngơi. Hoặc giả chỉ biết nghỉ ngơi bằng những loại bận rộn khác, cũng được gọi là bận rộn. Hễ có được một chút thì giờ rỗi rãi ngừng tay thì không chịu đựng nổi. Phải với tay vặn cái nút thu thanh. Hoặc phải vớ lấy một tờ báo, đọc bất cứ bài vở gì, tin tức gì. Đọc quảng cáo cũng được. Phải có một cái gì để nhìn, để nghe, để nói, để trấn giữ đừng để cho cái đầu của sự trống trải xuất hiện. Mặt mũi của sự trống trải sao mà kinh khiếp quá.
Nguyên Hưng, hồi nhỏ tôi có đọc những câu chuyện nói về kẻ ra
ngoài thì tả xung hữu đột oai phong lẫm liệt nhưng đến khi về tới nhà là sợ vợ
thin thít không dám cựa quậy. Thì những chàng dũng sĩ của ra cũng thế đó. Nhìn
qua cái bận rộn của họ, ta có nghĩ rằng họ là dũng sĩ thật nhưng đến khi theo họ
trở về nội tâm thì ta tháy tình cảnh tan hoang bi thảm không cùng. Chàng dũng
sĩ của chúng ta đi xuống núi là để chuyển hóa cuộc đời nhưng rốt cuộc lại bị cuộc
đời chuyển hóa… Tay ấn không vững thì đã không trị được âm binh ma chướng mà
còn bị âm binh ma chướng vật ngã nữa. Chàng dũng sĩ của chúng ta không có được
một chút bản lĩnh tâm linh nào thì làm sao có thể là một chàng dũng sĩ thật sự?
Nguyên Hưng cũng biết rằng cái cuốn Ty Ni Nhật dụng ấy
là một thứ sách “binh pháp nhập môn” của chúng ta; thứ sách khi chúng ta mới được
gia nhập thiền môn thì chúng ta phải lấy ngay sách đó làm sách gối đầu giường.
Nó chỉ cho chúng ta nắm lấy tâm ý của chúng ta. Trong những phương pháp động
tác thường nhật như ăn uống, đi đứng, nằm ngồi, làm việc… Chúng ta phải tự theo
dõi chúng ta, dò kiếm những dấu chân và công việc đó khó khăn như công việc dò
theo dấu chân trâu để tìm ra con trâu lạc. Dễ gì mà dò biết được lối đi nẻo về
của tâm của ý. Tâm ý chúng ta cũng như con vượn chuyền cành. Nó chuyền cành này
sang cành khác, thoan thoát mau lẹ. Bắt được nó không phải là chuyện dễ, nhưng
công việc ở đây không phải là công việc bắn chết. Công việc ở đây không phải là
công việc dọa dẫm, ép buộc. Công việc ở đây là biết được đường đi nẻo về của
nó, để không cần dọa dẫm ép buộc mà vẫn có thể đi sát với nó, có nó trong tay bất
cứ lúc nào mình muốn. Cuốn sách mỏng đó cho ta những biện pháp đầu để đối phó,
hồn nhiên mà vô cùng hiệu lực. Nó dạy ta quan sát và điều phục theo một đường
hướng rất thich hợp thiên nhiên tất cả mọi động tác thân thể ngôn ngữ tâm lý của
chúng ta. Khi ta đưa hai bàn tay vào chậu nước trong chẳng hạn, nó dạy ta làm
phát khởi trong có một tư tưởng trong sáng, tin tưởng và ý thức: “Khi tôi rửa
tay bằng nước trong, tôi ước ao bằng mọi người trong chúng ta đều được hai bàn
tay tinh khiết để có thể tiếp nhận và duy trì chân lý”. Và trong tất cả mọi động
tác, những tư tưởng trong kia đến cùng với ý thức minh mẫn, để tạo nên chánh niệm
làm cho mọi động tác thường được coi là tầm thường nhất như đi vệ sinh, hốt
rác, chặt cũi… cũng trở nên thánh thiện. Tràn ngập tính chất thi ca và nghệ thuật.
Za-zen. Thiền thì đâu cần ngồi. Cuộc đời không phải để mà ngồi dù ngồi chín năm
xây mặt vào vách cũng thế. Ngồi chỉ là những bước đầu. Cũng vì vậy mà chúng ta
đã được hướng dẫn nấu cơm, rửa bát không chỉ là để có bát sạch. Nói cho đúng mức
ngôn ngữ, thì nấu cơm không phải để có cơm, rửa bát không phải để có bát sạch.
Và nấu là nấu chứ không phải là nấu cho xong, rửa là rửa chứ
không phải là rửa cho xong với ý định là làm cho xong kẻo mệt, làm
cho rồi bổn phận, để mà nghỉ, để mà tham thiền, thì việc làm ấy sẽ là hư công,
vô ích, không nghĩa gì đối với thiền học. Rửa bát, quét lá trước sân, những việc
ấy phải là thiền, là tu, là con đường thành Phật. Thành Phật không do sự lễ lạy,
cúng vái ngồi “thiền”. Thiền là ăn, là thở, là nấu cơm, là gánh nước, là chùi cầu
vệ sinh. Thiền là dọi ý thức minh mẫn vào mọi động tác thân khẩu ý, là làm cho
rạng rỡ những chiếc lá khô, những viên sỏi nhỏ, những đống phân bón, những cành
cũi mục… làm cho rạng rỡ tất cả mọi đường đi nẻo về của tâm, của ý. Cho nên
Nguyên Hưng biết rằng nắm được cái kỹ thuật nấu cơm, rửa bát, quét sân và nhặt
củi ấy thì mới mong xuống núi làm chàng dũng sĩ. Một chàng dũng sĩ như thế thì
có thể cười đùa trước các vũ khí của cuộc đời như tiền bạc, danh vọng và quyền
thế. Một chàng dũng sĩ như thế thì có thể ngồi trên những đợt sóng thành bại mà
không bị đưa lên dìm xuống bởi những đợt sóng thành bại và một chàng dũng sĩ
như thế ít ai biết là một chàng dũng sĩ.
Nguyên Hưng, dù sao mùa xuân cũng đã thấy thấp thoáng ở quê
nhà. Dù cho quê nhà đang lâm vào tình trạng khốn khổ đau thương đi nữa thì mùa
Xuân cũng nên trở về để trao cho Việt Nam khổ đau bức thông điệp hy vọng của sự
sống mầu nhiệm, để tất cả chúng ta đặt niềm tin ở tương lai mà vững lòng đi tới.
Tuyết đang rơi trước cửa sổ tôi, màu xanh còn vắng mặt. Nhưng thiều quang sẽ đến.
Và hàng cây trụi lá khổ hạnh kia cũng như những bải cỏ chôn vùi dưới tuyết kia
sẽ lấy lại được màu xanh mơn mởn của mùa Xuân thịnh vượng.
Chương 10
STEVE ơi, cái nhà của mình ở đường 109 đã được trả lại cho
người ta rồi phải không? Thương quá đi! Chúng ta đã trải qua biết bao nhiêu vui
buồn trong đó. Và đối với tôi, tôi không bao giờ có thể quên được bất cứ một
chi tiết nào trong nó. Steve không nói nhưng tôi biết là sau khi tôi đi rồi
Steve đã phải bắt buộc trả lại cái nhà đó để đi mướn một gian phòng khác, bởi
vì một mình Steve làm sao trả được tiền nhà, tiền điện, tiền nước, và bao nhiêu
thứ lặt vặt nữa liên hệ tới một cái nhà.
Nơi mà tôi đang ngồi viết cho Steve đây là một ngôi nhà lợp bằng
lá dừa nước, một thứ cây mọc đầy ở rạch, các bưng, các vũng sình lầy ở miền Nam
nước Việt. Vách của nó được trộn bằng đất bùn trộn lẫn rơm khô. Kín lắm, và
cũng đẹp nữa. Chắc chắn là Steve chưa bao giờ thấy những cái vách trát bùn như
vậy. Trước hết người ta lấy tre chẻ ra, gọt hai đầu, lắp vào các cây cột gỗ
quanh nhà rồi lấy lạt buộc lại thành những tấm lưới tre chắc chắn. Sau đó đất
bùn được lấy dưới sông lên, trộn với rơm khô. Bữa ấy tôi có yêu cầu các bác
nông dân pha thêm tí xi măng vào cho chắc. Người ta lấy rơm bùn quấn vào các nẹp
của tấm lưới tre cho các mắt lưới được bịt kín lại và cuối cùng lấy đất bùn
trét lên cho phẳng. Những cái vách khi khô rồi cũng trắng bệch ra, nom rất đẹp.
Ở đây là đồng quê, gió lộng nhiều, nhất là vào buổi chiều, nên làm vách như thế
này thì kín và ấm lắm. Bây giờ là buổi sớm mai. Tôi ngồi viết trước một chiếc cửa
sổ ngó ra đồng. Nắng vừa lên phía bên trái là đồng lúa còn con gái. Trước mặt
cách tôi chừng năm trăm thước là một cái rạch sình lầy xanh um lá dừa nước. Bên
phải có xóm làng với những cái chuồng trâu cao ráo, sát ngay rạch dừa nước. Đất
miền này nhiều phèn lắm, và nhằm mùa nắng vấn đề nước uống là một vấn đề gay
go. Tuy gần sông, nhưng mà vào mùa nắng thì nước mặn. Ở đây chỉ cách Saigon chừng
mười cây số nhưng đã yên tĩnh và dễ chịu hơn Saigon nhiều lắm rồi. Tôi về đây từ
hồi hôm. Dạy học ra muộn cho nên tới đầu cầu giáp giới của làng thì đã thấy
trăng tròn nằm trên đọt cây dừa trên sông rồi. Gió trên cầu mát rượi. Tôi đi
thong thả vào làng. Ở Việt Nam, những làng như thế này là tương đối an có an
ninh lắm. Tôi đã vừa được ngủ một đêm thanh tịnh ở vùng quê. Tuy thỉnh thoảng
tiếng súng trong đêm vẫn nghe rõ mồn một.
Khu vực nhà tôi đang nói cho Steve nghe đây là một thí điểm
làm “làng” của chúng tôi được khởi sự vài tuần lễ sau ngày tôi về tới quê nhà.
Chúng tôi gọi nó là “làng tự nguyện đầu tiên”. Đó là mẫu làng mà chúng ta đã
bàn bạc nhiều với nhau trong lúc rỗi rảnh đó, Steve. Bây giờ nó đã thành sự thực.
Ba tiếng “làng tự nguyện” gợi cho chúng ta hình ảnh một khu làng mà trong đó
dân chúng tự tổ chức lại nếp sống kinh tế, giáo dục và y tế của họ theo xn tiêu
chuẩn phát triển cộng đồng. Họ chấm dứt thái độ tiêu cực và trông chờ, phải có
những người bạn có óc tổ chức, có kiến thức căn bản về sinh hoạt xã hội nông
thôn sống ngay trong xóm làng, làm chất men cho tinh thần tự nguyện phát khởi. Ở
khu làng thí nghiệm này, chúng tôi đã được dân làng chấp nhận như anh em bà con
của họ, cái nhà mà tôi đang ở đây là một cái nhà bốn gian, ba gian là trường học,
một gian là trạm y tế. Tất cả đều do các nông dân trong làng tạo dựng, với sự
có mặt của chúng tôi. Nói cho đúng, chỉ có hai người con trai là Tâm Quang và
Tâm Thái là ở thường trực trong làng, còn tất cả chúng tôi chỉ về thỉnh thoảng
để học hỏi và thực tập. Chúng tôi cũng vừa mới mở một địa điểm thực tập khác,
không xa lắm. Đây là ấp Thảo Điền.
Chắc chắn nếu Steve có ở đây thì Steve sẽ thích lắm. Nhưng mà
Steve chưa thể qua đây được đâu. Hãy học cho xong chương trình mà em đang theo
đuổi đã. Tôi cũng đã suy nghĩ về vấn đề để cho Steve qua đây theo học tại trường
đại học Saigon để tìm hiểu thêm về văn hóa Việt Nam. Nhưng mà sau tôi nghĩ:
Steve phải học xong chương trình ấy trước khi qua. Vấn đề không giản dị như
chúng ta đã bàn với nhau ở Nữu Ước. Sự có mặt một người Mỹ như Steve trong nhóm
chúng tôi hiện bây giờ chưa có lợi gì cho công việc. Và nhận thức của quần chúng
về vấn đề cố nhiên là chưa chín chắn gì cả.
Steve, tôi về tới phi trường Tân Sơn Nhất vào một buổi trưa
nóng bức. Đáng lẽ tôi tới Saigon chậm hơn thế, vì theo lộ trình đã định sẵn,
máy bay của chúng tôi phải ghé Vọng Các trước. Nhưng sương mù không cho phép
máy bay ghé xuống Vọng Các và do đó tôi tới Saigon sớm hơn một tiếng đồng hồ.
Khi bánh xe máy bay chạm đất, tôi thấy lòng rung động. Phương Bối chỉ cách đây
chưa đầy hai trăm cây số! Bốn giờ đồng hồ xe hơi thì tôi có thể trở về. Trở về
với miền rừng núi quen thuộc với chiếc nôi mây êm đềm đã từng che chở cho chúng
tôi trong một thời gian bão táp, đã từng un đúc và nuôi dưỡng chúng tôi trong
bao năm tháng rộng dài.
Sau một thời gian gần ba năm trời sống trong một khung cảnh
khác hẳn với xã hội Việt Nam, tôi đa trở về và đã được thức tỉnh lại một cách đầy
đủ bằng những hình bóng thật quen thuộc, thật giản dị. Dọc theo con đường dài từ
phi trường Tân Sơn Nhất về nhà, tôi chứng kiến lại một cách hiện thực tình trạng
chậm tiến của xứ sở này. Những dãy nhà còn lụp xụp ngỗn ngang, đầy nhóc những
người, những bác xa phu cong lưng đạp xích lô, mồ hôi nhễ nhại. Tôi còn nhớ rõ
cái lưng áo rách toang của một bác xa phu. Bác này uể oải đạp một chiếc xích lô
cũ kỹ không có khách. Chắc chắn là bác đã ngồi trên yên quá lâu nên hai mông của
bác đã đau và mỏi. Bác đang ngồi trên một cái mông để cho mông bên kia được
thong thả, và do đó bác chỉ đạp xe bằng một cái chân trái. Thỉnh thoảng bác mới
thay sang bên kia và đạp xe bằng chân này cho đến khi nào có khách gọi bác mới
phanh lại và ngồi ngay ngắn để đưa khách. Tôi thấy bọn trẻ con ở trần và chạy
chơi chân đất trên hè phố. Tôi trông thấy những đống rác, những xe nước mía, những
chiếc xe gắn máy vừa chạy vừa rú lên như những con vật dữ bị thương. Thành phố
Saigon đây rồi, thành phố Saigon lấm tấm mang thêm một cách vụng về những nhà lầu
những căn phố có đường nét và mầu sắc Mỹ. Dân nông thôn đã đổ xô lên Saigon quá
nhiều. Chắc chắn là vùng quê ít chỗ có được an ninh. Những hình ảnh đó khiến
tôi nao nao. Việt Nam đang ở trong một giai đoạn lịch sử quyết liệt. Không biết
chúng tôi có thể làm được cái gì để đóng góp vào trong cái hướng đi mới của một
dân tộc vừa thoát khỏi một chế độ độc tài hay không.
Steve, ngay tối hôm đó, tôi phải nghe nhiều chuyện buồn rồi.
Ngồi ở chùa Trúc Lâm với mấy mươi người bạn trẻ tuổi, tôi đã lắng tai nghe những
câu chuyện không lấy gì làm vui lắm ấy. Những người quân nhân đã không biết
cách nắm lấy cơ hội và khí thế dâng lên của quần chúng để tạo một sức mạnh đi tới.
Những người tăng sĩ Phật giáo, choáng ngợp bởi thái độ khâm phục và mến chuộng
của quần chúng đối với đạo Phật đã trở nên tự thị tự mãn đáng ghét. Thật là một
hiểm họa cho đạo Phật. Một cuộc pháp nạn thứ hai đang khởi đầu mà ít ai biết đến.
Người trí thức, người thanh niên sau khi khám phá ra tiềm lực đạo Phật trong quần
chúng, đã tìm tới với những vị tăng sĩ, và đã thất vọng… Một số đông đảo những
người có tham vọng, những người theo cơ hội chủ nghĩa, đã đến tràn ngập tự viện
và bao quanh những nhà lãnh đạo Phật giáo. Sự có mặt của họ xung quanh các thầy
đã khiến người trí thức và những người có lòng đặt những câu hỏi. Rồi thì Phật
giáo, chính Phật giáo trong cơ hội ngàn năm một thuở của nó, cũng không biết
tìm cách để tự phát triển và đống góp phần mình vào cho sự tạo nên một nẻo
thoát cho tình trạng đã từng bế tắc trong gần hai mươi năm qua.
Tôi đã ngồi nghe họ rất lâu, Steve. Rồi tôi an ủi họ. Chúng
ta đừng thất vọng. Chúng ta sẽ đóng góp phần của chúng ta. Sức chúng ta bé nhỏ,
nhưng lòng của chúng ta không bé nhỏ. Hãy tự biến mình thành một chút men để dậy
lần lần khối bột to lớn. Chúng tôi đã thức trọn đêm đó, chia xẻ vưói nhau những
lo âu, những hy vọng. Những ngày ở lại Paris tôi đã phải đầu tắt mặt tối với
các bạn bên ấy. Tiếp đó là một chuyến đi mệt nhọc và một đêm thức trọn. Tôi mệt
mỏi quá và đã ngủ suốt một buổi sáng kế tiếp. Đến mười một giờ trưa, tôi mới dậy
để ăn “điểm tâm” do Toàn sửa soạn.
Steve ơi, chiều ngày hôm ấy tôi đi thăm những gốc cây, những
bụi tre của chùa Trúc lâm và nghe Toàn kể chuyện Sen Hái Đầu Mùa và
những hoạt động của các bạn trẻ trong thời tôi vắng mặt. Buổi tối ấy lại có một
cuộc họp mặt thứ hai, và trong cuộc họp mặt này chúng tôi đã tìm ra được một
vài nguyên tắc để làm việc. Sáng hôm sau, tôi một mình tìm về Phương Bối, mang
theo một cái xắc nhỏ. Tôi tìm một chiếc xe Minh Trung ở bến xe đường Pétrus Ký
và thoải mái thoát khỏi Saigon. Những cánh rừng, những vườn cao su, và những
cánh rừng khác nữa. Rồi Định Quán. Rồi núi, rồi đèo, và cuối cùng rừng B’su
Danglu hiện rõ trước mặt Đại Lão Sơn, Đại Lão Sơn quen thuộc đã tới gần.
Tôi bảo xe ngừng ở cây số 190 và ung dung xách túi leo lên ngọn đồi bên trái.
Qua đồn điền Đại Hà, tôi ghé vào. Không có ai ở nhà cả. Đồn điền có vẻ hoang vắng.
Chắc gia đình bác Đại Hà đã để lại một vài người làm công để coi sóc nhà cửa và
vườn tược. Những người này có lẽ là đang ở ngoài vườn. Tôi đưa tay lên miệng hú
vài tiếng nhưng không có ai trả lời cả. Tôi xách túi tiếp tục leo qua chiếc đồi
thứ hai. Lau lách choán cả đường đi. Con đường quen thuộc ngày xưa nay có vẻ
hoang vắng lạ thường. Rừng có vẻ huyền bí hơn và nguy hiểm hơn. Vượt khỏi khu rừng
xanh tôi bắt đầu trèo đến cái dốc cao nhất. Cầu Mai đã xuất hiện nơi giữa rừng.
Vài thân cây bắt ngang qua cầu đã gãy đổ, tôi phải bước cẩn thận. Lạ quá, tôi
nhận ngay ra con đường từ cầu Mai lên Thiền Duyệt Thất. Con đường vẫn đẹp, vẫn
quyến rũ, vẫn đầy đủ phong độ như cách đây ba bốn năm trời. Có dấu tích của sự
phát dọn. Ai đã lên đây trong những ngày như thế này nhỉ. Tôi vừa đi vừa suy
nghĩ. Nhưng kìa, tôi đã đi đến chỗ rẽ vào lối Thiền Duyệt Thất. Tôi nhìn lên
Thiền Duyệt Thất. Và tôi sửng sốt. Một người đang đứng ở cạnh Thiền Duyệt Thất,
tay cầm một cái xà gạc, nhìn xuống phía tôi. Steve biết đó là ai không? Trời
ơi, chính là Nguyên Hưng, Nguyên Hưng bằng xương thịt! Vừa lúc đó thì Nguyên
Hưng cũng kịp nhận ra tôi. Chúng tôi gọi tên nhau. Tôi chạy lên, và Nguyên Hưng
cũng bỏ xà gạc, chạy xuống. Chúng tôi gặp nhau ở giữa sườn đồi, trên con
đường dốc lên thất Thiền Duyệt.
Tôi hỏi Nguyên Hưng: sao Nguyên Hưng lại ở đây? thì ra cái
lúc tôi mới về Saigon, Nguyên Hưng đang ở Đalat. Nghe tin tôi về, Nguyên Hưng
không xuống Saigon mà lại tìm tới Phương Bối vì biết rằng thế nào tôi cũng phải
tìm lên Phương Bối. Mà quả thật Nguyên Hưng đã nghĩ đúng. Dù ai nói Đông nói
Tây, tôi vẫn bất chấp những sự nguy hiểm, và đã tìm về Phương Bối. Chúng tôi đã
thực hiện một cuộc gặp lý thú – tuy là hẹn gặp nhưng kỳ thực thật đã là một sự
bất ngờ đối với tôi. Nguyên Hưng đã nói gì với tôi, Steve có biết không? Nguyên
Hưng bảo rằng từ hôm qua khi về tới Phương Bối, Nguyên Hưng dã tự tay phát dọn
con đường từ cầu Mai lên Phương Bối, cả xung quanh ngôi nhà Phương Bối và Thiền
Duyệt Thất nữa. Nguyên Hưng bảo nếu không làm như thế thì Phương Bối sẽ điêu
tàn quá và sẽ gây xúc động cho lúc tôi trở về. Hảo ý của Nguyên Hưng, tôi trông
thấy rõ. Chính trong giờ phút tôi tới Phương Bối, Nguyên Hưng còn đang phát dọn
xung quanh Thiền Duyệt Thất.
Nhà Thượng đã bị cháy rụi trong một tai nạn gây nên do việc đốt
rừng không cẩn thận của người Thượng. Leo lên đỉnh đồi Thượng, tôi nhìn đống
than và những cái xác cột nám đen nằm ngổn ngang trước mặt với một niềm cảm
thương, than kia là di tích của chiếc nhà Thượng xinh đẹp ngày xưa, nơi chúng
ta trải qua bao giây phút êm đềm, ấm áp. Hòa Bình, chúng ta sẽ làm lại nhà Thượng,
tôi nói với Nguyên Hưng như thế, sau một hồi trầm ngâm, bằng một giọng quả quyết.
Nguyên Hưng có lẽ cũng được an ủi bằng câu nói đó, cho nên gật đầu vui vẻ.
Chúng tôi xuống đồi, đi thăm mọi nơi. Thật ra Phương Bối rất có lòng. Ngày tôi
về, khóm hồng phía trước còn nở cho ba chiếc hoa đỏ chói. Cây mimosa góc nhà đã
lớn và rất xanh tốt. Mấy gốc thông tôi trồng ngày xưa cũng rất xanh và đã lên
cao.
Chúng tôi đi dần về phía rừng Tham Thiền. Tấm bảng có những
chữ “Đại Lão Sơn Phương Bối Am” ở phía trước vẫn còn nguyên vẹn. Nét chữ vẫn rõ
ràng, xương kính. Nước sơn tốt quá, đã năm sáu năm rồi chưa tróc. Tôi cúi nhặt
một trái thông, và thấy phảng phất hương của hoa chiều. Chúng tôi tìm được bụi
hoa, bứt một ôm những cành hoa có bông trắng xóa và đem lên cúng Phật. Bàn Phật
của chúng tôi tang thương quá: lâu ngày không có ai dọn dẹp, bụi đất và lá khô
phủ đầy.
Chúng tôi bẻ một ít cành cây quét dọn cho sạch sẽ và dâng bó
hoa tươi dưới chân Phật mà nét thủy mạc đã phai mờ. Phương Bối am đã để trống
lâu ngay, và tất cả các cửa đều mở để cho những kẻ tò mò ghé qua đây khỏi phải
mất công phá cửa, bẻ khóa. Chúng tôi ngồi yên lặng giờ lâu trên gác tham thiền
trong tư thế cầu nguyện. Rồi chúng tôi trở ra, khép nhẹ cánh cửa. Thời toàn thịnh
của Phương Bối đã qua rồi. Còn đâu với những đêm giao thừa với những đống lữa
vĩ đại trên đỉnh đồi Thượng. Còn đâu những buổi bình văn sang sảng ở nhà Thượng,
những cuộc đàm thoại đầy hứng thú về những vấn đề tâm linh xã hội. Chúng tôi trở
nên yên lặng hơn sau giờ phút tĩnh tâm cúng Phật.
Trên hồ nước, trên vách tường, tôi đọc những câu biểu ngữ viết
bằng than đen. Những câu biểu ngữ chống đối nhau của hai bên. Nguyên Hưng cho
biết rằng một hôm nọ họ bắn nhau dữ dội tại cầu Mai. Những xác chết gần cầu
Mai. Rồi những cuộc hành quân kế tiếp. Chính sau biến cố đó, bác Đại Hà đã di
cư về tỉnh lỵ. Chỉ còn lại, trong ấp chiến lược bên kia trũng một số gia đình
nghèo phải bám lấy mảnh đất đã khai thác.
Nhà Phương Bối xơ xác và hoang lạnh. Các tủ sách của chúng
tôi đã được chở về Đại Hà từ lâu, những bàn ghế và vật dụng khác đều cũng được
chuyển về Đại Hà. Có nhiều nhóm đã vào đốt củi thức đêm trong các phòng. Thôi
nhé, Steve, thôi đừng ấp ủ cái mộng về Phương Bối sống với chúng tôi nữa nhé.
Đúng là thời thịnh vượng của Phương Bối đã qua rồi. Phương Bối giờ đây thương
tích đầy mình, bây giờ đầy tủi thân và cô độc. Những buổi sáng sương mù, những
buổi chiều trong vắt, Phương Bối một mình hoang vắng như một cái tổ chim xác
xơ, những con chim đã bay đi cả rồi. Những con chim tuy có ước mong trở lại
nhưng mưa gió không cho chúng trở lại.
Chúng tôi ngồi nói chuyện với nhau trên hồ nước cho đến chiều.
Phương Bối thật êm ả, dù trong lòng chúng tôi hơi lo. Nguyên Hưng rủ tôi trở lại
Đại Hà trước khi chiều xuống. Chúng tôi chia nhau mấy cái bánh bột nếp mà tôi
mang theo trong túi xách vừa đi xuống đồi vừa ăn. Chúng tôi tìm về Bảo Lộc bằng
xe “lam” và ngủ đêm ở đó để sáng sớm trở về Saigon.
Steve ơi, mấy tháng sau đó vì nhớ Phương Bối quá cho nên
chúng tôi lại tìm lên núi Đại Lão. Lần này chúng tôi lên đông có tới mười người.
Chúng tôi đều bị một toán linh vây bắt. Sau mấy giờ đồng hồ, chúng tôi được thả,
và từ đó, chúng tôi không lên thăm Phương Bối được nữa. Ngồi đây viết cho Steve
tôi biết rằng Phương Bối đang âm thầm và cô quạnh chịu đựng. Những như biết bao
nhiêu làng mạc bao nhiêu núi sông đang âm thầm và cô quạnh chịu đựng. Cuộc chiến
càng ngày càng trở nên ác liệt và không ai không mông ước cho nó chấm dứt càng
sớm càng hay. Chiến tranh gây thương tích khăp nơi trên đất nước và cũng gây
thương tích trong mỗi chúng tôi. Hình ảnh Phương Bối trong lòng chúng tôi cũng
là hình ảnh của một vết thương. Đúng làmột vết thương.
Tôi sẽ ở lại đây cho đến hết ngày, Steve. Hôm nay chủ nhật,
trường học đóng cửa. Ngôi trường của chúng tôi tên là Chim Sơn Ca. Và
trạm y tế gọi là trạm Tình Thương. Lát nữa tôi sẽ vào trong xóm để
tìm hiểu thêm về đất cát ở đây. Buổi chiều thế nào cũng có một số bạn trẻ về
làm việc mà nghiên cứu. Chúng tôi để khá nhiều công phu vào việc nghiên cứu và
thực hiện cải tiến sinh hoạt của những khu làng thí nghiệm này. Chúng tôi phải
tìm ra cho được những phương thức hữu hiệu để thực hiện công cuộc cải tiến sinh
hoạt nông thôn. Tương lai đất nước chúng tôi tùy thuộc vào rất nhiều ở những nỗ
lực hiện tại để cải tiến xã hội nông thôn. Chủ quyền độc lập của xứ sở chúng
tôi như Steve đã biết chỉ có thể đảm bảo khi nào chúng tôi có thể đứng vững
trên hai chân của chúng tôi. Như vậy có nghĩa là chúng tôi phải tiến tới một nền
kinh tế độc lập vững chãi. Nếu Steve ở đây, Steve sẽ nhận thấy rằng xứ sở của
chúng tôi không nghèo. Xứ sở chúng tôi có nhiều tài nguyên chưa khai thác được.
Đi thăm miền đồng bằng rồi lên thăm miền cao nguyên. Steve sẽ thấy điều đó là
đúng. Chúng tôi phải cải tiến nông nghiệp, nhất định phải đặt nhiều rất nhiều cố
gắng ở công cuộc cải tiến nông nghiệp vì nền kỹ nghệ mới phát triển của chúng
tôi đang cần đến sự phát triển nông nghiệp. Nông dân cần cung cấp nguyên liệu
cho các ngành kỹ nghệ và cũng cần tiêu thụ những sản phẩm của các ngành kỹ nghệ
ấy một cách rộng rãi. Có như thế các ngành kỹ nghệ mới được nuôi dưỡng và phát
triển trong những bước đầu còn non yếu của mình và quốc gia mới khỏi phải tốn một
số ngoại tệ nhập cảng những hóa phẩm để thêm vốn đầu tư vào các ngành kỹ nghệ
đang cần được phát triển. Như thế, nông nghiệp cần được hướng dẫn để tự cải tiến
về phương diện kỹ thuật lẫn thị trường. Mà sự cải tiến nông nghiệp lại có liên
hệ mật thiết đến những vấn đề y tế, giáo dục và tổ chức. Cho nên một cuộc cải
tiến toàn diện cần được thực hiện trên ý thức cộng tác của toàn dân. Steve cũng
biết rằng trong hàng chục năm qua, người dân đã nghe quá nhiều những hứahẹn cải
tiến xã hội nhưng nếp sống cơ cực vẫn hoàn cơ cực. Thêm vào đó, chiến tranh làm
cho ruộng vườn hư nát, làm cho cơ nghiệp sụp đổ, làm cho an ninh bị đe dọa. Viện
trợ của Hoa Kỳ đủ sức giữ cho nền kinh tế ấy không sụp đổ, nhưng viện trợ ấy
càng làm cho Việt Nam phải bám víu vào Hoa Kỳ hơn lên. Chiến tranh đã phá hủy
nhiều thứ và không để cho Việt Nam gượng lại để đứng vững trên hai chân kinh tế
của mình.
Steve hẳn còn nhớ những lúc chúng ta bàn luận về vấn đề cảm
thông giữa người Á Đông và Tây Phương. Chính tôi lắm khi cũng cảm thấy khó khăn
khi dùng những phương tiện diễn đạt tư tưởng và tình cảm với Steve. Người Pháp
đã ở với người Việt vần một trăm năm. Đã có trường Ecole Francaise d’Extrême-Orient
đã hiểu tông chỉ, tính tình người Việt thế mà vẫn không hiểu người Việt mấy tí;
thế thì người Hoa Kỳ trong một thời gian ngắn làm sao hơn được. Cứ tin vào
thông kê, cứ tin vào dự án, cứ tin vào phương pháp toán học quá. Những thứ đó
áp dụng ở cái xứ này không thành công, hoặc chưa thành công đâu, Steve ơi. Tôi
về làng, làm việc ở làng lâu rồi tôi biết. Phương pháp làm việc ở đây chắc chắn
phải là những phương pháp khác hẳn với những điều người ta học được ở một đại học
đường ở Tây Phương. Cho nên giấy tờ, thống kê, dự án đã có thể, trong rất nhiều
trường hợp, là những mảnh giấy giúp người ta hợp thức hóa cách tiêu tiền bất hợp
pháp. Các ông bộ trưởng, các ông giám đốc cho đến những nhân viên thừa hành của
một cái chính quyền chỉ lo kiếm tiền, đều đã làm như thế, và đã khinh thường đến
nỗi có một vài đỗ vỡ và bại lộ.
Tôi xấu hổ về một số những người đồng bào tôi khi tôi kể cho
Steve nghe điều đó. Nhưng mà tôi phải kể, bởi vì tôi phải giải nghĩa cho Steve
nghe tại sao phải bắt đầu trở lại các công việc mà ông Diệm đã hô hào và đã bắt
đầu nhiều năm trước. Người dân quê đã bị đánh lừa nhiều lần khiến họ không còn
tin tưởng ở một lời hứa hẹn đường mật nào nữa. Họ đã bị lợi dụng. Và họ đã sợ
hãi phần đông những người cán bộ mà họ tiếp nhận từ trung ương: Những người này
thực chỉ vì một số lương bổng mà trở thành “chiến sĩ - xã hội”. Họ ăn mặc chững
chạc, về nông thôn hoặc các “ấp chiến lược” và ở lại đó mấy giờ rồi rút lui.
Trong khi ở lại, họ chẳng làm được việc gì đáng kể. Họ chỉ tuyên truyền qua loa
chính quyền, và được đào tạo cấp bách, non nớt, không hiểu được tâm lý quần
chúng, không có tâm niệm phụng sự, họ nói và làm những điều phật ý nông dân. Họ
hống hách khó chịu. Họ đi nghênh ngang dùng súng để bắn chim để dọa nạt và cũng
để dân chúng sợ giật nẩy mình.
Thế rồi họ rút lui, để lại ấn tượng không tốt trong lòng thôn dã. Họ rút lui bởi vì họ đâu dám ở đêm ở những vùng nông thôn. Mấy ông cán bộ phía trong thì khôn ngoan hơn nhiều. Họ ăn mặc đồ đen giống hệt nông dân. Họ “tam cùng” với nông dân khi họ về một nhà địa phương nào đó. Họ có thể ẳm con, quét tước, rửa bát hay ra đồng gặt lúa với nông dân. Tối đến họ ngủ lại, và chuyện trò. Những cán bộ nhân vị làm sao ăn đứt được họ, hả Steve? Đó là một trong nguyên do cho ta thấy rằng tại sao chính quyền ông Ngô Đình Diệm càng ngày càng bị thua lực lượng mặt trận giải phóng. Những “cán bộ” “nhân vị” làm sao ăn đứt được họ, hả Steve.
Thế rồi họ rút lui, để lại ấn tượng không tốt trong lòng thôn dã. Họ rút lui bởi vì họ đâu dám ở đêm ở những vùng nông thôn. Mấy ông cán bộ phía trong thì khôn ngoan hơn nhiều. Họ ăn mặc đồ đen giống hệt nông dân. Họ “tam cùng” với nông dân khi họ về một nhà địa phương nào đó. Họ có thể ẳm con, quét tước, rửa bát hay ra đồng gặt lúa với nông dân. Tối đến họ ngủ lại, và chuyện trò. Những cán bộ nhân vị làm sao ăn đứt được họ, hả Steve? Đó là một trong nguyên do cho ta thấy rằng tại sao chính quyền ông Ngô Đình Diệm càng ngày càng bị thua lực lượng mặt trận giải phóng. Những “cán bộ” “nhân vị” làm sao ăn đứt được họ, hả Steve.
Chắc Steve đã nghe nói đến nhiều lần về những ấp chiến lược.
Những ông cố vấn từ Hoa Kỳ sang xem bộ tin tưởng ở chúng lắm. Nhưng mà những ấp
chiến lược chỉ đẹp đẽ và hữu hiệu trong lý thuyết. Trên thực tế, chúng hư nát hết.
Lý do là người ta đã xây dựng chúng bằng tiền bạc và bằng bạo lực. Người Mỹ đã
tin tưởng quá ở mãnh lực đồng tiền và chính phủ của ông Diệm, đã tin tưởng quá ở
sức mạnh bạo lực. Thành trì của những ấp chiến lược, không được xây dựng bằng sự
tự nguyện và bằng cộng tác, đã tan rã như những cánh bèo. Steve nên biết rằng ấp
chiến lược lập ra, trên lý thuyết, là để tập trung dân chúng lại thành từng
vùng có kiểm soát có phòng thủ để ngăn ngừa sự xâm nhập và tác động của những
người bên kia. Những vùng nào khả nghi thì bị giải tỏa trước. Có những vùng được
giải tỏa một cách đột ngột để dân chúng không thể đem ra theo bất cứ một thứ
tài liệu nào. Một buổi sáng nào đó, người ta biết gọi tất cả dân chúng, già trẻ
trai gái, ra hết ngoài khu vực “ấp chiến lược” trong đó họ sẽ có đất cất nhà mới,
vật cất nhà mới, để trồng trọt và luôn cả tiền bạc để sinh sống cho đến lúc có
thể tự túc được. Rồi người ta phóng hỏa đốt trọn khu ấy. Đốt như thế để mà tiêu
hủy tất cả những thứ nguy hiểm mà ta nghĩ là có thể có rất nhiều trong khu xóm.
Dân đau xót và phẫn uất. Steve phải biết: nhà nào cũng có những kỹ niệm tuy đơn
sơ nhưng rất thân thiết. Như cái bát hương, cái bài vị, mồ mã của người thân,
hoặc những tờ di chúc hãy kỷ niệm vui buồn khác. Tiền bạc đâu có thể thay thế
cho những thứ ấy? Họ thất thểu ra đi tới khu đất mới và ở đó, họ được hướng dẫn
bởi những người cán bộ của chính quyền để “làm lại cuộc đời”. Họ nhận đôi chút
tiền bạc và sống nhục nhã dưới sự hống hách của bạo lực.
Mà nào họ đã được yên thân trong “ấp chiến lược”. Những người
bên kia, mà bên này gọi là Việt Cộng, đâu có vì thế mà bị gạt ra ngoài. Họ có
mang cái huy hiệu hay cái đồng phục nào đâu để chúng ta nhận ra họ. Thế là họ
cũng vào ấp, sống lẫn lộn. Và một buổi sáng nào đó, người ta có thể thấy, trong
phòng họp của ấp một trái mìn, một trái mìn bằng gỗ thôi, một trái mìn giả, có
mang dấu hiệu Việt Cộng. Thế là cái hàng rào kẽm gia xung quanh ấp trở thành vô
nghĩa. Trái mìn kia nói thay cho một lời dọa nạt: Có chúng tôi đây, các anh liệu
hồn. Giả sử trái mìn thật thì các anh nghĩ sao?
Vậy là tinh thần phòng thủ của ấp đã lung lay. Một trận giặc
mà không có trận tuyến như thế, làm sao có thể đánh bằng súng đạn không mà được?
Ấp chiến lược, như Steve thấy, nhắm tới một mục tiêu quân sự
và chính trị chứ không nhắm tới mục tiêu xã hội. Chính vì thế mà những tuyên
truyền về cách mạng xã hội đều không được ai nghe theo. Chúng tôi thấy rõ điều
đó và đã quyết định với nhau rằng một phong trào dựng lại xứ sở cần được đặt
trên một căn bản hoàn toàn khác biệt. chúng tôi muốn mở một mặt trận chống lại
nghèo đói, ngu dốt, bịnh tật và vô tổ chức.
Chúng tôi hiện có hai làng thí điểm tại miền Nam, hai làng tại
miền Trung - một tại Khánh Hòa, một tại Thừa Thiên. Chúng tôi, trong thời gian
đầu cũng bị người dân nhìn với những cặp mắt lạnh lùng. Thái độ họ là thái độ
khép kín, nghi ngờ. Dù anh tuyên truyền gì cũng vô ích. Họ lạnh và cứng như một
tảng thép nguội. Đó là hậu quả của những công trình “cách mệnh xã hội” đi trước.
Chúng tôi hết sức kiên nhẫn, khiêm cung và cẩn trọng. Sau một thời gian, thái độ
đó thay đổi. Đến lúc mà họ nở một nụ cười vồn vã, mình thấy ấm áp cả tâm hồn. Họ
trở thành cởi mở, sốt sắng. Họ hưởng ứng và tham dự vào các dự án một cách chân
thành. Được họ chấp nhận, mình thấy như con đường đi tới thành công được rút ngắn
lại một phần trăm. Mà Steve ạ, chính lúc cộng tác với họ để thực hiện các dự án
cải tiến sinh hoạt, ta mới thấy được khả năng và tiềm lực của xã hội nông thôn
trong công cuộc tạo dựng một đời sống tiến bộ.
Xã hội chúng tôi đã bị phân hóa quá, bởi vì chiến tranh đã
tàn phá đức tin, tàn phá hy vọng, tàn phá mọi công trình kiến thiết lâu dài.
Ngày nay quần chúng nghi ngờ mọi thiện chí, mọi hứa hẹn. Chúng tôi nhận thấy
ngoài chất liệu tôn giáo, không còn có chất liệu nào có thể tạo dựng được đoàn
kết tính và xã hội tính. Cho nên phải xử dụng cho được tiềm lực tôn giáo để thực
hiện những sự chuyên đổi lớn. Đạo Phật có thể đóng góp nhiều vào việc này.
Nhưng mà chưa thể nương tựa vào những người có trách nhiệm lãnh đạo các giáo hội
đâu. Họ có bảo thủ tư kiến nhiều quá và khó chuyển hóa quá. Dự án tôi đề nghị với
Viện Hóa Đạo về kế hoạch xã hội hóa đạo Phật đã không được chú ý. Hiện giờ nó vẫn
còn nằm trong hồ sơ của Viện Hóa Đạo. Chúng tôi phải bắt đầu từ chỗ tự lực để
tranh thủ một sự chấp nhận sau nầy của quần chúng và của giáo hội nữa. Của quần
chúng trước, đó là điều dĩ nhiên. Ở Âu Châu và ở Hiệp Chủng Quốc, hiện tượng đó
không lạ gì. Chúng tôi đã làm xong một dự án về một tổ chức đào tạo những “Làng
tự nguyện”. Những người này sẽ được huấn luyện kỹ lưỡng, có đủ kiến thức về xã
hội về tôn giáo và nhất là về phương pháp thực hiện các dự án chống nghèo đói,
bệnh tật, ngu dốt và vô tổ chức. Họ sẽ hành động không vì lương bổng, quyền
hành mà vì tình thương ý thức và trách nhiệm và ý thức tự nguyện. Họ sẽ là những
người thanh niên cũng như Steve, cũng như Nguyên Hưng vậy, có đức tin, có chí
nguyện biết khinh thường nếp sống trưởng giả và cầu an, biết tìm hạnh phúc
trong phụng sự. Chỉ với chất liệu tâm lý do chí nguyện đó, họ mới có thể thành
công. Mà những người trai trẻ như thế, Steve, không hiếm ở đất nước này đâu.
Tôi dám chắc với Steve là có hàng vạn hay hàng chục vạn. Tôi đã gần gũi họ
trong những ngày gần đây, và đã thấy trong mắt họ sáng lên trong niềm tin mới.
Chỉ trong mấy tháng nữa chúng tôi khai giảng trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội,
và ngôi trường này sẽ là một trường chuyên nghiệp thông thuộc một viện đại học
trẻ trung vừa mới thành lập. Ban giảng huấn của trường gồm toàn những người trẻ
tuổi, tất cả đều nao nức về công việc sắp thực hiện. Chúng tôi không có tiền bạc,
nhưng chúng tôi đã có kế hoạch và rất nhiều thiện chí, Steve có nghe không?
Chương 11
STEVE, tôi xúc động quá khi nghe tin Cerbu tiên sinh qua
đưòi. Điện tín của Steve khiến tôi bàng hoàng. Tôi không ngờ chúng ta lại mất
người bạn thân đó một cách dễ dàng đến thế. Hôm rời Nữu Ước, vì vội vàng quá,
tôi chỉ nói được lời từ giã với Anton qua điện thoại. Anton ân cần dặn tói nếu
công việc xong xuối thì trở qua lại để lo thực hiện những điều chúng tôi đã bàn
tính với nhau nhiều lần. Tôi đã nói cho Steve nghe về dự định đó, dự định mà
Steve không tán thành cho lắm ấy: đó là việc tôi ở lại để cộng tác với các bạn
mở một phân ban về văn minh và ngôn ngữ Việt Nam. Tôi cũng ưa việc làm ấy lắm bởi
vì đó cũng là một cách làm việc cho xứ sở tôi. Đã có những phân ban về Nhật Bản,
Trung Hoa và Triều Tiên nhưng về Việt Nam thì chưa có gì. Mà Việt Nam thì hiện
giờ đang là một đối tượng nghiên cứu, một vấn đề nóng bỏng. Tôi nhớ lại ánh mắt
sáng ngời và thái độ sốt sắng của Anton khi bàn tính về dự án ấy. Nhưng bây giờ
thì hết rồi, bởi vì Anton đã học ở trường Đông Phương Ngữ ở Ba lê và đọc được
tiếng Việt. Tôi đã yêu cái vẻ trẻ con dung dị của Anton nhiều quá. Ngồi đây viết
cho Steve tôi còn hình dung được toàn thể con người của Anton một cách rõ rệt.
Anton mất đi, để lại bao công trình dang dở. Tôi biết Anton còn có bao nhiêu
tài liệu, bao nhiêu bản thảo. Không biết bạn nào sẽ lo liệu về tất cả những thứ
đó. Hoặc để giữ gìn, hoặc để công bố. Những ngày cuối tháng Décembre, Anton đã
khuyên tôi nên ở lại. Anton nói rằng thời thế ở Saigon chưa dung được tôi đâu.
Tôi đã lưỡng lự rất nhiều, nhưng cuối cùng tiếng gọi của Phương Bối, của Nguyên
Hưng và của các bạn trẻ bên này đã thắng. Thật ra tôi không lo lắng gì cho bệnh
tình của Anton bởi vì sau ngày giải phẫu Anton vẫn có thể đàm luận cùng tôi với
một sự nhiệt thành ít thấy. Tôi phải ngăn không cho Anton nói nhiều. Chính
Anton mượn tôi cuốn Việt Nam Cổ Văn Học Sử của Nguyễn Đổng Chi vào dịp ấy. Hôm
nói lời từ giã bằng điện thoại tôi có hứa “vài năm nữa” tôi qua lại. Thế nhưng
người bạn của chúng ta hôm nay đã thành người thiên cổ rồi. Tôi biết Steve yêu
Anton lắm, và các bạn của Steve cũng vậy. Hôm Anton vào nhà thương để giải phẫu
đã có tới gần mười cô cậu tình nguyện hiến máu cho giáo sư của mình, có phải thế
không?
Mùa xuân đã sắp đến bên ấy rồi tại sao Anton lại vội vàng
không đợi nụ hoa đầu hé cánh? Có lẽ mùa Đông đã dài quá. Trong năm qua, biết
bao nhiêu biến cố đã xảy ra cho chúng ta. Tôi nghĩ đến Steve và có thể tưởng tượng
được nét mặt của cậu sáng hôm qua lúc nhận điện thoại của người nhà Cerbu báo
tin Anton mất. Cuộc giãi phẫu như thế; đã không được thành công. Chắc chắn tất
cả mọi người trong phân khoa đều hàng hoàng vì tin ấy. Và thế nào Mirriam cũng
viết cho tôi.
Tuy giáo sư Cerbu mất, tôi vẫn tin rằng Steve sẽ iếp tục đi
theo con đường đã vạch. Steve hãy tiếp tục học Phạn Ngữ và Hán Ngữ đi. Có ngày
chúng ta sẽ làm việc chung. Như Steve đã ước muốn. Tôi không muốn cậu nản chí
vì thiếu người nương tựa. Dù sao thì tôi cũng vẫn còn đây, và tôi hứa sẽ viết đều
cho Steve.
Tôi muốn hỏi Steve một việc: lâu nay cậu ăn ở đâu, ai nấu cho
mà ăn? Bên này thỉnh thoảng chúng tôi vẫn tự nấu bếp lấy đấy. Thỉnh thoảng mà
thôi; bởi vì chúng tôi bận rộn quá đi mất. Nguyên Hưng và tôi bây giờ ở chung
và ăn chung với nhau; Nguyên Hưng nấu bếp cũng tài và có Nguyên Hưng bỗng nhiên
tôi sinh ra ỷ lại và làm biếng nữa Steve ạ. Điều đó tôi biết mà tôi cứ để mặc kệ
cho nó xảy ra. Chừng nào Nguyên Hưng nhăn mặt, chừng ấy hãy hay có phải không?
Nguyên Hưng bây giờ thành người lớn thực sự rồi, nhưng mà vẫn còn bông đùa như
hồi còn bé. Thực ra nếu không có tiếng cười nói và bông đùa đó trong những giờ
nghỉ ngơi và giải trí có lẽ chúng tôi sẽ thấy thiếu thốn lắm. Steve không biết
điều kiện làm việc ở đây khó khăn đến mực nào đâu.
Một vài con chim Phương Bối ngày xưa đã quy tụ về đây và làm
việc với nhau, sinh hoạt với nhau. Chúng tôi hiện có Hưng, có Phú, có Mẫn. Và
tôi nữa là bốn. Lý cũng ở gần chúng tôi, nhưng mà Lý bận rộn lắm. Lo một tờ nhật
báo thì còn thì giờ đâu để mà làm những việc khác nữa. Cái ông chủ báo này vẫn
mặc đồ bà ba (nó giống như bộ đồ tôi mặc trong nhà ấy) màu đen hay màu nâu như
thời ở Phương Bối. Thỉnh thoảng Lý tạt vào thăm chúng tôi để hút chưa cháy xong
nửa điếu thuốc thì đã vội vã từ biệt. Tờ báo của Lý đã bị đóng cửa một tuần lễ
rồi đấy, mà Lý vẫn còn cứng đầu cứng cổ như thường. Trong cái không khí chính
trị này, chắc tờ báo chẳng sống được lâu đâu. Tuy nhiên hình như tờ báo có độc
giả. Thỉnh thoảng Lý hỏi tôi có “nghèo” lắm không. Tôi nói: nghèo lắm thì cũng
chưa phải là nghèo. Nghèo mấy thì cũng còn có ánh trăng bên cửa sổ, khi điện
thành phố bị cúp. Đó là lời nói theo cửa thơ “bài cú” của thi sĩ Ba Tiêu. Lý cười
ha hả và móc túi đưa cho tôi năm bảy trăm đồng, nói rằng trả tiền cái truyện ngắn
đăng trên báo của Lý. Tôi không nhớ là Lý đã đăng truyện gì của tôi, nhưng mà
tôi cứ nhận tiền của Lý như thường.
Để tôi nói cho Steve nghe về chỗ ở của chúng tôi. Chúng tôi
hiện ở tạm nơi Đại học Vạn Hạnh. Cái đại học có cái đặc biệt là trong một vùng
nghèo bùn lầy nước đọng của thành phố Saigon hai triệu rưỡi dân, cái thành phố,
mà đã có người gọi là “hòn ngọc Viễn đông” ấy. Đại học Vạn Hạnh đang còn mới lắm,
chưa có cơ sở gì nên phải mượn tạm một số những ngôi chùa trong đô thành. Phòng
của tôi nằm trên từng gác của cư xá chùa Pháp Hội, trung tâm của Vạn Hạnh. Thật
là một cái trường đại học kỳ lạ bởi vì nó không có vẻ oai vệ của một trường đại
học tí nào cả. Trời mưa anh phải lội qua mấy vũng nước mới tới được đại học. Và
hai bên đường anh đi bà con trong xóm nghèo họp chợ, bán đủ các thứ, từ cá khô,
cá tươi, cho đến khoai lang, rau muống. Cái chỗ ông viện trưởng ở và làm việc
chỉ vỏn vẹn có ba căn phòng nhỏ xíu. Chẳng bì được với “tòa Viện trưởng” ở đại
học Huế. Tuy vậy mà tiện đáo để đấy Steve ạ. Buổi sáng chúng tôi chỉ việc bước
ra đường là có thể mua thức ăn điểm tâm được rồi, khỏi phải làm bếp lôi thôi.
Hoặc và vài ba đồng bạc xôi đỗ, gói trong lá chuối đem về sớt lại trong một chiếc
đĩa lớn. Thêm hai đôi đũa nữa. Thế là xong. Hoặc là mấy đồng bạc khoai lang hay
khoai từ mới luộc xong, đang còn nóng hỏi. Còn trà thì người lao công của Viện
sáng nào cũng cho chúng tôi một bình trà khá lớn. Người lao công giữ các chìa
khóa của trường đại học cho nên hôm nào sáng anh cũng đến thật sớm và tối nào
anh cũng về sau tất cả mọi người.
Ở dây chúng tôi dậy thật sớm, chứ không phải như ở Nữu Ước
đâu nhé. Bên đó thiên hạ đi ngủ thật khuya và chỉ thức dậy khi chỉ bắt buộc.
Còn ở đây, vì chúng tôi ở sát bên chùa nên chúng tôi thức dậy với tiếng đại hồng
chung buổi sáng và tiếng tụng kinh của các thầy bên chùa. Khi trời tờ mờ sáng
là tôi mở cửa sổ phòng tôi. Cửa sổ trong ra phía ngoài đường. Ánh điện đường
nơi ngõ hẻm chùa Pháp Hội vàng vọt và yếu đuối. Chợ chưa đông, nhưng đã có mấy
hàng dọn ra rồi. Đặc biệt, dưới cột đèn và sát thành chùa, là hàng của bà bán hủ
tiếu. Hủ tiếu, tức là một thức ăn giống như phở mà tôi đã nói cho Steve
nghe một lần. Hủ tiếu giống như phở, nhưng khác phở ở chỗ nó có thêm giá tươi.
Hủ tiếu có đặc tính miền Nam hơn phở và có lẽ chịu ảnh hưởng Trung Hoa hơn phở.
Gánh hủ tiếu tôi đang nói chuyện với Steve đây chắc hẳn đã được chuẩn bị từ tối
hôm qua. Khuya vào khoảng ba giờ sáng, bà Tư (tôi tạm gọi bà bán hủ tiếu này là
bà Tư, bởi vì tôi không biết tên bà) đã phải thức dậy để nấu hoặc để hâm nồi nước
dùng trước khi gánh hàng tới đây. Nước dùng phải thật nóng vì vậy bà phải đặt
nó trong một cái lò than để gánh đi để giữ sức nóng. Bà chỉ mở nắp nồi mỗi khi
múc nước dùng đổ vào bát mà thôi.
Ngồi phía trên nhìn xuống, tôi ngắm cách bà Tư làm hủ tiếu
cho khách và kỳ lạ lắm Steve, sáng nào tôi cũng ngồi ngắm bà như vậy chừng năm
bảy phút và lòng tôi thấy êm ả. Khách của bà khi thì anh bảy phía bên kia đường,
ưa ăn hủ tiếu trước khi đi làm hơn là ăn bánh mì nhúng cà phê sữa; có khi thì
là chị bán bắp không muốn ăn điểm tâm bằng một vài trái bắp; có khi là mấy em
nhỏ ở trong xóm được mẹ hay chị đưa đến ăn trước khi đi học; có khi thì là bà nội
trợ đi chợ trước khi mua thức ăn bỏ vào làn mây đem về, ghé lại ăn một bát hủ
tiếu cho ấm bụng đã. Ở chợ hẽm Pháp Hội, có nhiều hàng quà chen lẫn trong các
hàng bán thức ăn còn sống. Các bạn hàng bán quà thường mua lẫn quà của nhau mà
ăn. Không ai ăn quà của chính mình bán, bởi vì không ai thấy quà hàng mình bán
là ngon cả, Steve có nghe ra không?
Khách tới ngồi trên một chiếc đòn thấp trước cái mâm gỗ rộng
chừng mười thước tây mà bà Tư dựng lại bên bờ tường mỗi khi bà bán xong gánh
hàng. Cái mâm gỗ quá cũ và xấu xí quá nên có lẽ không ai thèm lấy cắp. Hoặc giả
bà Tư đã gửi gắm cái mâm kia cho chú Liu chủ tiệm thuốc bắc gần đó,
nhờ chú can thiệp khi có kẻ muốn chiếm đoạt nó cũng nên. Chỉ biết rằng là cái
mâm để dựng bờ tường kia trải qua mưa nắng bốn mùa mà vẫn còn đó. Khách ngồi xuống
trước cái mâm và đưa tiền cho bà Tư. Tùy theo số tiền mà bát hủ tiếu sẽ to hay
nhỏ. Bà Tư bán giá rất bình dân. Một đồng bạc Việt Nam là đã có thể mua một
chén hủ tiếu rồi, thứ chén con các gia đình thường dùng để ăn cơm. Có thể mua
ba, hoặc năm đồng. Có thể ăn hai ba bát một lúc nếu thấy ngon miệng. Bà Tư đặt
rau sống, giá và bánh phở vào bát bằng tay rồi dùng “vá” múc nước dùng đổ vào.
Tay trái bà mở nắp nồi. Hơi nóng bốc lên. Tay phải bà cầm cái “vá” của bà khá lớn.
Vá thứ nhất chỉ thuần có nước dùng mà không có tí thịt nào. Khi múc vá thứ hai
bà lựa tay khéo thế nào mà để trong vá hai miếng thịt nhỏ, một miếng chìm một
miếng nổi. Dù cái chén hủ tiếu là chén một đồng bà cũng cho được một miếng thịt
nhỏ xíu vào chén. Có khi hai ba miếng thịt trôi vào vá một lần; bà liền nghiêng
vá và giật tay một tí để những miếng thịt kia rơi bớt lại trong nồi. Tôi nhớ hồi
còn ở tu viện, có khi nấu canh cho gần một trăm tu sĩ ở trong chùa, tôi cũng phải
tính toán khi múc canh để có thể múc thế nào cho phải. Tôi phải múc cho được
năm mươi bát canh từ trong cái nồi canh bằng đồng to tướng kia, múc thế nào cho
đủ năm mươi bát mà bát nào cũng có thể “trông được” nghĩa là có đủ rau, đủ nấm
và đủ nước. Thế nhưng kỳ nào tôi cũng chật vật, bởi vì mỗi lần lại phải nấu một
thứ canh khác nhau. Có khi là canh mít non; tôi nấu thứ canh này giỏi nhất. Có
khi là canh rau lang nấu nấm. Ở Huế nấm mối được xem là ngon nhất bởi vì nấm mối
ở Huế nấu canh rất ngọt. Có một lần rau lang ít quá nhưng có nấm mối ngon, tôi
liền nấu một nồi canh lộn chỉ có ít nấm ít rau và hai trái cà chua nhỏ xíu. Bửa
đó, canh chỉ lỏng bỏng toàn nước, cà chua cũng tan thành nước; trong mỗi bát
canh chỉ có vài cọng ra còn nấm thì biến đâu hết. Không phải là tôi ăn vụng nấm
đâu nghe; đó là tại vì nấm cũng ít cho nên năm bảy bát canh mới có một bát may
mắn có được một tai nấm. Thế nhưng bữa đó mọi người đều khen là canh ngọt. Chắc
là nhờ nấm mối rồi.
Khi múc nước dùng đổ vào bát xong. Bà Tư liền dốc bình nước mắm
vài ba lần trên bát hủ tiếu. Rồi đặt bình nước mắm xuống, bà lấy hai ngón tay
nhón vài cánh rau thơm bày lên trên mặt hủ tiếu rồi đặt bát hủ tiếu xuống mâm,
trước mắt người khách. Bà rút một đôi đũa đưa vào chiếc khăn máng từ đầu gióng,
lau sơ qua, rồi trao tận tay cho khách hàng. Những bát đũa khăch ăn xong, bà
đem rửa trong một cái chậu nước mang theo, lau khô và úp vào chiếc rổ kế bên để
dành cho khách hàng sẽ tới. Nắng lên, chiếu vào hẻm nhỏ. Khi tôi rảnh việc buổi
sáng, tới nhìn ra chợ thì bà Tư đã dọn hàng về rồi. Gánh hủ tiếu ngày nào cũng
bán hết sớm. Chỉ có một lần tôi được thắy bà dọn hàng về. Đó là vào khoảng tám
giờ rưỡi sáng. Bà Tư quét mọi thứ sạch sẽ, trả cái mâm và mấy cái đòn nhỏ vào bức
thành, rồi gánh không đi về. Nhiều hàng khác còn ở lại cho đến mười giờ hay mười
một giờ mới giải tán.
Tôi giả định bà Tư có một vài đứa con đi học. Bà phải nuôi
chúng, phải sắm giấy bút cùng là trả tiền trường cho chúng. Đó là không kể những
vấn đề riêng và đặc biệt thuộc mỗi gia đình. Gánh hủ tiếu buổi sáng không biết
có đủ tiền lời để mà lo từng đó chuyện? Buổi chiều không biết bà Tư có làm lụng
gì thêm không. Chớ tôi biết rằng bà còn phải lo cho gánh hàng buổi sáng mai
ngay từ tối hôm đó. Cái ngõ hẻm Pháp Hội một ngày kia sẽ thiếu thốn buồn tẻ nếu
không có bà Tư với gánh hủ tiếu của bà. Mà chắc chắn những chị hàng rau, hàng
cá, hàng thịt cũng đều quan trọng như bà Tư hủ tiếu, không khác. Độ sau này có
chị hàng vải và anh chàng bán nồi niêu soong chảo bằng nhôm tới bầy ngay hàng
trước cửa đại học Vạn Hạnh mà bán. Nhất là anh hàng nồi. Ảnh bày hàng trên một
khoảng đất rộng có đến tám thước vuông. Hàng của anh phản chiếu ánh mặt trời
sáng choang. Có khi ảnh bày thêm một hàng dài các thứ dao lớn nhỏ cần dùng cho
việc nội trợ. Nhìn mà ngán. Cái xe hơi nhỏ của Vạn Hạnh có khi mắc kẹt không
vào cái cổng được và bác tài phải mở cửa năn nỉ anh hàng nồi thu bớt phạm vi
bày hàng lại. Nói cho đúùng các bạn hàng rất tỏ vẻ hiểu biết. Mỗi khi có xe hơi
của trường vào, họ tự động thu vén để cho cái xe có đủ chỗ mà lưu thông.
Trước đây nửa năm tôi cũng có chút trách nhiệm với Vạn Hạnh.
Ông Tổng Thư ký nói với tôi: “Cái chợ hẽm này làm mất “uy tín” của đại học Vạn
Hạnh quá. Hay là thầy để tôi thu xếp. Tôi chỉ gọi một cú điện thoại thôi là
chúng ta dẹp được chợ. Bởi vì chợ họp bất hợp pháp. Rồi ta sẽ xin Công chánh
năm bảy xe đất đá để lấp các hố nước là cho lối đi vào trường có vẻ nghiêm chỉnh
thêm ra”. Ông ta nói với tôi vài lần như vậy, nhưng lần nào tôi cũng mỉm cười từ
chối. Rồi tôi khuyên ông đừng nên làm cái chuyện thất đức và thất nhân tâm đó.
Cái Viện Đại học của ông làm lợi cho văn hóa dân tộc đâu thì chưa thấy mà nếu
làm như thế thì đã có thể gây thất nghiệp cho gần một trăm người tiểu thương và
chuốc lấy sự oán ghét của cả xóm lao động. Tôi nghĩ tới bà Tư hủ tiếu và tôi biết
là chẳng bao giờ ông Tổng Thư ký có thể thuyết phục được tôi về sự cần thiết của
cái “thể diện” của trường. Tôi muốn kể cho Steve nghe cái hôm chúng tôi vừa tiếp
tân các giới trí thức văn hóa Saigon và trong các ngoại giao đoàn. Trường lúc ấy
cũng đang còn thiếu thốn nhiều quá cho nên ông Tổng Thư ký phải đi vay mượn nhiều
ghế dựa bọc vải tại những tiệm mộc quen biết. Chúng tôi điều đình với bạn hàng
trước đó một hôm. Là sáng mai xin đừng họp chợ ngay trước cửa Pháp Hội. Sáng
hôm tiếp tân trời mưa và các ông khách quý phải rón rén từng bước từ ngoài đường
đi vào ngang qua hẻm tránh các vũng bùn. Trong lời chào mừng, tôi có xin lỗi
quan khách về những vũng nước bùn đó. Ai cũng cười hoan hỉ. Ông Tổng Thư ký,
sau đó, thì thầm với tôi: “thì ra thầy muốn lấp những vũng bùn đó mà không cần
những xe ủi đất và đá của bộ Công chánh:. Tôi nói: “tôi chỉ lấp ‘tạm’ mà thôi,
bác phải lấp chúng thật sự chứ lại”. Ông ta cười.
Cái đường hẻm Pháp Hội vậy mà vui như Tết đó Steve. Nhất là
vào ban đêm có trăng. Phía trước vài căn nhà hai bên đường hẻm, có những cây
cao chừng bốn năm thước, có bữa đi vào hẻm tôi thấy mặt trăng thấp thoáng sau
lá cây. Đây đó có một hàng bán quà cho trẻ con dưới ánh đèn đường. Và một xe nước
giải khát. Ở trong nhà thì nóng, thành ra hầu hết mọi gia đình đều ra ngoài hẻm
để sinh hoạt. Có nhà quét đường sạch rồi trải chiếu ra, cha mẹ con cái ngồi
chơi chuyện trò với nhau. Có nhà thì nhắc ghế bàn ra kê ngay trước cửa. Có nhà
đem cả công ăn việc làm ra đường. Ở xóm nghèo Pháp Hội có nhiều nhà làm bong
bóng cao su để bán cho trẻ con chơi. Họ mang một nồi lửa than ra đường, trải
chiếu rách và ngồi làm việc. Những chiếc bóng cao su đủ mầu mới mua sỉ của hãng
cần phải làm lại mới bán được. Họ hơ cao su trên than hồng cho mềm kéo dài chiếc
bong bóng ra rồi thổi vào cho da bong bóng phồng lên, mỏng đi. Như thế bong
bóng mới đem bán cho trẻ con chơi được. Người lớn ngồi nói chuyện còn trẻ con
thì chạy chơi nô đùa. Thật là vui như ngày hội, cái ngõ hẻm Pháp Hội này. Phía
sau cái không khí hòa bình ấy là sự sống càng lúc càng khó khăn đắt đỏ, những vấn
đề dằn vặt con người và nhất là ảnh hưởng của tai họa chiến tranh mà ít gia
đình nào tránh khỏi.
Ở những xóm nghèo như thế này dân cư rất đông đảo. Trẻ con đầy
đường đầy ngõ. Chúng nó phần đông đều xanh xao. Nhưng không biết tại sao trẻ
con độ nầy trông đẹp ra, kể cả những đứa thuộc về gia đình nghèo nhất. Tuy
không có cái đẹp hồng hào mũm mĩm của trẻ con đủ ăn đủ mặc nhưng mà chúng vẫn đẹp
trong cái xanh xao của chúng. Có lẽ trẻ con bao giờ cũng đẹp. Hoặc giả vì tôi
chỉ mới để ý đến chúng trong thời gian gần đây cho nên tôi mới thấy chúng đẹp
như thế, Steve nhỉ.
Chương 12
Cám ơn Steve đã viết thư dài cho tôi. Miền Trung Việt Nam vừa
bị tai họa bão lụt lớn. Tôi cũng bị bận rộn quá nên đã ít viết thư được cho
Steve. Các ông già bà cả cho biết là sáu mươi năm nay mới lại có một trận lụt lớn
như vậy. Trận lụt sáu mươi năm về trước cũng xảy ra trong năm Giáp Thìn. Kỳ về
Trung vừa rồi cùng với một số người trẻ tuổi góp phần vào việc cứu trợ, tôi được
thầy tôi, năm nay đã tám mươi tuổi, kể cho nghe từng chi tiết về trận bão lụt
Giáp Thìn sáu mươi năm về trước ấy. Trận lụt năm nay thật là kinh khiếp; hàng
ngàn người bị nước cuốn trôi và hàng chục ngàn người thiếu nhà cửa, thiếu cơm
ăn áo mặc, đã và đang thoi thóp chờ sự cứu trợ của những người đồng bào của họ.
Ở miền Nam phong trào cứu trợ nạn lụt miền Trung được sự hưởng ứng rất sốt sắng
của hầu hết mọi người. Biết bao nhiêu đoàn thể đã tổ chức quyên góp cứu trợ.
Trường chúng tôi cũng góp được hàng mấy xe quần áo, thuốc men và thực phẩm. Từng
đó chẳng thiếu đủ gì, nhưng chúng tôi đã tổ chức để tự thân mang những tặng phẩm
đó ra tận nơi xảy ra tai nạn. Công việc này không dễ dàng gì đâu Steve ơi, bởi
vì những nơi này đều nằm vào địa thế chiếc lược nguy hiểm. Người ta có thể bỏ mạng
vì bom đạn hay vì những cuộc đụng độ có thể xảy ra bất cứ lúc nào nếu người ta
nghe theo tiếng gọi của lương tâm mà tìm tới những nơi ấy.
Nhưng mà để tôi trả lời câu Steve hỏi đã nghe. Tôi biết Steve
không ưng ở lại thành phố Nữu Ước nữa bởi vì Steve đã chán nó. Nhưng nếu Steve
cố gắng thêm chừng bốn tháng nữa thì Steve đã có thể hoàn tất chương trình. Rồi
sẽ liệu sau. Chắc có lẽ cậu lắc đầu chán nản khi nghe tôi khuyên như thế “đã
chán rồi thì một vài ngày cũng khó chịu thay, huống hồ là bốn tháng trời!”. Chắc
Steve đã phản ứng như vậy. Nhưng mà Steve ơi, nơi nào trên trái đất này thì
cũng đều gần gần như nhau. Nếu mình vẫn mang tâm trạng như tâm trạng bây giờ,
thì đi đâu mình cũng thấy cái y báo ấy. Có lẽ nếu có tôi bên cạnh, cậu sẽ chấp
nhận Nữu Ước dễ dàng hơn. Steve không biết rằng có thể một ngày nào đó cái Nữu
Ước chán ngấy của cậu có khi lại làm cho cậu sinh ra nhớ quay nhớ quắt nó cũng
không biết chừng. Cũng như cái xứ sở đau thương nhiều thù hận và nhiều điều bạc
bẽo này. Ngày trước có khi tôi nghĩ phải bỏ quách nó mà đi để không bao giờ trở
lại. Ấy thế mà rồi khi xa lại đứng ngồi không yên, lại nhớ sinh ra nhớ quay nhớ
quắt nó. Tôi hay có những tưởng tượng buồn cười lắm Steve. Ngày xưa có bữa đọc
báo về chuyện phi hành không gian, tôi tưởng tượng một mình đang ngồi trên phi
thuyền bay theo một quỹ đạo xoay quanh trái đất. Rồi vì một hư hỏng máy móc nào
đó tôi không đốt được chiếc hỏa tiễn còn lại thành thử không thể vượt ra khỏi
quỹ đạo được nữa và phải tiếp tục bay quanh trái đất mãi mãi. Mãi mãi cho đến
khi hết lương thực, hết không khí và tôi chết rũ ra một mình không ai biết ai
hay. Liên lạc vô tuyến với loài người ở dưới trái đất cũng bị cắt đứt. Và tôi cảm
thấy rất cô độc khi nghĩ rằng chính xương cốt mình cũng không được nghỉ ngơi
trong lòng trái đất. Tôi nhớ trái đất lạ lùng. Loài người ác độc, loài người
gây khổ đau dằn vặt, loài người mà có khi tôi thấy không thể thương được, loài
người ấy bây giờ tôi thấy thân thiết với họ một cách kỳ lạ. Thôi thì cho tôi trở
lại trái đất đi, với loài người ác độc ấy đi, cũng được. Nhưng mà làm thế nào để
trở lại. Dù anh muốn để xương cốt anh trên mặt đất thân yêu thì cũng không được
nữa rồi mà. Anh có thể có ý định mở cửa phi thuyền và… nhảy xuống mặt đất.
Nhưng thực tế thì anh không nhảy được. Bởi vì không có trọng lượng. Trái đất
không muốn anh nữa. Trái đất không còn “hút” anh xuống nữa. Anh xa
trái đất và loài người quá rồi.
Steve ơi, chỗ tôi ngồi viết cho Steve đây vẫn là làng quê thuộc
tỉnh Gia Định. Khung cảnh đáng lý thì yên tịnh hoàn toàn nhưng tiếng máy bay phản
lực của không quân làm tôi nhức óc. Sao mà máy bay bay hoài như thế không biết.
Tiếng máy bay như đè nặng trên hai lá phổi của tôi. Hồi nãy tôi ngồi chơi với mấy
em bé trong làng ở dưới chân đống rơm. Câu chuyện đang vui thì máy bay ào tới,
tiếng máy bay át cả tiếng nói của chúng tôi. Mấy đứa nhỏ nhìn lên trời, theo
dõi hai chiếc máy bay phản lực. Tôi thấy chúng không có vẻ thích thú như trong
trường hợp thông thường của trẻ con nhà quê khi nhìn thấy máy bay. Chúng không
vỗ tay reo cười. Trong mắt chúng, tôi thấy vẻ lo âu ghét bỏ. Tiếng tăm về tai nạn
bom đạn giết chóc từ những miền quê khác đã bay tới làng.
Ở những nơi như thế này đây, trông thấy những vấn đề cụ thể của
người dân quê, tham dự vào trong những vui buồn hàng ngày của họ, tôi thấy tâm
hồn mình bình dị và có nhiều yêu thương. Tôi biết cái nếp sống khép kín của cái
xã hội nhiều tiền bạc và tiện nghi cũng không thích hợp với Steve. Đối với nhiều
người, phần lớn thì giờ trong cuộc đời họ đã và đang được tiêu phí trong sự
theo đuổi những tiện nghi vật chất. Tôi không tuyên truyền thuyết bác ái đâu.
Steve đừng e ngại. Tôi thấy trong cái xã hội sinh hoạt đầy tiện nghi, những vấn
đề của con người lại còn to lớn và dằn vặt hơn trong cái xã hội mà tôi đang sống
đây nhiều. Nỗi niềm cô đơn, trống trải và buồn chán, ý niệm về sự vô ích vô
nghĩa của cuộc sống nó làm cho con người đau khổ bội phần. Cách đây mấy năm,
tôi được xem đâu dó một khúc phim tài liệu ngắn thuộc loại xã hội nơi một
chương trình vô tuyến truyền hình. Phim do ai thực hiện tôi cũng quên khuấy đi
mất. Nhan đề cuốn phim là “người đàn bà cô đơn”. Tôi chỉ nhớ mang máng thôi, vì
lâu quá rồi. Người đàn bà cô đơn đây là một người đàn bà có chồng, và chồng bà
lại có địa vị trong xã hội. Họ lại có nhà cửa, xe hơi và tiền bạc. Giữa hai vợ
chồng, không có vấn đề gì xích mích, lộn xộn. Người thiếu phụ cũng đã không gặp
trở ngại gì trong vấn đề tình yêu và hôn nhân. Hai vợ chồng ở trong một ngôi
nhà khá sang trọng trong thành phố Mỹ quốc. Họ chưa có đứa con nào. Vào đầu cuốn
phim, ta thấy người thiếu phụ rên ư ử. Nét mặt biểu lộ sự chán chường mệt mỏi
và xa vắng mênh mông. Trong cơn mê những đợt sóng từ dưới đáy tiềm thức chỗi dậy.
Có một vẻ gì bất an hiện trên nét mặt đó. Một chút nước bọt nhễu hai bên mép
thiếu phụ. Trong cơn mê, thiếu phụ vừa cựa mình vừa lắc đầu như đang vùng vẫy để
thoát ra một cái gì. Lúc đó chồng của thiếu phụ chạy đến vỗ vai để thức nàng dậy.
Người thiếu phụ mở choàng mắt, bỡ ngỡ một tí, rồi vụt đứng lên. Chỉ sau một
giây thôi, nét mặt thiếu phụ trở thành vui vẻ, nhí nhảnh, yêu đời. Tất cả những
nét chán chường, mệt mỏi biến mất. Thiếu phụ trở nên vui tươi, hoạt bát một cách
mầu nhiệm. Nàng nói tíu tít như một con chim non để làm vui lòng chồng! “Em mới
chợp mắt một tí. Anh đi đầu mới về đấy? Để em pha cà phê thật ngon cho anh”.
Người chồng nhìn vợ một cách hơi lo lắng rồi hỏi nhỏ: “Em có sao không?”. Nàng
trả lời vừa cười rất tươi “Không, em có sao đâu, em không sao cả”.
Người chồng cho biết ông phải đi Cựu Kim Sơn gấp vì công chuyện làm ăn “Anh phải
đi ngay - Vậy anh đi thay áo đi. Để làm cà phê xong, em sẽ giúp anh làm va li”.
Nàng làm cà phê, trong khi người chồng loay hoay trong tủ áo. Bỗng nhiên tiếng
hát trong phòng chấm dứt. Chiếc dĩa âm nhạc vừa hết. Nàng bỏ dỡ cà phê, tới
thay đĩa mới. Âm nhạc nổi lên, lần này dồn dập náo nức. Rồi nàng trở lại với
chiếc bình cà phê. Nhưng người chồng không chịu nổi âm nhạc. Có lẽ ông đã mệt
vì âm nhạc. Ông đến gần máy, tắt đi. Và trở về tủ áo. Nhưng người thiếu phụ lại
không chịu nổi sự im lặng. Nàng trở vào, cho quay chiếc đĩa hát trở lại. Rồi lại
đến phiên người chồng thấy khó chịu. Họ thay phiên nhau văn máy và tắt máy như
thế nhiều lần, một cách hầu như là vô ý thức.
Bây giờ thì ông chồng đã lên máy bay rồi. Người thiếu phụ ngồi
nhà một mình. Nghe nhạc hoài cũng chán lắm. Nàng chọn nhiều đĩa khác nhau,
nhưng cuối cùng tắt máy. Rồi nàng đi tìm sách. Thế nhưng đọc được vài dòng,
nàng gấp sách lại. Nàng không thể tiếp tục đọc sách nữa. Nàng chạy tới máy điện
thoại. Gọi người này, rồi gọi người khác. Người này đi vắng, người khác bận.
Không có ai để mời tới ngồi lê đôi mách cả. Nàng chán nản bỏ ống nói xuống và
ngồi thừ ra.
Steve hãy tưởng tượng làm sao mà nàng có thế sống từ trưa đến
chiều trong cái tâm trạng và điều kiện ấy. Vào lúc sáu giờ, đứa bé giao báo buổi
chiều gõ cửa. Nàng mừng rỡ đến nỗi ta thấy hy vọng hiện trên nét mặt nàng.
Nhưng không, đó chỉ là em bé đưa báo. Nàng nhận báo rồi đề nghị thằng bé ở lại
một chút nói chuyện chơi. Cố nhiên là nó từ chối, bởi vì nó còn giao không biết
bao nhiêu là báo nữa. Nó nhìn nàng, thương hại: “Tại sao bà không ra quán rượu
đầu đường ấy. Vui lắm”. Nàng thấy lòng tự ái bị va chạm. Nàng nói: tôi không cần.
Thằng bé đi rồi, nàng càng thấy cô đơn trống trải. Nàng nghĩ
tới chồng. Nàng chạy lại điện thoại. “Cô làm ơn cho tôi nói chuyện với chồng
tôi, ở Cựu Kim Sơn. Long distance call. Person to person”. Phải rồi, person
to person, chớ không phải poste to poter. Như vậy trong trường hợp chồng
không có ở đó thì nàng khỏi phải trả tiền. Person to person! Một người
liên lạc với một người. Một người nhất định nào đó liên lạc vưói một người nhất
định nào đó. Nhưng mà sự liên lạc giữa người và người nó có làm tan biến được sự
cô đơn của con người hay không, hay là con người chẳng bao giờ vượt qua được
cái “vạn lý trường thành của hai vũ trụ chứa đầy bí mật” đó? Person to
person!.
Nàng nghe tiếng chồng ở đầu giây kia. Nàng hỏi: “Anh đi về có
bình yên không”. Chồng nàng trả lời “bình yên”. Thế rồi hết, thảm hại chưa.
Nàng không có gì để nói nữa hết. Điện thoại nối liền hai miền xa cách. Chồng
nàng đứng ở đầu đường dây kia cũng như đứng trước mặt nàng. Không có gì nói cho
nhau nghe nữa hay sao? Mười năm trời ở bên nhau, người ta đã tìm tất cả những
gì thuộc về của nhau rồi sao? Nàng thấy óc nàng rỗng tuếch. Nàng hỏi đại một
câu: Ở Cựu Kim Sơn trời có mưa không anh”. “Không, trời ở đây tốt lắm, ấm lắm.
Anh vừa tiếp xúc lần đầu với người ta về vấn đề công việc”. Và hình như người
chồng nhận thấy cái gì là lại ở giọng nói của nàng. Chồng nàng hỏi “Em có sao
không, em? Are you all right?”. Lần thứ hai trong buổi chiều chàng hỏi. Và
lần thứ hai trong buổi chiều nàng trả lời “Em không sao cả. I am all
right”.
Nàng không chịu đựng được nữa, cho nên nàng mặc áo rồi xuống
đường. Nàng tìm tới quán rượu đầu đường. Đã hơn mười hai giờ khuya rồi. Quán
cũng vắng. Nàng gọi một cốc Whisky, và ngồi nhìn. Lát sau cũng có một đôi vợ chồng
cũng vào quán rượu. Người vợ đi vào phòng rửa mặt. Người chồng ngồi gần bên thiếu
phụ gọi một ly rượu. Và họ quen với nhau. Thiếu phụ cô đơn. Còn người đàn ông
thì thấy thiếu phụ có chút nhan sắc. Và biết đâu người đàn ông, tuy đi với người
đàn bà của mình, cũng lại cô đơn. Họ trao đổi nhau vài câu nói cười thân mật.
Nhưng người đàn bà đã trở về lại chỗ cũ, nhăn mặt tỏ ý không tán đồng sự thân mật
đó. Không khí trở nên nặng nề.
Vào khoảng nửa đêm, ác mộng xâm chiếm giấc ngủ của người thiếu
phụ. Dưới ánh sáng mờ nhạt của gian phòng ngủ, ta thấy nét chán chường cô độc
ban trưa trên khuôn mặt nàng. Thiếu phụ vùng vẫy, nàng la hét trong cơn ác mộng.
Một mình trong cơn ác mộng, một mình cô đơn. Nhưng bỗng có tiếng lách tách ở ổ
khóa. Có tiếng cửa mở. Rồi cửa phòng ngủ cũng hé mở. Chồng nàng từ Cựu Kim Sơn về,
lúc nửa đêm. Trông thấy cảnh tượng đó, chàng vội vàng chạy lại đánh thức nàng.
Người thiếu phụ giật mình tỉnh dậy, ngơ ngác, nét mặt còn in
vẻ kinh hoàng. Người chồng cắt nghĩa: “Anh nghe thấy một cái gì không bình thường
trong giọng nói của em hồi chiều, qua dây điện thoại. Cho nên bàn xong công việc,
anh vội vã lấy máy bay trở về. Em nằm mơ thấy gì mà vùng vẫy la hét dữ vậy? Em
có sao không?” Em có sao không? Are you all right? Lần thứ ba trong buổi chiều
chàng hỏi Are you all right? Người thiếu phụ kiểm soát lại tình trạng. Nàng
không thể trả lời như hồi chiều được nữa. Không. Rõ ràng nàng không trả lời như
hồi chiều. Nhưng mà có vấn đề gì đâu? Nàng có đau ồm thiếu thốn gì
đâu. Nhà cửa đầy đủ mọi tiện nghi. Chuyện gì cũng có máy móc đỡ tay chân làm thế
cho nàng. Có chuyện gì thì cũng có điện thoại đó. Bếp có cháy hay trộm có thể lẻn
vào thì có thể gọi cảnh sát. Người đàn bà không bất lực, không cần sự che chở của
người đàn ông như thời nguyên thỉ, có nhiều rắn rết, hổ báo, sấm chớp. Người
đàn bà không thiếu một thức gì. Nhà cửa sang trọng, sức khỏe đầy đủ, lợi tức dồi
dào, chồng con có địa vị, có uy tín. Nhưng mà không thể nói rằng như thế là mọi
sự êm đẹp tốt lành. Nàng nhìn chồng, thú nhận:”Em làm sao ấy, anh ạ. I am
not all right”.
Và họ biết là họ có vấn đề.
Steve ơi, cái vấn đề đó là một trong những vấn đề lớn của cái
xã hội bây giờ. Sự cô đơn của con người càng lúc càng lớn. Steve đưa mắt nhìn
thử những buổi sinh hoạt gọi là tôn giáo, xã hội và tôn giáo, xã hội và thân hữu
mà xem thì thấy. Nhà thờ và chùa chiền trở nên chỗ hội họp để các Ông các Bà
giao tế, gặp gỡ và tổ chức những cuộc vui lấy danh nghĩa là sinh hoạt tôn giáo.
Đi nhà thờ hay đi chùa đã trở thành một thứ trang sức, một thứ giải trí cho nhiều
người. Hội họp để bầu cử những hội phụ nữ, hội từ thiện, hội cựu học sinh, hội
chống võ khí nguyên tử vân vân… và để đàm luận và tổ chức công việc này nọ cũng
chỉ là để giết thì giờ, là để chạy trốn sự cô đơn, trống lạnh của những đời sống
khép kín trong cái vỏ tự ngã giả tạo. Họ có đi đâu thì cũng chỉ quanh quẩn
trong cái vỏ ấy. Họ chỉ giao tiếp gặp gỡ những cái vỏ như là cái vỏ của chính họ.
Chính bởi vì Steve bị lạc vào trong cái thế giới đó cho nên Steve không thể chịu
đựng được. Nhưng mà nếu Steve thiết lập được sự liên lạc với cái thế giới rộng
rãi bên ngoài cái vỏ kia thì dù cho Steve có ở lại trong cái môi trường đó,
Steve cũng không cảm thấy bị tù túng như là đang cảm thấy bây giờ. Có lẽ tại vì
cậu đã để cho con đường liên lạc kia bị bế tắc. Hãy nghĩ đến chúng tôi, hãy
nghĩ đến cái thế giới rộng rãi mà trong đó ngày mai Steve sẽ bơi lội thì cậu sẽ
thấy cái hoàn cảnh trong đó hôm nay cậu sống là một hoàn cảnh cần thiết. Hãy chấp
nhận bốn tháng đó với một nụ cười, và với một thái độ tích cực. Rồi mọi sự sẽ
biến hình trước con mắt của chúng ta. Mặt trời sẽ sáng hơn và cây cối sẽ xanh
hơn. Con người sẽ dễ thương hơn.
Để chữa lành cái “bệnh” của người thiếu phụ kia, tôi tượng
không cógì khó khăn đâu Steve. Hãy đem nàng ra khỏi nhà tù của những điều kiện
tiện nghi vật chất. Cho nàng về sống trong cái xã hội của Châu Mỹ La tinh chẳng
hạn. Hay là về đây, tại cái làng Bình Quới này thì cũng tốt. Rồi nàng sẽ đi giặt
lấy quần áo ở bờ sông. Sẽ phải rùng mình khi thấy thứ nước uống thiếu trong sạch
mà những người dân làng thường uống. Rồi nàng sẽ ở chung và sẽ chia xẻ những vấn
đề của dân làng. Cái mớ kiến thức mà nàng có đó sẽ có thể giúp đỡ dân làng cải
thiện sự sống của họ. Nàng sẽ phải cực khổ, lo lắng. Nhưng mà nàng sẽ có những
nụ cười trong veo như nắng sớm. Tôi biết chắc như vậy mà. Tuy nhiên, Steve đừng
nghĩ rằng công việc giải phóng nàng là một công việc dễ dàng đâu nhé. Dù đau khổ,
người ta vẫn không có can đảm từ bỏ khổ đau. Con người sợ khổ đau cho nên cứ chịu
khổ đau hoài.
Tiếp xúc với cuộc sống, với những khổ đau, những lo âu của thế
giới bên ngoài, chia xẻ trong cảm thông tất cả những thứ đó với kẻ khác. Đó là
phương thuốc mầu nhiệm nhất để xua đuổi thế giới u ám của sự cô độc nội tâm.
Anh mà cô đơn là tại vì anh tự giam giữ anh trong một cái vỏ giả tạo, là tại vì
anh tưởng rằng anh là một thực tại riêng biệt không có liên hệ tới những cái
khác. Nhà Phật nói là tại vì anh cho là “ngã” một cái gì “vô ngã…”. Mà thôi, đừng
có tin nhà Phật. Steve ạ, bởi vì tôi nghĩ rằng cái tôi của tôi đây tuy nó không
là ngã mà nó cũng không là vô ngã đó Steve.
Cái thứ văn nghệ phản chiếu tâm trạng cô đơn thao thức cũng
đã xuất hiện trên cái đất này lâu rồi Steve. Trong cái tình trạng bế tắc của
chính trị, trong cái không khí trĩu nặng đe dọa của bạo lực và tiền bạc, con
người rất dễ lây cái tâm trạng chán chường vô vọng đó. Huis clos No exit. Ngõ cụt.
Không có nẻo ra. Cái gì cũng vô lý, cũng đáng nhổ nước bọt vào. Cái gì cũng giả
dối. Sự vô lý cũng vô lý, sự giả dối cũng giả dối. Như thế đó, mà vẫn còn nói
năng được. Nó tô một lớp sơn đen hắc ảm đạm lên cho khung cảnh. Nó trợ lực cho
nếp sống liều lĩnh, không trách nhiệm. Nó mở miệng nhân danh cho tự do. Nếu cái
thứ văn nghệ chỉ biết tuân theo lãnh đạo như một bộ máy được coi là một thái cực
thì cái văn nghệ vô trách nhiệm này đích thực là một thái cực khác. Bên kia còn
có thể nói vì một cái gì chứ bên này thì không thể nói vì một cái gì được hết.
Tôi không bao giờ cho sự vô trách nhiệm là tự do cả. Tự do mà vô trách nhiệm
thì không phải là tự do mà là tự hoại. Tự hoại và hủy hoại kẻ khác. Thứ văn nghệ
đó làm cho tình trạng càng lúc càng bi đát, thứ văn nghệ đó giúp cho con người
tự kỷ ám thị để càng bị dày vò trong cô đơn, chán chường và mệt mỏi. Thứ văn
nghệ đó cào quấu những vết thương cho thêm rách nát. Chúng ta cần có một đường
hướng khai thị và trị liệu. Khai thị để vạch rõ cho chúng ta biết sự
thực về những vấn đề của chúng ta. Biết để mà có ý thức. Có ý thức để mà lo,
chuyển hoán, cải tạo, chạy chữa; nghĩa là tìm ra được nguyên do của chứng bệnh
và trị liệu. Nói thì chắc là Steve cười, chớ thực ra theo nguyên tắc
này, ta phải isoler những người bị cái bệnh chán chường ra, hoặc giả
phải isoler những người chưa bị bệnh ra một nơi. Nghĩa là phải thiết
lập những “ấp chiến lược” văn hóa. Nhưng mà không phải cái kiểu “ấp chiến lược”
ngày xưa của ông Diệm đâu, Steve đừng lo. Tôi nghĩ ở đây những trường đại học
chẳng hạn, nên để tách biệt ra, đừng cho nằm tại Saigon. Phải có những thành phố
dành cho đại học, như thành phố Princeton hay là Oxford vậy. Trường đại học cần
có phong độ ngày xưa, nghĩa là phong độ một nơi tu luyện. Phải có hoàn cảnh và
không khí của sự tu luyện. Chớ ở Saigon hay Nữu Ước hay Ba Lê thì khó học hành
lắm. Hồi tôi còn ở Princeton tôi có nghe một anh sinh viên than rằng: “Thành phố
Priceton đã như một tu viện rồi mà đại học Princeton là còn là một tu viện nữa.
Thật là một tu viện trong một tu viện”. Thế mà không ai chối cãi được cái khả
năng và không khí học tập ở Princeton đâu nhé. Steve có đồng ý không. Khi mà
người ta mạnh khỏe thì mầm mống bệnh tật khó nhiễm và vật ngã được. Vấn đề
không là đi tìm sự trốn tránh mà chính là đi tìm sự tự cường tự lực để chiến thắng.
Steve ơi, cái số tôi thế mà có nhiều may mắn. Bây giờ đây tôi
có thể ngồi viết cho Steve yên ổn thế này cũng là nhờ các bạn trẻ bên này lo lắng
và gánh vác được cho bao nhiêu trách nhiệm.hòi tôi ở bên đó cũng vậy. Nhớ lại
cái hồi từ tháng sáu đến tháng mười năm 1963 mà xem. Thật là lận đận, lao đao.
Hồi ấy như Steve biết, phong trào chống đối ông Diệm lên mạnh ở bên này. Một
mình tôi ở bên đó phải lo biết bao nhiêu công việc. Ít có đêm nào ngủ được. Tiếng
chuông điện thoại làm thần kinh tôi căng thẳng. May mắn có Steve và có một vài
người bạn trẻ khác phụ lực cho. Mặc dù bao nhiêu hăm dọa và khó khăn, chúng ta
vẫn đi tới một cách mạnh bạo. Tôi nhớ cái buổi chiều ở American BUddhist
Academy, đến nét mặt lặng lẽ của Steve khi em đem bình sữa và thẻ kẹo
sô-cô-la tới. Căn phòng là một căn phòng tham thiền kiểu Nhật có đệm chiếu tatami Steve
đã ngồi quỳ gối và trao bình sữa cho tôi một cách hết sức lặng lẽ và dễ thương.
Thật không khác gì một chú thị giả ở đông phương. Steve nói: ăn một thẻ
sô-cô-la nhỏ thì lấy lại được năng lực mau chóng lắm. Buổi chiều đó đúng hai giờ,
là mãn hạn thời gian tĩnh tâm và cầu nguyện. Tôi dã đóng cửa tĩnh tâm, nhập từ
bi quán để cầu nguyện cho sự vượt thắng của tự do trên bạo lực, và thời
gian đó kéo dài từ sáng thứ hai đến chiều thứ sáu. Tôi đã không ăn uống gì
trong thời gian đó, trừ chai nước lã mà Steve đến thay một ngày hai lần. Hôm
tôi họp báo ở Carnegy Hall, Steve cố gắng chạy tìm một nơi thanh tịnh cho thời
gian tĩnh tâm ấy, và đã không tìm ra được. Tôi điều đình với ông U Thant cho
tôi tĩnh tâm trong Hall ò meditation ở trụ sở Liên Hiệp Quốc, nhưng
ông từ chối. Ông từ chối bởi vì ông không muốn tỏ rằng là Phật tử ông có ý bênh
vực Phật giáo. Ông nói là sợ làm như thế tức là tạo ra một tiền lệ. Tôi gọi điện
thoại cho Internationnal Church Center cũng ở tại Liên Hiệp Quốc. Họ trả lời là
được, nhưng cái phòng ấy phải trả ba trăm Mỹ kim một ngày. Ba trăm Mỹ kim! Thế
nghĩa là một ngàn năm trăm Mỹ kim cho một thời hạn từ thứ hai đến thứ sáu! Bán
nhà đi chúng ta cũng không trả nổi. Tôi bèn gọi American First Zen
Institute. Gọi nhiều lần nhưng không có ai trả lời. Sau cùng tôi gọi Đại đức
trù trì ngôi chùa Riverside Drive và được chấp thuận. Lúc đó là lúc đại
hội đồng Liên Hiệp Quốc bắt đầu họp về vấn đề Việt Nam. Trước đó, tôi đã làm việc
gần gũi với nhóm các nước Á Phi đã đưa được vấn đề Việt Nam lên nghị trình của
đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, nhất là với ông đại sứ Tích Lan. Và tôi cũng đã
nói chuyện rất nhiều với báo chí và các hãng vô tuyến truyền hình. Hôm họp báo ở Carnegy
Hall do tổ chức Nhân Quyền Quốc Tế bảo trợ, tôi nói “Dân tộc Việt Nam đã
đau khổ nhiều rồi. Đây là lúc mà gia đình nhân loại phải cầu nguyện, phải hành
động. Ngay sau cuộc họp báo này, tôi sẽ nhập thất tham thiền và cầu nguyện cho
đất nước tôi, và tôi xin tất cả những thành phần gia đình của nhân loại, những
ai biết thương xót và đau khổ vì Việt Nam, hãy góp sức cầu nguyện cho đau
thương chấm dứt”.
Báo chí tối hôm ấy có đạo đạt lại lời yêu cầu đó. Steve biết không, lúc ấy tôi đã gần kiệt lực rồi, tại vì trước đó đã phải lận đận đi Hoa Thịnh Đốn, Chicago và các nơi khác để vận động ủng họ cho cuộc đấu tranh bên nhà. Một cuộc diễn hành của Việt kiều đã được tổ chức trước tòa Bạch ốc. Biểu ngữ được chở từ Nữu Ước xuống. Cuộc diễu hành thật cảm động. Nhiều anh chị có con năm bảy tháng cũng ẳm đi biểu tình. Nhiều người Mỹ mua nước cam tới cho chúng tôi uống. Tất cả các hãng truyền hình đều có mặt.
Báo chí tối hôm ấy có đạo đạt lại lời yêu cầu đó. Steve biết không, lúc ấy tôi đã gần kiệt lực rồi, tại vì trước đó đã phải lận đận đi Hoa Thịnh Đốn, Chicago và các nơi khác để vận động ủng họ cho cuộc đấu tranh bên nhà. Một cuộc diễn hành của Việt kiều đã được tổ chức trước tòa Bạch ốc. Biểu ngữ được chở từ Nữu Ước xuống. Cuộc diễu hành thật cảm động. Nhiều anh chị có con năm bảy tháng cũng ẳm đi biểu tình. Nhiều người Mỹ mua nước cam tới cho chúng tôi uống. Tất cả các hãng truyền hình đều có mặt.
Một điều bất tiện cho tôi nữa là phòng tham thiền nằm ở trên
gác; mỗi khi muốn dùng phòng rửa mặt thì phải bước xuống và leo lên mấy chục bực
thang. Mỗi một cử động tiêu phí nhiều năng lực. Trong năm ngày, tôi đã phải đi
lên đi xuống có tới mấy mươi bận. Steve đã giữ gìn không cho nhà báo nào hay
hãng truyền hình nào ra vào hết. Và mãi đến chiều thứ sáu khi đem sữa và thẻ
sô-cô-la tới, Steve mới cho biết là chấm dứt thời hạn tĩnh tâm, tôi phải tiếp
hai hãng vô tuyến truyền hình, bởi vì họ có ý muốn giúp cho vấn đề thêm sáng tỏ.
Tôi uống từng ngụm sữa nhỏ và “nhai” những ngụm sữa ấy trước
khi nuốt. Và tôi cũng nhai một miếng sô-cô-la, tuy lúc đó tôi không tin cái
thuyết của Steve mấy. Steve kể cho tôi nghe những chuyện đã xảy ra trong thời
gian tôi nhập thất. Rồi Steve đưa cho tôi xem mấy cái thư ở nhà gởi sang. Có mấy
cái thiệp chúc sinh nhật. Thì ra sinh nhật của tôi nhằm ngày hôm kia mà tôi
không nhớ, lúc tôi đang còn trong thời gian nhập thất. Một cái thiệp do chính
tay em tôi vẽ. Đó là một vườn cau vì bão tố đã gãy đổ gần một nửa. Phía dưới,
em tôi đề: mưa quê hương…
Steve kể chuyện nho nhỏ cho tôi nghe trong khi ở phòng ngoài
người ta bắt giây điện và bóng để sửa soạn cuộc phỏng vấn. Steve đã nói với
tôi: “Thầy đừng nói, chỉ nghe thôi, để dành sức một lát nữa mà trả lời các cuộc
phỏng vấn”. Cũng may Steve nhỉ, các cuộc phỏng vấn truyền hình thường chỉ kéo
dài mươi mười lăm phút, không như những cuộc phỏng vấn của nhà báo có khi kéo
dài cả tiếng đồng hồ.
Sau đó, Steve đưa tôi về nhà ở đường 109 bằng xe taxi. Những
ngày sau đó Steve săn sóc tôi và không cho tôi làm gì hết. Steve nấu ăn thật tệ,
nhưng mà trông thấy Steve lui cui dưới bếp, tôi thương quá. Tôi đã quen nấu cho
Steve ăn, như một bà mẹ săn sóc con.
Thật là êm đềm, khi ta có dịp nhắc những kỷ niệm quá khứ cho
nhau nghe, có phải không Steve? Nhưng cuộc đời không phải chỉ là quá khứ. Nó
còn là hiện tại và tương lai. Chúng ta phải nhìn về phía trước mặt. Những ngày
lao đao, trốn tránh lận đận hồi ấy đã qua rồi. Nhưng những vấn đề của hôm nay
đang còn. Và chúng ta đang đối diện với chúng.
Chiều xuống rồi. Tối nay tôi phải trở về thành phố. Hẹn Steve
thư sau.
Chương 13
Thiền không phải là suy tư về những vấn đề triết học, Steve ạ,
nhất là lối suy tư với hy vọng tìm ra giải đáp. Thiền là gieo những vấn đề lớn
nhất của cuộc đời vào chính mảnh đất của bản thể mình, của tâm hồn mình, của
máu huyết và xương tủy mình. Thiền là nuôi nấng bằng trọn con người mình – nếu
quả thực mình có một vấn đề khẩn thiết. Rồi thiền cũng có khi là một cuộc đấu
tranh thập tử nhất sinh trong một khoảnh khắc nào đó để được sống hay để được
trở lại trong giòng lưu chuyển sâu thẳm. Có những giây phút gian nan hiểm nghèo
quyết định cả một đời mình nhưng chẳng có ai hay ai biết. Mình hoàn toàn cô độc.
Lại có những buổi công phu phải quán tự tâm, khi thì những thắng lợi xẩy ra
liên tiếp, khi thì hiểm nguy đe dọa, khi thì thất bại nằm chết cứng một mình.
Nhưng mà Steve đừng nghĩ thiền là những thứ tôi vừa kể đó. Những thứ tôi vừa kể
đó thể chỉ để dành riêng cho tôi thôi. Để tôi nói chuyện này cho Steve nghe.
Hãy tưởng tượng chúng ta là những đứa bé con đi chơi và gặp một ông già đang ngồi
câu… trên một bãi cỏ xanh. Ông ta câu rắn. “Bãi cỏ xanh mướt như thế này đáng lẽ
có thể trồng bao nhiêu thứ hoa đẹp. Nhưng mà có những con rắn nằm phía dưới.
Lão phải câu tất cả chúng nó lên, và đập chết hết, trước khi chúng ta có thể
vun bón khu vườn”. Rồi ông già kể cho chúng ta nghe kinh nghiệm câu rắn của ông
ta. Có những con rắn con, nằm trong những cái hang con. Khi nhử chúng lên được
trên mặt đất thì chúng nằm quay ra chết, khỏi cần đánh đập gì hết. Lại có những
con rắn lớn. Câu chúng lên, phải cẩn thận. Nếu không đủ sức đập chúng chết,
chúng sẽ cắn mình trước, và mình ngã quỵ. Vì vậy phải biết mình biết ta. Phải
biết lúc nào mình đủ sức, lúc nào mình không đủ sức. Lại có những con rắn cần
được câu lên một lúc hai con, để chúng nó tự tiêu diệt nhau, khỏi phải nhọc sức
mình đánh đập. Chúng ta thích thú nghe ông già kể chuyện và ngồi chứng kiến,
tuy chúng ta có hơi sợ sệt. Có nhiều lúc thiền định nó giống như vậy đó Steve.
Dưới đáy tiềm thức anh, từ vô lượng vô biên kiếp, đó là nói theo kiểu nhà Phật
– có những con rắn, hoặc những con ma, hoặc những con gì đó mà ta không thể gọi
tên. Có người gọi là triền là sử là tập. Chúng nằm ở
đó và chúng chi phối. Vậy muốn được tự do ta phải mời chúng lên chơi trên mặt
phẳng ý thức. Cũng không phải là để đánh đập chúng như trường hợp ông già câu rắn
kia đâu. Chúng tôi cần nhận diện chúng, đối thoại với chúng, và nói với chúng rằng
chúng ta không sợ chúng, bởi chúng ta là bạn chúng. Thế mà rồi chúng sẽ trở nên
dễ thương hết chỗ nói đó Steve. Còn nếu không thì chúng vẫn tồn tại như là những
mối đe dọa thường nhật của mình. Điều cần yếu là mình không nên sợ đối diện
chúng. Và chỉ cần cẩn thận, biết lúc nào là lúc mình có thể mời chúng đến chơi.
Thế thôi. Nghĩa là mình phải sẵn sàng. Thiền là sẵn sàng. Cũng gần như hướng đạo
sinh vậy. Phải sẵn sàng. Nhưng mà muốn sẵn sàng thì phải có công phu sắp sẵn.
Ví dụ bây giờ có người nói với Steve: tôi cho anh biết độ hai ngày nữa thì anh
chết. Nếu Steve tin người đó chắc là Steve sẽ cuống lên. Bởi vì Steve không sẵn
sàng. Không phải là không sẵn sàng để chết mà là không sẵn sàng để mà có phản ứng
thông minh nhất đối với cái ý tưởng kia. Cũng như bây giờ người ta cho biết cái
cô Hạnh Trí Tử mỹ miều kia không chịu yêu Steve nữa và đã đi theo một người con
trai khác, thì Steve cũng thấy rõ là mình chưa sẵn sàng để mà đối phó với một ý
tưởng như vậy. Và không sẵn sàng cho nên Steve sẽ không biết đặt chân đặt tay
vào đâu cho phải khi xúc sự. Và Steve chuốc lấy nhiều khổ đau.
Lý do quan trọng nhất khiến cho Steve không sẵn sàng là sự sợ
hãi những ý tưởng đó, sự ghét bỏ những ý trong đó. Steve không thích nghĩ đến
cái chết của mình cũng không khí thích nghĩ đến cái phụ bạc có thể có của Hạnh
Trí Tử. Xin lỗi Steve nhé, tôi lấy ví dụ chơi vậy mà thôi. Vì không thích, cho
nên Steve cứ dìm chúng xuống dưới cát để có cảm tưởng là chúng không thể có. Nếu
bây giờ Steve mời chúng nó ra trình diện và cười với chúng, thế là mọi việc
xong xuôi. Nhưng mà cũng không dễ lắm đâu, hỡi người bạn trẻ tuổi của tôi.
Mới hôm đầu tháng đây đi qua Giác Minh tôi ngạc nhiên thấy Lý
ngồi trong phòng khách, hai tay bị còng lại. Thứ còng có khóa rất chắc. Xung
quanh Lý các bạn bè ngồi đông toàn là những nhà văn, nhà báo. Báo của Lý bị
đóng cửa từ mấy tháng nay rồi, nhưng mà Lý vẫn tiếp tục cuộc vận động dư luận,
không chịu thua. Chúng lùng bắt Lý. Đã có lần Lý cải trang đi tạm trú ở miền
Gia Định. Khi Lý trở về xin tạm trú ở Giác Minh, không ai cho phép Lý đi ra khỏi
chùa. Thế mà hôm đó tự dưng Lý ra khỏi chùa. Lập tức hai người lạ mặt đến xốc
tay Lý kéo đi. Lý la lớn lên. Người bên đường đổ xô lại. Hai người lạ mặt vội
vàng áp Lý tới cột trụ xe buýt và khóa còng hai tay Lý vào rồi lẫn mất. Những
người bên đường xúm lại đưa bổng Lý lên cao luồn tay ra khỏi cột. Và với hai
tay bị còng như thế, Lý trở về Giác Minh, yêu cầu gọi các bạn lại. Có người
đang đi gọi thợ sắt để chặt chiếc còng. Cổ tay Lý đỏ bầm. Thấy tôi, Lý cười. Cổ
tôi khan lại, không nói ra tiếng. Như thế này thì còn trời đất gì nữa. Giữa ban
ngày ban mặt, lúc một giờ trưa, ngay trong khu đông đảo nhất của thành phố.
Steve ơi, chúng tôi đang tiếp tục đi tới đây. Những sẽ gì xảy
ra cho chúng tôi ở đàng kia, chúng tôi chưa biết. Nhưng chúng tôi đặt niềm tin ở
khả năng con người, dù con người có tỏ ra ác độc đến mấy đi nữa. Kẻ thù của
chúng ta không phải là con người; kẻ thù của chúng ta là vô minh, là cựu thù.
Thôi, để tôi đưa Steve vào làng thăm để quên đi trong giây
lát tất cả những vấn đề gay go đó. Steve xem, đây cũng là một làng nước mặn,
thành ra vấn đề nước uống là một vấn đề lớn lao của làng. Người ta phải “đổi” một
đôi nước tới ba đồng bạc, khi xe nước ngọt chèo tới và dân làng đem thùng và
quang gióng ra để “đổi”. Người ta dù chữ “đổi” để khỏi dùng chữ “mua”, bởi vì nếu
có người “mua nước” thì phải có người “bán nước” điều mà không ai muốn xảy ra cả.
Steve xem, người dân quê yêu nước biết chừng nào! Steve đi qua con đê này và rẽ
về phía bên trái. Cái hồ nước xây bằng đá này có thể chứa sáu thước nước, do
dân làng góp và xây nên với sự trợ lực của chúng tôi. Một cái đơn do dân làng
ký đã được bộ Công Chánh chấp nhận. Thế là lâu nay cứ mỗi tuần ba lần xe Công
Chánh về ghé đổ nước ngọt vào hồ nước. Dân làng chỉ có việc ra gánh.
Tuy vậy vấn đề nước chỉ khó khăn trong mùa nắng thôi Steve. Về
mùa mưa, nước sông trở thành nước ngọt và nước mưa hứng được có thể dùng dư dả.
Đám đất lớn phía tay trái kia đã được dân làng khai phá trồng trọt; hoa mầu được
chia đều cho nhau dù đó không phải là đất của người trong làng. Đất đó là đất
chính quyền bỏ hoang từ bao nhiêu năm. Có những thứ cây cối có thể chịu được nước
mặn, nhưng mà có những thứ cây phải chờ đợi đến mùa mưa mới có thể trồng trọt
được. Bé Lê ở trong làng bảo là có những cây bầu, cây bí nếu ta tới từ nước
sông (mặn) pha với nước mưa (ngọt) cho chúng thì chúng cũng quen dần với nước mặn
và cuối cùng có thể chấp nhận được nước mặn. Cũng hay nhỉ. Steve có muốn về đây
để tôi tưới cho một ít nước mặn, xem thử cậu có chấp nhận được không nào?
Dân làng đã bắt đầu trồng nấm rơm để bán theo phương pháp chỉ
dẫn. Nhưng mà rơm năm nay đắt rồi; số ruộng được canh tác giảm xuống thật nhiều
trong toàn quốc. Phải để dành rơm cho trâu bò ăn, nhất là trâu, cho tới mùa gặt
mới. Có nhiều gia đình đã thực hiện chương trình nuôi gà, và họ đã thành công.
Ban đầu, khi chúng tôi đề nghị nuôi gà, nhiều nhà lắc đầu. Gà của họ nuôi chết
hoài. Họ nói: đất nước mặn, gà đi kiếm ăn cứ bị bệnh chết. Chúng tôi biết không
thể thuyết phục họ bằng lời, nên tự xuất vốn nuôi một trăm con gà bằng lồng úm.
Chúng tôi mượn nhà bé Lợi để thực hiện công tác trình diễn chứng minh. Bé Lợi
chưa bao giờ thấy một cái lồng nuôi gà có hệ thống lò sưởi, nên tò mò lắm.
Chúng tôi sưởi lồng bằng đèn bão. Gà con thì chúng tôi mua giống New Hamsphire.
Thực phẩm của gà chúng tôi mua nhiều bao lớn đã được trộn sẵn. Những con gà con
lớn lên mau như thổi. Chúng tôi theo đúng phương pháp chăm sóc, vệ sinh cho gà,
nhỏ thuốc lỗ mũi cho gà, vân vân… Sau đó ba tuần, chúng tôi bắt đầu đem dụng cụ
về làng đóng những chuồng gà tơ và gà giò. Bởi vì không mấy lúc nữa, gà con trở
thành gà tơ. Nhà của bé Lợi luôn luôn có khách ra vào. Bác Ba, thím Tư, bà Bảy
ai đến thăm cũng ngạc nhiên khi thấy gà lớn như thổi mà không chết con nào. Một
đồn mười. Thế rồi chúng tôi được hỏi ý kiến. Năm ba gia đình quyết định nuôi gà
để kiếm tiền lợi tức.
Mọi công tác ở các làng thí nghiệm đều được thực hành theo kiểu
đó nghe Steve. Ban đầu thì phải nghiên cứu về tình trạng chung của làng về các
mặt y tế, giáo dục, kinh tế, xã hội. Rồi tùy theo tình trạng mà bắt đầu công cuộc
cải tiến. Phải đánh thức ước muốn của dân làng dậy bằng những công tác trình diễn
chứng minh. Và tự nhiên dân làng hưởng ứng. Tuy vậy cũng công tác đầu phải làm ở
nhiều làng vốn không phải là những công tác y tế và giáo dục. Trong thành phần
giảng viên của trường Xã Hội, có một vị tăng sĩ mà chúng tôi gọi là thầy Tám: vị
này chứng tỏ một khả năng thu phục nhân tâm rất lớn. Chúng tôi đôi khi cũng gọi
đùa thầy là “bách khoa tự điển” bởi vì ông biết thật nhiều chuyện. Có lẽ chuyện
gì ông cũng biết. Từ tiếng Pháp tiếng Anh, tiếng Miên cho đến thuốc Tây, thuốc
Bắc, thuốc Ngoại Khoa; từ việc trồng cam trồng bưởi cho đến việc gieo hạt bí hạt
bầu, từ dạy học cho đến coi sóc công trường kiến trúc. Chính ông sẽ coi sóc họa
đồ và điều khiển việc xây cất trường Xã Hội của chúng tôi. Trong một làng thí
điểm kia, mỗi lần thầy Tám về, ông chỉ mang theo một cái gói nhỏ trong đó có đựng
cau, trầu, một ve dầu gió bạch tượng, vài trái chanh, một ít bông gòn và vài
cái kim. Thế mà được việc bằng mấy các cô cậu khác. Ban đầu thì thầy tìm tới
nhà một người bị bịnh ban, một cậu bé chẳng hạn. Thầy cạo gió, và nếu cần thì
“cắt”. Cắt có nghĩa là chích lễ, một loại châm cứu giản dị. Thầy dùng lá trầu
hoặc một múi chanh. Ít khi thầy dùng tới thuốc uống hay thuốc chích. Mà lạ quá,
người bịnh nào được thầy “hành nghề’ cũng mát ra, và qua được cơn nóng. Tài thật.
Thế rồi thầy mở khăn gói ra, ngồi trên bức ngựa, lấy trầu nhai bỏm bẻm, mời mọi
người trong gia đình. Rồi thầy nói chuyện mưa gió, mùa màng, thời tiết. Chuyện
gì thầy nói cũng hay, thế mới lạ chứ. Dân làng mê thầy. Và hàng xóm ai bị bệnh
đều mời thầy tới. Hầu hết cả xóm đều là người chịu ơn thầy, một cái ơn nhỏ
nhưng mà thật bền chặt. Và thầy đề nghị cái gì, dân làng cũng sốt sắng hưởng ứng,
Steve ạ. Ở mỗi làng Việt Nam đều có một ngôi chùa và một ông thầy chùa. Nếu
thuyết phục được ông thầy theo phong trào cải tiến nông thôn thì chắc là không
bao lâu phong trào phải thành công. Khỏi phải tâm lý chiến, ấp chiến lược gì lôi
thôi. Có phải không. hiện giờ chúng tôi rất cần chuyên viên, và chúng tôi phải
lo đào tạo. Lấy kinh nghiệm của thầy Tám, công tác đưa vào chương trình học tập
của trường môn thực hiện ngoại khoa. Người công tác viên xã hội sau này cần phải
nói chuyện hay như thầy Tám, đến với dân làng dễ dàng tự nhiên như thầy Tám. Điều
đó quan trọng hơn những kiến thức có tính cách bác học mà thiếu giá trị thực dụng.
Khinh thường kho tàng kinh nghiệm của dân quê tức là mua chuốc lấy thất bại. Phải
xem kỹ thuật mới như một cái gì đi đến bổ túc, chứ không phải để bài bác, những
kinh nghiệm và phương pháp truyền thống. Chúng tôi có ý muốn kết nạp những
thanh niên nam nữ gốc ở hương thôn hơn là ở thành thị, bởi vì họ có khả năng hiểu
biết và đến với người dân nông thôn dễ dàng hơn.
Ngôi trường mà Steve thấy đây không phải là không có một lịch
sử kỳ thú đâu nhé. Ban đầu, một cộng tác viên về làng, và làm quen với vài em
bé trong lúc chơi đùa, câu cá, hát hò. Rồi anh công tác viên đó hỏi thăm về sự
học hành của các em, và rốt cuộc là các em bằng lòng để hco anh dạy cho mà học
thay vì đi chơi rong suốt ngày. Họ ngồi dưới gốc cây, kê một tấm gỗ để viết chữ.
Thế rồi chỉ một tuần sau, số học trò tăng lên mười mấy em. Một “bác” phụ huynh
thấy thương, liền gọi tất cả vào nhà ngồi học. Họ được phép sử dụng bức ngựa
bên chái. Thế là họ tách năm tấm ván ra, lấy gạch kê làm năm chiếc ghế dài. Còn
dư chỗ cho bốn năm em. Mấy tuần sau trẻ em tới đông thêm. Không khí học tập vui
vẻ hăng hái. Phụ huynh mừng rỡ thấy con mình được học để sau này có “dăm ba chữ”,
khỏi thua kém con người ta. Họ thương thầy giáo lắm. Steve biết sao không, ở Việt
Nam chúng tôi chịu ảnh hưởng Nho giáo khá sâu đậm. Ngày xưa, ông vua là quan trọng
hơn hết, rồi mới đến ông thầy, rồi mới đến ông cha. Quân, Sư, Phụ tức là “tam
cương”. Chắc chắn là Steve biết dư điều đó, tôi khỏi cần phải xổ nho ra nữa. Vì
vậy địa vị của ông hương sư rất là quan trọng, bởi vì ông ấy thay thánh hiền để
dạy chữ nghĩa đạo đức cho con cháu. Cho nên người công tác viên xã hội nếu bắt
đầu bằng công tác giáo dục, sẽ chiếm được chỗ khá tốt trong lòng người dân
làng. Nhất là khi anh có thể dạy cho trẻ em thêm phép tắc ngoan ngoãn. Anh được
các môn đệ bé tí của anh mời về nhà chơi, và cha mẹ các môn đệ ấy bao giờ cũng
đón tiếp “thầy” của con mình một cách niềm nở. Thế là anh có dịp tuyên truyền
cho chương trình cải tiến sinh hoạt nông thôn, một cách gián tiếp và kín đáo, cố
nhiên, và tiếng nói của anh sẽ rất dễ lọt vào tai người đã sẵn có cảm tình với
anh.
Khi học trò đông quá mà chỗ học thiếu thốn, các phụ huynh họp
lại để giải quyết vấn đề trường ốc; có khi họ tự động làm như thế mà khỏi phải
có ý kiến của người cộng tác viên. Một buổi họp như thế cố nhiên đưa đến kết quả
là sự quyết định dựng một ngôi trường cho làng. Và người thì cho tre, người thì
cho gỗ, người thì cho gạch, người thì cho công. Vật liệu không hiếm. Ban đầu chỉ
cần là trường bằng tre, tranh và đất thôi. Khi mà dân làng ý thức được sự cần
thiết, thì tự nhiên khả năng của thôn quê để tự cải tiến trở nên lớn lao. Người
dân không nghèo như họ tưởng hay như chúng ta tưởng, ít nhất là trong tiềm năng
của họ và của xứ sở họ. Đó, cái ngôi trường bốn gian mà Steve thấy đó là của
chính họ làm ra. Họ không cầu xin của Chính phủ hay của viện trợ một xu nào. Hiện
giờ đã có tới hai giáo viên là người làng, những giáo viên khác cũng sẽ thay thế
bằng dân làng khi điều ấy trở thành có thể.
Có năm sáu thanh niên nam nữ trong làng tham dự sốt sắng vào
công việc xây dựng và cải tiến. Có một cậu mười lăm tuổi tên là Mười - có thể
nói nó là một cộng sự viên đắc lực. Cha của Mười mất rồi. Mẹ nó cũng vậy. Mẹ của
nó bây giờ là mẹ ghẻ. Nó có một đứa em gái chín tuổi rất kháu khỉnh dễ thương,
cùng cha khác mẹ. Nó làm nghề “cày đáy” nghĩa là chài lưới. Từng đó tuổi mà
gánh vác việc gia đình như một người lớn. Và nó cũng cư xử như một người lớn.
Steve biết không, buổi sáng trước khi cho thuyền đi, nó cũng uống rượu “cho ấm
bụng”. Và những buổi chiều thuyền về, trong khi em nó lo bán mẻ cá, nó ngồi
“nhâm nhi” be rượu, khề khà như một ông lão. Tội nghiệp quá. Việc làm thì nặng
nhọc. Bà dì ghẻ thì không ấm áp ngọt ngào. Không có một thứ giải trí lành mạnh
nào. Không có phòng đọc sách, không có đàn hát, không có truyện kiếm hiệp,
không có hội hè, bạn hữu đồng điệu, không có thể thao, bóng chuyền, bóng bàn…
Chỉ có uống rượu và đánh bạc. Em gái nó, con Mười Một, là học trò trường Chim
Sơn Ca. Có một hôm tới trường hai mắt đỏ hoe. Cô giáo hỏi vì sao. Nó nói anh nó
bỏ nhà đi gần một tuần nay không chịu về. Hỏi nó thằng Mười đi đâu. Nó nói:
nghe người ta nói anh nó xin vô làm công trong hãng sắt nguội trên Saigon. Khi
tôi nghe câu chuyện, tôi nói. Chết rồi, thằng bé bị đô thành quyến rũ mất rồi.
Để em nó lại đây ai nuôi. Hay là để cho cái bà dì ghẻ thiếu cảm tình ấy? Nó, nó
thương em nó hơn là mẹ con bé thương.
Hơn một tháng sau, cô Chín, một trong các hướng dẫn viên thực
tập ở làng, gặp Mười đang đi trên một con đường miệt Hàng Sanh. Mới đầu Chín
không nhận ra nó, bởi vì nó mặc áo sơ mi rằn ri và quần cao bồi. Nó đi với một
thằng bạn có vẻ mặt rất là Saigon. Có vẻ mặt Mười thì vẫn còn mang cái nét thơ
ngây non non dại dại nhà quê. Con mắt nó vẫn còn chứa đựng sự ngơ ngác. Chín đã
tới và hỏi: Có phải em là em Mười không. Nó thấy Chín thì mừng và nói: “Phải.
Chị đi đâu vậy”. Và nó nói với thằng bạn. “Thôi mày đi chơi một mình đi, để tao
gặp người quen”. Chị Chín đưa nó vào một quán cà phê. “Này Mười, bộ lâu nay em
đi làm được nhiều tiền lắm hả”. “Đâu mà có, chị. Làm ở sắt nguội cũng đủ ăn mà
thôi, không hơn gì ở làng”. “Vậy tại sao em bỏ làng mà đi”. “Tại buồn lắm chị
Chín ơi. Cả đời như vậy hoài không có gì vui hết. Rồi mai mốt em đi lính, thế
là xong”. “Vậy chớ em để con Mười Một một mình à? Mày không thương em mày sao,
hả Mười?” Nó yên lặng, lúng túng. Chín không khuyên nó trở về làng ngay, mà chỉ
hỏi xem nó làm tại hãng nào để thỉnh thoảng lại thăm. “Em làm ở sở B.S. gần
Đakao đó chị”. Chín hẹn trưa thứ bảy tới đón nó đưa về làng thăm em. Nó nhận lời.
Từ đó ở làng có những buổi văn nghệ do học sinh tổ chức với sự
tham dự và hướng dẫn của các giáo viên, các người bạn trẻ của làng từ các nơi tới.
Có khi học trò trường Tình Thương bên làng Thảo Điền qua tổ chức, rồi thì học
trò bên này đáp lễ. Muốn tổ chức “văn nghệ” lúc nào cũng được. Dân làng lớn tuổi
mà cũng tham dự thật tình. Nhiều người biết ca sáu câu vọng cổ. Những buổi chiều
mát, ở gốc cây dừa. Những buổi sáng trăng. Tủ sách của làng bây giờ có nhiều
sách đọc giải trí. Và vô số tiểu thuyết kiếm hiệp. Lại có cả trọn bộ “Cô gái Đồ
Long”. Buổi tối trong gia đình, tiếng thỏ thẻ của các em bé đọc tiểu thuyết Tàu
tạo nên một không khí ấm cúng. Rồi thì có bóng bàn, bóng rổ. Các ông “cụ non”
trong làng bắt đầu say mê những thứ giải trí mới, và bỏ dần uống rượu đánh bạc.
Chị Chín dọa các cậu “Tôi sẽ xúi con gái ở các làng bên không thèm lấy các cậu.
Lấy các cậu để rồi các cậu rượu chè be bét làm khổ gia đình ấy à. Mới mười ba,
mười lăm tuổi mà đã uống rượu”. “Đừng làm ác, chị Chín à; có cậu trả lời. Mà
thiếu gì con gái. Tụi tui sẽ đi cưới con gái làng thật xa. Nhưng mà nói chơi đó
chị Chín. Buồn thì tụi tui uống chút chơi, chớ có say sưa gì đâu. Bữa nay có giải
trí lành mạnh rồi thì không uống nữa cũng được”.
Cậu Mười của chúng ta ngày nay đã trở về làng rồi. Khỏi phải
nói, con em gái nó mừng hết sức Mười cũng đã trở lại nghề chài lưới. Những thời
gian còn lại trong ngày, nó dùng để hoạt động cho phong trào làng. Nó có vẻ đàn
anh lắm. Bọn trẻ con rất thích. Nó thích tổ chức thiếu nhi nông thôn, thích
chơi bóng chuyền; nó tập đánh đàn măng-đô và rất say văn nghệ. Giọng nó không tốt
lắm, nhưng nó rất ưa ca hát.
Steve ơi, tôi là người rất tha thiết đến việc làm làng nhưng
mà tôi thấy tôi thua kém thầy Tám cô Chín và rất nhiều người khác. Nhìn những
thắng lợi liên tiếp của những người trẻ có lòng kia, lòng tôi thấy phấn khởi và
hy vọng hơn. Thì ra rôi là người được thừa hưởng cái kết quả trước hết, chớ
không hẳn đã là người dân nông thôn. Anh được yêu mến, được chấp nhận, được tin
cậy. Anh lại sống có hy vọng, có ước mơ. Thế thì anh còn đòi hỏi gì nữa. Chính
anh là người thừa hưởng công trình của anh trước hết, bất cứ thứ công trình nào
mà anh có thể gọi là công trình. Điều đơn giản đó, gieo ngô được ngô, gieo đậu
được đậu, thế mà cũng phải lao đao lắm mới chứng thực được nó.
Steve ơi, cái không khí Phương Bối phãng phất ở đâu đây,
trong khi chính Phương Bối thì bị cô lập hóa trên miền núi rừng Bsu-Danglu lặng
lẽ. Có lẽ vì có những con chim cũ của Phương Bối hay lui tới, nhất là ở những
làng quê như làng này. Mà có lẽ là tại Phương Bối ngự trị nơi lòng của mỗi người.
Phương Bối là tình yêu. Là hy vọng. Một ngày nào đó chúng tôi mong sẽ được đoàn
viên trong chiếc nôi bông đá, hoa rừng và cỏ dại ấy. Những khu làng tương đối
yên tĩnh như khu làng này ngày mai có còn được yên tĩnh nữa không? Sự dựng xây
phải được thực hiện từng chút từng chút với tất cả công phu. Những sự phá đổ
thì không cần đi từng bước một. Một vài phút, một vài giờ đồng hồ, thôi thế là
tất cả tiêu tan. Chiến tranh không tôn trọng một giá trị nào, kể cả những giá
trị truyền thống và nhân dân. Và nhất là nó tiêu diệt hy vọng…
Chương 14
Trời nóng quá Steve ơi. Mỗi lần về được đến làng rồi tôi sung
sướng như là được bơi lội trong một giòng sông mát. Ở đây có nhiều gió. Nhìn đồng
lúa và rạch dừa xanh là có thể thấy thoải mái rồi. Cái nơi chúng tôi cư trú ở
Saigon thật là tệ quá. Nóng không chịu nổi. Chúng tôi ở tận trên gác nhì. Tràn
nhà bằng giấy và nẹp gỗ. Chật chội lắm. Thế đó mà không nóng bức sao được. Buổi
trưa chúng tôi cứ phải mặc áo ngắn xuống ngồi ở dưới gốc cây cau cho đỡ bức. Ăn
uống không được. Ông Tư hàng xóm xúi tôi đặt một cái máy lạnh trong phòng. Đặt
cái máy lạnh trong phòng thì tốn một số tiền nào đó, nhưng mà mình sẽ làm việc
bằng hai, thế có lợi không! Ông Tư nói tới chuyện lợi hại; ông cũng có lý một
phần nào đó. Quả thật trời nóng như thế chẳng viết lách soạn chấm gì được. Mình
cũng thấy bị xiêu xiêu. Nhưng mà nghĩ lại thì không được. Không thể nào được.
Không phải là vì cái máy quá đắt. Ông Tổng thư ký nói có thể mua một cái thứ ít
tiền được. Nhưng mà ở trong cái xóm nghèo đó mà mình có máy lạnh đặt trong
phòng thì thật là không biết đồng sự một chút nào. Thiên hạ sẽ nhìn bằng
con mắt gì. Cái xe hơi của trường là một cái xe cũ, cái mã của nó còn có thể chấp
nhận được không ai nói gì. Nhưng mà một cái máy lạnh, thì thật là… nhìn cao
quá. Tôi liền kiếm giải pháp khác. Phía trước có nhà anh Bảy, có gác. Ảnh độc
thân. Buổi sáng xách mô-tô đi làm, chiều tối mới về. Ảnh bằng lòng cho tôi sử dụng
nhà trong lúc ảnh đi vắng. Thế là tự nhiên tôi có cả một lâu đài. Lâu đài này rộng
chừng bốn thước dài chừng chín thước. Phía dưới mát hơn trên gác nhiều. Những
lúc cần viết lách, tôi sang bên ấy, với một chiếc chìa khóa anh Bảy cho. Khi
nào muốn trốn khách để có thì giờ làm việc tôi cũng sang bên ấy. Steve đừng lấy
làm lạ khi nghe tôi nói đến chữ “trốn khách”. Thường thường bên này mỗi khi đến
khách cứ đến tự nhiên, chứ không gọi điện thoại hay hẹn gặp trước. Vì thế mình
đi trốn chẳng có tội lỗi gì cả, chỉ trừ giờ mình phải ngồi ở chỗ bàn giấy. Tôi
ghét cái bàn giấy nhất, Steve à.
Chúng tôi cũng phác giác ra được một cửa hàng bán chè đỗ xanh
và chè bông cau nấu theo kiểu miền Trung. Tôi thì tôi thích hai thứ chè ấy lắm. Chè là
gì ấy hử? Chè là một thứ xúp ngọt. Biết cắt nghĩa làm sao. Cứ ăn mới biết ngon
chứ Nguyên Hưng nói “xúp ngọt” chắc Steve lắc đầu rồi. Họ cất chè trong tủ lạnh.
Mỗi khi trời nóng mà được ăn một hai chén (nhỏ xíu thôi) thì cũng ngon như là uống
nước dừa. Steve thèm nước dừa lắm phải không?
Giữa tôi và Nguyên Hưng có một sự khác nhau rất lớn - nói như
thế nghĩa là còn có nhiều sự khác nhau nhỏ hơn, đó là Nguyên Hưng thì ghét thức
ăn ngọt mà tôi lại ưa. Thành thử mỗi khi nhờ bé Tám mua về, chỉ có mình tôi ăn,
còn Nguyên Hưng thì ngồi ngó. Có khi bé Tám ăn với tôi. Có khi thì Mẫn hay
Toàn, nếu gặp dịp họ đến chơi. Toàn độ này coi sóc một nhà in, bữa trưa nào
cũng ghé tôi chơi. Và cũng thỉnh thoảng trả tiền chè bông cau hoặc chè đỗ xanh.
Còn Mẫn thì lo nhà sách với Tuệ. Tất cả đều có phận sự rồi, Steve.
Chiều hôm nay tôi ở lại ăn cơm ở đây, trong làng, với Quảng
và Thu hai công tác viên thường trực. Bà Bảy trong xóm mới đem cho chúng tôi
hai trái mướp ngọt và mấy lon nếp “gọi là ăn lấy thảo”. Quảng và Thu ở đây được
các bà chấp nhận như làcon cháu, hai trái mướp đắng nấu canh chắc ngọt lắm -ngọt
như là tình người dân quê đối với cái gì họ đã chấp nhận. Thu kể cho chúng tôi
nghe câu chuyện nhỏ sau đây. Tuy đơn sơ mà cảm động. Có một hôm đó, bác Bảy thấy
Thu làm việc tận tình, liền hỏi: “các cậu lương tiền gì bao nhiêu mà làm việc
giỏi quá vậy?” Thì vẫn là câu hỏi mà chúng tôi thường phải trả lời như sau: “Tụi
cháu làm công quả. Thầy tụi cháu dạy thời buổi này làm công quả trong làng
trong xóm giúp cho cô bác thì cũng có phước như làm công quả trong chùa. Tụi
cháu ăn cơm chùa, có chút ít tiền đi xe đò, chớ có lương tiền chi đâu bác.” Bà
Bảy hiểu ra ngay. Và bà nhìn Thu với cặp mắt trìu mến. Con trai bây giờ mà giỏi
thế. Mình tưởng bây giờ chúng nó hư cả rồi. Lo rượu chè, nhảy đầm, đi chơi chỗ
này chỗ khác. Ai ngờ còn có đứa ham làm công quả. Tôi thấy câu trả lời của Thu
thật là hay. Nó có giá trị của một cuốn sách thần học. Nó giải thích được
khuynh hướng “đi vào đời” của Đạo Phật Việt Nam, Steve có biết hai tiếng công
quả không. đó là hai tiếng bình dân dùng thay cho tiếng công đức Punya là
tiếng Sanskrit đấy. Ở bất cứ ngoi chùa nào ở Việt Nam, nhất là ở thôn quê, người
dân quê thường tìm những dịp rỗi rảnh đẻ lên chùa làm công quả, nghĩa là làm
giúp công việc cho chùa. Họ tin rằng làm công tác ở chùa là một điều tốt đẹp có
thể đơm bông kết trái vật chất và tinh thần cho tương lai con cháu họ. Bởi vì
chùa là của chung, và việc chùa là việc lợi ích chung cho tất cả mọi người, nhất
là đứng về phương diện siêu hình mà nói. Có người làm công quả một vài buổi. Có
người làm ba bốn ngày. Có người ở hàng tháng để làm công quả. Và có người tình
nguyện ở trọn đời. Như các “già” hoặc mấy “bà vãi” chẳng hạn. Họ ít học. Họ
không tu “huệ” mà là tu “phước”, nói theo danh từ nhà Phật thường dùng, trong
giới bình dân.
Làm công quả, nhưng mà không làm trong chùa nữa.
Làm công quả, nhưng làm ở trong làng trong xóm. Thu còn nói thêm thế này nữa
chứ: “Bây giờ người ta khổ nhiều quá, Phật cũng không ngồi mãi trong chùa; Phật
cũng đi ra ngoài xóm ngoài làng rồi”. Tôi cũng ngạc nhiên không biết tại sao
Thu nó nói được nhiều câu hay quá vậy. Phật không ngồi trong chùa nữa! Thật ra
tại giác ngộ ta đặt Phật trong chùa để mà thờ chứ Phật đâu có muốn ngồi trong
đó để hưởng xôi, chuối và hương hoa quả của thiên hạ. Những ông Phật như Phật
Dược Sư, Phật Quán Âm, làm sao mà ngồi nhà được. Phật Dược Sư ngồi hoài trong
chùa thì ai đi chữa bệnh cho thiên hạ thân bệnh và tâm bệnh? Phật Quán Âm, tức
là Quán Thế Âm thì chắc là phải đi hoài, bởi vì Quán Thế Âm là “lắng nghe tiếng
kêu đau thương của cuộc đời” mà tìm tới. Kinh Pháp Hoa đã chẳng định nghĩa như
thế sao. Vậy thì mấy người học trò của mấy ông Phật không không lý cứ ở lỳ
trong chùa khi các bậc thầy mình có mặt trong những nơi có khổ đau của cuộc đời
sao? Như thế không phải là học trò của mấy ông Phật mà chỉ làm nô lệ của những
pho tượng. Thu nó nói chí lý lắm. Chúng tôi chẳng cần những nhà thần học lớn
như Teillard de Chardin, như Karth Barth, như Buber; mà chúng tôi vẫn đang thực
hiện được cuộc cách mệnh giáo lý. Những người trẻ tuổi như Thu sẽ dẫn đầu những
trào lưu tư tưởng Phật học đấy, nghe không hả Steve thân yêu?
Ở Việt Nam, tôn giáo còn lại như những tập đoàn xã hội vững mạnh
hơn hết, bởi vì không khí chính trị và chiến tranh đã làm tan rã phần lớn những
thực tại xã hội khác. Với lại loạn lạc lâu quá khiến thiên hạ mất lòng tin ở mọi
chương trình, mọi hứa hẹn. Nhiều chính trị gia thiếu chân đứng muốn nương vào
các thế lực tôn giáo để… làm chính trị. Nghĩa là để mong nắm được quyền hành.
Nhưng có ít chính trị gia biết được thực chất của tiềm lực tôn giáo, cho nên chỉ
có người muốn lợi dụng mà ít có người muốn bồi đắp. Ít có người thấy được vai
trò mà tôn giáo có thể thực hiện trong giai đoạn lịch sử này, kể cả trong giới
những người lãnh đạo tôn giáo. chúng tôi đang trông cậy vào những lớp người trẻ
tuổi, có óc tiến bộ, dù là những người này không có chức vị lãnh đạo, tôn giáo
cũng vậy, đều bảo thủ, có nhiều tư kiến và nhiều lúc bị xem như là trở lực của
sự tiến bộ. Tuy nhiên, nhờ những phần tử tiến bộ giác ngộ hoạt động và tranh đấu
không ngừng, cũng nhờ những tiếng gọi cảnh cáo của thế lực đang lên cho nên các
vị lãnh đạo đã có bừng tỉnh lên đôi chút, và đã thúc đẩy cho những con rùa bò
thêm một quãng đường. Tôi muốn nói những hoạt động của giới trí thức cần gia
tăng gấp bội để có thể thay những con rùa bằng những con ngựa.
Steve ạ, đừng có nghe báo chí nói rằng Phật giáo và Công giáo
ở Việt Nam chống nhau. Họ nói đùa đấy! Những người mê ngủ trong Phật giáo với
Công giáo à? Họ giống nhau như đúc. Họ hành động và suy tư giống nhau như đúc.
Cho nên họ ở chung một nhà và theo chung một thứ tôn giáo thì hợp lắm đấy. Còn
những người biết thời biết thế, những người có tầm con mắt nhìn xa, biết thừa
nhận lẽ phải và sự đối thoại những người đó dù mang danh hiệu tôn giáo khác
nhau mà cũng đứng sát cánh với nhau. Chỉ có sự chống báng giữa sự bưng bít và sự
tiến bộ, giữa sự lười biếng và ích kỷ và sự dấn thân can đảm, thế thôi.
Lực lượng của những đức tin lớn ở Việt Nam nếu được động viên
vào công việc cải tiến xã hội sẽ thực hiện được phép lạ. Và như Steve thấy, những
lực lượng đó cần hợp tác trước hết để chấm dứt cho được cuộc chiến tranh khốc hại.
Steve ơi, viết cho Steve tới đây, đột nhiên hình ảnh hàng cây
trụi lá của mùa Đông Priceton hiện về rất rõ trong óc tôi. Chúng tôi đang trải
qua một mùa Đông thật gian khổ, thật lạnh lẽo và thật đen tối, một mùa Đông dài
dặc chưa biết bao giờ chấm dứt. Những con chim có vững cánh chở được niềm tin để
vượt cánh đồng dài tuyết giá hay không? Chúng tôi muốn tất cả gia đình nhân loại
không bỏ quên chúng tôi. Chúng tôi là những hàng cây trụi lá đứng chịu trong
sương tuyết đêm ngày, phấn đấu để đợi chờ nắng ấm của một mùa xuân xa lơ xa lắc.
Steve, trời đang đổ một trận mưa lớn. Ở Saigon phòng tôi chắc
chắn lại dột. Không phải là vì mái tôn bị thủng mà tại vì nước mưa tạt ngang luồn
qua trần nhà rồi rịn qua kẻ hở của trần nhà làm bằng bìa cứng có nẹp gỗ. Tôi phải
lấy nhiều thứ để hứng kẻo ướt nền nhà. Nào chậu thau, nào ly uống nước, nào ống
đựng bút… không có tôi ở nhà, chắc là phòng ướt hết rồi. Giờ này gần hai trăm
khóa sinh trường xã hội chúng tôi đang ở trong các trại thực tập miền quê.
Steve ơi, ngày mai sẽ ra sao, điều đó tôi không thể nào nó
cho Steve nghe được. Nhưng mà dù cái gì xảy đến cho tôi, cho chúng tôi, hay cho
Steve, tôi tin cái đó cũng sẽ không thể làm lay đổ đức tin của chúng ta. Bởi vì
đức tin của chúng ta không phải đã được căn cứ trên một điểm tựa di động và vô
thường. Đức tin của chúng ta không bắt nguồn từ những nhận thức siêu hình. Đức
tin của chúng ta là sức mạnh của tình yêu, một thứ tình yêu không có điều kiện,
không cần sự đền đáp, không bao giờ bị lay đổ bởi một sự phụ bạc. Tôi muốn đề cập
tới vấn đề mà lâu nay tôi muốn nói cho Steve nghe nhưng chưa có dịp nói. Một lần
nào đó tôi có nói với Steve là ta phải ươm vấn đề của ta trong chính bản thể
ta, linh hồn ta, xương máu và tủy não ta. Rồi tự nhiên một ngày nào đó thấy được
những liên hệ giữa nhận thức và hành động. Nhận thức ở đây không phải là phần
kiến thức suy luận. Nhận thức đây là tất cả cảm thụ và sở nghiệm tâm linh – điều
mà ta khó có thể chia xẻ với kẻ khác bằng phương tiện diễn tả ngôn ngữ và khái
niệm. Cái tình yêu mà tôi nói đây nó sinh trưởng trên căn bản tâm lý của chúng
ta, đã đành rồi, nhưng mà lạ thay, sự tàn hoại hoặc dần dần hoặc đột ngột của
căn bản tâm lý sinh lý ấy cũng không có ảnh hưởng gì đến nó. Tôi muốn nói đến
tình yêu mầu nhiệm ấy. Trong trường hợp tình yêu người đời thường nói, sự phụ bạc
hoặc sự phơi bày trắng trợn mặt thật của đối tượng yêu thương có thể khiến cho
tình yêu bốc khói. Nhưng ở đây, tình yêu không bao giờ bốc khói, không bao giờ
suy suyển một hào ly, bởi vì tình yêu đó dã tới một đối tượng vô ngã.
Steve ơi, tôi muốn kể Steve nghe câu chuyện này. Năm kia, khi
ghé Luân Đôn, tôi được đi xem British Museum. Trong những thứ tôi để ý nhất, có
một xác người hóa thạch trong một ngôi mộ cát, chôn cách đây gần năm ngàn năm
nghĩa là 3000 năm trước Thiên Chúa giáng sinh. Kiểu chôn thời ấy khác xa với kiểu
chôn bây giờ. Người ta đặt xác người chết khum nghiêng nghiêng, hai gối co lên,
mặt, hai tay và hai chân đều quay về phía tay trái. Xác người hóa thạch còn giữ
được nguyên vẹn mọi chi tiết. Tôi thấy những lọn tóc - đây là xác đàn ông -,
tôi thấy mắt cá nơi hai chân, tôi thấy những ngón tay ngón chân nguyên vẹn. Năm
nghìn năm, người ấy đã nằm như thế và sức nóng của cát trong buổi đầu dã giúp
người hóa đá. Đây không phải là xác ướp đâu. Steve đừng lẫn lộn. Tôi thích đứng
ngắm cảnh tượng này và trong lòng cảm thấy một thứ rung động khó tả. Một em bé
đi với tôi, chừng tám tuổi, xinh đẹp, ngắm cảnh tượng ấy một hồi rồi bá lấy áo
tôi hỏi một cách lo lắng: “Will happen to me? Rồi con có bị vậy không, hở
ông?” Tôi rùng mình, nhìn lại nụ hoa nhân loại mơn mởn, yếu đuối và nhỏ bé
không một khí giới tự vệ đó, dù là khí giới tư tưởng, và vội vàng trả lời:
“Không, không, không bao giờ con lại bị như thế đâu”. Em bé an lòng; tôi vội
kéo em đi sang phòng khác. Tôi đã nói dối một điều mà Xa Nặc ngày xưa đã không
nói dối.
Nhưng mà ngày mai lại, công việc bề bộn làm tôi quên khuấy đi
mất cái thân người hóa thạch kia. Rồi mấy tuần sau đó, tại đường Doudeauville
Ba Lê, họp mặt với các bạn sinh viên bên đó, tôi được vặn cho nghe vài bản nhạc
Việt Nam của ban Thăng Long trình diễn. Và trong một giây phút nào
đó, nghe giọng cô Thái Thanh, tôi bỗng thấy hiện ra rõ rệt tất cả những cordes
vocales nơi cổ họng của cô ca sĩ nổi tiếng mà tôi rất ưa chuộng. Tôi thấy được
hết những hạch tuyến nơi cổ họng, những tế bào, những bộ phận lớn nhỏ đã phụ họa
với nhau để phát ra những âm thanh trong, ấm, thanh tao và diệu kỳ kia. Tôi
chưa gặp Thái Thanh lần nào cả, Steve ạ. Hãy nghĩ rằng cô trẻ, đẹp và đằm thắm
như giọng hát của cô, và chỉ giữ lại từng đó thôi. Nếu ta nghiêng mình lệch đi
một tý, bình diện với thời gian thay đổi, thì cô Thái Thanh đã ở bên kia tự bao
giờ rồi, ví dụ năm ngàn năm về trước hoặc năm ngàn năm về sau. Băng nhựa không
phải là những tế bào sinh lý, không phải là những nước bọt, không phải là những
cordes vocales, không phải là những tình cảm len lỏi lả lướt trong giọng hát.
Nhưng băng nhựa cũng phát ra đúng những âm thanh mà cô Thái Thanh năm ngàn năm
trước đây đã phát ra bằng cổ họng xinh đẹp của cô. Băng nhựa đã giữ lại, và
băng nhựa giữ lại gì? hay là một lời nhắn nhủ, một tờ thông điệp có thể gây đau
nhức cho con người mà cũng có thể tạo nụ cười giải thoát trên môi con người? Một
trận gió thổi qua sa mạc, cát bụi tung trời. Tôi nhớ hai câu thơ của Thiền sư
Trần Thái Tông:
“Tam thời trần liễm thiên biên tĩnh
Nguyệt lạc trường giang dạ kỷ canh?”
Giây lát tan bụi, bên trời tạnh
Trăng lặng dòng sông đêm mấy canh?
Tối hôm đó tôi bị cảm hàn bởi hồi chiều tôi đã đi ra ngoài trời
lạnh có mưa tuyết. Nguyên Ân đánh gió cho tôi, bằng dầu cù là Mac Phsu. Thứ dầu
này có thể mua dễ dàng tại Paris. Tôi uống hai viên aspirine và đắp chăn kỹ lưỡng,
nhưng mà tôi không ngủ được. Một phần có lẽ vì cảm, một phần có lẽ vì aspirine
tuy có trị cảm nhưng lại giữ tôi thức giấc. Cái tật của tôi là uống aspirine
ban đêm thì lại thấy khó ngủ.
Tôi nằm trăn trở hoài và một lúc nào đó tôi bỗng thình cờ thấy
tôi đang nằm trong một tư thế giống hệt như tư thế của xác người hóa thạch ở British
Museum! Và tôi thấy bàn tay phải của tôi đang sờ nắn những bắp thịt này đã
cứng như những bắp thịt hóa thạch kia không. Cử chỉ ấy không được trí óc tôi điều
khiển. Nhưng hình như trí óc tôi khuyến khích bàn tay tôi tiếp tục như vậy. Điều
tôi muốn nói cho Steve nghe là tâm trạng tôi lúc đó bình tĩnh một cách rất lạ;
tôi không hề có một ý niệm xót xa, lo lắng hay đau buồn nào. Bỗng dưng tôi thấy
rằng giá tôi là thân người hóa thạch của 5000 năm trước đây hay 5000 năm sau
đây thì điều đó cũng không có khác chi với điều tôi đang ngồi đây hết. Tôi vẫn
cười như thường. Ý niệm về quá khứ, hiện tại và tương lai như bốc khói; Steve
ơi, tôi thấy tôi đứng thấp thoáng ở cửa ngõ của một thứ hiện tại thoát ly thời
gian, thoát ly mọi sự chuyển động.
Tôi chỗi dậy và ngồi trong tư thế tham thiền suốt một đêm đó.
Mưa như thác đổ trong tâm hồn tôi. Mưa như xối chảy. Những giọt nước to, những
dòng suối nhỏ tuôn ào ạt vừa gột rửa vừa vỗ về vừa thấm nhuần, vừa nuôi dưỡng.
Không còn gì hết, chỉ có sự vững chãi an tĩnh. Tôi ngồi như một trái núi đá, và
miệng tôi mĩm cười. Nếu có ai chứng kiến được những gì đã xảy ra cho tôi đêm đó
chắc người ta sẽ nói:”Xong, xong hết tất cả rồi! sáng mai sẽ có thay đổi lớn”.
Nhưng không có sự thay đổi nào hết, Steve thân yêu ạ. Lúc bảy giờ sáng, tôi lấy
giấy bút ghi lại một vài nét những điều còn rạt rào trong tâm hồn. Những vần
thơ lạ kì đó tôi vẫn còn giữ đây. Và buổi sáng mai tôi ăn điểm tâm với các bạn,
bình thản như không có chuyện gì xảy ra trong đêm qua hết. Và chúng tôi bàn
tính công việc. Vẫn là những công việc đã dự trù từ những ngày hôm qua. Những
công việc cho tương lai. Steve nghe không Cho tương lai. Nghĩa là tôi đã
được đặt trở lui trên bình diện không thời gian ước lệ cũ.
Tôi bàn với các bạn trẻ về từng chi tiết của công việc, và
chính tôi cũng ngạc nhiên không hiểu tại sao tôi lại có thể làm công việc đó,
công việc mà người chứng kiến hiện tượng đêm qua có thể xem như là không dính
líu gì tới con người đương sự hết. Đối với đêm qua, tất cả công việc hôm nay phải
hoa đốm hư không. Đứng ở hôm qua nhìn thì nó khác. Đứng hôm nay nhìn thì nó
khác. Nó không phải hoa đốm hư không. Có một điều rất rõ rệt là tuy tôi đề cập
đến mọi chi tiết của công việc một cách kỹ lưỡng, để hết tâm ý vào chúng, nhưng
tâm hồn tôi lúc đó thật là bình thản, thanh tịnh, không náo nức, không khiếp sợ,
không lo lắng. Tôi thấy tôi có thêm nhiều sức mạnh và tâm hồn tôi được gạn lọc
trong sạch hơn nhiều.
Steve, một đêm như thế quả có thể thay đổi được cả cuộc đời
chúng ta. Và một đêm như thế lại sẽ mở cửa cho những đêm khác như thế. Tôi sẵn
sàng để trở lại. Tôi thấy diện mục của tôi nó phảng phất đâu đay. Lần đó tôi
suýt tóm được được nó. I was about to break through.
Vấn đề liên hệ giữa cái thế giới nội tâm và thế giới hành động,
Steve ơi, có thể vì câu chuyện vừa kể của tôi mà sáng tỏ ra chút ít đối với
Steve nghe hồi nầy đó, nó nằm ở đâu? Có lẽ những dòng tôi viết thật bất lực. Mà
thôi có lẽ Steve cũng không cần thắc mắc làm gì. Ngày mai, nếu thế giới yên
lành, Steve sẽ về thăm Phương Bối. Phương Bối ngày xưa tạo dựng cho chúng tôi
tình yêu, Phương Bối có lẽ sẽ cắt nghĩa cho Steve một cách dễ dàng và thông suốt
hơn. Tại vì Phương Bối có bông đá, có hoa rừng, có cỏ dại. Phương Bối có một
cái nhà Thượng đã bị cháy tiêu tan, chỉ còn một đống than đen với những xác cột
cháy nám đó bây giờ có lẽ đã mọc lên nhiều thứ nấm dại.
Tuy vậy nhà Thượng Phương Bối vẫn còn. Cũng như tình hình yêu
vẫn còn, bất chấp vô thường, bất chấp vô ngã, bất chấp tham vọng si mê và sự độc
ác. Ngày mai, nếu chúng tôi có cháy thành tro bụi thì tro bụi ấy cũng sẽ là
tình yêu. Chúng tôi, lúc đó là tro bụi, sẽ thấm vào lòng đất, sẽ làm chất bón
tươi tốt cho một loài hoa, nở những bông hoa cho loài người, những bông hoa
không biết oán thù là gì. chúng tôi sẽ luân hồi trở lại bao nhiêu lần, hoặc là
hoa, hoặc là cỏ, hoặc là chim, hoặc là mây, hay trong bất cứ hình thái nào, hiện
tượng nào. Chúng tôi muốn trở lại hoài, trở lại để mà mang đến cho con người bức
thông điệp tình yêu bất diệt ấy. Cũng như bọn trẻ con đang nghêu ngao hát ngoài
đường: “Yêu mến người mãi mãi, yêu mến người không thôi, yêu mến người tay nắm
tay”. Tạm biệt Steve.
Đoạn khép
Nguyên Hưng ơi, tập viết tay kèm theo đây là phần thứ ba của
nẻo về của ý đấy. Tôi giao nốt lại cho Nguyên Hưng. Tập này xem bộ in không được
đâu, bởi vì có nhiều điều nói thẳng quá. Tuy vậy nếu in không được thì Nguyên
Hưng cũng trao bản thảo cho những người thân yêu nhất đọc. Tôi ước mong rằng nó
có thể nói được với các bạn một chút nào về cái “Ý” của tôi.
Nhưng mà tôi lạc quan mất rồi, Nguyên Hưng. Ở cái chương cuối
viết cho Steve, tôi có ý định giải bày một vài chút “tâm sự” liên hệ tới nguyên
tắc hành động của chúng ta, nhưng đọc lại tôi thấy tôi chẳng nói được gì cả. Thật
là tệ. Có lẽ vì trời nóng quá chăng, hay tại vì tôi không được khỏe. Chiều mai
tôi đi phải đi xa rồi, và tôi rất ước ao nói với Nguyên Hưng điều mà tôi đã từng
muốn nói với Steve mà nói chưa được, hay nói không được.
Đêm nay, trời sáng tỏ một cách kỳ lạ. Tôi chưa đi mà đã nhớ
nhà rồi. Nhưng mà ở đâu cũng có từng này ngôi sao, ở đâu cũng có chút trời xanh
và mây trắng hả Nguyên Hưng. Tôi đi rồi tôi lại về thì có sao đâu. Lòng tôi hơi
xao xuyến một chút, nhưng mà vẫn yên tĩnh. Tôi muốn nói chuyện với Nguyên Hưng
trong khung cảnh thanh tịnh này, và ngòi bút của tôi sẽ trở lại gạch những chữ
Nguyên Hưng trên giấy trắng.
Những điều ta học được, ta phải liệng chúng đi thì ta mới có
thể hiểu được chúng. Cũng như kinh Kim Cương nói A mà không phải là A thì mới
là A. nghĩ cũng kỳ quái thật, nhưng mà càng sống chúng ta càng thấy đúng Nguyên
Hưng ạ. Học chúng nó rồi mà giữ chúng nó trong lòng là một tai họa còn tệ hơn
là không học. Những điều tôi học ở Phật học viện bây giờ bị lật ngược lại hết
và tôi thấy lúc đó tôi mới hiểu được chúng.
Đây là tôi với Nguyên Hưng, chớ không phải nói với kẻ khác.
Và những điều tôi nói với em, nếu người khác nghe được, sẽ hiẻu ra cách mà tôi
không muốn họ hiểu. Nhưng mà mặc họ chứ, có phải không Nguyên Hưng. Kỳ ở Huế về
vừa rồi thấy những đám mây trắng đẹp quá đi. Tôi ngồi trên một chiếc DC4.
Buổi chiều, ánh nắng vừa tắt nhưng ánh sáng còn dư dã để
cho ta có thể thấy được sắc dịu hiền và trinh tuyền của những lọn mây. Cái
thảm mây đó nó nằm phía dưới máy bay chúng tôi. Nó rộng lắm. Từng lọn từng lọn
nối tiếp nhau, che khuất núi rừng phía dưới. Những lọn mây trắng như tuyết.
Trinh tuyền hơn cả tuyết. Tôi muốn vốc chúng trong hai lòng bàn tay. Và bổng
nhiên tôi thấy tôi với mây là một, tôi cũng trắng tinh và êm dịu như mây.
Điều đó thường quá mà, phải không Nguyên Hưng. Tại sao chúng
ta ưa những cuộn mây trắng nõn và những tấm thảm tuyết trình tuyền? Tại vì cái
khuynh hướng của bản chất sinh lý và tâm lý của ta nó thế. Ta ưa những cái gì
tinh sạch, đẹp đẽ và an lành. Tinh sạch, đẹp đẽ và an lành theo nhận định và lập
trường của cơ thể ta, tâm lý ta, chớ không hẳn là tính sạch đẹp đẽ và an lành
như những tính cách khách quan của thực tại. Ưa một tờ giấy trắng, ưa một dòng
nước trong, ưa một nét nhạc mềm hay ưa một thiếu nữ xinh đẹp thì cũng vậy,
không có khác nhau gì hết trên căn bản tâm lý của con người. Nguyên Hưng chẳng
thường nghe người ta đem tuyết đem trăng đem hoa để tả người con gái đẹp sao.
Nhất là khi người con gái có vẻ hiền thục thì người ta lại ví đó là Tiên là Phật
bởi vì Tiên Phật vừa đẹp lại vừa hiền. Và bên dưới những cái thiên hạ cho là đẹp
là sạch là lành thì người ta còn tham lam đặt thêm nền tảng của sự thường còn.
Đó là do nhu yếu của con người mà ra cả. Con người ưa cái gì thanh sạch, đẹp đẽ,
hiền lành, và ưa những cái ấy thuộc về mình, đồng nhất với mình, và thường còn
với mình. Thế rồi phía bên kia còn gì? Phía bên kia còn trái ngược với sự trong
sạch tức là sự ô uế, sự trái ngược với sự đẹp đẽ tức là sự xấu xí, sự trái ngược
với sự hiền lành là sự ác độc và sự trái ngược với sự thường còn tức là sự tiêu
diệt tức là vô thể.
Và do đó có một sự vật lộn để tìm sang bên này, xua đuổi bên
kia. Cho đến nỗi mà trong kinh Phật có khi người ta phải đùng bốn đức Thường Lạc
Ngã Tịnh (Hữu thể, An lạc, Tự do, Thơm sạch) để miêu tả Niết bàn rồi sau đó phải
thêm rằng phải hiểu những chữ đó theo hiểu nhất nguyên siêu tuyệt của nó mà đừng
hiểu theo nghĩa tương đối trong thế giới hiện tượng. Điều đó chứng minh rằng
con người chúng ta đã bị ám ảnh quá nhiều bởi ý tưởng về hạnh phúc ước lệ trên
kia.
Đột nhiên kinh Bát Nhã tới giáng những đòn sống chết trên nhận
thức đó. Quán Tự Tại Bồ-tát sau khi nhìn thấu suốt thế giới hiện tượng mỉm cười
tuyên bố “Tất cả đều giả lập (không) hết. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhãn,
nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, vân vân… đều là giả lập.
Và: “Chân tướng của các giả lập đó không sinh cũng không diệt, không ô uế cũng
không tinh sạch, không thêm cũng không bớt đi” còn gì nữa mà nghi ngờ hả Nguyên
Hưng. Đó là điều tôi trông thấy trên máy bay, mà trông thấy từ một khía cạnh
khác. Trông thấy như thế nào? Nguyên Hưng ơi em hãy nhìn và em sẽ thấy, hỏi tôi
làm chi. Tôi chẳng nói được chi cả, bởi vì không có gì mà nói.
Ban đầu thì tôi mỉm cười nghĩ đến những hình thái của nước:
nước trong, nước suối, nước đá, hơi nước, mây, tuyết, mưa vân vân… Tất cả đều
là H2O. Mà chính là H2O cũng giả lập - cũng không phải là thực thể tự hữu - lấy
O mà xét thì O có thể được chuyển thành những cái ta không gọi là O. Và
chính những cái đó cũng là giả lập. Cũng là chuyển thành. Nương tựa vào nhau,
trùng trùng điệp điệp. Không thể tách O ra khỏi không O, không
thể nói O và không O là một, Nguyên Hưng à.
Trên cái căn bản di động đó, ta thường cố nắm lấy một cái gì
không di động. ví dụ tôi đặt cho tôi một câu hỏi: anh cho hiện tượng nào là đẹp
nhất? Tôi nói nước. Đẹp quá. Nước trong như gương. Tuyết phủ trên đỉnh núi. Mây
từng cuộn trắng hay ngoài bãi biển. Mưa rào rào thấm nhuần cây cối xanh tươi. Nếu
thiếu nước, thế giới này điêu tàn, khô cằn héo hon, buồn bã biết mấy. Cho nên
tôi thấy Nước đẹp. Thế rồi tôi hỏi: Ví dụ không có lửa, nghĩa là không có nhiệt
lực, không có hơi ấm, không có ánh sáng mặt trời? Thiếu ánh sáng chẳng hạn thì
cái gì đẹp, cái gì không đẹp. Cái gì trong như gương, cái gì phủ trên núi, cái
gì bay bay ngoài bãi biển, cái gì rào rào thấm nhuần cỏ cây xanh tươi? Óc tôi
lóe thấy sự thực, nhưng mà tôi đã mê Nước rồi, tôi đành nhắm mắt nói liều: mặc
kệ, tôi có nói là tôi ưa Nước nhất. Thật là vô minh, có phải không Nguyên Hưng.
Trong quá trình tuyên dương chuyển biến của các giả lập các
hiện tượng - ta thấy có luân hồi. Chắc Nguyên Hưng đã liệng bỏ cái cái ý niệm
luân hồi trẻ con ngày trước đi rồi, cái ý niệm đinh ninh rằng phải có gì đó.
Như O hay cái H tôi vừa nói trên thì mới có luân hồi được. Nhưng trên sự thực
chẳng có cái O cái H tự thân nào mà cả thế giới giả lập vẫn diễn biến mầu nhiệm.
Luân hồi đó chớ gì, nhưng nếu nhìn thấu suốt ta sẽ không thấy có gì thường hay
vô thường, tinh sạch hay ô uế, hiền lành hay ác độc, đẹp đẽ hay xấu xí. Đừng có
nói cho trẻ con biết điều đó bởi vì chúng sẽ nói: không có hiền ác, không có tốt
xấu và không có luân lý. Trẻ con chưa có mở mắt ở thời nào cũng vậy.
Nguyên Hưng ơi, giữa cái tinh sạch và cái ô uế, giữa cái đau
khổ và cái sung sướng, giữa cái hiền lành và cái độc ác, mình theo cái nào?
Nghe hỏi mà buồn cười, phải không Nguyên Hưng? Theo cái tinh sạch, cái sung sướng,
cái hiền lành thì mình phải đập tan và tiêu diệt cái ô uế, cái đau khổ và cái độc
ác. Mà tiêu diệt chúng được chăng. Nếu “cái này có là nhờ cái kia có”, thì cái
trong sạch cũng do cái ô uế mà có. Tiêu diệt cái ô uế tức là tiêu diệt luôn cái
trong sạch, vì lẽ “cái này không thì cái kia không”. Kết luận là nên dung dưỡng
cái ô uế, cái độc ác và cái đau khổ hay sao?”
Nhưng mà Nguyên Hưng ơi, tất cả những cặp đối nghịch đó chính
đã là do chúng ta tạo nên bằng nhận thức của chúng ta, bằng lập trường sinh tâm
lý của chúng ta. Hoan lạc và đau khổ trở nên những đại vấn đề. Nếu được như
Quán Tự Tại soi thấu được chân tướng thực tại, thì những đau khổ tai nạn bốc
khói bay mất. “độ nhất thiết khổ ách”. Cho nên hãy nhìn nụ cười đức Phật. Nụ cười
đó trầm lặng thật, từ bi thật nhưng mà… coi thường chúng ta quá. Đó là một cách
nói mà thôi bởi chính Phật đã nhờ đức Thường Bất Khinh Bồ-tát nhắn với mỗi người
chúng ta rằng Ngài… không dám khinh chúng ta đâu, bởi vì tất cả chúng ta đều sẽ
thành một vị Phật.
Có lẽ cái cảm tưởng trẻ con của tôi về nụ cười của Ngài là do
một thứ mặc cảm tự ti lâu ngày tạo nên - chớ không phải tự tôn. Nguyên Hưng nhớ
nhé. Trước nụ cười của người thấy được Niết bàn và Sinh tử đều là hoa đốm giữa
hư không, ta cảm thấy ta bé nhỏ quá, vụng về quá, ngu si quá. Ngài thương chúng
ta không phải vì chúng ta không thấy đường cho nên bị đau, thế thôi
Từ hồi nhỏ, tôi đặt vấn đề bản chất của lòng từ bi, và tội
nghiệp cho tôi, tôi chỉ học được và nếm được chút ít từ bi sau này không phải
nhờ học tập hay nhờ đặt vấn đề mà nhờ khổ đau. Tôi không tự hào về chút khổ đau
ấy; cũng như có ai tự hào về tiếng hét to sợ hãi của mình khi mình nhận lầm sợi
giây là con rắn. Khổ đau của tôi cũng chỉ là sợi giây, cũng chỉ là hoa đốm giữa
hư không, đáng lẽ nó phải tan biến như mây khói khi mặt trời lên! Nhưng mà nó vẫn
chưa tan biến thành mây khói cho nên anh vẫn đau khổ và anh chịu không nổi nên
anh tự vùng vẫy. Vậy Phật có thấy anh đau khổ không. Phật có chịu nổi khi thấy
anh đau khổ không mà ông ngồi cười hoài vậy? Tôi lý luận rằng tình thương là phải
có chấp thủ, tình thương nào cũng vậy, tình trai gái yêu nhau, tình mẹ thương
con, tình nước non, tình nhân loại, tình chúng sinh, nghĩa là cả từ bi. Bởi vì
thương ai, lo lắng cho ai anh cũng phải thao thức, mong mỏi, không thể lãng
quên. Thế thì trông thấy chúng sinh đau khổ vô lượng vô biên thế kia, Phật cũng
lo lắm chứ sao mà ngồi cười được hoài. Thật ra thì mình tạc tượng Ngài ngồi cười.
Nhưng mà có phải hầu hết những đêm thức khuya, những lo lắng và thao thức của
người có tình thương đều phát sinh vì người đó còn là người trần mắt thịt, đối
với thực tướng vũ trụ vẫn còn “mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm” không? một ông
bác sĩ biết rõ tình trạng bệnh nhân thì không ngồi giả định thế này thế kia để
tạo ra một trăm ngàn giả thuyết và lo lắng như người thân nhân của bệnh nhân.
Và nếu biết bệnh sẽ qua, thì ông có thể cười. Nhưng không phải là nụ cười độc
ác. Đó chỉ là nụ cười của người biết chuyện, không còn phải lo hão huyền
vô ích. Đại bi, maha karuna bản chất của nó, Nguyên Hưng ơi, làm sao
tôi diễn tả cho được?
Nguyên Hưng, sự thực nằm ở đó, em làm quen với nó đi. Chỉ khi
nào em bắt đầu thấy được giữa bùn đen kia với tuyết trắng nọ không có cái gì xấu
cái gì đẹp, chỉ khi nào em biết bắt đầu nhìn sự thật với tâm niệm không phân biệt,
nghĩa là biến kế, thì em mới có thể nếm được thế nào là đại bi.
Dưới con mắt của đại bi, không có tả không có hữu, không có
thù không có bạn, không có thân không có sơ. Mà đại bi không phải làvật vô tri.
Đại bi là tinh lực màu nhiệm của sáng chói.
Vì dưới con mắt của đại bi, không có cá thể riêng biệt của
nhân ngã nên không có một hiện tượng nhân ngã nào động tới được đại bi.
Em ơi, nếu con người có độc ác đến nước móc mắt em hay mổ ruột
em và em cũng nên mỉm cười và nhìn con người bằng cặp mắt xót thương; hoàn cảnh
tập quán và sự vô minh đã khiến con người hành động như thế.
Hãy nhìn con người đã đành tâm tiêu diệt em và đang tạo nên
cho em những oan ức khổ nhục lớn lao như trăm ngàn quả núi, hãy nhìn con người ấy
với niềm xót thương. Hãy rót tất cả niềm xót thương từ suối mắt em vào người đó
mà đừng để một gợn oán trách giận hờn xuất hiện trong tâm hồn. Vì không thấy đường
đi nước bước cho nên cái người làm khổ em mới vụng dại lỗi lầm như vậy.
Giả sử một buổi sáng nào đó em nghe rằng tôi đã chết tăm tối
và tàn bạo vì sự độc ác của con người, em cũng nên nghĩ rằng tôi đã nhắm mắt với
một tâm niệm an lành không oán hận, không tủi nhục. Em nên nghĩ rằng giờ phút
cuối tôi cũng không quay lại kẻ thù ghét con người. Không, con người chẳng bao
giờ đáng cho ta thù ghét. Nghĩ như thế chắc chắn em sẽ mĩm cười được, rồi nhớ
tôi, đường em, em cứ đi. Em có một nơi nương tựa mà không ai có thể phá đổ và
cướp giật đi được. Và không ai có thể làm lay chuyển niềm tin của em, bởi vì niềm
tin ấy không nương tựa nơi bất cứ một giả lập nào của thế giới hiện tượng. Niềm
tin ấy và tình yêu là một, thứ tình yêu chỉ có thể phát hiện khi em bắt đầu
nhìn thấu qua thế giới hiện tượng giả lập để có thể thấy được em trong tất cả
và tất cả trong em.
Ngày xưa, đọc những câu chuyện như câu chuyện đạo sĩ nhẫn nhục
để tên vua cường bạo xẻo tai cắt thịt mà không sinh lòng oán giận, tôi nghĩ đạo
sĩ không phải con người. Chỉ có thánh mới làm được như vậy. Nhưng
Nguyên Hưng ơi tại lúc đó tôi chưa biết đại bi là gì. Đại bi là sự mở mắt trông
thấy. Và chỉ có sự mở mắt trông thấy tận cùng mới khiến cho tình thương trở
thành vô điều kiện, nghĩa là biến thành bản chất đại bi. Đạo sĩ nhẫn nhục kia
đâu có sự giận hờn nào mà cần nén xuống? Không, chỉ có lòng thương xót. Giữa
chúng ta và vị đạo sĩ kia, và vị Bồ tát kia, không có gì ngăn cách đâu, Nguyên
Hưng. Có thể tình yêu đã dạy cho em rằng em có thể làm được như Người.
Thôi em đã lớn rồi tự lo liệu lấy.
Chiều mai tôi phải đi rồi. Những giòng chữ viết đêm nay, tôi
sẽ không có thì giờ đọc lại. Nguyên Hưng, cho tôi dừng ngang đây. Ngày mai tôi
sẽ còn gặp em trước khi lên đường.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét