Cây bần trong văn hóa dân gian
Tây Nam bộ
1. Hình dáng cây bần và giai thoại, cổ
tích, ngụ ngôn, ca dao, liên quan đến cây thủy liễu
Theo Cơ sở văn hóa Việt Nam của
Trần Quốc Vượng (chủ biên), phần được coi là Tây Nam Bộ có diện tích khoảng
4.000 km2, chủ yếu là vùng đồng bằng sông Cửu Long, một số đảo (lớn
nhất là đảo Phú Quốc) cùng một vài dãy núi thấp ở phía Tây An Giang, Kiên
Giang.
Sông Mê Kông chảy vào vùng đất
phương Nam chia ra làm hai nhánh Tiền Giang và Hậu Giang rồi hóa chín
rồng tuôn ra biển. Nằm giữa hai nhánh sông lớn có đến 4.000 kênh rạch với chiều
dài tổng cộng khoảng 5.700 km. Câu nói, ở xứ này bước ra cửa là gặp sông nước
mênh mông, phản ánh đúng thực trạng ấy.
Vùng Tây Nam Bộ có độ cao trung bình gần
2m, là vùng đất phù sa mới. Dọc theo các kênh rạch vừa đề cập cũng như ở các
cửa sông, cửa biển phù sa đặc quánh ngày đêm bồi đắp cho vùng đất trũng, những
cánh đồng ngập sâu dần dần hóa thành những bãi bồi, cây cối mọc xum xuê. Đi
tiên phong trong quá trình “lấn biển” ấy là đước vẹt. Còn ở ven sông, rạch thì
bần, mắm, dừa nước, ô rô, cóc kèn, choại, ráng,… đua nhau chen chút tạo thành
một mảng sinh thái đặc trưng. Trong khuôn khổ bài viết viết này, chúng tôi xin
khảo sát hình ảnh cây bần trong đời sống thường nhật của bà con nông dân miệt
đất Chín Rồng.
Theo Việt Nam tự điển của
Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, cây bần: Cũng gọi là thủy liễu, loại cây to
mọc dựa bờ nước, lá nhiều, nhành yếu, bông trắng, trái tròn dẹp, có đài dầy,
nhọn ở gần cuống, ăn chua và chát (Sonneratia).
Xuất phát từ cái tên bần đồng âm với sự
nghèo túng, bần cùng, mà người Nam bộ đã đặt câu đố về nó:
Giống chi toàn là giống đực
Thiếu tứ bề cam cực chung thân?
Giống đực là bởi ở loài cây này, luôn có
một phần của rễ mọc ngoi lên mặt đất để hút dưỡng khí, dân gian gọi là “cặc
bần”. Từ đó, người ta cho rằng bần không có giống … cái!
Bần ơi, ơi hỡi cây bần
Lá xanh bông trắng lại gần không thơm
Hình dáng của cây bần đã thể hiện khá rõ
nét qua câu ca dân dã ấy!
Cây bần gắn liền với cái tên thủy liễu đầy
thơ mộng bởi một giai thoại liên quan đến vua Gia Long trong những ngày gian
khó. Dân gian miệt cù lao Bến Tre kể: Khi chạy lánh Tây Sơn, có lần thuyền chúa
Nguyễn lạc vào rạch Ụ, Cái Mít (thuộc Hàm Luông ngày nay), phải nhờ gia đình
ông Trần Văn Hạc, là cai việc trong làng “bữa cơm”. Tình thế bất ngờ, lại phải
“bảo mật”, chúa Nguyễn nói với gia chủ:
- Tôi chỉ muốn xin bữa cơm đạm bạc, có gì
ăn nấy vì tôi phải đi thật gấp!
Ông cai Hạc suy nghĩ: nếu làm thịt gà,
thịt vịt thì tốn thời giờ. Giết heo lại càng lâu lắt và lộ bí mật. Đích thân
ông Cai vào bếp, giở hũ mắm sống rồi ra ngoài bãi hái mấy trái bần mới vừa chín
cây.
Có lẽ, đó là lần đầu tiên và cũng là duy
nhất Nguyễn Ánh được thưởng thức món ăn như vậy. Mùa vị vừa chua, vừa chát của
bần, mùi vị đặc trưng của mắm và có lẽ quan trọng nhất là bụng đói cồn cào sau
bao ngày chạy loạn, khiến vị vua cảm thấy thích thú:
- Trái chi mà ngon vậy?
Cai Hạc kính cẩn thưa:
- Muôn tâu, tên trái ấy nghe dân dã quá,
kẻ bề tôi chưa tiện thưa qua ạ!
- Cứ nói, đừng sợ chi cả!
- Thưa, trái bần ạ!
Nghe xong, Nguyễn Ánh cười, bảo:
- Trong lúc gian truân này ta mới hiểu
trái bần thật ngon lành, nó chẳng kém gì cam quýt, nhãn, hồng.
Vừa nói, vị vua thuở hàn vi liếc mắt nhìn
rặng cây bần mọc hoang trung trùng điệp điệp trước nhà, lá bần xanh mượt gờn
gợn thật thơ mộng. Hơn thế, từng chùm bông bần đung đưa, khoe nhuỵ trắng hồng
vương bay theo gió.
Vua bèn phán:
- Cây này giống như cây liễu, trong Đường
thi, Tống phú. Cây liễu ở Trung Hoa mọc trên đất cao, cây liễu xứ ta mọc trên
bãi bùn, dầm chân trong nước mặn mà lá vẫn tươi xanh. Từ nay, ta gọi nó là thuỷ
liễu, tức cây liễu mọc dưới nước nhé!
Vậy là, từ đó bần có một loài tên không
kém phần vương giả!
Đóm đeo thủy liễu đôi chùm
Biết ai nhơn đạo chỉ giùm làm ơn.
Ở hạ lưu sông Vàm Cỏ Tây (huyện Vàm Cỏ,
Long An) có miếu thờ ông Mai Công Hương, dân gian quen gọi là “miếu Ông Bần
quỳ”. Theo Huỳnh Ngọc Trảng trong Ngàn năm bia miệng, (Sở Văn hoá
và Thông tin Long An, in năm 1984), thì từ khi Mai Công Hương (người sau đó
được triều đình nhà Nguyễn phong làm “vị quốc tử nghĩa thần”) tử tiết (khi đánh
với quân Nặc Thâm, năm 1705) thì tất cả “bần” mọc hai bên bờ sông đều “quỳ”
xuống như muốn tỏ phục hành động nghĩa báo của ông. Có dị bản khác thì cho rằng
sau khi Phan Thanh Giản tuẫn tiết năm 1867, bần ở vùng ngã ba sông Vàm Cỏ và
sông Tra hàng loạt bần quỳ xuống… chịu tang người trung liệt. Từ đó, dân gian
gọi ngả ba này là Ngã ba Bần Quỳ.
Cũng theo Huỳnh Ngọc Trảng giải thích thì
“hiện tượng bần quỳ là do nước sông xói mòn làm cây cối ở mé sông ngả nghiêng,
…
Tiếp lời của nhà nghiên cứu, chúng tôi
nói thêm một ý: khi nước ngập một phần lớn của rễ bần, nếu nước chảy mạnh, rễ
bần thường ngã qua xuyên lại. Do đó, dân gian miền quê Cửu Long có một câu đối
khá độc đáo về rễ bần như sau:
Nước chảy cặc bần run bây bẩy
Gió đưa dái mít giãy tê tê
Trong lần đi điền dã, chúng tôi may mắn
được người dân vùng U Minh, Rạch Gốc, kể cho nghe Sự tích cây bần,
truyện đại khái như sau:
Xưa kia có một gia đình nông dân rất nghèo
khó, áo chẳng được lành, cơm chẳng đủ no. Chẳng ai biết vợ chồng anh ta tên gì,
chỉ dựa vào gia cảnh mà gọi anh là Bần. Hết cày thuê đến cuốc mướn mà nhà Bần
vẫn vẫn không sao có đủ gạo ăn. Người vợ ngày ngày phải lặn lội tìm thêm trái
rừng, lá cây mọc hoang hái về ăn đỡ dạ.
Năm ấy, trời lụt, nước dâng cao ghê lắm.
Cảnh nghèo như Bần càng thêm khốn khổ. Vợ chồng Bần biết vậy nên bồng bế nhau
đi khỏi xóm, đến vùng đất ở cửa sông để cắm câu, xúc tép, mong sanh tồn qua cơn
thắt ngặt.
Nhưng sức mỏn hơi mòn, Bần đã gục ngã bên
bãi đất bồi ven sông. Chồng chết, vợ Bần than khóc thảm thiết rồi cũng qua đời
sau đó không lâu.
Thời gian trôi qua, trời hết lụt, cuộc
sống trở lại bình thường, mọi người nhớ đến Bần ra cửa sông tìm thì chẳng còn
ai thấy bóng dáng của hai vợ chồng nghèo khổ ấy nữa. Tìm mãi, họ phát hiện hai
cây lạ mà trước nay vùng đất này chưa từng có. Một loại cây mọc ven sông, to
tàn rậm lá, hoa nở tim tím, trái hình tròn dẹp, ăn vừa chua vừa chát. Họ gọi đó
là cây bần. Một loại cây khác mọc gần đấy cũng cho trái hai màu tím và trắng
như bông cây bần nhưng ăn có vị mặn. Người gọi đó là cây Mắm. Họ tin rằng đấy
là hai loại cây do vợ chồng Bần hoá thành, hai thứ cây này thường mọc gần nhau,
chúng có đời sống rất đơn giản mọc trên vùng đất cằn cỗi hay bùn hoang, giống
như tình cảnh của hai vợ chồng chàng trai nghèo khó ngày trước,…
Trong những câu chuyện ngụ ngôn ở đồng
bằng sông Cửu Long chúng tôi còn gặp hình ảnh cây bần qua câu chuyện Bần và Đom
Đóm. Dân gian kể rằng:
Đom Đóm tự hào với chút ánh sáng trong
bụng, thấy Bần đứng cạnh bờ sông, Đom Đóm hỏi:
- Thân ông đen đủi suốt đời chôn chân nơi
bãi sình lầy chắc ông buồn lắm?
Bần vừa đáp, vừa hỏi lại: Tôi thay người
đứng giữ bải bờ cho sông. Còn chú?
Đom Đóm trả lời một cách tự đắc:
-Thấy ông đứng nơi tăm tối, tôi mang ánh
sáng đến cho ông.
Bần nghi ngờ:
-Thứ ánh sáng của chú có chịu nổi mưa dầm
bão táp nơi bải bờ nầy chăng?
Đom đóm lớn giọng hơn:
- Ánh sáng tôi cỏ thể đốt cháy ông.
Vừa dứt lời con mưa ập đến. Đom Đóm vội
nép vào Bần lẫn trốn. Bần độ lượng che cho nó suốt cơn mưa. Sau đó, Đom Đóm đã
hiểu ra mọi chuyện. Một bài học về sự khiêm tốn được tác giả dân gian gửi đến
cho nó.
Cũng từ ngày ấy, cứ đêm đêm Đom Đóm lại
vây quanh rặng Bần trò chuyện thân thiết.
Bần già đốm đậu sáng ngời
Lỡ duyên tại bậu trách trời sao nên
Bần có mặt nơi này khá sớm, bần cũng đã để
lại dấu ấn bằng những câu chuyện, những giai thoại không kém phần thú vị! Để
chứng minh thêm sự phong phú của cây bần trong đời sống tâm hồn của người bình
dân, chúng tôi điểm qua vài nét chính trong những câu ca dao có hình tượng cây
bần.
Xin được mở đầu bằng một ca câu lịch sử:
Bần gie đóm đậu sáng ngời
Rạch Gầm Xoài mút muôn đời oai linh
Câu ca gắn liền với sự kiện Long Nhương
tướng quân Nguyễn Huệ phá tan quân Xiêm xâm lược nước ta năm 1785.
Bần cũng xuất hiện trong cung bậc hài hước
với chức năng mua vui, để khuây khoả, cười cợt là chính. Dân gian gắn chuyện
coi tướng, coi tuổi người cầm tinh con khỉ rằng:
Tuổi thân con khỉ ăn bần
Chuyền cây hái trái lọt ùm xuống sông.
Cảnh tượng từng hoang mọc trùng điệp,
vượn, khỉ, chuồn chuột, … nhởn nhơ vì “dân số” của chúng đông hơn cư dân lúc
bấy giờ:
Cây bần gie cây bần ngả cây bần quỳ
Cảm thương con khỉ đột lấy gì mà ăn.
Cây bần cũng có mặt trong bài hát tếu táo
mà người bình dân chỉ nhằm hát cho có hát chứ không quan tâm đến nội dung. Hình
ảnh ông táo, ông địa, hững nhân vật thần linh mà theo dân gian cũng rất hay rắn
mắt, chọc cười cho đời thêm vui:
Ngó lên chót vót cây bần,
Thấy ba ông Địa ở trần nấu cơm
Ông kia xách dĩa lại đơm
Ông nọ ứ hự nồi cơm mới vần
Mới vần mặc kệ mới vần
Trong ca dao về tình yêu, bắt đầu từ cách
thức thăm dò tìm kiếm ý trung nhân, hình ảnh một chàng trai lém lĩnh không lo
việc mình mà lợi dụng bụi bần rậm rạp để “dòm lén” các cô gái quê đi
ngang qua, song hành động đó đã được một ai đó kịp thời “chộp” được:
Anh kia trốn bụi bần non
Không lo chài lưới, lo dòm các cô
Nhưng không phải lúc nào cũng được như ý
đâu:
Chiều chiều xuống bến ba lần
Bóng em không thấy thấy bần xơ rơ
Nhiều cô gái mượn hình ảnh trái bần trôi
nổi để ví thân phận của mình:
Thân em như trái bần trôi
Sóng dập gió dồi biết tắp vào đâu?
Motip “thân em” quen thuộc chúng ta đã gặp
khá nhiều trong kho tàng ca dao dân ca Việt Nam. Nét riêng độc đáo ở đây
chính là cách liên tưởng về sự bấp bênh của một hiện tượng có thật, quen thuộc
khắp vùng sông rạch miền Tây, bần chín, bần rụng, và theo từng cơn sóng nó nổi
trôi bồng bềnh theo nước. Thời gian sau, trái bần rả ra, hột nảy mầm, mọc cây
con xanh khắp các bãi đất bùn lầy. Phận gái ngày xưa, duyên tình cũng éo le,
cũng liều nhắm mắt đưa chân mặc tình cho sóng gió cuộc đời nổi trôi như trái
bần chín rụng, vậy thôi!
Ở cung bậc ngõ lời, ta gặp cảnh tỏ tình
thật cảm động:
Cây bần soi bóng ghe nghèo
Qua sông gặp gió, em chèo giùm anh
Có chàng trai đã khéo léo dùng cách nói
văn chương để tỏ bày nỗi lòng với người trong mộng:
Làm thơ anh dán đọt bần
Dán cho hai họ Nguyễn Trần gặp nhau
Hai họ Nguyễn Trần ở câu ca này không phải
là điển tích Châu - Trần và nó cũng chỉ mang ý nghĩa tượng trưng chứ không hoàn
toàn chính xác như sự thật ngoài đời sống.
Nghe lời thì tạm tin vậy, chứ sự đời chưa
biết sẽ về đâu:
Neo ghe vô dựa gốc bần
Anh thương em, anh nói vậy chớ biết mình
gần đặng không?
Một câu hỏi tu từ dành cho cả người trong
cuộc hay nhiều người khác nữa, xem ra thật hàm súc và cũng rất khó tìm ra lời
giải cho thoả đáng.
Bần cũng có mặt trong nỗi nhớ thương chờ
đợi của hai người đã trao trọn tình ý cho nhau:
Bần gie đom đóm bu quanh
Lập lòe sáng tối, lòng anh nhớ nàng
Xem ra ở câu ca này, tác giả dân gian đã
sử dụng hình ảnh chơi chữ, vừa miêu tả cảnh lập lòe của đóm đóm lại vừa gợi cho
người nghe nhiều cảm xúc của người trong cuộc. Trí tuệ bình dân sáng hơn cả đom
đóm đậu đọt bần gie!
Yêu nhau ai chẳng muốn gần nhau, mãi mãi
bên nhau mới có hạnh phúc viên mãn:
Bần gie bần ngả bần quỳ
Sống mà chịu cảnh chia ly thêm buồn
Phụ mẫu đánh anh quặt quà quặt quại,
Đem anh treo tại nhánh bần
Rủi đứt dây mà rớt xuống,
Anh cũng lần mò kiếm em.
Nghe qua ai mà chẳng động lòng với chàng
trai chung tình mà cũng không kém phần bạo gan đó. Họ thề nguyền bên nhau son
sắt đến răng long đầu bạc.
Lẻ đôi em chịu lẻ đôi
Hoa tàn em cũng đợi, bần trôi em cũng chờ
Khảo sát những câu ca dao có chứa hình ảnh
cây bần chúng tôi gặp được lời ca hết sức độc đáo, khá hiếm thấy, câu ca thể
hiện sự “ghen tuông” trong tình yêu, dân gian gọi là giành gái hay tranh mèo.
Hơn nữa, cách dùng khẩu ngữ cũng rất đáng chú ý:
Chiều mai chiều mốt anh cốt cây bần
Chẳng cho ghe cá đậu gần ghe tôm
Anh chàng chủ nhân của câu ca xem ra không
muốn cho người khác đến gần người con gái mà anh ta đã để ý. Sắc sảo hơn ở cụm
từ “cốt cây bần”. Chữ “cốt” có nghĩa là đốn cây, chặt cây vốn rất phổ biến
trong lời ăn tiếng nói của người dân quê Cửu Long sông nước. Cây bần như đã nói
trên chỉ toàn… giống đực! Cốt cây bần quả là một lời cảnh báo
dư sức nặng dành cho những ai ham trổ mòi với “ghe” đã có chủ! Con trai mà bị
“cốt cây bần” rồi thì cầm bằng có cũng như… không! Ngụ cảnh để nói người quả
là thâm thúy và tài tình quá sức vậy!
Cuối cùng, mọi chuyện cũng sẽ an bài, sự
tan vỡ trong tình yêu là điều không ai muốn nhưng lại khó tránh khỏi.
Họ bàng hoàng, đau đớn trong tuyệt vọng:
Bướm bay dưới dạ cây bần,
Làm sao kết nghĩa Châu Trần với nhau
Nhiều khi, cô gái thẳng thắn chối từ, dù
muối xát gan bàu
Bần gie, bần liệt, diệc đau chờ mồi
Anh với em duyên nợ hết rồi
Đi tìm chỗ khác đừng ngồi kế em
Nói mà như tát vào mặt kẻ đáng tội:
Hổng thương em hổng có cần
Trầm hương khó kiếm chớ đước, bần thiếu
chi
Sự phỉnh phờ lừa gạt trong tình yêu cũng
bị vạch mặt chỉ tên
Bần gie con hạc đậu cánh xòe
Tưởng anh vô gá nghĩa, ai dè gạt em
Kẻ phản bội hãy nhớ lấy lời nguyền sau
đây:
Trèo lên chót vót cây bần
Vái anh đi cưới vợ, cho sóng thần nhận ghe
Đúng là lời trực ngôn, ăn ngay nói thẳng
của người Nam Bộ, không thể lẫn vào đâu được.
Khi tan vỡ duyên tình, người trong cuộc
thường tự trách mình, trách người mình yêu, hay tìm cách lý giải ở một nguyên
nhân khác, do môn đăng hộ đối chẳng hạn, như ngay từ đầu bài viết chúng tôi đã
nói dân gian quan niệm “bần” không phải là hạng giàu sang:
Cảm thương ô dước, bời lời
Họ bào chữa, hay tự an ủi về chuyện duyên kiếp
lỡ làng, bình tĩnh hơn, nghĩ kỹ lại thì ra do chính con người gây ra
chứ không phải tại trời cao đất dày nào cả:
Bần già đốm đậu sáng ngời
Lỡ duyên tại bậu trách trời sao nên
Cũng có trường hợp do cha mẹ không thương
nên tơ hường đứt đoạn:
Ba bốn nơi sang cả, phụ mẫu em muốn gả
Em chấp tay: khoan đã, chưa tới duyên phần
Phụ mẫu nói em bất tôn giáo hóa
Em trèo lên cây bần cho kiến nó bu
2. Bần trong đời sống thường nhật
2.1. Từ địa danh đến các vật dụng từ bần…
Bần đã đi vào địa danh như Rạch Bần (Cần
Thơ), Cây Bần (Bạc Liêu, Sóc Trăng), Ngã Ba Bần Quỳ (Long An),…
Bần là loài cây tạp ít giá trị kinh tế
nhưng chức năng giữ đất trước sự xâm lấn của sóng biển thì thật đáng nể. Bần
mọc đến đâu đất dai bền vững đến đó. Có được điều này vì bộ rễ của nó phát
triển khá vững chắc và chiếm một không gian rộng lớn,…
Câu thành ngữ “Cặc bần nhét nút chai” quá
quen thuộc đối với người dân miền Tây sông nước. Nội dung của nó liên quan trực
tiếp đến rễ của cây bần. Rễ bần có hai phần phần ẩn dưới đất, phần
mọc từ dưới bùn chĩa lên trời để hút dưỡng khí, lớn hơn ngón tay
cái, dân miền Tây Nam Bộ cũng cho nó một tên cũng rất đặc biệt cặc bần!
Theo Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức - Lê Ngọc Trục, Khai Trí,
Sài Gòn in năm 1970) giải thích, Cặc bần (danh từ, thực vật): Rễ cây
bần, rễ cứng đuôi nhọn đâm ngược và ngay lên chôm chổm khỏi mặt đất từ 20 đến
40 cm.
Theo dân gian, cặc bần còn được chặt nhỏ
phơi khô nấu nước uống để chữa một số bệnh của phụ nữ.
Thân cây bần to có thể cưa ván, nhưng đây
chỉ là ván tạp, không chắc, xài chỉ được đôi ba năm. Người nghèo dùng ván bần
để làm ngựa (một loại phản, kê để ngồi) xài trong nhà. Người nghèo chết thì
chôn hòm bằng ván bần,… Các loại nhánh, thân,… còn dùng làm củi nấu ăn,…
2.2. Và các món ăn từ bần
Đơn giản nhất là hái trái bần… ăn chơi.
Bần chín rụng xuống người ta lượm về hoặc hái trái chua còn trên cây ăn chơi
lúc rãnh rang, vị vừa chua chúa, chát, lại mằn mặn của muối, …
Như ở phần giai thoại lý giải tên thủy liễu chúng tôi đã nói đến món mắm sống với bần được mang đãi cả vua. Ca dao có
câu:
Muốn ăn mắm sặc bần chua
Chờ mùa nước nổi ăn cho đã thèm
Mắm sống (mắm cá sặc, cá rô, cá chốt, cá
trê vàng,…), giở ra, xắt chuối chát, kèm ít rau rừng như lá cách, cơm nguội,
đọt sộp, lá lụa, vài trái ớt hiểm xanh,… thêm trái bần chua nữa, ăn cớm với
cơm nóng thì quả thật sướng đến… đã đời. Cơm hết nồi cũng chưa thấy no, chưa
muốn nghỉ!
Khi ăn cơm, người ta có thể dầm bần chín
với cá kho, mắm kho, để chấm rau sống, hoặc chấm ngay bằng gỏi bông bần. Bông
bần được hái về bóp với dấm chua, làm gỏi,…
Trong số các món ăn mà bần góp mặt, cầu kỳ
nhất có lẽ là canh chua bần và đọt bần xào chuột.
Canh chua bần thì ngon nhất là nấu với cá
bống sao. Đồ bổi (rau) để nấu canh chua bần cá bống sao thì không thể thiếu
cọng môn (có thể là thân loại môn trồng lấy củ, hoặc thân môn ngọt, chỉ để ăn
cọng) và ngò gai.
Cọng môn cắt về, tước sạch vỏ bọc bên
ngoài, xắt thành hình thoi. Ngò gai xắt sợi, cá bống sao làm sạch để ráo nước.
Bắc nước sôi cho trái bần chín vào nấu rã, dùng rổ lược vớt bỏ hột. Nêm nếm vừa
chua, đổ bổi vào nấu. Sau đó, cho cá bống vào để vài phút rắc ngò gai và ít
cọng bông bần lên trên tô canh, ăn ngay khi canh nóng, … nếu để lâu thịt cá sẽ
nát và mất ngon. Nước chầm là muối, ớt chín dầm nát và bọt ngọt, đường cát,…
Mùi chua của bần, mùi ngọt của cá, cọng
màu xanh của môn, ngò , sắc tím lẫn trắng của bông bần gợi nên tình quê đậm đà
sâu nặng,…
Ở món chuột đồng xào đọt bần, thì chuột
cơm ngoài đồng ruộng béo tròn (ngon nhất là chuột no lúa mùa từ tháng mười đến
tháng chạp hàng năm), đào hang bắt chúng về làm sạch, để ráo nước, rồi đem bằm
thật nhuyễn. Hái đọt bần non rửa sạch, để ráo nước xắt sơ qua. Bắc chảo lên bếp
cho nóng, phi tỏi mỡ cho thịt chuột đã băm nhuyễn vào xào cho thịt chín đều
thịt có màu trắng đục, rồi tiếp tục cho đọt bần vào. Khi đọt bần đã chín, cho
chút gia vị bột ngọt, đường, nước mắm, ớt bằm nhỏ, trộn đều cho thấm. Nhắc
xuống ăn nóng, chấm với nước mắm tỏi, ớt, …
Vị chua chua, chan chát của đọt bần, trộn
lẫn cùng vị béo ngọt của thịt chuột làm thành món ăn độc đáo miền quê.
Để kết thúc phần khảo sát về hình ảnh cây
bần trong đời sống người Tây Nam Bộ, chúng tôi tìm hiểu được thông tin rằng:
cuối thập niên đầu của thế kỷ XX, có bà Tư Cúc ở Trà Vinh đã chế biến được mứt
bần, kẹo bần. Bần chín được tán nhuyễn thành bột, dùng lửa nhỏ để sên, thêm
muối, ớt, bột ngọt và cho vào keo để dự trữ những tháng trái mùa, dùng mứt bần
để uống với nước trà tráng miệng sau bữa cơm,… Cơ sở sản xuất này đã xuất khẩu
hàng nghìn hủ sản phẩm mứt bần, bột bần, sang Đức và các nước Châu Âu,… thu về
bộn bàng ngoại tệ, …
3. Kết luận
Bần là loài cây mọc hoang. Song so với
nhiều loài cây tạp khác, bần lại ảnh hưởng khá sâu rộng trong đời sông người
bình dân. Từ tên gọi của nó, người dân đã chơi chữ chỉ cảnh nghèo khó của cư
dân ngày đầu mở cõi:
Khoanh tay lo nghèo
Là trái bần ổi!
Lời bài vè về cây trái ấy như còn vang
vọng đâu đây!
Hơn thế, bần lại có mặt trong các địa
danh, các giai thoại liên quan đến vùng đất và con người vùng này. Bần cũng trở
thành đề tài cho những lời ca điệu hát dân gian. Người bình dân khéo léo gửi
gắm tâm sự, nỗi niềm, thậm chí là khát vọng chinh phục thiên nhiên qua những
câu chuyện đầy tính nhân văn mà chúng tôi đã điểm qua trong bài viết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét