Thứ Bảy, 24 tháng 8, 2019

Thả một bè lau

Thả một bè lau
Chúng ta thường nghĩ truyện Kiều là truyện của một người khác và chúng ta chỉ là khán giả, không có liên can gì. Nhưng khi viết truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã sống trong da thịt của nhân vật Kiều, đã trở thành với Kiều, cụ đã nói được tâm sự của chính mình. Cô Kiều trong truyện đã phải bắt buộc làm gái giang hồ. Là một nhà Nho, một mẫu mực đạo đức thời xưa ở Việt Nam, vậy mà có khi cụ Nguyễn Du cũng có cảm tưởng mình là một cô gái giang hồ. Cụ làm quan với triều Lê. Sau khi nhà Lê mất, cụ bị nhà Nguyễn gọi ra làm quan. Không từ chối được, cụ phải ra làm quan cho triều Nguyễn. Theo quan niệm của Nho giáo ngày xưa, một người thần tử trung thành không bao giờ thờ hai vua (‘trung thần bất sự nhị quân.’). Trong khi viết truyện Thúy Kiều, cụ Nguyễn Du viết truyện của chính mình. Cụ muốn gửi tấc lòng mình vào thiên cổ chứ không phải vì ngồi không, cao hứng nhất thời mà viết ra một tác phẩm chữ Nôm.
Nếu có chánh niệm, đem những khổ đau, luân lạc và gian truân của mình ra đọc truyện Kiều chúng ta có cơ hội thấy được bản thân. Và như vậy đọc truyện Kiều cũng là tu. Tu tức là nhìn tất cả những gì đã và đang xảy ra trong đời mình bằng con mắt quán chiếu.
Trong quá khứ, có nhà Nho đã liệt truyện Kiều vào loại dâm thư vì trong truyện có tả đời sống của một cô gái giang hồ. Họ có thể đứng về phương diện đạo đức của Nho giáo mà nói như vậy. Nhưng dùng con mắt quán chiếu mà nhìn vào đời Thúy Kiều, ta có thể học được bài học của khổ đau và kinh nghiệm. Nếu biết cách đọc, chúng ta có thể học được rất nhiều từ truyện Kiều như học từ một cuốn kinh. Và truyện Kiều sẽ không phải là dâm thư mà là kinh điển.
Truyện Kiều là truyện về cuộc đời, có những hoàn cảnh khổ đau, hạnh phúc và u mê của cuộc đời. Lấy con mắt của người quán chiếu nhìn vào truyện Kiều, chúng ta có thể thấy được bản chất của cuộc đời. Những điều xảy ra trong mười lăm năm của cô Kiều có thể xảy ra cho bất cứ một người nào. (Vì vậy ở Việt Nam có truyền thống bói Kiều.). Kiều dã trải qua rất nhiều hoàn cảnh khác nhau, đi qua tất cả những chuyện lên voi xuống chó của một con người. Thúy Kiều có khi là học trò, làm vợ của một người có quyền thế gần như vua (Từ Hải), làm đầy tớ, làm người yêu, làm vợ lẽ và làm một người con gái phong sương… Kiều cũng từng làm sư cô. Mỗi chúng ta ít nhất đã có một giai đoạn giống như giai đoạn Thúy Kiều. Nhìn vào đời Thúy Kiều, ta phải nhìn như một toàn thể mà đừng nhìn từng khoảng ngắn.
Chúng ta phải có con mắt trạch pháp, tức là con mắt có khả năng nhận xét và phân biệt. Khi đọc Kinh, ta cần phải có nhận thức độc lập, huống nữa là đọc truyện Kiều. Ta phải nhìn cụ Nguyễn Du bằng con mắt trạch pháp. Cụ tin vào thuyết tài mệnh tương đố (tài năng và số mệnh chống trái nhau). Chúng ta sẽ từ từ xét coi tại sao cụ tin vào thuyết này và thuyết này có đúng hay không. Nếu đúng thì đúng bao nhiều phần trăm. Không phải vì cụ nói ‘chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau’ hay ‘chữ tài liền với chữ tai một vần’ mà chúng ta tin ngay vào sự tương phản, chống trái của tài mệnh. Có những người có tài nhưng không bị tai nạn, vì họ có tu, có chánh niệm và sự khiêm nhượng. Tai nạn sẽ không xảy tới với họ, hay ít nhất, không xảy tới cho họ nhiều như cho những người quá cậy vào tài năng của mình mà xem thường người khác.
Dựa theo truyện Phong Tình Lục của Trung Hoa để viết truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã biến tập tiểu thuyết tầm thường này thành một tác phẩm văn chương phong phú và sâu sắc. Một lần nữa, chúng ta thấy cốt tủy của một tác phẩm có giá trị không phải là cốt truyện mà là văn chương và tư tưởng.
Ngày xưa tôi cũng đã từng dạy văn chương Việt Nam và đã dạy truyện Kiều. Nhưng tâm của tôi lúc đó không được như bây giờ. Tôi đã dạy với tư cách một giáo sư văn chương mà chưa bao giờ dạy với tư cách một thiền sư. Nhìn với tư cách một thiền sư là nhìn sâu, nhìn kỷ, nhìn bằng sự khám phá của thiền quán mọi sự kiện qua nhận thức, đau khổ, hạnh phúc, thành công, thất bại và qua sự tu học của mình. Nhìn như vậy trong khi đọc lại truyện Kiều ta có thể thấy được những điều rất mới.
Khi đọc truyện Kiều, ta không nên ngại về từ ngữ và điển tích. Các bản truyện Kiều đều có chú giải. Có tài liệu là ta có thể hiểu được hết các điển tích và từ cổ. Điều quan trọng là chúng ta đọc với tâm trạng quán chiếu, tìm thấy tâm lý của tác giả và tìm thấy lòng mình.
Chương 1: Hành trang
CHỮ TÀI. CHỮ MỆNH, CHỮ TÂM.
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Bắt đầu truyện Kiều, tác giả nêu lên tư tưởng tài mệnh tương đố, tài năng và số mệnh đố kỵ nhau. Cố nhiên, qua truyện Kiều, ta có thể thấy tác giả là một thi sĩ đại tài. Nguyễn Du nói tới kinh nghiệm trực tiếp của mình chứ không phải nói tới một sự thực ở ngoài.
Những người có tài và có sắc được thi sĩ cho đứng về phía màu hồng. Màu hồng kỵ với màu xanh, đại diện cho ông trời, tạo hóa. Ông trời sẽ đi theo ‘đánh ghen’, đày đọa những người có tài, có sắc bằng cách phó cho họ một số phận trớ trêu. ‘Má hồng’ không phải chỉ là đàn bà. Ðàn ông có tài sắc thì cũng là một thứ ‘má hồng’, bị số phận làm cho điêu đứng. Ðó là quan niệm của Nguyễn Du.
Kết thúc truyện Kiều, câu 3247, cụ Nguyễn Du trở lại ý niệm về tài và mệnh. Cụ trình bày quan niệm luân lý của mình như sau:
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Ðã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Cụ khuyên chúng ta không nên cậy vào tài mình. Bởi vì khi có tài mà không có đức, không tu, không biết giấu tài của mình đi mà cứ khoe khoang, hợm hỉnh, cho mình là giỏi, thì tai nạn sẽ đến với mình và mình sẽ đau khổ rất nhiều. ‘chữ tài liền với chữ tai một vần’ là một câu chơi chữ rất khéo. Và mầm mống của những tai nạn, khổ đau kia đến từ đầu? Cụ Nguyễn Du nói đừng đổ lỗi cho ai hết. ‘Ðã mang lấy nghiệp vào thân’: khi mình đã có những tham, giận, kiêu căng trong người rồi, thì: ‘Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa’: đừng đổ lỗi cho ai hế, đừng trách trời. Tại sao mình đau khổ? Mình nói: tại trời, tại xã hội, tại người này, người kia… Kỳ thực mình chịu trách nhiệm lớn về những đau khổ của mình. Vì vậy mình phải quay về tu sửa tâm mình, vun bồi gốc rẽ của cái thiện trong tâm mình. Ðó là vấn đề tu tâm (citta bhavana). Thiện căn (kusalamula) là một danh từ Phật học, có nghĩa là gốc rễ của cái thiện. Cụ Nguyễn Du thấy tu tâm là điều quá trình phải làm. Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài: một người có tâm lành, biết tu học thì sẽ có hạnh phúc và mang lại hạnh phúc cho người khác nhiều hơn (bằng ba) những người có tài mà không có tâm lành.
Gửi gắm rất nhiều kinh nghiệm hạnh phúc và khổ đau của mình cho chúng ta rồi, thi sĩ kết thúc truyện Kiều bằng hai câu khiêm nhượng như cụ từng khuyên chúng ta:
Lời quê chắp nhặt dông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh.
Và cũng thật đẹp khi một tác phẩm lớn như truyện Kiều lại được kết thúc bằng hai cau giản dị và khiêm nhượng như vậy.
Sau khi viết xong truyện Kiều, cụ Nguyễn Du có cơ hội được học Phật thêm rất nhiều. Kiến thức về đạo Phật của Nguyễn Du sau truyện Kiều sâu sắc hơn. Có vài danh từ Phật học trong truyện Kiều chưa được hoàn toàn chính xác (Ví dụ như chữ nghiệp và tâm trong đoạn vừa trích dẫn). Chúng ta sẽ thấy ở phần sau.
HOA GHEN THUA THẮM
Họ Vương là một gia đình giàu có loại thường (trung lưu).
Có nhà viên ngoại họ Vương
Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung.
Một trai con thứ rốt lòng
Vương Quan là chữ nối dòng Nho gia.
Ðầu lòng hai ả tố nga1
Thúy kiều là chị em là Thúy Vân.

Khi giới thiệu gia đình họ Vương. Nguyễn Du giới thiệu con trai trước rồi mới đến hai cô con chị. Trong truyền thống xưa vị trí người con trai rất quan trọng vì chính con trai tiếp nối được gia phong. Con gái, tuy cũng là con nhưng không phải thực sự là con vì nó sẽ đi lấy chồng, không còn ở nhà để giữ gìn gia nghiệp ông cha. Ðó là quan niệm ngày xưa của chế độ phụ hệ.
Ðầu lòng hai ả tố nga
Thúy kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
Hai chị em đẹp thanh nhã, tinh thần băng tuyết, trong sáng; hai người đều đẹp, nhưng đẹp khác nhau.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyêt nhường màu da.
Thúy Vân trang trọng đài các, cười nói đoan trang. Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. Ðẹp như vậy là đẹp lắm rồi chứ còn gì nữa! Chúng ta tưởng thi sĩ đã dùng hết tất cả chữ nghĩa để tả một cô gái rồi, ai dè ông còn trong túi rất nhiều chữ khác, hay hơn nữa, để tả cô chị.
Kiều càng sắc sảo, mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thủy, nét xuân sơn[2]
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Vì muốn bảo Thúy Kiều đẹp hơn nên Nguyễn Du đã không bắt đầu bằng cách giới thiệu cô chị mà lại giới thiệu cô em trước. Nhìn qua hình tướng hai chị em, ta có thể thấy được cuộc đời hai cô. Thúy Vân đẹp, mà đẹp rất hiền (Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.). Thúy Kiều đẹp, mà đẹp làm cho người ta phải ganh tức (Làn thu thủy, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.). Và cái khổ đã nằm sẳn ở sắc đẹp của Kiều rồi. Sinh con gái đẹp vì vậy nguy hiểm lắm!
Một hai nghiêng nước nghiêng thành[3]
Sắc đành đôi một, tài đành họa hai.[4]
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương
Thúy Kiều rất thông minh. Giỏi thi, họa, ca ngâm và chơi đàn tỳ bà (hồ cầm) rất giỏi. Kiều sáng tác một bản nhạc tên là Bạc mệnh. Bản nhạc rất hay, nhưng đàn lên thì nghe buồn thấm thía ruột gan.
Khúc nhà tay lựa nên xoang
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
Bạc mệnh là số kiếp rất mỏng. Không biết tại sao hồi bé thơ cô nàng đã sáng tác những khúc nhạc như vậy rồi! Nguyễn Du nói rất rõ rằng những khổ đau và truân chuyên của Kiều đã biểu lộ rõ rệt ngay từ khi cô còn là một thiếu nữ. Về phương diện nhan sắc cũng như tài năng của cô, đã óc đầy đủ những lý do khiến cô phải ba chìm bảy nổi và đau khổ suốt đời.
Những người nào có tài thì phải cẩn thận.
Những người nào có sắc cũng phải như thế.
DÂY ÐÀN BÉN NHẠY
Chúng ta đã nghe cụ Nguyễn Du tả ba chị em của Thúy Kiều. Khi cụ tả cô chị, chúng ta thấy rõ ràng trong con người này đã có những hạt giống của tiêu cực. Chính những hạt giống này đã mang lại cho Thúy Kiều nhiều đau khổ. Trong khi đó, Thúy Vân không đau khổ nhiều bằng Thúy Kiều. Thúy Vân chỉ đau khổ vì những cộng nghiệp với Thúy Kiều mà thôi. Biệt nghiệp của Thúy Kiều rất nặng. Cái đẹp của Thúy Kiều có thể làm nảy sinh sự ghen tuông xung quanh mình. sự ghen tuông không chỉ của con người mà của vạn vật. ‘Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh’. Chính vì chỗ đó mà Kiều phải chết. Một dấu hiệu khác của tai họa là tài năng của Thúy Kiều. Cô là nhạc sĩ, sáng tác nhạc rất hay, đánh lên thì mọi người đều buồn thấm thía. Trong tâm hồn của Thúy Kiều có hạt giống của sự đau buồn. Kiều là một người đa cảm, cảm nhận được những cái mà người khác không cảm nhận được. Có những cái khi mà hai em thấy thì dửng dưng, cho là thường, trong khi Thúy Kiều lại cho là quan trọng.
Ðoạn tới nói về cuộc đi chơi mùa xuân cả ba chị em. Trong cuộc đi chơi này, ba chị em gặp hai nhân vật: một hồn ma và một người con trai. Hai nhân vật của chiều mùa xuân năm đó sẽ ám ảnh, đi theo Kiều suốt cuộc đời.
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.[5]
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Thanh minh trong tiết tháng ba,[6]
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.[7]
Gần xa nô nức yến anh,[8]
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò nấm kéo lên,
Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay.
Trong văn hóa Á Ðông, đi tảo mộ cũng là đi chơi, là một dịp để người sống bày tỏ sự cảm thông, thân thiết với người chết. Người ta mang theo vàng và nhang… đi thăm mộ, ngồi bên mộ người thân, thắp nhang và đốt tiền vàng bạc xuống cho người cõi âm dùng. Vàng vó là những lượng và những chỉ vàng làm bằng giấy, hoặc những áo quần giấy. Bây giờ ở Mỹ, người Hoa làm ra những tờ một trăm, một ngàn đô la, đốt xuống cho người âm xài thả cửa, gọi là Hell Bank Notes.
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dang tay ra về.
Bước lần theo ngọn tiểu khê,[9]
Nhìn xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Nhịp cầu nho nhỏ suối ghềnh bắc ngang.
Sè sè nắm đất bên đường,
Dàu dàu ngộn của nửa vàng nửa xanh.
Ba chị em đi chơi về, thấy một ngôi mộ bên đường, tiêu điều, không ai thăm viếng và thắp hương, cỏ trên mộ cũng vàng úa, không xanh như những ngôi mộ khác. Thúy Kiều hỏi:
Rằng: ‘Sao trong tiết thanh minh,
‘Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?’
Vương quan cắt nghĩa:
Vương Quan mới dẫn gần xa:
‘Ðạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi.
‘Nổi danh tài sắc một thì,
‘Xôn xao ngoài cửa thiếu gì yến anh.
‘Kiếp hồng nhan có mong manh,
‘Nửa chừng xuân thoát gãy cành thiên hương.
Ðây là mộ Ðam Tiên, một ca sĩ nổi tiếng ngày xưa, chết khi đang còn trẻ đẹp. Ca nhi không phải là một cô gái ăn sương. Ca nhi chỉ có nghĩa là ca sĩ. Người ta có thể tổ chức mời cô đến hát riêng cho nhà mình. Hát xong, cô lấy tiền rồi về. Người ta cũng có thể cùng các bạn đến nghe hát ở nhà cô, cố nhiên là phải trả tiền đàng hoàng. Có những ca nhi từ chối không hát cho những người thô tục. Họ có quyền như vậy. Thường, thi sĩ làm được thơ hay thì muốn những người có giọng tốt ngâm lên nghe cho đã. Như Trịnh Công Sơn làm được những bài như Diễm Xưa, thấy mình hát cũng chẳng hay gì mấy nên đã đi tìm một người như Khánh Ly để hát giùm, nghe sảng khoái hơn. Ca nhi là những người làm việc đó giúp thi sĩ hay nhạc sĩ. Ở Việt Nam ngày xưa, hễ khi nào các ông làm được một bài ca trù, là họ thường rủ nhau tới nhà trò, yêu cầu cô đào hát cho mình nghe. Còn chuyện cô đào bán mình để có thêm tiền là chuyện không chính thức. Theo nguyên tắc chuyện này không xảy ra nhưng trên thực tế nó đã xảy ra rất nhiều. Nếu hát không được hay lắm thì phải đem cái khác ra để bù trừ, chuyện này xảy ra trong bất cứ xã hội nào. Ở Nhật có những cô geysa, phố Khâm Thiên (Hà Nội) cũng đã từng có nhiều cô ca nhi như vậy, gọi là cô đầu. Thi sĩ Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu xuất thân là con quan (Ấm Hiếu), một hôm đi chơi với các bạn thì gặp em gái mình ở trong giới ca nhi. Ông đau khổ vô cùng. Chúng ta nên hiểu chữ ca nhi theo nghĩa chính của nó là ca sĩ.
Chúng ta nghe Vương Quan kể tiếp:
Có người khách ở viễn phương,
Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi.
Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ!
Buồng không lạnh ngắt như tờ,
Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh.
Khóc than khôn xiết sự tình,
Khéo vô duyên ấy là mình với ta!
Ðã không duyên trước chăng mà,
Thì đây chút ước gọi là duyên sau.
Sắm sanh nếp tử xe châu,[10]
Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa.
Trải bao thỏ lặn ác tà,
Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm!
Nghe như vậy thì Kiều òa lên khóc:
Lòng đâu sẵn mối thương tâm,
Thoạt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa:
Trong khi đó, Thúy Vân vẫn tỉnh bơ tiếp tục nhai kẹo chewing gum (nếu có chewing gum lúc đó). Anh chàng Vương kể chuyện vẫn tỉnh bơ. Thúy Kiều, trái lại, nghe đến đó thì òa lên khóc, vì cô là một sợi dây đàn rất bén nhạy.
Ðau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mênh cũng là lời chung.
Phũ phàng chi bấy hóa công!
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.
Sống làm vợ khắp người ta.
Hại thay thác xuống làm ma không chồng!
Rất rõ cô ca nhi này không chỉ đơn thuần là một ca sĩ.
Nào người phượng chạ loan chung,[11]
Nào người tích lục tham hồng là ai[12]
Ðã không kể đoái người hoài,
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.
Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Họa là người dưới suối vàng biết cho.
Mấy chị em ngồi lại thắp hương trên mộ Ðạm Tiên. Kiều cảm cảnh làm một bài thơ tứ tuyệt, viết lên vỏ cây.
Lầm rầm khấn khứa nhỏ to
Sụp ngồi đặt cỏ trước mồ bước ra.
Một vùng cỏ ấy bóng tà,
Gió hiu hiu thổi một vài bông lau.
Rút trâm sẵn giắt mái đầu
Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần.[13]
Có một sức mạnh gì kéo Kiều ở lại:
Lại càng mê mẩn tâm thần,
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.
Lại càng ủ dột nét hoa,
Sầu tuôn dứt nối châu sa vắn dài.
Số phận Ðạm Tiên như được nối với số phận Kiều. Kiều thấy đây là người tri kỷ của mình. Và đây là lời phê bình của Thúy Vân:
Vân rằng: Chị cũng nực cười,
Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa!
Ðúng là Thúy Vân! Kiều đáp:
Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.
Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
Thấy người nằm đó biết sau thế nào?
Trông người lại ngẫm đến ta. Nhìn vào số phận Ðạm Tiên, mình không biết thân thế mình sẽ như thế nào mai sau. Vương Quan lúc đó mới chen vào, phản đối:
Quan rằng: Chị nói hay sao,
‘Một lời là một vận vào khó nghe!
Ở đây âm khí nặng nề,
Bóng chiều đã ngã dặm về còn xa.’
– Chị này thật là kỳ cục! Nói câu nào cũng đem số mạng người ta buộc vào số mạng mình! Trời chiều rồi, mình về đi thôi!
Kiều rằng: ‘Những đấng tài hoa,
Thác là thể phách còn là tinh anh.
Dễ hay tình lại gặp tình,
Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ!’
Kiều có những tri giác mà người thường không thể có được. Cô có thể cảm, thấy, nghe, sờ mó được những cái mà người khác không cảm, thấy, nghe, sờ mó được. Theo Kiều thì Ðạm Tiên còn ở đó, không phải bằng thân xác tầm thường mà bằng tinh anh của nàng. Cô nghĩ rằng Ðạm Tiên sẽ đáp lại cái mà tình của mình và khuyên các em ở lại chứng kiến.
Một lời nói chửa kịp thưa,
Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay.
Ào ào đổ lộc rung cây,
Ở trong dường có hương bay ít nhiều.
Ðè chừng ngọn gió lần theo,
Dấu giày từng bước in rêu rành rành.
Nói vừa xong thì một trận gió mạnh thổi tới làm rụng những lộc non của tháng ba. Trong luồng gió phảng phất nùi hương của người ta (không biết đây là nước hoa Poison Scorpion hay Samsara?), trên rêu xuất hiện những dấu giày mới. Ma Ðạm Tiên đã về!
Mặt nhìn ai nấy đều kinh,
Nàng rằng: ‘Này thật tinh thành chẳng xa.
Hữu tình ta gặp lại ta,
Chớ nề u hiển mới là chị em.’
Cái cô ghê thật! làm quen liền: ‘Chị về đó hả? Như vậy là giữa chúng ta có những mối giây tình cảm thân thiết. Ðừng phân biệt người chết với kẻ sống thì mới là tình chị em. Người ta nói Thúy Kiều thuộc về một thứ nòi gọi là nòi tình. Nguyễn Du cũng thuộc về nòi tình. Ðồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Hữu tình ta mới gặp ta thì Chớ nề u hiển mới là chị em.
Ðã lòng hiển hiện cho xem,
Ta lòng nàng lại nối thêm vài lời.
Lòng thơ lai láng bồi hồi.
Gốc cây lại vạch một bài cổ thi.
Ða sầu, đa cảm, đa tình. Làm một bài thơ tứ tuyệt, rồi lại làm thêm một bài thơ cổ phong nữa. Vẫn chưa chịu về.
LƯNG TÚI GIÓ TRĂNG.
Và bây giờ, nhân vật thứ hai, người con trai của đời Kiều xuất hiện:
Dùng dằng nửa ở nửa về,
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.
Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng.
Ðề huề lưng túi gió trăng,[14]
Sau chân theo một vài thằng cỏn con.
Tuyết in sắc ngựa câu giòn,[15]
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.
Không phải chỉ khi tả hai người con gái cụ Nguyễn Du mới tả kỹ lưỡng. Người còn trai này cũng được cụ Nguyễn Du tả rất đẹp rất kỹ. Anh chàng cưỡi một con ngựa bạch, mặc áo màu da trời, đi trong màu lục của cây cỏ. Trong túi của anh chàng có gió và có trăng. Ðây là một người hào hoa phong nhã, thanh nhàn, biết thưởng thức cái đẹp của đất trời. Một người biết sống. An trú trong hiện tại thì người nào cũng có một cái túi đựng gió trăng cả. Không biết cái túi của mình có chút gió trăng nào ở trong không hay chỉ đựng những cát bụi đau buồn? Túi của mình cần phải có nhiều gió trăng, tức là phải có thơ, có nhạc, có sự thanh nhàn và hạnh phúc.
Nẻo xa vừa tỏ mặt người,
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình.
Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.
Sự có mặt của người con trai, hài hòa với phong cảnh thiên nhiên, đẹp như cây ngọc dao trong rừng ngọc quỳnh. Thi sĩ tả con gái đẹp mà tả con trai cũng rất đẹp.
NỘI KẾT ÊM ÁI
Chàng Vương quen mặt ra chào,
Hai kiều[16] e lệ nép vào dưới hoa.

Không một chữ nào có thể khoanh tròn để lấy ra được cả. Một câu lục bát mà nói được cả hành động lẫn thái độ của hai bên. Người con trai thì ra chào: “A! Anh Kim đó hả! Lâu quá không gặp!” còn hai cô nàng thì khép nép, núp dưới hoa. Không cần dùng nhiều chữ.
Nguyên người quanh quất đâu xa,
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh[17]
Nền phú hậu bậc tài danh,
Văn chương nết đất thông minh tính trời.
Phong tư tài mạo tuyệt vời,
Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa.
Chung quanh vẫn đất nước nhà,
Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân[18]
Cụ Nguyễn Du khen anh chàng đủ điều. Anh chàng cũng đã từng nghe tiếng hai chị em nhà họ Vương:
Trộm nghe thơm nức hương lân,
Một nền Ðồng-Tước khóa xuân hai Kiều[19]
Nước non cách mấy buồng thêu,
Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mòng.
Và đây là cơ hội đầu để Kim Trọng gặp hai cô nàng:
May thay giải cấu tương phùng[20]
Gặp tuần đố lá thỏa lòng tìm hoa[21].
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,
Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.
Người quốc sắc kẻ thiên tài
Tình trong như đã mặt ngoài còn e.
Kim Trọng đã chú ý tới Kiều và Kiều cũng chú ý tới Kim Trọng. Tiếng sét đã nổ. Chỉ có tám chữ thôi: Tình trong như đã mặt ngoài còn e. Bên ngoài thì có ai nói gì với ai đâu. Bên trong thì đã có nội kết êm ái rồi.
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê,
Rốn ngồi chẳng tiện dứt về chỉnh khôn.
Ở thêm để nói chuyện thì kỳ quá mà về thì không dứt nổi. Nhưng cuối cùng cũng phải về:
Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đà lên ngựa người còn ghé theo.
Dưới cầu nước chẩy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Chấm dứt buổi hội ngộ. Văn chương gì mà hay vậy!
TƯỚI TẨM HẠT GIỐNG
Tất cả những gì xảy ra trong chuyến đi chơi đều được biểu hiện trở lại ngay trong giấc mộng tối hôm đó của Thúy Kiều. Hạt giống gieo và đều hiện hành ra ngay. Thật dễ sợ. Ðây là chỗ tài tình của Nguyễn Du.
Kiều từ trở gót trướng hoa,
Mặt trời gác núi chiêng đà thu không.[22]
Gương nga chênh chếch dòm song,
Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân.
Hải đường lả ngọn đông lân,
Giọt sương gieo nặng cảnh xuân la đà.
Một mình lặng ngắm bóng nga,
Rộn đường gần với nỗi xa bồi hồi:
Kiều ngồi ở cửa sổ, một mình ngắm trăng. Cô suy nghĩ lại chuyện xảy ra trong ngày:
Người mà đến thế thì thôi,
Ðời phồn hoa cũng là đời bỏ đi!
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm có biết duyên gì hay không?
‘Người’ trong câu đầu là Ðạm Tiên. ‘Người’ trong câu kế tiếp là Kim Trọng. Thúy Kiều có nội kết với Kim Trọng rất rõ ràng.
Ngổn ngang trăm mối bên lòng,
Nêu câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình.
Hết nghĩ tới con ma lại nghĩ tới anh chàng. Nghĩ tới anh chàng rồi lại nghĩ tới con ma… Rồi làm thơ về những điều mình nghĩ. Ðây là hành động tự mình tưới tẩm những hạt giống trong tâm mình.
Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,
Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu.
Không chịu đi ngủ đàng hoàng. Ngồi ngủ gục, và Kiều mơ thấy Ðạm Tiên:
Thoát đâu thấy một tiểu kiều,
Có chiều phong vận có chiều thanh tân.
Sương in mặt tuyết pha thân,
Sen vàng lãng đãng như gần như xa.
Một cô rất đẹp, đến từ trong đêm. Bước chân rất nhẹ, thấp thoáng khi thì ở gần khi thì ở xa. Ðúng là một bóng ma! Vì vậy người ta nói cụ Nguyễn Du là thi thánh chứ không phải là một thi sĩ thường.
Rước mừng đón hỏi dò la:
‘Ðào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?’
Thưa rằng: ‘Thanh khí xưa nay,
‘Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên?
‘Hàn gia ở mái tây thiên,
‘Dưới lòng nước chảy bên trên có cầu.
– ‘Chị em mình là người đồng thanh đồng khí. Mình vừa mới gặp nhau chiều nay, chị quên rồi sao? Nhà em ở hướng tây, dưới dòng nước chảy, bên trên có cầu.’ Hàn gia có thể có nghĩa là khiêm nhượng là nhà nghèo, không sang trọng. Nhưng ‘hàn’ cũng có nghĩa là lạnh. Nhà lạnh tức là nhà mồ.
‘Mấy lòng hạ cố đến nhau
‘Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng[23]
‘Vâng trình hội chủ xem tường,
‘Mà xem trong sổ đoạn trường có tên.
‘Âu đành quả kiếp nhân duyên,
‘Cũng người một hội một thuyền đâu xa!
‘Này mười bài mới mới ra,
‘Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời.’
Ðạm Tiên đã đem thơ của Kiều trình cho bà hội chủ hội Ðoạn Trường. Bà này mở sổ của những người đàn bà có số phận mỏng ra tra và thấy tên Kiều. Ðạm Tiên đưa thêm mười bài mới, yêu cầu Thúy Kiều vịnh để bỏ vào tuyển tập (collection) của hội Ðoạn Trường. Họ là những người suốt đời đau khổ. Trong nguyên tác, mười đề bài đó là: Tích đa tài, Liên bạc mệnh, Bi kỳ nộ, Ức cố nhân, Niệm nô kiều, Ai thanh xuân, Ta kiến ngộ, Khổ linh lạc, Mộng cố viên và Khốc tương tư. Toàn là những đề tài đứt ruột. Thúy Kiều chỉ cần mấy phút đồng hồ là làm xong cả mười bài thơ.
Kiều vâng lĩnh ý đề bài,
Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm.
Xem thơ nức nở khen thầm:
‘Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường!
‘Ví đem vào tập đoạn trường,
‘Theo treo giải nhất chi nhường cho ai!’
– ‘Thơ của chị hay quá! Bỏ vào tập Ðoạn Trường là hay nhất, không ai bằng.’ Nói xong Ðạm Tiên cầm mấy bài thơ và từ biệt. Kiều còn muốn giữ lại:
Thềm hoa khách đã trở hài,
Nàng còn cầm lại một hai tự tình.
Gió đâu sịch bức mành mành.
Tỉnh ra mới biết là mình chiêm bao.
Trông theo nào thấy đâu nào,
Hương thừa phảng phất ra vào đâu đây.
Kiều tỉnh dậy còn nghe của mùi nước hoa của con ma mới ghé thăm đó.
Một mình lưỡng lự canh chầy,
Ðường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh!
Thấy khúc đời còn lại của mình mà ngán quá. Không dám sống.
Hoa trôi bèo dạt đã đành,
Biết duyên mình biết phận mình thế thôi!
Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi,
Nghĩ đời còn lại sụt sùi đôi cơn.
Tâm Kiều như có những đợt sóng lên xuống. Càng suy nghĩ chừng nào thì Kiều càng khóc lớn chừng đó. Bà Vương đang ngủ gần đó bị quấy rầy:
Giọng Kiều rền rĩ trướng loan,
Nhà huyên [24] chợt tỉnh hỏi con cớ gì:
‘Cớ sao trằn trọc canh khuya,
Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa?’
Thưa rằng: ‘Chút phận ngây thơ.
‘Dưỡng sinh đôi nọ tóc tơ chưa đền.
‘Buổi ngày chơi mả Ðạm Tiên,
‘Nhắp đi thoát thấy ứng liền chiêm bao.
‘Ðoạn trường là số thế nào,
Bài ra thế ấy vịnh vào thế kia.
‘Cứ trong mộng triệu mà suy,
‘Phận con thôi có ra gì mai sau!’
Bà mẹ nói: ‘Ôi những cái chuyện nằm mơ! Do tâm mình tưởng ra như vậy, tin vào đó thì chết. Tại sao tự mua chuốc chuyện sầu não làm gì hả con? Con đừng tin vào những giấc mộng. (Bà nói như vậy thôi nhưng trong lòng bà cũng lo sợ lắm!)
Dạy rằng: ‘Mộng huyễn cứ đâu,
‘Bỗng không mua não chuốc sầu nghĩ nao!
Vâng lời khuyên giải thấp cao,
Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương.[25]
Vừa được mẹ khuyên can về chuyện con ma xong, thấy lòng có nhẹ bớt một chút thì Kiều lại nghĩ đến chuyện Kim Trọng.
Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng,
Nách tường bông liễu bay sang láng giềng.
Hiên tà bóng gác nghiêng nghiêng,
Nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mình.
Hai đứa em dại quá, không thể hiểu được tâm sự của chị Thúy Vân thì đang ngủ khì. Vương Quan là con trai, mình đâu có tâm sự được với nó. Nói với mẹ lại càng không được: Con gái gì mới gặp con trai đã thương, đã đặt vấn đề có liên hệ gì với anh chàng sau này không! Thúy Kiều rất cô đơn trong tâm trạng này. Chúng ta sẽ đọc tâm trạng của anh chàng.
Có một điều cần nói ở đây. Bản nhạc Kiều sáng tác là một bản nhạc rất buồn. Mỗi lẫn đàn lên, Kiều lại có cơ hội tưới tẩm những hạt giống của sự đau buồn đó. Rất nguy hiểm. Vì vậy tôi nghĩ rằng khi tiêu thụ các sản phẩm văn nghệ chúng ta phải chọn những bài lành mạnh, có sự cởi mở, nhẹ nhàng, giải thoát. Phải cẩn thận như khi chúng ta ăn. Nếu chúng ta biết chọn những thức ăn không có độc tố thì chúng ta cũng phải biết chọn những sản phẩm văn hóa lành mạnh tiêu thụ. Tôi không muốn chúng ta hát ngâm những bài rền rĩ đau thương quá. Ngâm, hát những câu thơ và những bài hát đó chúng ta đang thực tập tưới tẩm những hạt giống đau thương trong mình. Có một thầy trẻ ngâm thơ hay. Mỗi khi ngâm những bài thơ buồn thì thầy khóc nức nở, không còn tác phong của người tu hành nữa. Thầy không biết chính trong lúc đó thầy đang tưới tẩm những hạt giống đau thương. Trong thiền có rất nhiều thi ca và âm nhạc nhưng thi ca và âm nhạc Thiền phải nhắm tới mục đích giải phóng và chuyển hóa. Ngồi đó mà đọc và nghe những bài thơ và bài nhạc đau thương, hưởng cái thú gọi là ‘thú đau thương’ là thực tập ngược lại thiền. Gãi, cào, cấu những nỗi đau của mình như vậy cũng có sự thú vị, nhưng càng thú chừng nào thì hạt giống buồn đau càng lớn chừng đó. Rất nguy hiểm. Hình ảnh những chàng trai, những cô gái còn trẻ ôm một cái băng của Thanh thúy nằm nghe rồi rên xiết là một hình ảnh rất tiều tụy.
Ngày xưa, khi chị Cầm của tôi đọc truyện Kiều cho mẹ tôi nghe, ngang câu ‘Phấn sao phấn bạc như vôi, Ðã đành nước chảy hoa trôi lở làng’ mẹ tôi nói: ‘Ðâu có! Trong sách để ‘phận’ rõ ràng mà, tại sao lại dọc ‘phấn?’ mẹ tôi nói: ‘Ðúng rồi. Viết là ‘phận’ nhưng nếu mình đọc: ‘Phận sao phận bạc như vôi’ thì mình cũng đang làm khổ Kiều vậy. Mình sẽ vận nó vào trong người. Rất nguy hiểm. Thành ra phải đọc là ‘phấn’ (để chứng tỏ là mình khác). Lúc đó mấy chị em mới hiểu là trong văn hóa của mình có truyền thống tự bảo hộ như vậy. Không phải chỉ trong đạo Phật người ta mới cẩn thận trong việc tưới tẩm hạt giống, chính trong văn hóa Việt Nam cũng có truyền thống kiêng cữ. Người còn gái nào chơi đàn Ðộc huyền cầm (đàn bầu) nhiều thì người ta tin rằng cô sẽ suốt đời đau khổ. Tiếng Ðộc huyền rất ‘trệ’, làm người nghe lụy xuống. Ngồi đó mà chơi “Ðêm tàn bến Ngự”… tưới tẩm hoài những hạt giống đau thương thì thế nào cũng có một ngày mình sẽ lãnh đủ. Ðây là chuyện thực tập. Người tu mà không biết chuyện này là có thiếu sót.
Có một thi sĩ làm thơ hô hào những nhà sáng tác, những ca sĩ từ bỏ lối sáng tác và ca hát đau thương đứt ruột. Ông ta viết những câu này, tôi còn nhớ:
Ðừng kể nữa những mảnh tình tan tác,
Hãy đứng lên, nhạc sĩ, với tôi đi!
Tôi ghét anh ưa giọng hát sầu bi,
Và tung mãi tâm hồn thường trụy lạc.
Hãy đứng dậy! Vứt chiếc cầm áo não!
Tôi cần nghe những khúc nhạc rất hùng.
Thét ngựa lòng phi mãi chẳng chồn chân,
Sáng như gươm tuốt, mạnh như luồng bão.
Ôi nhạc sĩ! Thật anh người thậm tệ!
Quan hoài chi những khúc hát mê ly,
Những câu ca không đẹp lại không thi
Của kỹ nữ vọc cuộc đời ê trệ?
Hay cung kính nhượng những người tuổi tác,
Những bản đàn nhịp hát thiếu tinh thần.
Hãy ra xem sóng vỗ với mây vần,
Và sáng chế cho tôi vài điệu khác.
Nếu chúng ta cứ hát những bài khóc gió than mây và cứ nghe những bài độc huyền thì có thể ‘vận cái rủi’ vào số mạng của mình, tưới tẩm những hạt giống đau buồn, điều đó không tốt.
GIỐNG HỮU TÌNH
Ðây là tình cảm của Kim Trọng sau cuộc gặp gỡ đầu tiên với Kiều:
Cho hay là giống hữu tình,
Ðố ai gỡ mối tơ mành cho xong!
Cụ Nguyễn Du nói tới chàng sinh viên này như nói về chính cụ. Cụ là một người có rất nhiều tình. Có nhiều tình thì có thể có nhiều đau khổ. Người ta nói đến một ‘giống’ người (race) gọi là ‘nòi tình’. Thúy Kiều, Kim Trọng và cụ Nguyễn Du đều thuộc ‘chủng tộc’ này. Cho nên cụ rất thông cảm. ‘Cho hay là giống hữu tình’ có nghĩa là: ‘Tôi biết mà! Anh thuộc về cái giống hữu tình thì thế nào anh cũng bị kẹt’. Hồi trẻ chắc chàng Nguyễn Du cũng đa tình lắm! Chắc chàng cũng đã nhiều lần bị kẹt.
‘Ðố ai gỡ mối tơ mành cho xong’: đã vướng vào vòng tình ái rồi thì gỡ ra rất khó. Ðây là cụ nói ra từ kinh nghiệm của mình, Chữ tình ở đây là thứ tình yêu có đam mê. Nhưng chữ tình có thể chỉ nhiều loại tình cảm khác. Ví dụ Từ, Bi, Hỷ, Xả cũng là tinh, nhưng tình này không có tính đam mê. Tôi nhớ ở chùa Trúc Lâm, Huế các thầy dùng chữ rất táo bạo. Trong thiền thất, các thầy để lại hai câu đối như thế này:
Bất tục tức Tiên cốt
Ða tình thị Phật tâm.
Cốt cách của người tiên thì thanh, trong trần tục. Trái tim của Bụt là một trái tim có nhiều tình thương. Bụt thương, không phải chỉ một người mà rất nhiều người. Từ loài người cho đến ‘con sóc, con nai, con muỗi, con giun, con chim, con cá…'[26] Như vậy là ‘đa tình’ chứ gì nữa! Tôi dịch là; Cốt tiên là không tục, Tâm Bụt vốn nhiều tình. Tình như tình của Bụt thì càng nhiều càng tốt, không sao hết. Tình đam mê, bi lụy, chiếm hữu, dính mắc… thì mới ngán. Về thăm chùa Trúc Lâm quý vị sẽ thấy hai câu đối đó.
Vướng vào cái vòng tình ái gỡ ra rất khó. Chàng thư sinh nọ gặp người đẹp rồi, về đọc Tứ thư, Ngũ kinh, Ðại học, Trung dung, Luận ngữ… không vô nữa. Văn sách, Kinh nghĩa không làm gì được cả. Sách vỡ, chữ nghĩa chạy đi đâu hết, chỉ có hình ảnh nàng Kiều trấn ngự trong lòng thôi.
Chàng Kim từ lại thư song,
Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây.
Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê!
Một ngày thương nhớ dài như ba năm. Thi sĩ dùng hình ảnh một hũ sầu để nói về sự nhung nhớ. Người ta thường lắc hủ để dồn những vật bên trong lắng xuống đáy, làm hũ vơi đi. Cái hũ sầu ở đây càng lắc càng thêm đầy. Ðúng là thơ!
NHỚ ÍT TƯỞNG NHIỀU
Mây Tần khóa kín song the,
Bụi hồng liệu nẻo đi về chiêm bao.[27]
Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao,
Mặt tơ tưởng mặt lòng khao khát lòng.

Ðọc những câu thơ này chúng ta đừng cười Kim Trọng. Có cười nên cười thi sĩ Nguyễn Du, một nhà Nho đang làm quan ở triều đình mà viết những câu thơ về tình tương tư như vậy.
Phòng văn hơi giá như đồng,
Trúc se ngọn thỏ tơ chùng phím loan.
Mành Tương phân phất gió đàn,[28]
Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình.
Ví chăng duyên nợ ba sinh,
Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi.
Tội nghiệp! Lâm vào tình cảnh này thật là nguy hiểm lắm. Không làm ăn gì được cả. Không sinh hoạt gì được trong phòng học cả (phòng văn lạnh ngắt như đồng): bút (lông thỏ) lâu ngày không viết ngọn khô quặn lại, đàn không gảy dây chùng lại, trà không pha, hương không đốt. Hoàn toàn tê liệt vì sự nhớ tưởng đến bóng hình kia. Nhớ quá, chịu không nổi, không biết làm gì hơn là tìm trở lại nơi chốn đã gặp nàng thăm để cho đỡ nhớ:
Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người,
Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi.
Một vùng cỏ mọc xanh rì,
Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu.
Bên dòng suối ngày xưa làm gì còn bóng dáng người kia nữa! Nước đâu lưu lại bất cứ hình bóng nào. Cỏ bây giờ đã gần thành cỏ tháng tư, xanh hơn màu cỏ tháng ba nhiều lắm. Thà rằng không tới, tới càng buồn thêm:
Gió chiều như giục cơn sầu,
Vi lô hiu hắt như màu khói trêu.
Những cây lau lắc lư trước gió như trêu chọc kẻ si tình: “A cái anh chàng! Còn gì nữa đâu mà tìm kiếm ở đây!” Nhớ nhung quá, anh chàng tìm luôn tới nhà cô nàng:
Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều,
Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang.
‘Nghề riêng’ là tập khí nhà văn của anh chàng. Kim Trọng viết văn hay, dùng trí tưởng tượng nhiều hơn ký ức về những chuyện có thật. Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều nghĩa là những cái nhớ được thì rất ít nhưng những cái tưởng tượng ra thì rất nhiều. Thường thường là như vậy. Khi yêu, giận hay buồn người ta tưởng tượng ra nhiều cái rất ngộ, không có trong sự thật. Vẽ vời bao nhiêu là cái… Ðâu cần phải là nhà văn! Kẻ nào đang bị lôi cuốn theo tình cảm yêu, giận, buồn, ganh… của mình đều tạo tác ra rất nhiều “tưởng” để bị bao vây trong thế giới của tưởng. Anh chàng tưởng tượng tới nhà Kiều sẽ gặp được người đẹp, rồi gì gì nữa. Nhưng tới nơi thì chàng thấy gì?:
Thâm nghiêm kín cổng cao tường,
Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh.[29]
Xung quanh bốn bức tường cao, nhìn vào cũng không thấy được gì. Không có phương tiện để liên lạc, nhắn tin. Ði quanh một vòng rồi về chứ làm gì nữa!
Lơ thơ tơ liễu buông mành,
Con oanh học nói trên cành mỉa mai.
Những cây liễu buông rũ xuống như bức mành. Trên cây có con chim oanh tập hót, chọc ghẹo anh chàng: ‘Anh chàng si tình ơi! Ðứng đó làm gì? Ði về cho rồi!’ Tâm trạng anh chàng như vậy nên thấy cái gì cũng như đang trêu chọc mình hết. Cụ Nguyễn Du không nói: “anh chàng nhớ cô nàng quá, thất vọng quá”… mà dùng toàn hình ảnh để diễn đạt ý đó. Dùng hình ảnh để nói, đó là thơ.
Mấy lần cửa đóng then cài,
Ðầy thềm hoa rụng biết người ở đâu?
Tần ngần đứng suốt giờ lâu,
Dạo quanh chợt thấy mé sau có nhà.
Là nhà Ngô Việt thương gia,
Phòng không để đó người xa chưa về,
Lấy điều du học hỏi thuê,
Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang.
Dọn đến làm hàng xóm. Ở một, hai bữa không gặp nhưng ba, bốn bữa chắc thế nào cũng có dịp gặp. Người ta cũng phải mở cửa đi ra chứ không lẽ ở hoài trong nhà sao! Ðó là hy vọng của chàng Kim.
Có cây có đá sẵn sàng.
Có hiên Lãm Thúy nét vàng chưa phai.
Nhà có cảnh đẹp và lại có một cái hiên ngắm hoa đề ba chức “Lãm Thúy Hiên”. Lãm là ngắm, Thúy là màu xanh đẹp của cây cảnh, trùng với chữ trong tên của Thúy Kiều. Vì vậy Kim Trọng mừng:
Mừng thầm chốn ấy chữ bài,
Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây.
Ðúng là khi đam mê người ta hay tưởng tượng và suy diễn theo cái muốn của mình. Ba sinh là nói đến chuyện hôn nhân. Ngày xưa khi gặp người còn trai hay người con gái mà thương thì người ta nghĩ ngay đến chuyện cưới nhau làm vợ chồng. Không có chuyện chỉ liên hệ trong chốc lát hay chỉ đi chơi như đời bây giờ. Bây giờ người ta gặp cô nầy xong thì gặp cô khác, đang chơi với cô nầy, thấy cô khác xinh xinh cũng chạy theo luôn. Có hai ba người một lần. Chính ngay trong số thiền sinh tới đây cũng có người đồng thời chơi với hai ba cô. Nhất là ở Ðức. Có người tới thưa: ‘Bạch Thầy, con thương ba người một lần. Bây giờ làm sao?’ Quý vị ra hành đạo bây giờ khó lắm! Ngày xưa dạy cho anh chàng Kim Trọng này thì còn dễ.
Sông hồ nửa khép cánh mây,
Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông.
Tấc gang động khóa nguồn phong,[30]
Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra.
Rình hoài. Cửa sổ không bao giờ đóng hết. Cách nhau trong gang tấc mà hoàn toàn không sao gặp mặt được. Ngóng đợi như vậy, hai tháng trôi qua.
Cách tường phải buổi êm trời,
Dưới đào dường có bóng người thướt tha.
Buông cầm xốc áo vội ra,
Hương thơm còn nức người đà vắng tanh.
Một hôm thấy nhàbên kia có thấp thoáng bóng người, anh chàng buông đàn, xốc áo và chạy ra liền. Rình hoài mà. Ra tới thì cô nàng đã đi mất rồi, chỉ còn mùi nước hoa thoang thoảng.
Lần theo tường gấm dạo quanh,
Trên đào nhác thấy một cành kim thoa.
Không biết Kiều đã làm rớt cành thoa thật hay nàng đã cố tình để nó lại trên cành đào? Ðây là một nghi án phải điều tra. Cô nàng có thể cũng biết có anh chàng ở bên cạnh nhưng không dám ra. Cái cách ngày xưa là như vậy. Vô tình hay hữu ý xin để tùy người đọc phán đoán.
Giơ tay với lấy về nhà:
‘Này trong khuê các đâu mà đến đây?
‘Gẫm âu người ấy báu này,
‘Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm!’
Ngộ nghĩnh không! Chiếc trâm ở bên nhà người ta mà mình lại nhón qua lấy. Cố tình ‘với lấy’ rồi đoán vào là duyên mình.
Liền tay ngắm nghía biếng nằm,
Hãy còn thoang thoảng hương trầm chưa phai.
Ngắm nghía không ngủ suốt đêm. Có cảm tưởng hương trầm của người đẹp còn thoang thoảng nơi cây trâm.
ÐÀI GƯƠNG SOI ÐẾN DẤU BÈO CHO CHĂNG?
Tan sương đã thấy bóng người,
Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ,
Sinh đà có ý đợi chờ,
Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng:
‘Thoa này bắt được hư không,
Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về[31]
Cây thoa của Kiều vướng trên cành đào. Nhánh đào phải nằm bên “không phận” nhà bên kia chứ đâu qua nhà bên này được. Vói lấy của người ta rồi nói: ‘bắt được hư không!’
Tiếng Kiều nghe lọt bên kia:
‘Ơn lòng quân tử sá gì của rơi.
‘Chiếc thoa là của mấy mươi,
‘Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao!’

Nghĩa khí là lòng ngay thẳng, thành thật, trong trắng của con người. Cô ta khen anh chàng: ‘Chiếc thoa là của mấy mươi, Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao!’ Cô cũng lịch sự và khéo léo lắm!
Sinh rằng: Lân lý ra vào,[32]
‘Gần đây nào phải người nào xa xôi.
‘Ðược rày nhờ chút thơm rơi,
‘Kể đà thiểu não lòng người bấy nay!
‘Bấy lâu mới được một ngày,
‘Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là.’
Vội về thêm lấy của nhà,
Xuyến vàng đôi chiếc khăn là một vuông.
Thang mây rón bước ngọn tường,
Phải người hôm nọ rõ ràng chẳng nhe?
Anh chàng mừng quá, tấn công liền. Chạy về lấy quả, vác thang bắc vào tường leo lên, chàng nhìn qua nhà hàng xóm.
Sượng sùng giữ ý rụt rè,
Kẻ nhìn rõ mặt người e cúi đầu.
Chúng ta thấy được thái độ của hai người. Anh con trai thì cảm thấy may mắn quá, cố nhìn cho rõ mặt cô nàng. Hôm trước dại quá, phải làm bộ nói chuyện với Vương Quan thành ra chỉ liếc sơ sơ. Bây giờ nhất định phải nhìn cho rõ. Người con gái thì sượng sùng, giữ ý, rụt rè và e lệ cúi đầu, không dám nhìn thẳng lên. Con gái nhà nề nếp mà! Nhưng chỉ nề nếp tới một mức nào đó thôi. Anh chàng nói:
Rằng: ‘Từ ngẫu nhĩ gặp nhau,
‘Thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã chồn.
‘Xương mai tính đã rũ mòn,
‘Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay!
‘Tháng tròn như gửi cung mây,
‘Trần trần một phận ấp cây đã liều!'[33]
Anh chàng chờ lâu quá. Tháng này qua tháng khác, chờ đợi đến nỗi ốm đi, chỉ còn da bọc xương. Bây giờ là cơ hội cho nên anh chàng tấn công thẳng:
‘Tiện đây xin một hai điều:
Ðài gương soi đến dấu bèo cho chăng?’
Ðặt yêu cầu rất rõ: ‘Cô có đáp ứng được niềm thương yêu của tôi không?’ chàng nói rất khéo: ‘Ðài gương soi đến dấu bèo cho chăng?’ Rất tội nghiệp. Ví cô nàng như gương sen, ở trên soi xuống; thân phận chàng con trai thì chỉ như thân bèo nhỏ bé ở sát mặt nước nhìn lên gương sen. Lúc chưa có được người đẹp thì phải nói như vậy mới có hy vọng chiếm được. Cưới được rồi thì có thể nói ngược lại. Có thể nói những điều rất kỳ: Em không được tích sự gì hết! Nấu nối cơm cũng không chín. Nghe nói ở Paris có một anh chàng Tây muốn cưới một cô Việt Nam. Ðến nhà cô nàng, anh chàng khen: Trời ơi, nhà em đốt nhang sao mà thơm quá! Ðến khi cưới rồi, thì: Ðốt nhang làm gì mà đốt mãi thế? Ngộp quá! Làm dơ trần nhà hết trơn! Anh chàng của chúng ta đang ở giai đoạn chưa chiếm hữu được thành ra rất dễ thương: ‘Tiện đây xin một hai điều, Ðài gương soi đến dấu bèo cho chăng?’
Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:
‘Thói nhà băng tuyết chất hằng phỉ phong.[34]
‘Dù khi lá thắm chỉ hồng,[35]
‘Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.
‘Nặng lòng xót liễu vì hoa,
‘Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa!’
Ðó là cách trả lời của con gái ngày xưa. Dầu bằng lòng rồi đi nữa cũng phải nói: ‘Em không biết. Cái đó anh hỏi ba má em.’ ‘Thói nhà băng tuyết, chất hằng phỉ phong’ là gia đình sống một nếp sống truyền thống, giản dị, khỏe mạnh và đạo đức.
Sinh rằng: Rày gió mai mưa,
‘Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi!
Vô thường lắm cô ơi! Có mấy cơ hội may mắn như ngày hôm nay:
‘Dù chăng xét tấm tình si
‘Thiệt đây mà có ích gì đến ai?
Chút chi gắn bó một hai,
Cho đành rồi sẽ liệu bài mối manh.
Nếu em không xét lại mà một mực dù từ chối thì chắc anh sẽ chết mất! Thiệt thòi cho anh mà chẳng có ích lợi gì cho em đâu! Em bằng lòng đi cho anh an tâm rồi anh sẽ đi tìm người tới làm mối mai hỏi em. Anh chàng này chắc đi học trường luật để ra làm trạng sư được!
‘Khuôn thiêng dù phụ tấc thành.
‘Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời.
Nếu trời không cho anh cưới được em thì anh sẽ chết. Anh thề sẽ không cưới ai nữa hết. Tuổi trẻ của anh coi như là bỏ đi. Sinh mạng anh tùy thuộc vào em. Em nói “Yes” thì anh sống, mà nói “No’ thì anh chết. Ghê không? Những chàng sinh viên thời này chưa chắc nói được như vậy!
Lượng xuân dù quyết hẹp hòi.
Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru!
‘Em không tội nghiệp anh sao? Mấy tháng nay anh không ăn, không ngủ, không học, không đàn, không pha trà, không viết lách. Ốm tong teo. Mở cửa sổ suốt ngày đêm để nhìn qua như vậy thôi…’ Ðó là tất cả những điều mà người con trai có thể nói. Nói như vậy thì làm sao Kiều có thể từ chối được? Nhất là Kiều đã có nội kết sẵn rồi.
Lặng nghe lời nói như ru,
Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng.[36]
Rằng; ‘Trong buổi mới lạ lùng,
‘Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang!
Có một giây phút gọi là giây phút thua trận. Kháng chiến đã thất bại. Mặt trận đã vỡ. Thành trì đã bị quân địch phá đổ rồi!
‘Ðã lòng quân tử đa mang,
‘Một lời vàng tạc đá vàng thủy chung.’
Như vậy là trận đánh đã kết thúc. Ngày xưa ông Vương có nói với bà Vương như vậy không? Chắc cũng na ná như vậy chứ gì!
Ðược lời như cởi tấm lòng,
Giở kim hoàn với khăn hồng trao tay.
Rằng: ‘Trăm năm cũng là đây,
‘Của tin gọi một chút này làm ghi.’
Sẵn tay khăn gấm quạt quỳ,
Với cành thoa ấy tức thì đổi trao.
Trao đổi tặng phẩm để cụ thể hóa mối tình, làm tin sự đính ước.
Một lời vừa gắn tất giao,
Mái sau dường có xôn xao tiếng người.
Có tiếng người đi tới.
Vội vàng lá rụng hoa rơi,
Chẳng về viện sách nàng dời lầu trang.
Không có cách gì để có thể viết hay hơn nữa. Hai người đang gặp nhau, nghe tiếng động vội vàng xa nhau. Một bên là hoa, một bên là lá. Hình ảnh ‘lá rụng hoa rơi’ hay ở chỗ rất nhẹ nhàng không ai biết.
TỪ PHEN ÐÁ BIẾT TUỔI VÀNG
Từ phen đá biết tuổi vàng,
Tình càng thắm thía dạ càng ngẩn ngơ.
Hay câu rất hay. Rất đúng chân lý. Trước kia thầm yêu, trộm nhớ, khổ và thiếu nhau thiệt. Tưởng gặp được nhau, nói được những lời thương yêu, hứa hẹn với nhau thì đỡ khổ. Ai dè sau đó thì càng nhớ, càng khổ, càng thiếu nhau thêm. Ở xa, mình tính bỏ ra ba trăm quan nói chuyện điện thoại với người kia, nghĩ rằng nói xong thì thương nhớ nhẹ bớt. Ai dè, nói xong lại càng thấy xôn xao và nóng nảy, bồn chồn hơn. Cái mà mình tưởng sẽ làm cho mình thỏa mãn, hết khổ lại làm cho mình khát khao, khổ sở nhiều lần. Ðây là một sự thực, được nói ra không phải từ Kinh điển mà từ kinh nghiệm của người đời. Nói kinh nghiệm chứ không phải là thuyết pháp. Giá trị của sự thực này không thua gì giá trị của một câu Kinh.
Sông Tương một dải nông sờ,
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia.
Ðây là hai câu lấy ý đoạn thơ trong Tình Sử:
Quân tại Tương giang đầu,
Thiếp tại Tương giang vĩ
Tương tư bất tương kiến
Ðồng ẩm Tương giang thủy.
(Chàng ở đầu sông Tương, Thiếp ở cuối sông Tương, nhớ nhau mà không thấy mặt nhau, {dù} cùng uống nước sông Tương). Làm sao mà gặp được nhau hoài hoài, mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút? Một lần là đã quá may mắn rồi!
NGẪM CƠ HỘI NGỘ ÐÃ ÐÀNH HÔM NAY
Lần lần ngày gió đêm trăng,
Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua.
Màu hồng ít đi, màu lục nhiều hơn. Mùa Xuân đã nhường chỗ cho mùa Hè.
Ngày vừa sinh nhật ngoại gia,
Trên hai đường dưới nữa là chị em.
Tưng bừng sắm sửa áo xiêm,
Biện dâng một lễ xa đem tấc thành.
Gia đình Thúy Kiều về bên ngoại ăn sinh nhật. Kiều ở nhà, cố nhiên là cô lấy cớ: ‘Con nhức đầu. Con xin ở nhà.’ Ðây là cơ hội để đi gặp anh chàng.
Nhà lan thanh vắng một mình,
Ngẫm cơ hội ngộ đã đành hôm nay.
Thời trân thức thức sẵn bày,
Gót sen thoan thoát dạo ngay mái tường.
Kiều nấu vài món thật ngon, chạy ra chỗ hai người đã gặp và thề thốt. Thời trân là những món ăn trong mùa. Mùa nào có thức ăn mùa đó. Ví dụ mùa Xuân có rau tía tô, kinh giới (thì làm xuân quyện), màu hè có rau xà lách, bông bí…; Những món ăn trong mùa thì tươi và ngon (thời trân). Không nhằm mùa mà mua ăn (hay ăn đồ hộp) thì không ngon nữa. Một thi sĩ Việt Nam trong nhóm Xuân Thu Nhã Tập có câu; Ðáy đĩa mùa đi nhịp hải hà. Bốn mùa đi ngang qua đáy đĩa theo nhịp của sông và biển. Mùa nào ăn món ngon của mùa đó, chỉ có ý ấy mà nói một cách rất ‘điệu’,
Cách hoa sẽ dặng tiếng vàng,
Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông.
Cô nàng vừa đằng hắng một cái thì đã thấy anh chàng đứng sẵn ở bên kia rồi. Làm sao anh ta biết nhà bên kia hôm nay đi ăn sinh nhật bên ngoại mà đứng chờ? Thiệt là tài tình! Thật ra cả ngày anh có làm ăn được gì đâu, suốt ngày chỉ nhìn qua bên này, chờ đợi thôi mà. Và bây giờ anh chàng trách:
Trách lòng hờ hững với lòng,
‘Lửa hương chốc để lạnh lùng bây lâu.
‘Những là đắp nhớ đổi sầu,
‘Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm.’
Anh chàng cường điệu hóa! Mới có hai mươi mấy tuổi đầu làm sao mà tóc bạc được.
Nàng rằng: ‘Gió bắt mưa cầm,
‘Ðã cam tệ với tri âm bấy chầy.
‘Vắng nhà được buổi hôm nay,
‘Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng!
Hai chữ lòng được sử dụng rất khéo. Ðáp lại tấm lòng bằng một tấm lòng. Khi viết truyện Am Mây Ngủ tôi cũng bắt chước cách nói của cụ Nguyễn Du: ‘Tác giả đã lấy lòng của một thiền sư để hiểu lòng của một thiền sư (Trúc Lâm Ðại Sĩ).’
Bây giờ Kiều đi vòng theo hòn non bộ, thấy cuối tường có một cái lỗ có thể đi chui vừa được rào lại.
Lần theo núi giả đi vòng,
Cuối tường dường có nẻo thông mới rào.
Xắn tay mở khóa động đào,
Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên Thai.
Xé rào, chui lỗ tường qua gặp nhau mà nói rất văn hoa.
Mặt nhìn mặt càng thêm tươi,
Bên lời vạn phúc bên lời hàn huyên.[37]
Sánh vai về chốn thư hiên,
Góp lời phong nguyệt nặng nguyền non sông.[38]
KHÔNG GIAN TRONG BỨC HỌA
Trên yên bút giá thì đồng,
Ðạm thanh một bức tranh tùng treo trên.[39]
Thi đồng là cái hộp đựng những bài thơ mới làm. Bút giá là giá gác bút. Ngày xưa tôi nghèo quá, không có cái thi đồng. Nhiều khi làm thơ để rơi rụng, bay đi đâu mất cả. Nhất là khi có ý thơ muốn viết ra lại lấy mấy cái bì thư cũ, viết vào năm bảy câu, sau tưởng là rác đem liệng mất. Rất uổng. Phải mà có cái hộp, làm bài nào cũng bỏ vào đấy, đóng nắp lại thì đỡ quá.
Thấy bức tranh tùng Kim Trọng vẽ, Thúy Kiều khen:
Phong sương được vẻ thiên nhiên.
Mặn khen nét bút càng nhìn càng tươi.
Cây tùng mang vẻ hùng vĩ của một bậc trượng phu, chịu đựng được sương tuyết và gió mây. Thúy Kiều khen, không phải khen sơ sơ mà khen hết lòng (mặn khen).
Sinh rằng: ‘Phác họa vừa rồi,
‘Phẩm đề xin một vài lời thêm hoa.’
Kim Trọng xin Kiều đề vài câu thơ để bức họa có thêm giá trị. Ý nói: “Nét vẽ của anh đâu có đẹp gì, nhưng nếu em cho vào vài câu thơ thì bức họa có thể bán tới hai ba ngàn đô la. ‘Một bên khen vẽ đẹp, một bên khen thơ hay.’
Tay tiên gió táp mưa sa,
Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu.
Khoảng trên là lạc khoản. Theo lối họa cổ điển, người ta không bao giờ vẽ choán hết khung vải hay khung tranh mà luôn luôn để không gian trong bức họa. Vì vậy bức họa có thiền vị. Ðôi khi người ta vẽ một dòng sông, vài ba cây lau sậy, một con thuyền cắm sào, còn lại phía trên bao nhiêu là trời, bao nhiêu là không gian. Nhìn vào mình thấy trong người rất khỏe. Thầy tu khi vẽ cũng nên vẽ như vậy. Phải có rất nhiều không gian. Khi viết thư cũng nên như vậy. Càng ngắn càng tốt, càng thiền. Liệng bớt được chữ nào tốt chữ đó. Viết một cái thư mà đặc nghịt từ trên xuống dưới, người ta nhìn vào sẽ thấy mệt, chưa muốn đọc liền. Viết theo kiểu đánh điện tín; thêm một chữ là phải trả thêm tiền. Khoảng trống trong bức họa (lạc khoản) là chỗ khi gặp người tri kỷ hay giỏi thơ người ta sẽ nhờ đề vào vài chữ. Nếu không có ai thì tác giả tự đề.
NHẢ NGỌC PHUN CHÂU.
Kiều rất giỏi. Ngoáy vài cái đã xong ba bốn câu thơ trên lạc khoản. Anh chàng khen liền:
Khen: ‘Tài nhả ngọc phun châu,
‘Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này![40]
‘Kiếp tu xưa ví chưa dày,
‘Phúc nào nhắc được giá này cho ngang!’
– ‘Em làm thơ như nhả ngọc phun châu! Chắc kiếp trước anh có tu nên kiếp này mới có phước mà được em.’ Không biết kiếp trước chàng Kim đã và tu pháp môn nào?
PHẬN DÀY PHẬN MỎNG
Thúy Kiều đáp lại lời khen của Kim Trọng:
Nàng rằng: ‘Trộm liếc dung quang,
‘Chẳng sân ngọc bội cũng phường kim môn.[41]
‘Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn,
‘Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay?
Kiều lo: ‘Anh có phước đức nhiều trong quá khứ, em thì không. Không biết ông trời có giúp cho cuộc hôn nhân của chúng ta không?’ Vì:
Nhớ từ năm hãy thơ ngây,
Có người tướng sĩ đoán ngay một lời:
Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.
Ông thầy tướng nói: ‘Tất cả những cái tinh anh của con người Thúy Kiều đều lộ ra ngoài hết. Sợ rằng suốt đời cô sẽ khổ.’ Khi có những cái quý, cái hay, người ta phảibiết giấu bớt vào bên trong. Anh hoa là cái tinh ba, cái đẹp nhất của con người. Nếu phát tiết ra ngoài hết thì bên trong sẽ không còn gì nữa. Và như vậy sẽ chiêu cảm vào những tai nạn. Những người có hạnh phúc là những người chất chứa được nội dung và nội lực bên trong. Họ không để hết tất cả phát hiện ra ngoài. Những nhà có củi chất nhiều trong kho thì sẽ được ấm suốt mùa đông. Nếu có bao nhiêu củi đều đem ra, đốt hết thì sẽ có lúc lạnh.
‘Trong người lại ngẫm đến ta,
Một dày một mỏng biết là có nên?’
Thấy một bên (Kim Trọng) phúc dày, một bên (Kiều) phúc mỏng. Kiều phân vân không biết mối nhân duyên của hai người có thể thành tựu được không.
Sinh rằng: ‘Giải cấu là duyên,[42]
‘Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều.’
Con người đã nhiều lần thắng được số mạng nhờ có ý chí. Ðó là lời an ủi của Kim Trọng - Sự tu học và cách sống của mình có thể đổi được số mạng và hoàn cảnh. ‘Tướng bất cập số, số bất cập đức’: nếu có đức thì mình có thể thắng được số phận. Ðây là một lời khuyên rất hay. Nếu mình có cảm giác là mình không có nhiều phước nhiều, số phận mình sẽ đau khổ thì nên nghe lời khuyên này. Số phận không phải là chuyện quan trọng nhất, bởi vì mình có khả năng chuyển hóa. ‘Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều’. Trong văn hóa Pháp, có khi người ta nói con người sắp đặt nhưng chính Trời quyết định (L’homme propose, Dieu dispose). Ở đây chúng ta thấy một quan điểm khác hơn: Nếu con người có ý chí, muốn chuyển hóa muốn thay đổi thì nhiều khi chuyển được số mạng, chuyển được nghiệp, chuyển được mạng trời.
‘Ví dù giải kết đến điều,
thì đem vàng đá mà liều với thân!’
‘Nếu gặp phải những chuyện khó khăn thì chúng ta hãy đem sức mạnh tình yêu của chúng ta mà tranh đấu. Cần chết thì chết. Sợ gì!’
Ðủ điều trung khúc ân cần,[43]
Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng.

Cô Kiều lo lắm nhưng nếu có người an ủi thì cô trấn tĩnh lại được liền. Mới mấy tháng trước đây, nhờ có mẹ khuyên nhủ, cô yên. Bây giờ, nhờ anh chàng an ủi, cô cũng êm lại. Cô có khả năng vui chơi ngay sau đó. Hai người uống rượu. Họ đâu đã thọ Tam Quy và Ngũ Giới! Không biết Kiều đã uống rượu hay uống trà? Con gái thường không uống rượu. Anh chàng thì chắc chắn là uống rượu. Rượu cúc hay rượu đế, chứ chắc không phải là rượu thuốc đâu!
NGÀY VUI NGẮN CHẲNG ÐẦY GANG.
Giây phút bên nhau của hai người rất ngắn ngủ. Ngày sắp hết, họ sắp phải chia tay. Cụ Nguyễn Du nói một câu đáng cho chúng ta chú ý:
Ngày vui ngắn chẳng đầy gang,
Trông ra ác đã ngậm gương non Ðoài.
Ngày vui là ngày Kim – Kiều được sống cạnh nhau, từ chín giờ sáng đến năm, sáu giờ chiều. Ngày vui nhất trong đời của hai người được diễn tả là ‘ngắn chẳng đầy gang’. Lấy không gian mà đo thời gian thì chưa đầy một gang tay. Ðây là một câu rất hay trong truyện Kiều, có thể viết lên treo ngay trong thiền viện được. khi vui mà vui không có chánh niệm thì cái vui đi qua rất mau và cũng không thật là vui. Hai người ngồi, nói chuyện và thề bồi từ sáng đến chiều. Cái vui có bao nhiêu đâu! Chưa bằng một gang tay. Nhất là khi họ chưa biết thực tập chánh niệm và an trú trong hiện tại.
Vắng nhà chẳng tiện ngồi dai,
Giã chàng nàng mới kíp dời song sa.[44]
Thấy mình qua bên này đã lâu quá trong khi nhà không có ai cũng kỳ, và sợ gia đình về không thấy mình. Kiều đứng dậy từ giã.
BÂY GIỜ RÕ MẶT ÐÔI TA
Ðến nhà vừa thấy tin nhà,
Hai thân còn dở tiệc hoa chưa về.
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vừa khuya một mình.
Về nhà, thấy gia đình chưa về, Kiều tiếc, lại chui tường sang nhà Kim Trọng.
Nhật thưa gương giọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.[45]
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
Anh chàng đang ngồi ngủ gục. Không đi nằm đàng hoàng, chàng chỉ ngồi trước bàn học mà ngủ.
Tiếng sen sẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
Câu thơ rất đẹp. Bước chân của Kiều làm xao động giấc ngủ của Kim Trọng. Trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, chàng Kim thấy một nàng tiên bước tới. Anh chàng nghĩ là mình đang nằm mộng:
Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần,
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Nàng rằng: ‘Khoảng vắng đêm trưòng,
‘Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa.
‘Bây giờ rõ mặt đôi ta,
‘Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?’
‘Bây giờ hai đưa gặp nhau, nhìn rõ mặt nhau. Nhưng có thể cảnh này chỉ là cảnh chiêm bao, không có thật’. Dễ sợ! Ðây là một trong những câu ghê gớm nhất của truyện Kiều. Nếu đem con mắt của thiền sư mà nhìn thì ta sẽ thấy câu này ‘lợi hại’ lắm. Có một lần tôi đưa anh Thiều đi vào rừng. Những đọt lá trong rừng có những đường gân xanh tuyệt vời. Tôi rất thích. Nhìn những tờ lá đó tôi rất hạnh phúc, thấy mình đang sống trong cảnh giới mầu nhiệm của pháp thân. Những người đi theo tôi có thể đã không tiếp xúc được. Họ đang lo chuyện ở nhà, công ăn việc làm, tương lai, quá khứ… cho nên khó tiếp xúc được với những mầu nhiệm ấy. Tôi dừng lại và hỏi: ‘Ðây là sự thực hay giấc mộng? Cảnh giới này có thực hay mộng?’ ‘Người bây giờ nhìn những khóm lá này như nhìn trong một giấc mơ’. Hai người cùng đứng chỗ đó, cùng nhìn những tờ lá đó. Người sống trong mộng, người sống trong sự thật. Sự khác nhau nằm ở chỗ có an trú trong hiện tại, có chánh niệm khi tiếp xúc với cái đẹp của tờ lá hay không. Kiều là một thi sĩ, một người rất nhạy cảm. Cô thấy được cái đựp, sự quý giá của giờ phút hai người được gặp nhau. Cô cũng thấy đó là chuyện rất mong manh. Cũng vì thấy cái mong manh đó cho nên cô đã liều mạng:
Nàng rằng: ‘Khoảng vắng đêm trường,
‘Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa’
Cô này ghê lắm chứ không phải chơi đâu! Tuy nói là con nhà gia giáo, có nề nếp nhưng chui tường hai lần trong một đêm thì cũng quá thật. đây là nhân vật của cụ Nguyễn Du, một nhà Nho mô phạm của ‘cửa Khổng sân Trình.’
Chúng ta có thể viết lên hai câu: ‘Bây giờ rõ mặt đôi ta, biết đâu rồi nửa chẳng là chiêm bao?’ làm thiền ngữ treo trên tường được. Làng Mai là một thực tại hay một giấc chiêm bao? Có thể bây giờ nó đã là một giấc chiêm bao rồi, nếu mình không biết an trú trong hiện tại, không sống sâu sắc, tận hưởng những giờ phút bên nhau.
Vội mừng làm lễ rước vào,
Ðài sen nối sáp song đào thêm hương.[46]
Kim Trọng thắp thêm nến mới và đốt thêm hương trầm. Ngày xưa, trươc khi ngâm thơ người ta thường tắm rửa sạch sẽ và đốt trầm lên. Nếu có tiếng đàn tỳ bà nữa thì mới đúng là khung cảnh ngâm thơ. Một anh chàng sinh viên điệu như Kim Trọng thì thế nào cũng có một cây đàn, một lư trầm và một đài sen để đốt nến. Ngày xưa, tôi cũng bị ảnh hưởng cái ‘điệu’ đó. Tết nào tôi cũng mua bạch lạp; thức đợi Giao thừa thắp lên ba bốn cây nến để đọc thơ. Toàn là cổ thi, in trên giấy thật trắng. Ðó là cái kiểu thanh tao, sang trọng về phương diện tâm linh của người trước.
Tiên thề cùng thảo một chương,
Tóc mây một món dao vàng chia đôi.
Hai người viết lời thề xuống tờ giấy hoa tiên, cắt tóc trọn với nhau rồi chia đôi, mỗi người một nửa. Người trẻ đời bây giờ có người cũng còn làm như vậy.
Hai người viết lời thề xuống tờ giấy hoa tiên, cắt tóc trộn với nhau rồi chia đôi, mỗi người một nửa. Người trẻ đời bây giờ có người cũng còn làm như vậy.
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Ðinh ninh hai miệng một lời song song.
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Chén hà sánh giọng quỳnh tương,
Dải là hương lộn bình gương bóng lồng.
Hai người uống rượu, thề nguyền. Bóng trăng chiếu qua bức bình phong có những tấm gương, gió lay bức màn lụa phảng phát mùi hương trầm.
CƠN BÃO ÂM THANH
Sinh rằng: ‘Gió mát trăng trong,
‘Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam.
‘Chày sương chưa nện cầu Lam,
‘Sợ lần khân quá ra sàm sở chăng?
‘Lâu nay anh ước ao một chuyện mà chưa được. Chúng mình chưa chính thức làm lễ cưới hỏi, nếu anh yêu cầu chuyện đó thì e hơi bất lịch sự.’ Nghĩa chỉ là như vậy thôi mà thơ diễn tả một cách rất điệu.
Nàng rằng: ‘Hồng diệp xích thằng,
‘Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri.
‘Ðừng điều nguyệt nọ hoa kia,
‘Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai.’
‘Hai người đã đồng ý với nhau, hiểu nhau, liên hệ đã sâu sắc. Ðừng đi vào chuyện hoa nguyệt thôi. Ngoài chuyện đó ra em không từ chối chuyện gì với anh cả.’ Rất rõ ràng. Anh chàng bèn yêu cầu:
Rằng: ‘Nghe nổi tiếng cầm đài,
‘Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ'[47]
Cầm trăng là đàn nguyệt (nguyệt cầm, gọi là đàn trăng cũng được). Hai trăm năm trước cụ Nguyễn Du đã cố gắng dùng chữ Nôm để thay thế những chữ Hán. Bây giờ mình dùng văn phạm Việt để niệm Bụt (Nam mô Bụt Thích Ca Mâu Ni) cũng không có gì là cách mạng lắm. Kim Trọng có cử chỉ rất đẹp, hai tay nâng đàn lên ngang mày để đưa cho Kiều. Trang trọng như dâng trà cho Bụt trong thiền trà.
Nàng rằng: ‘Nghề mọn riêng tây,

‘Làm chi cho bận lòng này lắm thân!’
So dần dây vũ dây văn,
Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương.
Vũ là dây đàn to, văn là dây đàn nhỏ. Có chỗ chú thích ngày xưa đàn có năm dây, sau đó thêm vào hai dây gọi là dây vũ và dây văn. Khi vua Văn Vương bị bắt, con của Văn Vương thêm vào một dây gọi là dây văn. Khi Vũ Vương lên làm vua lại thêm một dây gọi là dây vũ. Trong Kiều thì nói đàn có bốn dây. Cung thương là hai trong năm âm chánh của âm nhạc thời xưa: Cung, thương, giốc, chủy, vũ.
Tiếp theo là những câu tả cái đẹp của khúc đàn Kiều trình diễn. Nguyễn Du tả Kiều đàn nhiều lần. Lần đầu đàn cho Kim Trọng, lần thứ hai cho Hoạn Thư và Thúc Sinh, lần thứ ba cho Hồ Tôn Hiến, và lần cuối là đàn cho Kim Trọng nghe sau mười lăm năm gặp lại. Mỗi lần như vậy, Nguyễn Du diễn tả một cách khác. Tùy theo tâm trạng của Kiều mà bản đàn biến thể. (Còn có bốn lần đàn khác, Nguyễn Du chỉ nói qua.) Ðây là lần đầu tiên, đàn cho Kim Trọng nghe. Cũng là khúc đàn này, Kim Trọng sau mười lăm năm nghe lại không khổ đau, vì trong thân tâm nội kết đã chuyển hóa. Ðây là bản đàn, đàn lần đầu tiên:
Khúc đâu Hán Sở chiến trường,
Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau.
Khúc đâu Tư Mã Phượng Cầu,[48]
Nghe ra như oán như sầu phải chăng!
Kê Khang này khúc Quảng Lăng,[49]
Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân.[50]
Quá quan này khúc Chiêu Quân,[51]
Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia.
Ðó là tính chất của bản đàn. Chứa đựng những hình ảnh, tâm sự buồn ai oán. Và đây là tài nghệ của Thúy Kiều, cuốn hút người nghe vào biển âm thanh:
Trong như tiếng hạc bay qua,
Ðục như nước suối mới sa nửa vời.
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
Âm thanh được diễn tả bằng những hình ảnh rất tài tình. Và đây là hậu quả tai hại của bản đàn:
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu.
Khi tựa gồi khi cúi đầu,
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày.
Tâm tư của Kiều có rất nhiều sầu thảm, đau khổ. Ðó là những hạt giống thừa hưởng từ ông bà đời trước. Tâm tư đó, bây giờ được diễn tả qua tiếng đàn. Và người nghe là Kim Trọng cũng bị cuốn hút vào thế giới của sầu khổ. Anh chàng ngồi không yên được để nghe. Tư thế ngồi của anh chứng tỏ anh hoàn toàn bị cơn lốc của tâm trạng Thúy Kiều kéo theo. Văn nghệ lành mạnh và văn nghệ không lành mạnh rất khác nhau. Ðàn hay hát lên một bài hát, mình có thể tạo ra những hậu quả rất lớn trong lòng mình và trong lòng người nghe. Chúng ta cần phải rất cẩn thận. ‘Khi tựa gối khi cúi đầu, Khi vào chín khúc khi chau đôi mày.’ Rất rõ ràng thái độ bất an của Kim Trọng dưới ảnh hưởng của một khúc nhạc có tính cách sầu thương. Văn nghệ rất nguy hiểm. Tôi thường nói với các sư chú, sư cô: hát thì hát, ngâm thơ thì ngâm thơ nhưng phải cẩn thận. Hát và ngâm thơ là một cách tưới tẩm những hạt giống trong lòng mình. Có những hạt giống cần tưới tẩm và có những hạt giống không nên tưới tẩm. Chúng ta có đầy đủ tất cả những hạt giống (nhất thiết chủng thức) cho nên phải cẩn thận. Nhất là khi mình còn yếu. Ðừng nên tưới tẩm bằng thi văn những hạt giống sầu đau của mình. Mỗi khi các sư chú, sư cô, các anh, các chị làm được một bài nhạc thanh thoát thì tôi mừng. Nếu trong nhạc có những nét đau buồn thì tôi không mừng lắm. Khi làm ra những nét nhạc đó, chính mình sẽ hát, bạn mình sẽ hát và sẽ tưới lại những hạt giống đau buồn. Và đó là đi ngược lại được lối tu học của chúng ta.
Rằng: ‘Hay thì thật là hay,
‘Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào.
‘Lựa chi những khúc tiêu hao,
‘Dột lòng mình cũng nao nao lòng người?’
Sau khi đi qua một trận bão của âm thanh rồi, anh chàng nói: ‘Em dàn thì hay thật đó, nhưng sao cay đắng, đau khổ quá chừng! Sao em lại chọn những bản nhạc buồn như vậy? Khi đàn em buồn mà người nghe cũng đứt ruột theo.’ Anh chàng cũng thẳng thắng lắm, chứ đâu phải chỉ biết khen mà thôi đâu. Ý anh chàng là: ‘Em nên sáng tác lành mạnh hơn. Nghe thêm một lần nữa chắc anh sẽ chết quá!’ Chúng ta thấy rõ, anh chàng có hạt giống của sự lành mạnh trong tâm. Khi trong lòng có sự lành mạnh mình sẽ không đau khổ nhiều như người có chủng tử khổ đau lớn. Vì có nhiều chủng tử của khổ đau, người kia sẽ đi qua mười lăm năm rất đau thương. Nếu mình đau khổ thì cũng là đau nỗi đau của người kia vì đời mình dính vào đời người kia. Truyện Kiều không pải là Kinh nhưng nhìn với con mắt quán chiếu thì bất cứ chuyện nào cũng thành Kinh hết.
Ðây là lời đáp của Kiều:
Rằng: ‘Quen mất nết đi rồi,
‘Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao!’
Ðây là nói về tập khí mà Kiều không biết. Quen mất nết đi rồi có nghĩa là lâu nay nàng chỉ chơi nhạc đó, sáng tác theo đường lối đó. Nói theo danh từ Duy Thức là tập khí (habit energy). Tập khi có thể được hình thành từ hồi thơ ấu hoặc được trao truyền từ những thế hệ trước. Ở đây chủng tử được truyền cho Kiều chứ không phải cho Vân hay Quan. Và Kiều tưởng lầm: ‘Trời sanh em ra như vậy thì em như vậy.’ Trời sanh là một cách cắt nghĩa khi chúng ta không hiểu nguyên lý chủng tử trong Duy Thức. ‘Tẻ vui âu cũng tính trời biết sao!’ Nói như vậy là không đúng. Nếu học Duy Thức thì ta biết rằng tất cả những tập khí tẻ hay vui đều là vấn đề chủng tử cả. Chủng tử bản hữu và chủng tân huân. Hai câu: ‘Rằng: ‘Quen mất nết đi rồi, Tẻ vui âu cũng trời biết sao!’ có thể được đem ra giảng theo Duy Thức Học thành một cuốn sách.
‘Lời vàng vâng lĩnh ý cao,
‘Họa dần dần bớt chút nào được không.
Cô không tin tưởng lắm là mình có thể thay đổi được tính khí của mình: ‘Anh nói như vậy thì em xin nghe lời anh. Em sẽ cố gắng, hy vọng sẽ bớt buồn chút xíu.’ Hứa như vậy thôi. Người có tu biết rất rõ cái gì cũng do chủng tử mà ra cả. Nếu biết cách tưới và không tưới các hạt giống thì có thể thay đổi được tập khí. Ở đây Kiều không biết điều đó vì chưa học sách Duy Thức Tam Thập Tụng.
Hoa hương càng tỏ thức hồng,
Ðầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu.
Sau khi hai người đã đi qua một trận bão tố của âm thanh rồi thì họ yếu hơn trước. Ðây là một sự thật. Người chơi nhạc và người nghe nhạc bây giờ đều yếu hơn. Dáng điệu và cái nhìn của họ càng biểu lộ sự quấn quít say mê. Cơn bão tố vừa mới đi qua là cơn bão tố của âm thanh. Những ngọn gió đã khơi dậy những đợt sóng trong lòng người (sóng tình). Ðương sự không còn đủ sức đứng vững, như một con thuyền đang đi trong đại dương bỗng nổi lên một ‘trận cuồng phong’ hay một ‘loài thủy quái'[52]
Sóng tình dường đã xiêu xiêu,
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi.
Âu yếm là thương yêu gần gũi, vẫn còn có thể ở trong vòng lễ giáo. Lả lơi thì có sự không chính đính, tức là đã có yếu tố phi lễ ở bên trong. Cách ngồi, cử chỉ, con mắt đã biểu lộ một cái gì không hoàn toàn đi đúng theo lễ giáo nữa, kết quả của sóng tình đã lên quá cao. Ðó là những giây phút khó. Những giây phút đó, nếu là người tu thì mình biết phải làm gì: nắm lấy hơi thở. Thầy A Nan trong giây phút đó đã biết ngồi trở lại, tập thở. Anh chàng Kim Trọng đâu đã được học Kinh An Ban Thủ Ý!
THƯA RẰNG:‘ÐỪNG LẤY LÀM CHƠI’
Thúy Kiều là một cô gái rất thông minh. Cô cũng bị sóng tình làm cho xính vính, nhưng Kiều còn biết giữ mình. Lý trí của Kiều chưa bị chìm đắm. Kiều nói:
Thưa rằng: ‘Ðừng lấy làm chơi,
‘Dễ cho thưa hết một lời đã nao!’
– ‘Tình thương của hai chúng ta không phải là một trò chơi. Chúng ta sẽ đi đến sự kết hợp vợ chồng. Một trăm năm sống với nhau không phải là chuyện nhất thời. Vậy anh hãy để em nói một lời này đã.’
‘Vẻ chi một đóa yêu đào,
Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh.

Vườn hồng không có ý định ngăn không cho chim xanh bay vào. Nhưng:
‘Ðã cho vào bậc bố kinh,[53]
‘Ðạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
‘Ra tuồng trên bộc trong dâu,[54]
‘Thì con người ấy ai cầu làm chi!
Ðây là luân lý cổ truyền của chúng ta. Làm con gái đi lấy chồng là một cái Ðạo. Người con gái phải giữ trinh tiết. Nếu không bản thân cô sẽ đánh mất sự tự trọng. Người bạn phối ngẫu của cô sẽ không tôn trọng cô nữa và hạnh phúc lứa đôi sẽ bị sứt mẻ. Phải cẩn thận giữ gìn. Cô Kiều đã được học điều này nên gượng lại được và đã nói với anh chàng như vậy. Giữ gìn là giữ gìn cho cả hai người. ‘Giữ gìn cho tôi và giữ gìn cho anh’ như lời bài hát Hộ Trì Sáu Căn, chứ không phải là tôi chỉ giữ gìn cho tôi thôi. Truyện Kiều không phải là Kinh nhưng nhìn tới đâu chúng ta cũng có thể thấy Kinh cả.
‘Phải điều ăn xổi ở thì,
‘Tiết trăm năm nỡ bỏ đi một ngày!
Ăn xổi ở thì là không đợi cho đến chín đã tiêu thụ trước. Chuối chưa chín mà chặt xuống đem dú, lúa chưa chín mà đã gặt vào. Chỉ biết hưởng thụ ngay trong hiện tại thôi, và trong khi hưởng thụ như vậy thì phá tan hạnh phúc của tương lai. Hạnh phúc trăm năm dài lâu, bền vững mà nỡ làm cho tan nát đi vì không cẩn thận trong một giây lát.
‘Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay,
‘Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi Trương
‘Mây mưa đánh đổ đá vàng,
‘Quá chiều nên đã chán chường yến anh.
Kiều đưa ra ví dụ của Thôi - Trương để Kim Trọng thấy cô đang bảo vệ hạnh phúc của hai người chứ không phải muốn từ chối Kim Trọng. Ngày xưa nàng Thôi Oanh Oanh và chàng Trương Cung là hai người đẹp và có tài, xứng đôi vừa lứa. Nhưng vì họ không giữ gìn nên tình yêu của họ tan vỡ. Mây mưa đánh đổ đá vàng: những điều thiếu lễ giáo phá tan hạnh phúc và tình nghĩa vợ chồng. Ðá vàng bị đánh đổ, cuộc tình duyên bất thành là vì trong giây phút sóng tình xiêu xiêu đã không ai biết dừng lại cả.
‘Trong khi chắp cánh liền cành[55]
‘Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên.
‘Mái Tây để lạnh hương nguyền,[56]
‘Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng.
Người đàn bà giữ là giữ cho hai người. Ðó là cách hành xử của người đàn bà Á Ðông. Nếu người con gái không giữ gìn trong những giây phút khó giữ thì sau này trong lòng người con trai sẽ có cảm tưởng rẻ rúng, không kính phục. Không nói ra nhưng trong lòng anh ta không phục hoàn toàn. Tình yêu ban đầu rất đằm thắm mà sau trở nên nhạt nhẻo, bẽ bàng. Tất cả là vì người con gái không biết giữ gìn trong giờ phút khó.
‘Gieo thoi trước chẳng giữ giàng,
‘Ðể sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?
‘Vội chi liễu ép hoa nài,
‘Còn thân ắt lại đền bồi có khi!”
Kiều lấy thêm tích gieo thoi để khuyên Kim Trọng: Ngày xưa Tạ Côn mê một người con gái dệt vải. Anh ta đi quá đà, chinh phục cô gái một cách không đoan trang lắm và bị cô gái cầm thoi dệt liệng trúng miệng, gây mất hai cái răng cửa. Nhưng mà lạ, anh chàng vẫn trở lại cầu hôn. Anh đã học một bài học đích đáng và rất phục cô nàng. Sau này hai người cưới nhau. Hai cái răng là kỷ niệm rất đẹp. Cô nàng đã chứng tỏ có sự tự trọng và bảo vệ được giá trị của người con gái. Tuy mạnh nhưng là giải pháp hay. Anh chàng biết đây là cô gái rất mẫu mực và do đó không có nội kết. Ngày xưa nếu có nha sĩ thì chữa hai cái răng đó cũng dễ. Cưới anh chồng mất hai cái răng cửa thì cũng hơi rầu.
Thấy lời đoan chính dễ nghe,
Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân.
Nghe Kiều nói, Kim Trọng rất nể.
Bóng tàu vừa lạt vẻ ngân,
Tin đâu đã thấy cửa ngăn rọi vào.
Nàng thì vội trở buồng thêu,
Sinh thì dạo gót sân đào bước ra.
Có người gọi cửa. Thúy Kiều đi chui về nhà; Kim Trọng ra ngoài xem ai tới. Như vậy là kết thúc cuộc gặp gỡ của hai người ở nhà Kim Trọng.
Cách hành xử của Kim, Kiều trong đoạn vừa đọc là cách hành xử của ngày xưa. Các thiếu niên bây giờ nghe sẽ phản ứng ra sao? Tuổi trẻ Tây phương sẽ cười. Tuổi trẻ Việt Nam bị ảnh hưởng Tây phương cũng sẽ cười. Các thiếu nữ thời đại này có người không nghĩ và không làm như vậy. Ðứng về phương diện tư tưởng, họ không nghĩ như Kiều đã đành; mà đứng về phương diện bản lãnh hành động, họ cũng không có bản lãnh để có thể làm được như vậy. Dầu có cho chuyện này là đúng họ cũng làm không được. Một trong những lý do họ nêu ra: ‘Hai bên đã cam kết với nhau rồi, cần gì phải giữ gìn nữa? Quan niệm trinh tiết này xưa quá!” Họ sẽ nói như vậy. Và một lý luận khác của họ. ‘Ðứng về phương diện tâm lý thì mình đã thương yêu nhau thật rồi. Nhưng đứng về phương diện sinh lý thì không biết hai đứa có phù hợp chăng? Hạnh phúc đã đành là sự đi đôi nhịp nhàng giữa tâm lý. Nhưng cũng phải có sự đi đôi nhịp nhàng giữa sinh lý nữa!’ Vì vậy, về tâm hồn họ biết là họ hợp với nhau, và họ thử luôn về thân xác xem có hợp hay không rồi mới ký giao kèo. Ðó là kiểu bây giờ. Ở đây, chúng ta không tổ chức pháp đàm về chuyện này. Chúng ta chỉ nêu ra để biết rõ. Sau này, hướng dẫn tuổi trẻ, quý vị sẽ phải đương đầu với những câu hỏi như vậy.
Cố nhiên trong nền đạo đức cổ truyền có những châu ngọc. Làm thế nào để sử dụng được những châu ngọc đó thì mới hay. Còn nhân danh đạo đức cổ truyền để ngăn cấm thì chắc sẽ không thành công. Chúng ta cần trình bày như thế nào để tuổi trẻ thấy được trong nền đạo đức cổ truyền có những nguyên tắc hành xử bảo đảm được hạnh phúc trong tương lai. Chúng ta phải thấy được những gì đang xảy ra trong hiện tại. Chỉ cho các cháu thấy những đau khổ và thất bại xung quanh, ngay trong thời đại các cháu thì họa may tuổi trẻ mới thấy được giá trị của những châu báu trong nền văn hóa cổ truyền. Người trẻ có tiếp nhận được di sản văn hóa của họ hay không, đó là tùy thuộc hình thức và cách giải thích của chúng ta. Nếu cách của chúng ta xưa quá, không chuyên chở được sự hiểu biết về tâm lý và những vấn đề của thời đại thì dầu đạo lý cổ truyền có hay cách mấy cũng vô ích. Tuổi trẻ không theo thì chịu thôi!
THIÊN ÐƯỜNG HẠNH PHÚC
Thời gian hạnh phúc bên nhau của Kim-Kiều rất ngắn ngủi. Chỉ độ khoảng một ngày. Lần đầu tiên gặp nhau thật trớ trêu: Anh chàng đứng trên nấc thang cao nhìn xuống, cô nàng ở dưới thấp. Nói đi nói lại vài câu, chắc đó mười, mười lăm phút là nhiều. Mười lăm phút hạnh phúc, nhưng cả hai cũng run thấy trơì! Gặp gỡ bất hợp pháp cho nên mái sau vừa có tiếng người là ‘vội vàng lá rụng hoa rơi’ ngay. Mười lăm phút rất mong manh. Lần gặp thứ hai là ngày gia đình Thúy Kiều về ăn sinh nhật bên ngoại. Trước khi sang với Kim Trọng. Kiều đã nấu vài món ăn đem qua cho anh chàng. Không biết họ có ăn hay không hay là họ đã để cho nguội? Tôi nghĩ rằng chưa bao giờ Kim Trọng được ăn những món đó. Vì theo những diễn tiến của truyện thì anh chàng không có hội để ăn. Thúy Kiều đem thức ăn sang. Hai bên gặp gỡ, nói chuyện. Thúy Kiều làm thơ đề lên bức tranh tùng của Kim Trọng. Nói chuyện phận dày, phận mỏng. Thấy chiều, Thúy Kiều về; đến nhà thấy gia đình chưa về, Kiều tiếc, chui qua trở lại. Có tin báo chú của Kim Trọng mất và Kim phải về hộ tang. Sự chia cách xảy ra ngày trong tối hôm đó. Và hai người xa nhau mười lăm năm. Hạnh phúc rất mong manh, ngắn ngủi. Lần đầu gặp nhau mười lăm phút, lần thứ hai được gần một ngày. Gần một trăm câu thơ nói về chuyện tình của hai người, nhưng tất cả chỉ xảy ra mười hai giờ đồng hồ là nhiều. Và cả hai bên sẽ mang theo những nội kết được gieo và tưới trong mười hai giờ đồng hồ đó suốt mười lăm năm. Từ đây về sau là những nỗi lênh đênh sóng gió, đau khổ của nàng Kiều.
Người ta có thể đã không đem thời gian ra đo như chúng ta, nhưng chúng ta cũng cần đo để biết. Từ khi gặp ba chị em đi chơi mùa xuân, Kim Trọng nhớ về Thúy Kiều. Ði kiếm, buồn nhớ, ốm o, học hành không được… kéo dài hai tháng rưỡi, ba tháng. Thời gian đó đâu có hạnh phúc gì! Leo lên cái thang, gặp được Thúy Kiều và được Kiều nói ‘OK’ rồi, sau đó cũng đâu có vui sướng gì! lại phải chờ lâu lắm mới có dịp gia đình Kiều đi ăn sinh nhật bên ngoại, và cái dịp ‘may’ này xảy ra khoảng từ chín giờ sáng đến mười giờ tối. Mười hai tiếng đồng hồ là tối đa. Trong mười hai tiếng đồng hồ đó, hai người đã sống những giây phút rất mãnh liệt (intense), đầy cảm xúc. Và sau này là mười lăm năm lưu lạc, tràn đầy những đau khổ xót xa. Kim Trọng tuy không đến nỗi khổ như Kiều nhưng trong tâm luôn tưởng đến người con gái đó và đau khổ. Chúng ta thấy không có hạnh phúc thật trong mối tình đó. Tâm con người không an. Thiếu cái gì thì đi tìm cái đó. Chưa kiếm được thì chưa an tâm. Lúc có hạnh phúc thì không biết rằng mình đang có hạnh phúc. Hạnh phúc mất rồi mới biết là mình đã có nó. Thời gian hạnh phúc nhất của Thúy Kiều là từ nhỏ đến năm mười sáu tuổi, trước khi gặp chàng Kim. Thời gian đó là thiên đường, nhưng cô đâu biết đó là hạnh phúc. Bị mũi tên tình ái cắm vào tim rồi thì mất hạnh phúc. Từ đó về sau chỉ toàn là những vết thương đau khổ mà thôi. Thiên đường hạnh phúc có đó mà mình không tiếp xúc được. Mình đi tìm một cái khác. Cái khác đó, là thế giới đau khổ. Mình tưởng rằng chạm được vào cái đó là chạm được hạnh phúc. Nhưng sự thật không phải như vậy. Truyện Kiều là một câu truyện thôi, nhưng nó đại diện cho biết bao sự thật đã xảy ra trong cuộc đời.
CHƯA VUI SUM HỌP ÐÃ SẦU CHIA PHÔI
Cửa sài vừa ngỏ then hoa,
Gia đồng vào gửi thư nhà mới sang
Ðem tin thúc phụ từ đường,
Bở vơ lữ thấu tha hương đề huề.
Liêu Dương cách trở sơn khê,
Xuân đường kịp gọi sinh về hộ tang.
Chú của Kim Trọng mất, đang được quàn tại Liêu Dương, rất xa nhà. Cha của Kim Trọng gọi chàng về gấp để lo việc tống táng.
Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng,
Băng mình lẻn trước đài trang tự tình.
Gót đầu mọi nỗi đinh ninh,
Nỗi nhà tang tóc nỗi mình xa xôi:
Kim Trọng đi báo tin cho Kiều biết. Và đây là những lời dặn dò của chàng Kim:
‘Sự đâu chưa kịp đôi hồi,
‘Duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ.
Hai người chưa được nói chuyện, chưa được bộc lộ cho hết tâm tình và chưa được mai mối đính hôn chính thức. Ðôi hồi là nói cho đã. Thật ra, nếu có nói thêm hai, ba tuần nữa chắc cũng không bao giờ đã. Phải vậy không?
‘Trăng thề còn đó trơ trơ,
‘Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng.
‘Ngoài nghìn dặm chốc ba đông,
‘Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy!
‘Anh sẽ không quên lời thề. Nỗi buồn xa cách này, gỡ cho ra khỏi trái tim anh chắc cũng còn lâu lắm’. Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy. Ðây là sự thật!
‘Gìn vàng giữ ngọc cho hay,
‘Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời.’
‘Muốn cho người đi xa được an tâm thì em phải săn sóc, giữ gìn thân em cho đàng hoàng.’ Văn tuy cổ nhưng ý thì cũng giống hệt như ý người thời bây giờ.
Tai nghe ruột rối bời bời
Ngập ngừng nàng mới giải lời trước sau:
Tội nghiệp! Thúy Kiều chẳng qua là một cô bé mới lớn lên, đâu đã có nhiều kinh nghiệm về cuộc đời. Vừa mới học thương, mới thề bồi xong đó thì bây giờ đã bị rơi vào hố thẳm của sự xa cách.
‘Ông tơ ghét bỏ chi nhau,
‘Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi.
‘Cùng nhau trót nặng đã nặng lời,
‘Dẫu thay mái tóc dám dời lòng tơ!
‘Quản bao tháng đợi năm chờ,
‘Nghĩ người ăn gió nằm mưa xót thầm.
‘Ðã nguyền hai chữ đồng tâm,
‘Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai.
‘Còn non còn nước còn dài,
‘Còn về còn nhớ đến người hôm nay!’
Người nào cũng lo cho người kia và thề nguyện phần mình. Hai bên nói được có mấy câu là phải chia tay. Phải đi liền lập tức.
Dùng dằng chưa nỡ rời tay,
Vầng đông trông đã đứng ngay nóc nhà.
Ngại ngùng một bước một xa,
Một lời trân trọng châu sa mấy hàng.
Buộc yên quảy gánh vội vàng,
Mối sầu xẻ nửa bước đường chia hai.
Lời trân trọng là lời chào khi chia tay. Trong thiền môn cũng có dùng: ‘Xin sư huynh giữ gìn lấy thân tâm.’
Buồn trong phong cảnh quê người,
Ðầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa.
Não người cữ gió tuần mưa,
Một ngày nặng gánh tương tư một ngày.
Ðây là tâm trạng của người đi. Ðường thì ngàn dặm. Tới đầu kia thì đâu có gì hấp dẫn: chỉ có một xác chết thôi. Lại phải xa người mình thương rất lâu. Ði như vậy trong lòng nát như tương. ‘Ðầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa’ cho biết Kim Trọng ra đi vào độ cuối hè, sang thu.
Chúng ta sẽ độc và sẽ thấy được nỗi khổ của cô nàng. Ghê gớm gấp trăm ngàn lần anh chàng. Những tai nạn lớn xảy ra cho gia đình Thúy Kiều. Cuộc đời lưu lạc của Thúy Kiều bắt đầu từ đó.
CHỈ THIẾU MỘT CHÚT XÍU
Tai nạn lớn xảy ra cho gia đình Thúy Kiều ngay đêm hôm dó. Mười lăm năm luân lạc của Thúy Kiều có thể đã không xảy ra nếu Kim Trọng ở lại thêm vài giờ. Kim là sinh viên con nhà giàu; chàng có thể xoay sở giúp chuộc cha của Kiều ra khỏi hoàn cảnh oan ức. Nhưng chàng Kim đã từ giã ra đi. Và chỉ nội trong nửa giờ đồng hồ sau, tai họa ập tới trên đầu Kiều. Tất cả đều được quyết định bởi những nhân duyên dồn dập xảy tới. Chỉ thiếu một chút xíu nhân duyên thuận lợi thôi mà đã xảy ra bao nhiêu là đau khổ cho nàng Kiều. Chính Kim Trọng, gần cuối truyện, đã nhắc đến điều này:
Rằng: ‘Tôi trót quá chân xa,
‘Ðể cho đến nổi trôi hoa dạt bèo.
Chỉ vì chàng Kim vắng mặt trong giây phút quan trọng đó mà đã xảy ra mười năm luân lạc của nàng Kiều.
Chú thích:
[1] Tố nga: người con gái đẹp
[2] Làn thu thủy: mắt trong như nước hồ thu. Nét xuân sơn: lông mày như dáng núi mùa xuân.
[3] Nghiêng nước nghiêng thành: đẹp đến nỗi làm người ta say mê, bỏ cả nhiệm vụ, để mất cả đất nước. Lý Diên Niên có bài ca: Bắc phương hữu giai nhân, tuyệt thế nhi độc lâp. Nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc. Ninh bất tri khuynh thành dữ khuynh quốc, gian nhân nan tái đắc = Phương bắc có người con gái đẹp, đẹp vô song mà còn đứng một mình. (Người đó) ngoảnh lại nhìn một cái xiêu thành người, ngoảnh lại nhìn cái nửa nghiêng nước người. Thà không biết việc nghiêng thành và nghiêng nước, (vì) người đẹp khó được gặp lại.
[4] Ý cả câu: Về sắc thì chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra còn có người thứ hai sánh kịp.
[5] Thiều quang: ánh sáng đẹp, tức là ánh sáng ngày xuân. Ý ca câu: mùa xuân có chín mươi ngày thì đã hết sáu mươi ngày rồi, tức là tháng giêng và tháng hai đã đi qua, đang bước sang tháng ba.
[6] Thanh minh: tiết vào đầu tháng ba, mùa xuân khí trời mát mẻ, trong trẻo, người ta đi tảo mộ, tức là đi viếng và quét tước, sửa sang lại phần mộ của người thân.
[7] Ðạp thanh: giẫm lên cỏ xanh. Tiết thanh minh, đi chơi xuân ở đồng nội, giẫm lên cỏ xanh nên gọi là đạp thanh.
[8] Yến anh: chim én, chim oanh về mùa xuân thường ríu rít bay từng đàn: đây ví cảnh từng đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân.
[9] Tiểu khê: dòng suối nhỏ

[10] Nếp tử: áo quan gỗ (từ gỗ thị); xe châu: xe tang có kết rèm như hạt châu. Ðây là nói khách người viễn phương làm lễ tang cho Ðạm Tiên.
[11] Phượng: chim phượng trống, Loan: chim phượng mái. Loan phượng trong văn cổ dùng tượng trưng cho đôi lứa vợ chồng. Cả câu ý nói những người khách làng chơi đi lại với Ðạm Tiên ngày trước.
[12] Tích lục tham hồng: tiếc màu xanh, tham màu hồng, ý nói luyến tiếc tham mê nhan sắc người đẹp.
[13] Bốn câu ba vần: thơ tứ tuyệt. Theo luật thơ cổ, thơ tứ tuyệt có bốn câu, có lối hai vần (câu 2-4), có lối ba vần (câu 1,2,4)
[14] Lưng túi: cái túi lưng lưng, không đầy.
[15] Ngựa câu: ngựa non. Giòn: chắc, đẹp.
[16] Hai kiều: hai người con gái đẹp, chỉ hai chị em Thúy Kiều.
[17] Trâm: cái trâm cài vào mũ hay búi tóc, Anh; cái dải mũ; nhà trâm anh là nhà quyền quý.
[18] Ðồng thân: là cùng học một thầy, có khi gọi là đồng song: cùng ngồi bên cửa sổ để học.
[19] Ðồng tước: tên tòa lâu đài lớn do Tào Tháo dựng trên bờ sông Chương Hà tỉnh Hà Nam. Xây dựng xong, Tào Tháo định sẽ chiếm đất Giang Nam của Ðông Ngô và bắt hai chị em Ðại Kiều (vợ Tôn Sắch, vua Ðông Ngô) và Tiểu Kiều (vợ Chu Du, đô đốc của Ðông Ngô) về đó ở. Thơ Ðỗ Mục (Ðường): Ðông phong bất dữ Chu lang tiện. Ðồng-Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều = Ngọn gió Ðông nếu không giúp Chu Du (phóng hỏa phá trận Xích Bích) thì đài Ðồng-Tước đã khóa chặt tuổi xuân của hai chị em họ Kiều. Ý cả câu: nhà họ Vương có hai cô con gái đẹp cấm cung.
[20] Giải cấu tương phùng: tình cờ không hẹn mà gặp nhau.
[21] Ðố lá: trò chơi thi kiếm những lá lạ, phổ biến ở Việt Nam và Trung Quốc thời xưa. Ðây là dịp để nam nữ có thể gặp nhau.
[22] Thu không: hiệu đống cửa thành lúc gần tối.
[23] Hạ tứ: Viết tứ thơ xuống. Ném châu gieo vàng: lời hay ý đẹp, quý như vàng, như ngọc.
[24] Nhà huyên: do chữ huyên đường, chỉ người mẹ. Huyên là tên một thứ rau nấu canh rất ngọt (cây kim châm), tượng trưng cho người mẹ. Trong khi đó cây thông tượng trưng cho người cha (thung đường.)
[25] Mạch tương: do chữ tương lệ, nước mắt nhớ người yêu. Tích vua Thuấn đi tuần thú, chết ở đất Thương Ngô, ven bờ sống Tương; vợ là bà Nga Hoàng và Nữ Anh ra sông khóc, nước ấy vẩy vào các bụi trúc chung quanh làm cho trúc có sắc lốm đốm nên gọi là Tương phi trúc.
[26] Lời bài hát Bông hoa vàng trong cỏ của Nhất Hạnh.
[27] Thơ Từ An Trinh: Ngân thược trùng quan thích vi tịch, bất như miên khứ mộng trung khan = Khóa bạc mấy lần nghe chưa thấy mờ, chi bằng ngủ đi, may được thấy mặt trong giấc mơ.
[28] Mành Tương: Mành làm bằng giống trúc Tương Phi (Tích Nga Hoàng và Nữ Anh khóc vua Thuấn ở bờ sông Tương, nước mắt làm trúc bên bờ sông trở nên lốm đốm)
[29] Lá thắm: do chữ hồng diệp đề thi (đề thơ trên lá đỏ). Theo Thái bình quảng ký, đời Ðường, Vu Hựu một hôm tình cờ bắt được chiếc lá đỏ thắm trôi trên một ngòi nước từ cung vua chảy ra, trên lá có bài thơ: Lư thủy hà thái cấp! Thâm cung tận nhật nhàn; Ần cần tạ hồng diệp, hảo khứ đáo nhân gian = Nước chảy sao xiết vậy! Trong thâm cung suốt ngày nhàn hạ; Ân cần tạ lá đỏ, khéo trôi tới chốn nhân gian. Hựu bèn lấy sắc lá đỏ khác, đề hai câu thơ: Tằng văn diệp thượng đề hồng oán, điệp thượng đề thi ký dữ thùy? = Từng nghe nỗi hờn oán của khách má hồng đề trên lá, không biết trên lá đề thơ gửi cho ai? Rồi đem thả nơi đầu ngòi nước cho trôi vào cung vua. Cung nữ Hàn thị, người thả chiếc lá đó buổi trước, bắt được. Về sau nhân dịp vua thải ba nghìn cung nữ, Hàn thị được ra, tình cờ kết duyên với Vu Hựu. Hàn thị nhân làm bài thơ: Nhất liên giai cú tùy lưu thủy, thập tái ưu tư mãn tố hoài; kim nhật khước thành loan phượng hữu, phương tri hồng diệp thị lương môi. = Một đôi câu thơ đẹp trôi dòng nước chảy, mười năm ôm bụng nghĩ ngợi âm thầm; ngày nay thành được bạn loan phượng, mới biết lá đỏ là bà mối giỏi. Chim xanh; con chim sứ giả, chỉ người đưa tin. Theo Hán Vũ cố sự, ngày mồng bảy tháng bảy có con chim xanh bay đến trước cửa điện, vua hỏi, Ðông Phương Sóc tâu; Chắc Tây Vương Mẫu sắp đến. Một lát sau quả Tây Vương Mẫu đến, có ba con chim xanh bay đậu bên cạnh.
[30] Ðộng khóa nguồn phong: Khi Lưu Thần, Nguyễn Triệu trở lại hỏi thì cửa động tiên đã khóa chặt, nguồn Ðào phong kín, lấp mất lối cũ, không có cách gì gặp lại người tiên.
[31] Châu về Hợp phố: vật đã mất nay trở về chủ cũ. Theo Hậu Hán Thư, quận Hợp phố có nhiều ngọc trai, quận thú tham ông bắt dân mò ngọc cho họ rất nhiều. Ngọc quý bỏ đi gần hết. Dân không có gì đổi cái ăn, chết đói đầy đường. Khi Mạnh Thường đến làm thái thú bãi bỏ những tệ cũ, mưu lợi cho dân, chưa đầy một năm ngọc bỏ đi tìm về Hợp phố, dân trở về nghề cũ. Ý cả câu: không biết của ai mà tra.
[32] Lân lý: xóm làng, ý nói người lối xóm.
[33] Ấp cây: ôm chặt cây cột cầu. Vỹ Sinh người nước Lỗ thời Xuân Thu cùng hẹn với một người con gái gặp nhau dưới chân cầu. Người con gái không đến. Vỹ Sinh thủ tin ngồi đợi mãi, nước lên to cũng không chịu đi, cứ ôm trụ cầu mà chịu chết đuối. Tiếng Hán dùng để điển này để chỉ việc liều thân mà thủ tín. Ở đây, Kim Trọng chịu liều thân để được gặp Thúy Kiều.
[34] Phỉ phong: tên hai thứ rau nhà nghèo ăn, ý nói sống bằng phương tiện đạm bạc, đơn giản.
[35] Chỉ hồng: do điển xích thằng hệ túc, chỉ việc xe duyên vợ chồng. Theo Tục u quái tục, Vi Cố đi dạo một đêm trăng gặp một ông lão ngồi tựa lưng vào một cái túi lớn đựng dầy những sợi chỉ đỏ hướng về phía mặt trăng mà kiểm sách. Vi Cố hỏi, ông lão nói đó là văn thư kết hôn của thiên hạ, còn những sợi chỉ đỏ thì dùng để buộc chân những đôi trai gái sẽ thành hôn thành vợ chồng. Nguyệt lão, ông tơ, chỉ hồng đều chỉ việc xe duyên vợ chồng, nhân duyên trời định.
[36] Chiều xuân: lòng mơ tưởng đến tình yêu, do các chữ hoài xuân hay xuân từ trong tiếng Hán. Nét thu: con mắt sáng trong như nước mùa thu gợn sóng (thu ba).
[37] Vạn phúc: lời chúc phúc lành, thường người đàn bà hay nói với người đàn ông khi gặp nhau. Hàn huyên: thăm hỏi, chuyện trò khi chủ khách mới gặp nhau.
[38] Lời phong nguyệt: những câu chuyện yêu thương, lãng mạng. Nguyền non sông: lời thề nguyền gắn bó.
[39] Ðạm thanh: màu xanh nhạt.
[40] Nàng Ban, ả Tạ: Ban Chiêu đời Ðông Hán và Tạ Ðào Uẩn đời Tấn là hai người đàn bà nổi tiếng thông minh, học rộng, có tài biện luận và giỏi thơ văn.
[41] Ngọc bội: đồ đeo bằng ngọc, chỉ người quân tử, người đã hiển đạt và có quan chức. Kim môn: Kim Mã Môn, tên một cửa cung Vương đời Hán, nơi các quan học sĩ đợi chiếu, chuẩn bị để vua hỏi chính sự. Ðây là chỉ những người có văn tài, được nhà vua trọng dụng.
[42] Giải cấu: tình cờ không hẹn mà gặp.
[43] Trung khúc: khúc lòng, những tâm sự thầm kín.
[44] Song sa: cửa sổ có treo màn sa (thứ hàng tơ dệt thưa mỏng)
[45] Trướng huỳnh: màn đom đóm, chỉ phòng học của học trò. Theo Tấn Thu, ông Xa Dận hồi nhỏ nhà nghèo, không có đèn thắp mà học nên bắt đom đóm bỏ vào một cái túi để thấy chữ mà học. Người ta dùng chữ trướng huỳnh để chỉ buồng học của người siêng học.
[46] Ðài sen: để cắm nến hình hoa sen. Song đào: lư đốt trầm, hình quả đào.
[47] Nước non: Bởi chữ cao sơn lưu thủy, chỉ tiếng đàn hay của người tri kỷ, tiếng đàn có bạn tri âm thưởng thức. Tích Bá Nha và Tử Kỳ. Bá Nha thời Xuân Thu, là người giỏi đàn, gặp và chơi thân với Chung Tử Kỳ là người sành nghe đàn. Một hôm Bá Nha đánh đàn, Chung Tử Kỳ ngồi nghe. Khi Bá Nha nghĩ đến chỗ non cao, Chung Tử Kỳ nói: Thiện tai hồ cố cầm, nguy nguy hồ nhược Thái Sơn = Ðánh đàn giỏi làm sao, vòi vọi cao thay như núi Thái! Một lát Bá Nha nghĩ đến chỗ nước chảy, Chung Tử Kỳ lại nói: ‘Thiện tai hồ cố cầm, đãng đãng hồ nhược lưu Thủy’ Ðánh đàn sành biết mấy, mênh mông thay như nước chảy. Chung Tử Kỳ chết, Bá Nha đập đàn không gảy nữa vì cho người đời không còn ai hiểu tiếng đàn của mình. Chung Kỳ là Chung Tử Kỳ, người tri âm
[48] Tư mã Phượng cầu: khúc dàn Phượng cầu hoàng của Tư Mã Tương Như đời Hán, đàn tỏ tình với Trác Văn Quân. Phượng cầu hoàng là chim Phượng (chim trống) đi tìm chim Hoàng (chim mái). Kim Trọng không cầm đàn nhưng cũng đàn một bản đàn miệng (‘không lấy được em chắc là anh chết’), cũng ‘nghe ra như oán như sầu’ làm cho Thúy Kiều nghe xính vính, phải chấp nhận.
[49] Kê Khang - khúc Quảng Lăng: theo Thông Chi, Kê Khang một hôm đến chơi đất Lạc Tây, trọ ở Hoa Dương Ðình, đêm ngồi gảy đàn, chợt có người khách đến tự nói mình là người thời cổ, rồi cùng Khang bàn luận âm luật, nghĩa lý rành rọt thấu đáo. Nhân đó, ông khách lấy đàn gảy, soạn nên khúc Quảng Lăng Tán, lời điệu cực hay, trao cho Khang và dặn không được truyền lại cho người khác. Về sau Kê Khang bị Tư Mã Chiêu sát hại. Khúc Quảng Lăng bị thất truyền.
[50] Lưu thủy, hành vân: nước chảy mây trôi, nói tính cách thanh thoát, tự nhiên của khúc đàn.
[51] Quá quan: qua cửa ải. Chiêu Quân: tên tự của Vương Tường cung nữ của Hán Nguyên Ðế, bị cống cho vua Hung Nô làm hoàng hậu để ngăn chiến tranh giữa hai nước. Khi qua cửa ải, Chiêu Quân gảy một khúc đàn tỳ bà tỏ lòng nhớ nước, nhớ nhà vô hạn.
[52] Lời bài hát ‘Hộ trì sáu căn’ lấy từ Kinh.
[53] Bố kinh: do chữ bố quần kinh thoa (quần vải, thoa gai) chỉ người vợ hiền. Ngày xưa nàng Mạnh Quang vợ Lương Hồng chỉ dùng quần vải thoa gai.
[54] Trên Bộc trong dâu: chỉ thói tà dâm của trai gái. Hán thư: nước Vệ có bãi dâu trên sông Bộc, trai gái hẹn hò đàn hát, làm chuyện không đúng lễ giáo.
[55] Cháp cánh liền cành: sự sống lứa đôi, hai người luôn có mặt bên nhau. Thơ Bạch Cư Dị: Tại thiên nguyện tác tị dực điểu, tại địa nguyện vi liên lý chi = trên trời nguyện làm chim liền cánh, dưới đất nguyện làm cây liền cành.
[56] Mái Tây: do chữ Tây Sương, tức mái tây chùa Phổ Cứu, nơi Thôi - Trương gặp gỡ nhau.
Nhất Hạnh
Theo https://langmai.org/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cảm thức thời gian trong thơ Trần Hoàng Phố

Cảm thức thời gian trong thơ Trần Hoàng Phố Cảm thức thời gian trong thơ Trần Hoàng Phố không nằm ngoài quỹ đạo của tư duy thơ nhân loại. ...