Theo Từ điển tiếng Việt thì
nói chơi là nói cho vui, không có mục đích gì khác [942].
Song, trong đời sống người bình dân, khái niệm nói chơi không chỉ đơn thuần có
vậy. Ngoài chức năng nói cho vui, tức là để bông đùa, giải trí, thì nhiều lúc
nói chơi mà là thật, nói chơi để hướng đến một mục đích nào đấy, hoặc muốn nói
theo cách nước đôi, để người nghe hiểu sao cũng được.
Trong khuôn khổ bài viết của mình chúng
tôi tìm hiểu những biểu hiện đặc sắc của cách nói chơi - vốn đã trở thành văn
hóa phi vật thể trong đời sống của người dân miệt sông nước Cửu Long giang.
2. Nói chơi trong văn hóa dân gian
Nói chơi trong dân gian mang hàm ý rộng
hơn nhiều so với nghĩa mà từ điển đã xác định. Nói chơi gồm rất nhiều cấp độ,
với những chức năng và nội dung khác nhau. Chúng tôi xin liệt kê ra đây một số
hình thức nói chơi trong ca dao Tây Nam bộ.
Đầu tiên nhắc đến nói chơi tức là cách nói
để chọc người khác bằng những lẽ cợt nhã, dân gian gọi là nói chọc, nói ghẹo.
Vú em nhu nhú chúm cau
Cho anh bóp cái có đau anh đền
Chàng trai buông lời trêu ghẹo cô gái bán
cau bằng cách nói sổ sàng nhưng ngẫm ra thật nhiều thâm ý. Vú chúm cau là vú đẹp,
vú con gái mới lớn kiểu như vú cong vểnh sừng trâu, cách nói này ngâm ý khen
đẹp. Mà đẹp thì để cho người đời thưởng thức tí chút … có gì đâu! Có điều đối
tượng nghe không bình tĩnh nhận ra thâm ý cứ ngỡ rằng anh ấy muốn hỏi, muốn
khen cau em bán là cau ngon … thì hết sức nguy hiểm!
Người bình dân còn dùng cách nói dóc để
nói chơi. Nói dóc là nói khoác lác và bịa đặt để cho vui hay để ra vẻ.
Nước mắm ngon dầm con cá lóc
Em có chồng rồi nói dóc với anh
Nội dung câu ca đã chỉ rõ, chủ thể phát
ngôn đã tận tường lời của người đối diện thốt ra trước đó. Anh vừa nói chơi mà
lại như một lời cảnh báo! Anh không dễ gì lầm em được đâu, đừng kiếm chuyện “xí
gạt” nhau mà làm gì!
Còn đây là cách nói dóc đích thực, với mục
đích để chơi, chơi một cách có hàm ý thật khéo léo:
Anh dạo chơi mười tám nước chư hầu
Không ai ăn nói cơ cầu như em.
Gần với nói dóc là nói dối, tức là người
nói muốn nói sai sự thật do nhiều yếu tố khác nhau:
Dầu ai bảo đợi bảo chờ
Thì em nói dối con thơ em về
Xem ra đây là lời khuyên rất độc đáo của
một anh chàng chân lấm tay bùn nào đấy. Muốn sở hữu người con gái mình để ý cho
riêng mình, anh ta bày cho cô cách nói dối, mà trọng lượng thì không cần bàn
bởi cái cớ “con thơ” thì chắc rằng bấy cứ anh chàng nào nghe cũng phải để đôi
lúc còn bảo cô về gấp cho đi vậy!
Cách nói đẩy đưa cũng được dùng trong giao
tiếp hàng ngày. Nói đẩy đưa là nói nhằm kéo dài câu chuyện một cách êm thắm:
Nói đẩy nói đưa cho vừa lòng bạn
Nói chơi cho có chuyện để nói, nội dung
thật giả đôi khi không phải là điều quá quan trọng.
Cùng với nói đẩy đưa, nhiều khi người ta
nói đó là chuyện tầm phào, tức là cách nói vu vơ, không thiết thực, không đáng
nghe:
Anh đừng nói chuyện tầm phào
Nói qua nói lại nói vào nói ra
Cùng với cách nói đẩy đưa, người bình dân
còn sử dụng cách nói bóng, nói gió, nói bỡn cợt, kiểu như:
Gái Mỹ Tho đồng xu ba đứa
Con trai Thủ Thừa cỡi ngựa xuống mua
Những cách nói ấy, dân gian gọi là nói cà
rỡn. Nói để mua vui là chính, tuy vậy sự thật đằng sau những câu nói ấy vẫn ẩn
chứa không ít ý nghĩa mà người nói muốn nói:
- Đứng xa kêu bớ em Mười
Thương hay không thương em nói thiệt chớ
đừng cười đẩy đưa.
- Anh thương em, nói thiệt em nhờ,
Anh đừng nói gạt,, em chờ hết duyên.
Nói chơi cũng là hình thức của nói xàm,
nói xạo, tức là nói tầm bậy, nói cho rộn chuyện chứ không hề can dự vào:
Cô Ba nay đã theo chồng
Cô Tư ở lại giật mồng tăng tăng
Cấp độ cao nhất của nói chơi là nói tục,
nói trây (chây). Tức là dùng những lời lẽ liên quan đến cơ thể con người hoặc
gợi đến hành động ân ái chốn phòng the để bỡn cợt. Thấy cũng cần nói thêm nói
trây là âm Việt mượn từ tiếng Khmer, những người sinh sống cộng cư với đồng bào
dân tộc Kinh, Hoa ở vùng này. Trây (chây) theo bản ngữ
Khmer là một tiếng chửi tục, chỉ hành động giao hoan của giống đực và gióng
cái.
Một chú hay bác nông dân nào đó muốn tán
tỉnh người đàn bà góa chồng mà nhà ở cạnh nhau, chung đường chung xóm:
Cu tui vừa mới mọc lông
Chị cho mượn cái lồng tui nhốt cu tui
Tất nhiên đây là cách dùng từ đồng âm giữ
con chim và bộ phân sinh dục để… nói chơi, chọc ghẹo đối tượng.
Táo bạo hơn, lời của một anh chàng “ghẹo
gái”:
Nước Láng Linh chảy ra Vàm Cú
Thấy dạng em chèo cặp vú muốn hun
Tất nhiên người nói nói ra cho thỏa vẻ
mộng mơ huyền ảo thế thôi, chứ người nghe chắc gì đã nghe thầy. Một người chèo
ghe giữa dòng sông rộng, bập bềnh sóng nước, một anh chàng cao hứng đứng trên
bờ cất tiếng… nói chơi!
Gần đây, khi đời sống kinh tế phát triển,
những tệ nạn xã hội cùng tràn về tận vùng thôn quê, hẻo lánh. Lời một ai đó cao
hứng, chọc ghẹo hay tán tỉnh đối tượng “làm tiền”:
Trăng lên tới đỉnh mu rùa
Cho anh một cái…, tới mùa anh trả khoai
Tất nhiên đã nói là nói chơi thì nói mọi
lúc, mọi nơi. Không gian và thời gian nào có giới hạn.
Có khi để đùa cợt cho khuây khỏa, họ dựng
lại hình ảnh:
Bà già đi lượm mù u
Bỏ quên ống ngoáy chổng khu la làng
Hay hình ảnh của những chàng trai vô tích
sự:
Chồng người đi ngược về xuôi
Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo
Nói chơi trong đời sống sinh hoạt, lao
động sản xuất
- Trời mưa cá sặt lên gò
Thấy em chăn bò anh để ý thương
Trời mưa ướt cọng rau mương
Bò em em giữ anh thương giống gì?
Nói chơi trong hát ru em
- Má ơi con vịt chết chìm
Thò tay con vớt cá lìm kìm nó cắn tay con
- Má ơi con má hư rồi
Còn đâu má gả má đòi bạc muôn
Khi hò đối đáp họ “nói chơi”, “hò chơi” để
bắt bí nhau:
- Hò chơi phỉ dạ hai đàng
Công anh ở trển băng ngàn xuống đây
- Hò chơi một chặp cho mê
Trai nam nhân bỏ vợ, gái hiền thê bỏ chồng
Có khi họ dùng cách nói chơi để hỏi khó
nhau :
- Tiếng anh ăn học đã thông
Em hỏi anh chứ khăn bàn lông mấy đường
- Khăn bàn lông anh đội một nắng hai sương
Đắng cay dầu dãi nên nó có mấy đường… anh
quên!
Nói chơi diễn ra hầu như trong tất cả các
cấp độ của tình yêu, nơi đáng lẽ ra cần phải nói những lời nghiêm túc nhất.
Buổi đầu gặp gỡ, họ dùng cách nói chơi
nhưng để tỏ bày tình cảm thật:
Thò tay mà ngắt cọng ngò
Thương em đứt ruột, giả đò ngó lơ
Lời ngoài miệng thì nói chơi còn bụng dạ
thiệt tình đến đâu, chắc chỉ có người trong cuộc mới hãn tường cớ sự!
Khi tương tư, họ nói mà như bày tỏ cả gan
ruột với người mình yêu:
Phụ mẫu đánh anh quặt quà quặt quại,
Đem anh treo tại nhánh bần.
Rủi đứt dây mà rớt xuống,
Anh cũng lần mò kiếm em.
Lời thề được thốt lên mãnh liệt:
Dao phay kề cổ, máu đổ không màng
Chết thì chịu chết, buông nàng anh không
buông
Đến khi duyên tình gãy đổ, họ tìm ông tơ
mà “trị”
Bắt Ông Tơ đánh sơ vài chục,
Bắt Bà Nguyệt nếm mấy mươi hèo.
Người ta năm bảy vợ theo,
Nguyền rửa để hả dạ hả lòng, duyên phận lỡ
làng, biết làm sao hơn được! Độc đáo hơn lời nguyền ấy ẩn trong cách nói…
chơi!
Khi duyên tình bén lửa, nhiều khi trai gái
“vượt rào đến với nhau”, họ dùng lời nói chơi để hò hẹn:
Nước mắm ngon dầm con cá bẹ
Em lựa lời dối mẹ em qua
Và tất nhiên chuyện gì đến cũng phải đến.
Chúng ta hãy nghe lời một cô gái dặn người mình yêu khi chàng và nàng muốn
“gần” nhau:
Chuột kêu chút chít trong rương
Anh đi cho khéo kẻo đụng giường mẹ hay
Ngày xưa cái giường của người nhà quê là
loại giường chỏng đóng bằng tre già, lâu ngày thành xiêu lỏng, đụng vào đó nó
kêu cót két, giống như tiếng chuột kêu chút chít. Có lẽ bà mẹ của cô gái kia đã
hơn một lần chợt thức giấc, nghe tiếng chiếc giường tre kêu rúc rích, cô gái đã
nhanh trí trả lời rằng đấy là do chuột ở trong rương (!). Rút
kinh nghiệm, cô gái đã nhắc khéo cho tình nhân kẻo lỡ làng chuyện ân ái.
Khi bị phản bội bởi tin những lời đưa đẩy
của anh chàng miệng thoa mỡ nào đó, cô gái bạo dạn, phản khảng bằng một lời rủa
chơi, nhưng lại rất thiệt lòng, thiệt dạ:
Bần gie bần liệt đóm đậu ngọn bần
Anh đi cưới vợ em vái cho sóng thần nhận
ghe
Đúng, rất chính xác, chỉ có những cô
em gái quê rang quê rít, tóc dài bỏ xoã, bận áo bà ba (lời một bài dân
ca ở Sóc Trăng) mới có trực tính để bật thành tiếng nói ngang tàng, liều lĩnh
như vậy!
Phía chàng trai cũng không kém phần bạo
dạn:
Có chồng thì mặc có chồng
Còn duyên anh ẵm anh bồng anh hun
Hay như liều lĩnh kiểu Chí
Phèo (nhân vật trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao):
Tôi hun mình dẫu mình có la làng
Thì tôi la xóm hai
đàng la chung
Tôi hun mình dẫu mình có làm hung
Nhơn cùng tắc biến tôi chun xuống sàn
4. Cách hình thức được dùng để nói chơi
Một là, dùng thành ngữ, điển tích trong
nói chơi. Thành ngữ là cụm từ cố định, bền vững, có tính nguyên khối về ngữ
nghĩa không nhằm diễn trọn một ý, một nhận xét như tục ngữ, mà nhằm thể hiện
một quan niệm dưới một hình thức sinh động, hàm súc. [2; 297]. Đây là một cách
dùng thành ngữ Hán Việt trong điệu hò:
Thiện ác đáo đầu chung hữu báo.
Cao phi viễn tẩu dã nan tàng
Từ khi anh xa cách con bạn vàng
Cơm ăn chẳng được như con chim phụng hoàng
bị tên.
Đi liền với thành ngữ là những điển tích.
Điển tích (hay điển cố) là một biện pháp tu từ, ở đó tác giả sử dụng “câu
chuyện” sao cho phù hợp với văn mạch mình nhằm tạo tính hàm súc cho lời văn, ý
thơ. Ca dao Tây Nam Bộ cũng vậy, không hiếm những câu chuyện trong sách sử được
dùng để nói chơi:
Tiền Đường, hậu Tống, Tam Quốc, Châu Do
Em không thương anh, nói chuyện đưa đò
Tỷ như Đắc Kỷ theo phò Trụ vương.
Châu Do nhân vật trong Tam Quốc
chí diễn nghĩa. Đắc Kỷ và Trụ vương là
hai nhân vật trong Phong thần diễn nghĩa, các tác phẩm vừa kể
được dân gian gọi chung là truyện Tàu, thể loại văn học ảnh hưởng
sâu rộng trong đời sống người bình dân Tây Nam Bộ từ nửa đầu thế kỷ XX trở về
trước.
Mượn thành ngữ, điển tích để chen vào lời
nói, làm cho ý của người nói chơi thêm sinh động, hàm súc, người tiếp nhận phải
có cùng “kênh” giao tiếp thì mới tường tận vấn đề mà người nói muốn biểu đạt!
Hai là, dùng từ đa nghĩa để chơi chữ
Em ơi hãy lấy anh thợ bào
Khom lưng ảnh đẩy cái nào cũng êm
Rất dễ dàng nhận ra chuyện thợ bào đẩy bào
để bào cây, bào ván cho bóng, cho trơn, đến chuyện đẩy theo
cách nói trây, dân gian gợi nên hành động của vợ chồng chốn phòng the!
Tương tự từ đẩy vừa phân
tích, là từ cày sau đây:
Chồng em nào phải trâu cày
Mà cho chị mượn cả này lẫn đêm
Cách nói táo bạo hơn, nhưng người nghe
không thể bắt lỗi người nói chơi được:
Mù u ba lá mù u
Vợ chồng cãi lộn con cu giảng hòa
Cu là con chim gáy.
Nhưng trong ngữ cảnh này, thật tình không người nghe nào chỉ dừng cách hiểu của
mình ở đó cả, …
Ba là dùng các biện
pháp tu từ.
Từ hình ảnh so sánh:
Thân em như cá rô mề
Lao xao giữa chợ biết về tay ai
Cá rô mề quá đỗi quen thuộc với vùng sông
nước, ruộng đồng. Mượn nó, để ví với… thân em thì thật là dí dỏm! Tình cảnh
của người con gái ngày xưa không khác gì thân cá rô nằm trong rổ nhảy
rồ rồ, lao xao giữa chợ. Tinh ý hơn, người nghe còn phát hiện cá rô
mề là để liên tưởng đến chỗ kín đáo nhất của người con gái,… thật là
một cách nói khéo không ai bằng được người bình dân!
Rồi nói bằng ẩn dụ:
Ruộng ai thì nấy đắp bờ
Duyên ai nấy gặp đợi chờ uổng công
Câu ca tả thực cảnh của người nông dân
chân lấm tay bùn. Song, ý người muốn nói chưa dừng hẳn ở đó. Ruộng và bờ liên
quan nhau như vật sở hữu và người sở hữu. Vậy tình yêu, có cần phải cắm ranh,
cặm cọc hay không? Có lẽ trả lời rằng “cần” phải có “bờ” có “đập” để xác lập
chủ quyền, xem ra không có gì là quá đáng!
Hoặc dùng hoán dụ:
Nước chảy re re con cá he nó xòe đuôi
phụng
Mượn từ bụng để nói cả
tâm tình lưu luyến của cố nhân! Lấy bộ phận để nói khái quát cho cái toàn thể
là vậy.
Đến cách nói phúng dụ, mượn lời con vật để
thay lời người muốn nói:
Cóc chết nàng nhái rầu rầu
Chàng hiu đi hỏi lắc đầu hổng ưng
Con ếch ngồi ở gốc đưng
Nó kêu cái ẹo biểu ưng cho rồi
Nói chơi cho vòng vo nhưng là thiệt bụng,
thiệt lòng làm sao!
Bốn là, nói chơi bằng những câu hỏi tu từ.
Hỏi mà không có lời đáp và chắc cũng chẳng cần ai trả lời, bởi đó là cách nói
khó. Vấn đề là người nghe, cụ thể hơn là đối tượng hướng đến của giao tiếp có
hiểu hay không mà thôi!
Đá cheo leo muốn trèo sợ trợt,
Muốn nói một hai lời sợ nhột ý em?
Chia sẻ hay mỉa mai, chọc ghẹo,... tính
chất đa nghĩa ấy bộc lộ qua lời nói chơi dành cho người kém may mắn trong
chuyện lứa đôi:
Cau già lỡ lứa bán trăm,
Chị nọ lỡ lứa biết nằm cùng ai?
Nhiều lúc, những câu hỏi trong lời nói
chơi đã nâng lên thành triết lý trong quan hệ giữa người với người trong xã
hội:
- Nước không chưn sao gọi rằng nước đứng,
Chén của người sao gọi chén chung?
- Ai từng bận áo không bâu,
Ăn cơm không đũa, ăn trầu không vôi?
- Chim bay mỏi cánh chim ngơi,
Đố ai bắt đặng chim trời mới ngoan.
5. Kết luận
Người Tây Nam Bộ bộc trực, thẳng thắn,
nhưng cũng rất tinh tế, khéo léo trong ứng xử. Họ sẵn sàng đùa cợt, cười rần để
xua tan đi những nỗi nhọc nhằn trong quá trình chinh phục thiên nhiên hoang
dại. Và lời nói là nơi thổ lộ rõ ràng nhất.
Lời nói là phương tiện không thể thiếu
trong giao tiếp. Trong giao tiếp lại bộc lộ văn hoá ứng xử của người bình dân.
Hơn thế, lời nói đã đi vào lời ca, tiếng hát, nó góp phần làm lung linh thêm
những “hạt ngọc” tinh thần của người dân quê chơn chất.
Từ lời nói dân gian, chúng ta còn phải học
tập nhiều lắm ở họ:
Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Văn Đức, Việt Nam tự
điển, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1970.
2. Lê Giang (sưu tầm - sưu tập
- biên soạn), Bộ hành với ca dao, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh, 2004.
3. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc
Phi (đồng chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo
dục, Hà Nội, 2007.
4. Nguyễn Lực - Lương
Văn Đang, Thành ngữ Tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội,
1976.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét