Nẻo về của ý 1
Chương 1
POMONA là cái tên cái nhà gỗ trong rừng của tôi đang ở.
Nguyên Hưng cứ tưởng tượng một buổi sáng thức dậy ở Phương Bối Am, lúc bảy
giờ. Chim chóc hát vang rừng và ánh sáng tràn vào thành từng vũng lớn. Tôi đến
đây vào một buổi tối; xe hơi len lỏi trên những con đường rừng thành ra không
thấy gì. Sáng dậy, tôi giật mình vì tiếng chim hót, vì căn nhà gỗ và sự yên
tĩnh mà đã hơn một năm nay tôi thiếu thốn. Ở Nữu Ước dù thức dậy lúc ba giờ
khuya ta cũng vẫn nghe tiếng xe cộ đi lại. Tôi nhớ hồi mới về Nữu Ước, suốt một
tuần lễ tôi không ngủ được. Tôi than phiền với một người quen. Anh ta mua biếu
tôi một thứ bông sáp để nhét vào tai khi đi ngủ. Cố nhiên là đỡ ồn rồi, nhưng
tôi vẫn không ngủ được bởi vì không thể quên được vì không thể quên được cái cảm
giác là lạ trong hai tai. Mãi mấy hôm sau tôi mới làm quen với tiếng ồn và mới
ngủ được. Thực ra, tất cả chỉ là vấn đề thói quen. Có người đã quen với tiếng
tích tắc của đồng hồ, thiếu nó thì cũng không ngủ được. Nguyên Hưng không nhớ hồi
anh Cường lên chơi và ngủ lại Phương Bối Am sao. Đã quen với tiếng xe cộ đường
Hồng Thập Tự nên nằm ở Phương Bối anh ấy cũng không ngủ được vì cái yên tĩnh kỳ
lạ của núi rừng Đại Lão.
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng
chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên
lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác. Tôi khoác chiếc áo nhật bình đi ra ngoài. Thật
ra một cảnh tượng thần tiên. Tôi có ngờ đâu căn nhà gỗ này nằm bên một chiếc hồ
lớn - lớn hơn cả hồ Dalat. Mặt hồ sáng loáng phản chiếu nắng buổi mai, đẹp rực
rỡ như tranh thần thoại. Bờ hồ là cây rừng; lá cành mang nhiều mầu sắc. Trời sắp
ngả sang thu rồi đó, Nguyên Hưng.
Tai tôi thoáng nghe tiếng cười đùa. Tôi vừa đi vào con đường
mòn vừa gài khuy áo, tìm tới gần chỗ phá xuất ra tiếng nói cười trẻ em. Đi chừng
hai trăm thước tôi thấy hiện ra một khu có sân rộng, có tới mấy chục ngôi nhà gỗ
như Pomona, nhưng bé hơn Pomona. Bọn trẻ con đang rửa mặt, đánh răng. Đây
là Cherrokees, trại của các em nhỏ từ bảy đến mười một tuổi. Rải rác trong
rừng còn có năm hay sáu làng nữa, của những lứa tuổi lớn hơn. Khu rừng mấy trăm
mẫu này hiện dùng làm trại hè - trại Ockanickon, cho học sinh. Để trốn nắng
thành phố, tôi đã về đây, sống với thiên nhiên, với rừng xanh, hồ biếc và trẻ
thơ. Tôi sẽ ở lại đây vài ba tuần nữa trước khi trở về lo công việc mùa thu.
Ngay đầu tôi đã ở chơi suốt ngày với các cậu bé làng Cherrokees. Các
cậu bắt đâu được một chú nai con mới sinh được ba bốn ngày. Mẹ nó đã bỏ nó đi
đâu mất. Các cậu bé đem nó về trại nuôi. Ban giám đốc trại làm cho các cậu ấy một
cái nhà lưới rộng, có hai phòng, để nuôi chú nai con. Chúng đặt tên con nai
là Datino. Datino có bộ lông mầu vàng điểm nhiều chấm sao trắng rất đẹp.
Datino được các cậu bé cho ăn cháo tấm trộn với sữa tươi, và bắp cải non. Sống
được tám tuần lễ ở trong trại rồi, Datino đã lớn. Nhờ sự chăm sóc của các cậu
bé, nó đã cao chừng bốn tấc tây. Tôi cũng hay quanh quẩn với các em chung quanh
cái nhà lưới của Datino và hay hái những cành có lộc non cho Datino gặm. Pomona
thanh tịnh quá khiến tôi ít ưa đi đâu nữa. Tôi có đem về đây mấy cuốn sách
nhưng không đọc. Nguyên Hưng nghĩ đọc làm sao được khi rừng cây thanh tịnh như
thế kia, hồ nước xanh mát như thế kia, tiếng chim hót trong trẻo thế kia. Có những
buổi sáng tôi đi vào trong một khu rừng thưa và ở lại đó một mình cho đến chiều.
Tôi đi thơ thẩn trong rừng hay nằm dài trên những thảm rêu mềm mại, khoanh tay
nhìn trời xanh, mây trắng. Những lúc như thế này tôi thấy tôi đổi khác. Có thể
nói là tôi tìm thấy rõ mặt mũi chân thực của tôi thì đúng hơn. Những nhận xét,
những cảm nghĩ, những quan niệm không còn giống như những nhận xét những cảm
nghĩ những quan niệm hồi tôi còn ở Nữu Ước. Tôi thấy sự vật sáng hơn, khỏe hơn
và ít tầm thường hơn. Chiều hôm qua tôi ngồi trên một chiếc thuyền con và tự
chèo lên phía Bắc của hồ, trên một cây số. Tôi ngồi chơi giữa những bông súng
cho tới khi trời nhuộm mầu tím mới bơi về. Tối quá, tí nữa thì không tìm ra được
cái bến xinh xắn của Pomona.
Rừng ở đây không có sim như ở Phương Bối nhưng có một thứ
trái cũng tím và ngọt như sim, gọi là blueberries. Sáng hôm nay tôi
đưa hai chú bé chừng tám tuổi vào hái blueberries ăn đến chát cả mồm cả miệng.
Hai cậu bé nói chuyện huyên thuyên không ngớt. Một cậu nói chuyện ông Ba Bị mà
cậu trông thấy hồi hôm. Ông kẹ của cậu có sừng trên trán và đang lúc cậu ngủ,
trong một chiếc lều ở Cherokees, thọc tay vào cửa sổ lều định bắt cóc cậu.
Cậu nói chuyện một cách say sưa, thành thực. Có lẽ có một ông Kẹ giả nào đó thì
mới khiến cậu tin chắc như vậy được. Tôi vừa nghe vừa cười, vừa lo hái blueberries. Hồi
lâu, không thấy phản ứng chi, cậu tức quá, dừng lại, nói một cách thất vọng:
“Ông không tin lời của em”. Tôi trả lời: “Có chứ, tôi tin, nhưng tin vừa vừa
thôi”. “Tại sao?” “Tại vì khó tin quá, tôi cố gắng mới có thể tin em một ít như
vậy”. Cậu buồn xo. Chiều đến, cậu dắt tới Pomona một cậu bé để làm chứng.
Cậu này cũng kể chính cậu cũng thấy ông Ba Bị. Hai cậu tranh nhau hùng biện, cố
làm cho tôi tin. Cuối cùng tôi phải gật đầu công nhận “Thôi được, tôi tin lời
hai cậu”. Tôi nói như vậy và đứng dậy đưa hai cậu về trại Cherrokees.
Nguyên Hưng, trong những ngày như ngày hôm nay tôi nhớ Phương
Bối quá đi. Có phải là thỉnh thoảng đến Phương Bối, ngày xưa, chúng ta cũng hay
mang một vài em bé đi thám hiểm núi rừng Đại Lão hay không? Rừng Đại Lão Sơn
hoang vu rậm rạp và nguy hiểm hơn đây nhiều. Chẳng thế mà có bận chúng ta đã gặp
cả cọp. Tôi nhớ Phương Bối Am quá cho đến nỗi nhiều đêm nằm mơ thấy về Phương Bối.
Nhưng tội nghiệp chưa, chẳng bao giờ về tới được Phương Bối cả. Cứ về gần tới
Phương Bối thì y như là có một trở lực gì ngăn chận lại. Vì thế càng nhớ, càng
xót xa thêm. Quê hương chúng ta đã không phải là Phương Bối sao? Nguyên Hưng
thường nói: “Phương Bối không thuộc về chúng ta. Chính chúng ta thuộc về Phương
Bối”. Phải có những ràng buộc mật thiết lắm với Phương Bối mới có thể nói những
câu tương tợ như vậy. Phải có những gốc rễ ăn sâu vào Phương Bối lắm mới có thể
biểu lộ được tình cảm như thế ấy. Tôi biết lắm. Người ta thường nói chỉ có những
kỷ niệm đau buồn mới ở lâu với con người. Sự thực không hẵn như vậy. Nguyên
Hưng, có phải những ngày sung sướng nhất của chúng ta là những ngày ở Phương Bối
không? Và có phải vì những ngày đáng ghi nhớ ấy mà chúng ta hướng về Phương Bối
từ bất cứ phương trời nào, nhưng những bông hoa hướng dương kia không?
Những ngày khai sinh của Phương Bối không có mặt Nguyên Hưng.
Hồi đó Nguyên Hưng còn ở Dalat. Chúng ta đã đi từ thất vọng này sang thất vọng
khác trong niềm ao ước tìm một lối thoát cho chúng ta, cho thế hệ những người
trẻ tuổi muốn đem lý tưởng đạo Phật làm đẹp cho cuộc đời. Nguyên Hưng trẻ hơn
tôi đến gần mười tuổi, nhưng mà Nguyên Hưng cũng đã chịu biết bao nhiêu nỗi thảm
nhục rồi. Chúng ta đã đau khổ vì tình trạng chính trị của đất nước. Chúng ta lại
còn đau khổ vì tình trạng của đạo Phật. Hồi ấy chúng ta đã nói tới vấn đề hiện
đại hóa đạo Phật. Hồi ấy chúng ta đã cố gắng mọi cách gây ý thức về một nền Phật
giáo dân tộc để mong phục hồi sinh lực dân tộc trong ước vọng xây dựng xứ sở.
Tôi đã làm báo đã viết sách. Nào báo Hướng Thiện, nào báo Liên Hoa,
nào báo Sen Hái Đầu Mùa. Năm 1955, chắc Nguyên Hưng còn nhớ, tôi được Tổng
Hội Phật Giáo Việt Nam giao cho chủ bút tờ Phật Giáo Việt Nam. Lúc
đó, tôi đã có dịp gây ý thức về một nền Phật giáo nhân bản và dân tộc. Tôi cũng
đã thấy rõ tính cách rời rạc phân tán của tổ chức đạo Phật, nên đã cố gắng viết
tất cả những gì tôi nghĩ về một nền Phật giáo thống nhất toàn vẹn. Tôi chắc
Nguyên Hưng biết rõ những nguyên do gần xa trong ngoài của sự rời rạc. Hơn hai
năm sau, tờ báo bị đình bản. Lý do là hết tiền. Nhưng kỳ thực, đó là vì các nhà
lãnh đạo Phật giáo miền Trung và miền Nam không chịu đựng được những lọat bài nói
về vấn đề thống nhất thực sự. Trong một buổi họp, họ đã lấy cớ hết tiền để kết
liễu sinh mệnh của tờ báo. Họ có nói: “Ai lại tờ báo của Tổng hội mà đi dạy Tổng
hội về vấn đề thống nhất bao giờ”.
Nguyên Hưng, thế là chúng ta mất khí giới cuối cùng. Chính trị
thì khôn ngoan, tìm đủ mọi cách cho tiềm lực dân tộc không có cơ phát hiện. Tổ
chức Phật giáo thì thủ cựu, chia rẽ. Chúng ta, những người trẻ tuổi, không có
tiền bạc. Không có uy thế, không có một “miếng đất để cắm dùi”, làm sao thực hiện
được ước mộng? Sau một thời gian ốm đau tưởng chết, tôi rút về nằm ở ngôi chùa
nhỏ bé và an tĩnh ở Blao. Còn Nguyên Hưng và các bạn thì mỗi người phiêu lưu một
ngả. Lần thất bại này có lẽ là lần thất bại to lớn nhất có phải không Nguyên
Hưng?
Tôi về nằm ở chùa Blao, nhưng cũng không được yên ổn mấy, bởi
vì đây là chùa quận hội Phật giáo. thỉnh thoảng có chị Diệu Âm ở Djiring vào
đem cho thuốc men, và một ít trái cam tươi. Chị Diệu Âm, mà công trình đối với
Phương Bối không phải là nhỏ, nay đã nằm yên dưới lòng đất rồi. Có phải chính
nhờ chị mà chúng ta có đủ can đảm và kiên nhẫn để tạo dựng nên Phương Bối phải
không Nguyên Hưng?
Tôi xin trở lại câu chuyện những ngày đầu tiên khai sanh
Phương Bối. Ấy là vào khoảng Vu Lan năm 1957. Tôi có nói với chị Diệu Âm:
“Chúng tôi mất chiếc neo cuối cùng rồi. Có lẽ dức chúng tôi đang còn mỏng quá.
Chúng tôi phải trở về trong một cái vỏ cứng để tu luyện trong một thời gian đã.
Chị kiếm cho chúng tôi một nơi ẩn dật đi”.
Chị Diệu Âm hồi ấy trú tại Djiring trong một tịnh
xá tên là Mai Lâm. Mai Lâm tức là Rừng Mai. Chính vì vậy mà hồi chị mất, để
nhớ chị chúng ta đồng ý đặt tên cho chiếc cầu gỗ phía trước cửa rừng Phương Bối
là Cầu Mai. Cầu Mai bây giờ có lẽ đã mục nát rồi. Lâu nay, từ Huế, có khi
nào Nguyên Hưng lăn lội về ghé thăm Phương Bối và chiếc cầu xinh đẹp đó không?
Chị Diệu Âm nói: “Tôi tiếc không nhường Mai Lâm lại cho các
chú được, bởi vì tôi không có thẩm quyền. Chớ nếu tôi nhường được tôi sẽ nhường
ngay. Tôi về Huế, ở chùa Thiên Minh”. Quý hóa thay tấm lòng của chị Diệu Âm. Tôi
cười, trả lời: “Chị mà về Thiên Minh thì còn tệ hơn là chúng tôi không có chỗ ở”.
Và Nguyên Hưng ơi, chính trong những giờ đàm luận ấy mà chúng tôi thấy nẩy sinh
trong óc các ước muốn và dự định thành lập một khu tĩnh cư trên rừng Đại Lão.
Khu ấy sẽ rất yên tĩnh, sẽ ít ai đến được. Khu ấy sẽ rộng, sẽ có đủ núi đồi, suối,
vườn, tĩnh đường, thư viện, thiền thất. Chúng ta cần một nơi như thế, có phải
không Nguyên Hưng. Chúng ta phải có một nơi như thế để quay về. Để chữa cho
lành những vết thương rướm máu. Để nuôi dưỡng bồi đắp lại những gì mà chúng ta
đã phí phạm. Để chuẩn bị cho một cuộc hành trình khác. Niềm tin, sự trong trắng
của tâm hồn chúng ta đã bị hao tổn một cách nặng nề. Chúng ta nhận thức được điều
đó, và chúng ta quyết định tìm con đường phải đi. Phải trị liệu, phải bồi đắp,
phải nuôi dưỡng trước đã. Nếu không, chúng ta sẽ mất chúng ta. Tôi đã ước ao có
một nơi do chúng ta mới thực hiện được công trình “tu luyện” cần thiết. Bởi vì
chúng ta sẽ không thể làm được gì nếu vẫn phải sống mãi cái đời ăn gửi, nằm nhờ.
Nguyên Hưng biết, hồi đó, chúng ta đã có vào khoảng trên hai
vạn cuốn sách. Núi rừng, cây, suối, thiền thất và thư viện hấp dẫn chúng ta như
một dòng nước mát đối với kẻ bộ hành trong sa mạc, như gói quà trong rổ chợ của
bà mẹ đối với đưa con thơ. Tôi đã bàn với Thanh Tuệ, với chị Diệu Âm. Thế là
chúng tôi nhất định thực hiện cho kỳ được. Cái đời bấp bênh của chúng ta phải
được rẽ qua một hướng mới.
Đại Lão Sơn vốn là một khu rừng núi phía trên đèo Blao,
cách đèo chừng sáu cây số. Từ Saigon lên bằng quốc lộ số 20 đến cây số 180,
nhìn sang tay trái về phía những núi đồi cao nhất: đó là rừng Đại Lão. Muốn tới
Phương Bối Am, ta phải từ Blao đi về phía đèo bằng quốc lộ. Đến cây số 180, ta
phải bỏ quốc lộ băng qua chừng ba cây số đường rừng. Hồi ấy, đất rừng ở đây được
xem như là vật sở hữu của những người Thượng. Những khu đất gần hai bên quốc lộ
thì hoặc đã được khai thác trồng trọt, hoặc đang còn là đất rừng – nhưng là thứ
đất rừng của người Kinh đã mua lại từ người Thượng. Người Thượng thường chịu
bán đứt đất rừng cho người Kinh bằng một giá hạ. Vượt ba cây số đường rừng, chị
Diệu Âm, tôi và một người bạn tên là anh Điều làm trắc nghiệm viên dừng lại để
nhìn ngắm khu rừng núi hùng vĩ và huyền bí trước mặt. Đó là Phương Bối tương
lai. Phương là thơm, là quý. Bối là lá bối đa, một thứ palmier lá
dài. Ngày xưa chưa có giấy người ta viết kinh trên thứ lá ấy. Phương Bối nói
lên được ý hướng quý trọng và phụng sự nền văn học đạo Phật của chúng ta.
Phương Bối là lý tưởng của chúng ta có phải vậy không Nguyên Hưng?
Khu rừng núi kia nằm trong địa hạt làng B’su
Danglu của người Thượng. Sau mấy tuần khó nhọc chị Diệu Âm, anh Điều và
tôi tìm được vị trí và được bản đồ của khu dất chúng tôi muốn mua lại của người
Thượng. Khu đất rộng 25 ha 9525, như vậy là gần hai mươi sáu mẫu tây đất rừng.
Mà Nguyên Hưng có biết hồi đó chúng tôi mua với giá bao nhiêu không? Hai trăm
năm mươi đồng bạc Việt Nam một mẫu. Giá của khu rừng gần hai mươi sáu mẫu là
sáu ngàn năm trăm đồng. Nguyên Hưng đừng tưởng chúng tôi bắt ép người Thượng hiền
lành để mua đất của họ bằng một giá rẻ đâu nhé. Bởi vì đấy là giá chính thức họ
bán cho mọi người. Hồi ấy, chúng tôi có tặng thêm cho những người Thượng kia ba
ngàn rưỡi bạc nữa đấy.
Nguyên Hưng có biết chúng tôi mua bán với ai không? công tác
mua bán với hai người Thượng hiền lành. Một người tên là K’Briu. Người kia
tên là K’Brôi. Cả hai đều không biết chữ. Nhưng vị chánh tổng của họ.
Chánh tổng Mã Blao, tên là K’bres và vị quận trưởng Thượng
của họ, tên K’Dinh thì biết chữ và ký bằng bút máy. Một buổi sáng
tháng tám trời nắng ấm, Tuệ và tôi đi vào quận để làm giấy. Gặp các ông K’Briu,
K’Brôi, và vài người nữa. Rồi tôi ký tên vào mua cái văn tự bán đất (Sao lại bán nhỉ.
Phải là mua mới đúng chứ?) đầu tiên trong đời. Văn tự đó như sau:
VĂN TỰ BÁN ĐẤT
Giữa hai đàng,
Những người Thượng tên K’Briu, tên K’Brôi dân làng B’su
Danglu, tổng Mã Blao quận Blao, tỉnh Đồng Nai Thượng, bên này, và tăng sĩ Nhất
Hạnh, nhà ở chùa Phật Học, bên kia.
Đã thỏa thuận như sau: Những người Thượng, chiếu thượng, do
văn tự nầy, đã bằng lòng bán đứt cho tăng sĩ Nhất Hạnh một khoảnh đất kê khai
như sau:
VỊ TRÍ: Một khoảnh đất diện tích 25ha 9525 (hai mươi lăm mẫu
tây chín ngàn năm trăm hai mươi lăm thước vuông) tọa lạc tại làng B’su Danglu
quận Blao, tỉnh Đồng Nai Thượng, ngang cây số 180-/-900, quốc lộ 20, Bắc giáp đất
ông Trương Út và đất rừng, Nam giáp đất rừng và đất ông Trần Ngọc Quýnh.
Đông giáp đất rừng và đất ông Trần Ngọc Quýnh, Tây giáp đất
ông Đặng Văn Lân và đất ông Trương Út. (bản đồ đính hậu).
NGUỒN GỐC: Những người Thượng tên K’Briu, K’Brôi trước sự
hiện diện của ông Phó Lý làng B’su Danglu cam kết rằng khoảnh đất trên hoàn
toàn thuộc quyền sở hữu của họ, chưa hề cầm cố, để đương hay sai áp, và cũng
không phải là công điền công thổ của làng.
QUYỀN SỞ HỮU: Văn tự đoạn mãi này xác nhận sự di chuyển
quyền sở hữu và tăng sĩ Nhất Hạnh được trọn quyền sở hữu trên khoảnh đất trên,
kể từ ngày thành lập văn tự này.
GIÁ CẢ: Khoảnh đất này đã thỏa thuận đoạn mãi với giá là
6.500đ00 (sáu ngàn năm trăm đồng bạc chẵn) và đã giao trước sự hiện diện ông Đại
Diện Hành Chánh Blao, ông Chánh Tổng Mã Blao và ông Quận trưởng đồng bào Thượng
chứng kiến cho các người bán đất đã lãnh đủ số tiền và điểm chỉ vào văn tự này
vì không biết chữ, không biết ký.
Bên mua phải đăng bộ thổ, đóng bách phần cùng các thứ thuế
khác tại bộ điền địa Đà Lạt.
Làm tại Blao ngày mùng 7 tháng 8 năm 19…
Dưới văn tự, có dấu điểm chỉ của K’Briu, K’Brôi của phó lý
làng B’su Danglu, có chữ ký của Chánh tổng Mã Blao và K’Bres của quận trưởng
Thượng K’Dinh và của ông Quận trưởng quận hành chánh Blao nữa. Bên cạnh chữ ký
của K’Brôi, K’Briu, là chữ ký của tôi, tăng sĩ Nhất Hạnh. Thế là, Nguyên Hưng
ơi, tôi đã trở thành địa chủ rồi đó. Địa chủ của gần hai mươi sáu mẫu
tây đất rừng. Tha hồ sau này cho cộng sản tố khổ. Biết đâu trong khu rừng núi gần
hai mươi sáu mẫu ấy, lại không có vài vị chúa sơn lâm lưu trú. Ở nông trại Đại
Hà các ông Ba Mươi dã chẳng thỉnh thoảng về chơi ban đêm đó sao?
Mấy hôm nay mưa lớn quá. Nguyên Hưng. Căn nhà gỗ Pomona của
tôi bị dột, mưa giọt xuống ướt cả mấy cuốn sách để trên bàn. Tôi phải dời cái
bàn đi mấy lần mới tìm ra được một chỗ bảo đảm. Tối hôm qua một đám thanh niên
chừng hai chục người từ trại Rangers đã tới thăm Pomona để nghe tôi
nói chuyện về đạo Phật. Trong thời gian lưu trú tại đây, tôi làm guest
speaker cho cả trại mà. Nói cho nhóm này nghe rồi đến nhóm khác, về đủ các
thứ chuyện. Tôi đã nói cho tất cả là tám nhóm rồi kể cả một nhóm cherrokees nhỏ
xíu. Nhóm Rangers là nhóm lớn. Họ mang tới mỗi người một ôm củi dể
đót trong lò sưởi lều Pomona của tôi. Trời hơi lạnh thành đốt như thế
vừa ấm lại vừa vui. Họ ngồi quây quần quanh lò sưởi nghe tôi nói chuyện. Lúc đó
tôi mặc chiếc áo nhật bình mầu khói hương, cho nên tôi bắt đầu nói về chiếc
áo nhật bình để cho họ biết đây là chiếc áo đặc biệt của những chú tiểu
Việt Nam chứ không phải là quốc phục Việt Nam như vài người đã lầm tưởng. “Đáng
lẽ thì tôi mặc chiếc áo tràng mầu nâu kia kìa”, tôi vừa nói vừa chỉ chiếc áo
treo ở góc phòng, “nhưng vì muốn có cảm giác trẻ con nên tôi ưa mặc áo nhật
bình”. Thế rồi tôi đứng dậy mặc chiếc áo tràng vào và giải thích cho họ biết ý
nghĩa của mầu nâu. Màu của khiêm nhượng của trầm lặng và của ý hướng đồng sự với
người dân quê. Nhân tiện tôi cũng khoác chiếc y màu vàng lên và giải thích cho
họ biết thế nào là giải thoát phục và trong những trường hợp nào thì cần phải
mang y. Và do đó tôi nói đến sự khác biệt của hai truyền thống Nam Tông và Bắc
Tông của đạo Phật và một vài khởi điểm của nhận thức đạo Phật. Rồi tôi chỉ cho
họ biết một ít điểm dị đồng căn bản giữa đạo Phật và Cơ đốc giáo là tôn giáo mà
họ đang theo. Thường thường những buổi nói chuyện như thế được họ theo dõi một
cách rất chăm chú và khi tôi kết thúc buổi nói chuyện, họ đặt rất nhiều câu hỏi.
Nếu chỉ cho họ hỏi mãi có lẽ họ sẽ hỏi cho đến hết ngày. Những điều họ tò mò muốn
biết thì vô cùng mà thời gian dành cho những câu hỏi thì có hạn. Họ hỏi nhiều
câu như: tại sao mái chùa lại cong lên như vậy? Tại sao lại ăn chay? Ông Thầy
tu đạo Phật cưới vợ được không? đạo Phật nghĩ về đức Jésus như thế nào? những
câu hỏi như thế tuôn ra bất tuyệt. Hồi hôm, để chấm dứt, tôi bảo họ im lặng để
tôi đọc cho họ nghe một bài kinh. Tôi đọc bài “vô biên phiền não đoạn”. Khi họ
ra về thì đã mười một giờ. Tôi cho thêm ít củi vào lò sưởi, và còn lại một mình
tôi ngồi nhìn ngọn lửa bốc cháy. Trời vẫn còn mưa tầm tã. Chắc Saigon cũng đang
mưa. Thanh Tuệ từ Đại Hà vừa viết thư cho biết rằng Phương Bối mưa suốt mấy tuần
nay, mái nhà Thượng trên đồi đã bị gió thổi bay mất một mãnh lớn.
Không biết Tuệ có chịu vào chữa lại hay không, hay là lại để cho gió tốc cả cái
nhà Thượng đi mất. Chiếc nhà Thượng cao chót vót trên đỉnh đồi chính mà chúng
ta đã mất bao nhiêu công trình mới làm nên được. Chiếc nhà ấy đẹp nhất trong những
ngôi nhà rải rác ở các núi đồi Phương Bối, có phải không Nguyên Hưng. Hai mái
thật cao như hai bàn tay người Phật tử chắp lại kiểu hiệp chưởng khi
chào nhau. Chính trong ngôi nhà Thượng ấy chúng ta đã sống những giờ thật vui vẻ
và thanh tịnh. Những giờ học tập, hội thảo, đàm đạo, uống trà và cả nghe âm nhạc
nữa. Bữa khánh thành ngôi nhà, tôi còn nhớ, chúng ta đã nấu xôi và chè đậu xanh
đãi vỏ ăn mừng. Nhà Thượng được làm theo kiểu nhà sàn, và chúng ta đã ngồi bệt
xuống sàn nhà theo kiểu người Nhật và khi đau chân quá thì đổi ra kiểu người Miên.
Tôi ngồi ở Pomona trong một đêm mưa mà cứ tưởng là
ngồi ở Phương Bối một đêm mà cả Tuệ, cả Lý, cả Nguyên Hưng, cả thầy Thanh Từ và
cả dì Tâm Huệ nữa đều vắng mặt. Có lúc tôi mỉm cười yên lặng một mình. Quả thực
mỗi người trong chúng ta đều thuộc về Phương Bối, như Nguyên Hưng đã nói cho
tôi xem là Nguyên Hưng có nhớ Phương Bối không nào?
Để tôi nói tiếp về câu chuyện hai mưôi lăm mẫu chín ngàn năm
trăm hai mươi lăm thước vuông đất rừng ở làng B’su Danglu cho Nguyên Hưng nghe.
Sau khi chúng tôi mua khu đất thì chúng tôi hết cả tiền, ngay cả số tiền nhỏ
dành để uống thuốc, vì hồi ấy tôi còn chưa được bình phục. Sau khi mở vài cuộc
thám hiểm khu rừng núi Đại Lão, bác Đại Hà và tôi quyết định phá đi một khoảnh
rừng chứng bốn mẫu để trồng cây trà và một khoảnh khác gần ngọn đồi cao nhất để
làm một căn nhà. Phải trồng trà thì mới có phương tiện tự túc, vì Phương Bối sẽ
không phải là nơi lui tới của những người thập phương. Phương Bối sẽ chỉ là của
riêng chúng ta (Nguyên Hưng xem chúng mình chấp ngã và ngã sở ghê
chưa) và hoàn toàn do chúng ta tự do sắp đặt và định liệu. Trước hết, phải thuê
hàng chục người Thượng tới dùng xà gạc để đốn khu rừng dự định trồng cây trà.
Sau đó chừng một tháng, khi thân cây và cành lá đã khô thì đem lửa tới đốt. Phải
đốt bốn mặt để cho ngọn lửa chạy vào trung tâm, như vậy tránh được cháy rừng. Đốt
xong thì phải dọn rừng, khiên những thân cây bị cháy xém chất thành từng đống lớn.
Cành lá thì đã cháy thành tro. Đợi trận mưa đầu mùa tới là đào lỗ chôn thành
hàng và gieo hạt trà. Hạt trà thì chúng tôi đã đi xin được rát nhiều ở các đồn
điền lớn trong quận. Từng đó công việc đòi hỏi một số tiền. Thanh Tuệ đã phải về
Saigon giao thiệp với các nhà xuất bản và phát hành để thâu số tiền bản quyền
những cuốn sách mà tôi đã giao cho họ. Với một số tiền của chị Diệu Âm giúp nữa,
chúng tôi khởi công. Chính bác Đại Hà một người kinh nghiệm làm rừng, đã chỉ
huy công việc giúp chúng ta. Một buổi sáng có nắng cách đó chừng năm tháng, chị
Diệu Âm giúp nữa, chúng tôi khởi công. Chính bác Đại Hà, một người bạn có rất
nhiều kinh nghiệm làm rừng, đã chỉ huy công việc giúp chúng ta. Một buổi sáng
có nắng cách đó chừng năm tháng, chị Diệu âm, Thanh Tuệ và tôi, tất cả đều nai
nịt gọn ghẽ, theo bác Đại Hà đi vào khu rừng đã biến thành một đồi chè non. Con
đường đi vào chưa được phát dọn và cũng chưa thành một lối đi có dấu mòn. Rừng
còn ướt và vắt nhiều quá. Thỉnh thoảng chúng tôi lại phải dừng lại để
xem có vắt bám vào chân hay không. Bác Đại Hà thì không ngán vắt một chút nào.
Bác kể chuyện có lúc vắt bám đầy cả chân, khi về phải dùng cả một sợi lạt để gạt
chúng nó xuống, trước khi rửa chân, xoa dầu khuynh diệp và sưởi lửa. Thanh Tuệ
và tôi cũng chỉ hơi sợ vắt mà thôi. Mỗi khi bắt gặp một con vắt đang
bám vào chân, chúng tôi ngừng lại và lấy tay rứt nó ra, hơi gớm và hơi rùng
mình một tí. Nhưng chị Diệu Âm thì sợ vắt vô cùng. Mỗi khi thấy có vắt bám vào
chân thì chị hét lên. Chúng tôi phải dừng lại để mà “bảo vệ” cho chị. Ấy thế mà
chừng một năm sau chị không còn sợ vắt nữa.
Mùa hè, chúng ta tha hồ đi trong rừng không sợ vắt. Chúng nó
chết tiệt đâu hết cả. Nhưng chỉ mùa mưa tới, rừng ẩm thế là chúng xuất hiện.
Bác Đại Hà nói: “Thưa thầy, chúng nó đâu có chết, chúng nó chỉ khô teo đi thôi.
Đến mùa mưa là chúng sống lại.” Rồi bác kể chuyện một hôm bác ngồi ăn cơm trưa
với công nhân trong rừng. Ăn xong, một anh công nhân tìm một cái tăm xỉa răng.
Anh vớ được một cái que suống sắn đầu lớn đầu bé như một cái tăm. Anh thổi sạch
bụi và bắt đầu xỉa. Một lát anh có cảm giác rằng cái tăm động đậy. Thì ra đó là
một con vắt chớ không phải là một cái que. Nhờ chất nước bọt, con vắt
đã được hồi sinh. Tha hồ cho anh công nhân nhổ nước bọt súc miệng. Có lúc bị vắt
đeo mà ta không biết, về đến nhà máu chảy ướt, ta mới hay. Người miền núi có chế
ra một thứ thuốc bôi vào hai ống chân khiến cho vắt sợ không bám vào được. Hoặc
họ mang theo vôi ăn trầu, có vắt thì bôi vào tí vôi vắt “nhả” ra ngay.
Vui câu chuyện cùng chúng tôi đến đồi chè mới lúc nào không
hay. Đồi thật cao. Đây là ngọn đồi cao nhất ở vùng này. Bây giờ ngọn đồi quang
đãng, chúng tôi mới có thể nhìn được cảnh vật bên dưới. Thật là một quang cảnh
ngoạn mục. Nhìn từ đây, trời xanh xanh hơn, mây trắng trắng hơn. Những ngọn núi
xa có mây trắng phủ dưới chân trông như những cù lao nổi giữa biển nước trắng
xóa. Nguyên Hưng có biết không. Suốt hai năm trời ở Phương Bối mà buổi sáng nào
đứng từ đồi Thượng ta cũng thấy Phương Bôi đẹp. Không có một buổi
sáng nào giống buổi sáng nào. Có những buổi sáng thức dậy ta chẳng trông thấy
được gì ngoài cửa sổ. Bởi vì sương mù dày đặc. Đứng cách nhau chừng năm sáu thước
đã có thể không trông thấy nhau. Có những buổi sáng đứng trên đồi Thượng ta có
cảm tưởng rất thực là ta đang đứng trên một hòn cù lao ở hải đảo. Sương mù trắng
xóa và bằng phẳng như mặt biển, dàn trải đến chân trời. Các ngọn núi xa là những
cù lao. Mãi cho đến gần mười giờ sáng sương mới tan và cảnh tượng mới lại phô
bày chân tướng. Mà thực ra ta khó nói được thế nào là chân tướng của
cảnh tượng nữa. Mỗi ngày mỗi khác. Mỗi giờ mỗi khác.
Phương Bối là một dòng tiếp nối của những cảnh tượng thần diệu. Đó, Nguyên Hưng có nhớ một buổi sáng nọ khi chim hót vang rừng chúng ta đi từ thiền thất lên đến đỉnh đồi Thượng không? Đứng trên đồi ta trông thấy một cặp nai tơ đùa chơi trong nắng sớm, giữa những hàng trà. Những con nai tơ vàng mình có lốm đốm những hàng sao trắng. Chúng ta đã đứng im bất động một lúc lâu, sợ chúng chạy mất. Nắng mai đùa giỡn với những con nai con trên đồi trà. Một lát sau, hai con nai đuổi nhau về phía cửa rừng phía Nam và lẩn mất vào rừng. Chúng ta chỉ còn biết nhìn nhau.
Phương Bối là một dòng tiếp nối của những cảnh tượng thần diệu. Đó, Nguyên Hưng có nhớ một buổi sáng nọ khi chim hót vang rừng chúng ta đi từ thiền thất lên đến đỉnh đồi Thượng không? Đứng trên đồi ta trông thấy một cặp nai tơ đùa chơi trong nắng sớm, giữa những hàng trà. Những con nai tơ vàng mình có lốm đốm những hàng sao trắng. Chúng ta đã đứng im bất động một lúc lâu, sợ chúng chạy mất. Nắng mai đùa giỡn với những con nai con trên đồi trà. Một lát sau, hai con nai đuổi nhau về phía cửa rừng phía Nam và lẩn mất vào rừng. Chúng ta chỉ còn biết nhìn nhau.
Khu đồi hồi đó tuy đã được trông trà nhưng còn hoang vu lắm
Nguyên Hưng. Chúng tôi đi giữa những cây trà mới lên. Các gốc cây đang còn lại
nhiều; nhưng theo lời bác Đại Hà chúng sẽ mục nát sau đó một vài năm, không cần
phải đào gốc. Vấn đề là đừng cho chúng mọc lộc mới. Mà thực ra số lớn các gốc
đã bị đốt cháy không thể nào còn đâm lộc được nữa, để có chỗ làm nhà và làm vườn.
Nguyên Hưng ơi, sau ngày đi thăm ấy độ một năm thì Nguyên
Hưng về, lúc ấy Phương Bối đương làm nhà. Bốn mẫu trà kia đã bắt đầu sản xuất
chút ít và chị Diệu Âm bàn nên trồng thêm hai mẫu nữa. Lại thêm phải làm một
cái nhà bốn gian ngay dưới chân đồi Thượng. Một gian trên cao dùng làm thiền thất.
Gian dưới là thư viện và chỗ làm việc. Gian giữa là phòng ngủ. Gian bên là
phòng ăn và phòng khách. Khách ở đây là gia đình Đại Hà, là chị Diệu Âm, là Như
Thông, Như Ngọc, Như Khoa, Thanh Giới và ít người bạn tri kỷ khác. Kỳ dư ai mà
chịu lặn lội lên tới Phương Bối, vừa xa, vừa cao, vừa vắt, vừa nguy hiểm.
Nguyên Hưng, hồi đó chúng tôi lúng túng rất nhiều về vấn đề tiền bạc. Tôi phải
bán thêm một bản thảo nữa,và kêu gọi sự giúp đỡ của các bạn quen. Ngoài chị Diệu
Âm, những người giúp cho chúng ta nhiều nhất là Như Thông, Như Khoa và gia đình
Đại Hà. Trong thời gian làm nhà các bác thợ phải đi lên đi về rất vất vả. Chiếc
xe vận tải (bánh xe có ràng xích để leo núi khỏi trượt) phải lận đận lắm mới chở
được gỗ và nguyên liệu làm nhà đến dưới chân đồi Thượng, bò quanh theo con đường
núi đã lở lói và hư hỏng rất nhiều. Con đường này xa bằng ba con đường rừng đi
tắt. Mà từ chỗ rẽ của con đường tới chân đồi Thượng, bác Đại Hà đã phải đốt rừng
làm một con đường dài trên bốn trăm thước. Chính tôi đã cắm mộc làm thầy địa.
Nguyên Hưng này, có lẽ tôi là một ông thầy địa vụng cho nên giờ nầy chúng ta
không được an trú trong Phương Bối mà mỗi người phải lênh đênh một ngả. Tôi phải
chừa làm nghề thầy địa đi mới được, có phải không?
Hồi đó Tuệ, Hưng, tôi và chị Diệu Âm hay rủ Như Khoa và bọn
trẻ con gia đình Đại Hà vào chân đồi Thượng cắm trại, luôn tiện xem các ông thợ
làm nhà. Tội nghiệp chị Diệu Âm; vì chúng ta, chị cứ mỗi tuần rời Mai Lâm ở Di
Linh để vào Bảo Lộc một kỳ. Tuy vậy, nhờ làm nhiều việc, leo nhiều núi, chị mạnh
khỏe hẳn ra. Ai thấy chị leo núi cũng khen. Như Khoa, nam nhi chi tướng như vậy
mà đôi khi còn thua chị. “Mất uy tín” quá, phải không Nguyên Hưng? Vì muốn về
Phương Bối trước mùa an cư cho nên chúng ta đã cố gắng rất nhiều. Lúc bấy giờ
đường lên Phương Bối đã được phát dọn quang đãng. Cái khu rừng từ cầu Mai lên đến
dưới đồi Thượng, cái khu rừng ấy mới đẹp làm sao. Tôi muốn được suốt đời đi
trong một con đường rừng như thế. Con đường thơm ngát hoa chiều. Và có một
vài thứ hoa gì nữa cũng rất thơm mà chúng ta không biết tên. Mỗi lần lên Phương
Bối mà leo tới được cầu Mai là đã thấy khỏe rồi. Thấy như là mình đã tới rồi,
tới được cõi của mình rồi. Khúc đường còn lại là khúc đường rừng hấp
dẫn nhất mà tôi vừa nói đó. Thầy Thanh Từ sau này rất thích đội một cái nón lá
thật to vành và chống một chiếc gậy đi lên đi về con đường đó. Phương Bối hiện
ra một cách đột ngột từ một khúc quanh: đồi Thượng sáng lên như một chân trời
giác ngộ, một cõi bồng lai, nhất là ngày bắt đầu có chiếc nhà Thượng với hai
mái cao vừa hùng vĩ vừa e lệ.
Những cơn mưa gió đến trước mùa an cư làm chúng ta phải cực
nhọc nhiều lần. Chúng ta đã có tủ để đựng hai vạn cuốn sách. Chúng ta đã có giường
có bàn, chúng ta lại cũng có một chiếc nhà bếp xinh xắn cách đó không xa. Và
quý nhất là chúng ta đã xây được một cái hồ đựng nước mưa chứa được chừng vài
chục thước khối nước. Những ngày ấy chúng ta rất bận rộn với ngôi nhà mới sắp
hoàn thành. Tuệ lúc đó bận dậy học ở trường Bảo Lộc cho nên ít giúp chúng ta được.
Nguyên Hưng biết, cũng khá trang nhã. Có một bữa cùng với Nguyên Hưng đứng ở
lan can nhìn xuống khu rừng phía trái mà ta thường gọi Rừng Tham Thiền tôi
thấy một giải mây giăng ngang từ cửa rừng sang đến gần chân đồi Thượng. Giải
mây giống như một giải lụa, bề rộng chừng độ hai thước. Thật là kỳ thú. Tôi với
Nguyên Hưng dã chạy xuống đi lại gần giải mây. Tới gần thì không thấy giải mây
đâu. Chúng ta thất vọng, bởi vì chúng ta muốn đứng sát một bên giải mây, nhưng
khi trèo lên lại lan can nhìn, thì giải mây vẫn còn đó, tuy đã biến hình và
loãng dần ra. Rừng Tham Thiền có lẽ là khu rừng đẹp nhứt. Khu này có
nhiều thông và nhiều cây cao, to, rất hùng vĩ. Khu rừng có vẻ bí mật. Chúng ta
đã định thuê chặt đốn tất cả những cây nhỏ và gai góc trong rừng và làm những
con đường nhỏ ngang dọc trong ấy. Chúng ta cũng định làm những chỗ ngồi tham
thiền và chiêm nghiệm. Cứ từ lâu, chừng năm bảy hôm một, Nguyên Hưng và tôi lại
đi vào Rừng Tham Thiền để hái hoa đem về đơm trong một cái giỏ mây
cúng Phật. Hoa có rất nhiều thứ, nhưng kỳ nào ta cũng hái hoa Chiều và
hoa Trang.
Chỉ còn có ba hôm nữa là đến mùa An cư. Nguyên Hưng và tôi đã
định về Phương Bối đúng ngày an cư. Như Ngọc và Như Thông hứa là ngày ấy sẽ từ
Saigon lên chơi để “khánh thành” Phương Bối luôn thể… Trời mưa như trú nước.
Mưa rồi lại tạnh. Tạnh rồi lại mưa. Như Khoa dã mượn giúp cho Tuệ và Hưng một
chiếc xe Jeep để chở hai vạn cuốn sách vào Phương Bối. Sách đựng trong những
chiếc bao tải lớn. Chiếc Jeep leo núi một cách mệt nhọc trèo lên trượt xuống.
chiếc xe phải hỳ hục gần suốt một ngày mới chở được hết sách, Nguyên Hưng và
Thanh Tuệ trong chuyến chót đã chở vào được thêm một cái tủ, cái tủ trắng rất
xinh của Như Thông gửi tặng cho Phương Bối. Tôi còn nhớ trong chuyến ấy, nửa đường
các cậu gặp mưa. Cả hai người, Nguyên Hưng cũng giống như Thanh Tuệ. Đều ướt
như chuột lột. Thấy mà thương quá. Lúc ấy tôi đang bận bịu xếp sách vào các
ngăn tủ. Tôi ra đón Tuệ và Hưng. Tôi bắt Nguyên Hưng vào thay quần áo lau mình
thật sạch và trùm chăn kín lại. Tôi định vào đốt lò sưởi cho Tuệ nhưng Tuệ từ
chối, đòi về theo xe. Cả Hưng và Tuệ đều run rẩy. Tuệ nói: “Phen này thì chắc ốm
to. Có lẽ thương hàn là ít”. Tôi cũng thấy sợ ghê. Các em giãi nắng dầm mưa nhiều
quá. Thế nhưng mà không sao. Dì Tâm Huệ dọn cơm chiều lúc bảy giờ tối; bữa cơm
đầu tiên ở Phương Bối được dọn ra đàng hoàng trên bàn, ngoài phòng ăn. Tôi đến
nói với Nguyên Hưng: “dậy ăn cơm đi Nguyên Hưng.” Nguyên Hưng không chịu, trả lời
rằng là chắc hẳn không ăn được. Tôi nài nỉ Nguyên Hưng ra ngồi chơi với tôi
trong khi tôi ăn cơm. Nguyên Hưng bèn chịu. Ra tới phòng ăn tôi xới cơm và ép
Nguyên Hưng ăn một chén. Nể lời Nguyên Hưng cầm đũa. Thế rồi vui miệng và vui
câu chuyện, Nguyên Hưng đã để cho dì Tâm Huệ xới cơm cho Nguyên Hưng tới ba lần.
Đêm ấy Nguyên Hưng ngủ ngon không “ốm to” cũng không “thương hàn”. Sáng mai Tuệ
lặn lội vào Phương Bối rất sớm. Thì ra cậu ta cũng chẳng “ốm to” chẳng “thương
hàn” gì cả. Hôm qua về tới chùa Bảo Lộc, Tuệ thay áo ngay và lau khô mình mẩy.
Rót một ly nước trà thật nóng cậu lấy hai viên thuốc cảm để trên table de
nuit. Rồi cậu ta trùm chăn lại thật kỹ, chờ cho ly nước bớt nóng để uống thuốc.
Trong khi chờ đợi anh ta mở chiếc radio để nghe một bản nhạc của đài Saigon. Thế
rồi trong tiếng nhạc êm đềm Tuệ đã ngủ quên. Ly nước nguội dần, nguội dần và trở
thành giá lạnh. Mười hai giờ khuya đài Saigon đã giả từ khán giả mà Tuệ vẫn
không biết. Tuệ ngủ mê mệt. Cho đến khi tỉnh dậy thì đài Saigon đã “tái ngộ”
thính giả và đang dạy thính giả tập thể dục buổi sáng! Mỗi lần nghĩ đến chuyện
đó là tôi thấy buồn cười quá đi, Nguyên Hưng.
Trong cùng một đêm đó, Nguyên Hưng và tôi ngủ lại Phương Bối
lần đầu. Cánh cửa giữa chưa lắp, thành ra nửa đêm bị gió thổi rơi xuống sàn nhà
một cái rầm. Hai chúng tôi đều thức giấc. Nằm bên nhau, chúng ta nghe mưa gió
rào rào bên ngoài. Có lẽ là có bão tố ở đâu ấy. Chúng ta đang nằm ngủ
trên rừng, cách xa xóm làng đô thị. Rất xa. Chúng ta đã muốn lên tận trên này,
phá rừng, làm nhà và dựng cho chúng ta một quê hương bé nhỏ. Tôi không thể nào
nằm ngủ được nữa. Tôi rủ Nguyên Hưng trở dậy. Chúng ta đi sờ soạn tìm hộp diêm
nhen, đốt một đống lửa và thức bên nhau nói chuyện, cho đến khi tiếng vượn hú
hòa với tiếng chim kêu đã vọng vang cả núi rừng. Chúng ta trèo lên đồi thượng.
Phương đông, chân trời vẫn chưa ửng hồng. Sương phủ khắp đồi núi xa xa. Phương
Bối đã trở thành một cái gì có thực. Có thực một cách hư ảo. Các bạn ở xa
chưa ai hay biết rằng ẩn mình trên núi Đại Lão, Phương Bối đã xòe những cánh đồi
hoang vu và êm dịu như một chiếc nôi lớn - một chiếc nôi lót bằng bông đá, hoa
dại, cỏ rừng - chào đón chúng tôi. Ở đây chỉ có cây rừng, có chim có vượn. Ở
đây chúng tôi sẽ xa được trong một thời gian tất cả những xấu xa nhỏ mọn của cuộc
đời…
Chương 3
Thứ tư tuần tới, tôi sẽ rời Medford để về lại thành phố. Mùa
thu đã sắp đến rồi. Ở bên này, người ta gọi mùa Thù là Mùa Rơi, bởi vì mùa
Thu cũng là mùa lá vàng rơi rụng. Cũng như người ta gọi mùa Xuân là Mùa
Tuôn Dậy. Lộc non, chồi xanh tuôn dậy như một dòng suối tuôn từ các khe đá. Chắc
là Công Viên Bờ Sông cũng đã bắt đầu đẹp. Princeton mùa Thu thì nhất
định là đẹp lắm rồi. Nguyên Hưng cứ tưởng tượng một buổi sáng lành lạnh, có nắng,
đi trên những thảm cỏ xanh, rất xanh. Chỉ cần một tí gió thôi là bao nhiêu lá
phong rụng xuống, rơi vào đầu, vào cổ, vào áo của mình. Mà lá phong rụng không
phải chỉ là những lá mang độc một mầu hỏa hoàng thôi đâu nhé. Có thể nói là có
những chiếc lá thật là đỏ, đỏ thắm như son. Và từ mầu xanh qua mầu vàng đến mầu
đỏ thắm là biết bao nhiêu mầu sắc! Những trận mưa là như thế thật là ngoạn mục.
Tôi rất ưa những loại cây thay lá. Như cây bàng ở quê hương
ta chẳng hạn. Ở Phương Bối rừng núi mang mầu xanh suốt năm, kể cả mùa đông rét
mướt và mưa gió. Chỉ có một số ít cây thuộc về loại cây thay lá mà thôi, và các
cây ấy không đủ nhiều để tạo nên một mùa thu, một mùa rơi rụng, Princeton thật
là đẹp, nhưng mà Princeton không có được những nét độc đáo của Phương Bối.
Princeton không có những buổi sương mù bao trùm núi đồi và gây cho ta cảm tưởng
đang đứng trên mặt biển. Princeton không phản phất hương của hoa Chiều,
không có tiếng chim kêu vượn hú vang rừng, không có huyền bí hoang dại như
Phương Bối.
Tôi không thể nào quên được những đêm trăng rừng Phương Bối.
Nguyên Hưng cũng biết là buổi tối ở trên rừng không giống gì với buổi tối ở đồng
quê hay ở thành thị. Mới từng tám giờ tối thôi, ta đã có cảm tưởng như là đêm
đã khuya lắm rồi. Màn đêm dày đặc hơn, huyền bí hơn. Xung quanh Phương Bối quyền
uy của rừng núi quả đã khôi phục được quyền hành của nó. Ta có thể cảm thấy được
những bước chân chậm rãi của chúa sơn lâm và tiếng xào xạc của khu rừng tranh
cao quá đầu người khi chúa sơn lâm đi ngang.
Rừng núi hết sức yên lặng. Nhưng cũng hết sức linh động. Những
đêm có trăng, nhất là trăng khuya, ở Phương Bối hình như ít ai ngủ được. Có một
bữa, ham viết cho đến một giờ khuya tôi không biết rằng Thanh Tuệ đã thức giấc
và đang đứng lặng yên sau cửa sổ nhìn ra khu rừng ẩm ướt ánh trăng. Tôi cũng tắt
cây đèn bát đi, và lại đứng gần bên Thanh Tuệ. Cả trăng cả rừng đều huyền bí đều
mầu nhiệm, và cùng tạo nên một khung cảnh mà chúng ta chưa hề thấy bao giờ
trong đời trừ ở Phương Bối. Trăng cũng tuyệt đối yên lặng. Nhưng mà trăng với rừng
quả là đang nói chuyện với nhau, nói chuyện bằng thứ ngôn ngữ gì
chúng ta không thể nào biết được. Trăng và rừng trong lúc này không phải là hai
mà chỉ là một. Thí dụ ta lấy trăng đi, thì rừng cũng mất. Hoặc giả nếu ta lấy rừng
đi thì trăng cũng tan biến. Và chính chúng tôi nữa, chúng tôi là gì lúc ấy?
Chúng tôi có thể hiện hữu bên nhau sau khung cửa sáng ấy không nếu một trong
hai thứ trăng và rừng kia không hiện hữu?
Nguyên Hưng cũng đã từng say mê những đêm trăng như thế.
Riêng tôi, tôi thấy trăng từ mười sáu trở đi mới già dặn mới đủ sức nói chuyện
với rừng. Có những buổi khuya tôi đứng một mình - cũng sau cửa sổ lớn đó - nhìn
ra khu rừng trước mặt. Hồi đó khu rừng chỉ cách ta độ năm sáu mươi thước. Khu rừng
hùng mạnh, và dưới ảnh hưởng của trăng khuya, tự tạo cho mình một hấp dẫn lực kỳ
lạ. Có một sức gì thu hút phát xuất từ khu rừng, một cái gì rất hoang dại và
cũng rất hùng biện.
Tôi thấy hình như thấp thoáng ở cửa rừng có bóng một người
Thượng thân hình đen cháy, hai mắt long lanh, có một người Thượng của hàng ngàn
năm về trước chứ không phải như những người thượng bây giờ hay đi ngang qua
Phương Bối để tìm rau Rịa. Tôi thấy thức dậy ở trong tôi con người cổ sơ. Tôi
muốn liệng bỏ hết chữ nghĩa, liệng bỏ hết văn minh, liệng bỏ hết những áo xống
rắc rối trên mình để trần truồng đi vào trong rừng. Đi vào trong rừng làm gì,
tôi không biết, nhưng là đi vào thật sâu, đi mãi, đi mãi, dù là trời tối đen,
dù là rừng đầy dã thú, đầy gai góc. Tôi thấy nếu tôi bị dã thú ăn thịt mà cũng
không sao. Không đau đớn, không hãi hùng, không luyến tiếc. Có thể gọi là êm ái
nữa cũng không biết chừng. Tôi đứng như thế, sau khung cửa, rất lâu, để chống lại
với tiếng gọi của rừng, của trăng.
Rừng ở Medford hiền quá đi. Tôi nhớ trăng rừng Phương Bối lạ
lùng; mình xa cách Phương Bối đã lâu rồi, Nguyên Hưng nhỉ. Nhưng mà từ ngày tôi
rời xứ sở đến nay, đã mười sáu tháng qua. Ngày hôm kia tôi làm một bài thơ hai
câu như sau:
“gối khuya rừng mộng trăng mười sáu
mười sáu trăng rồi, ngươi biết không?”
mười sáu trăng rồi, ngươi biết không?”
Tôi thích hai câu ấy lắm, Nguyên Hưng. Nguyên Hưng cứ nghĩ là
rừng Phương Bối trong một đêm không trăng, gồi đầu lên đêm khuya để mà nhớ, để
mà thấy trong giấc mơ mặt trăng tròn đầy của ngày mười sáu. Từ ngày xa cách, có
phải là mười sáu mùa trăng đã qua rồi hay không? Tôi ưa những tiếng “trăng mười
sáu” và “mười sáu trăng” nối theo nhau làm cho hai câu trở thành như một. Như một
mà kỳ thực là hai.
Nguyên Hưng, vào cái ngày bắt đầu mùa an cư năm xưa ấy, trời
bỗng tạnh mưa. Vào khoảng chín giờ sáng thì Như Thông, Như Ngọc và thầy Châu
Toàn lên. Họ mang theo rất nhiều thứ quà để tặng Phương Bối. Tôi còn nhớ đến
chiếc giỏ mây thật đẹp mà chúng ta thường dùng để đơm hoa rừng cúng Phật. Và
nào là chén, là đĩa, là đũa, là thức ăn. Hồi đó đồi Thượng chưa được dọn sạch
nên không thể ăn bữu cơm đầu hạ trên ấy như chúng ta ước muốn. Tuệ cũng đã vào
từ lúc sáng sớm. Nguyên Hưng và tôi vẫn còn đang phải loay hoay dọn dẹp thiền
thất. Toàn đã vào Rừng Tham Thiền một mình để hái hoa.
Một lát sau chị Diệu Âm và cô Lưu Phương vào, cùng đi hái hoa
với Toàn. Chị hái được rất nhiều bông Chiều, những chùm hoa lớn trắng như tuyết.
Còn Toàn thì sau khi hái được một ít hoa mẫu đơn đã bị rừng Sim lôi cuốn. Thế
là từ lúc đó. Toàn hái toàn những cành hoa Sim. Tôi nhớ ngày hôm đó ở Phương Bối
có rất nhiều bình hoa nhỏ mà phần lớn là những bình hoa Sim - nhưng vì Toàn đã
trẩy gần hết lá Sim nên các bình hoa kia trông như những bình hoa đào. Cái giỏ
mây đầy cả hoa Chiều. Hoa Mẫu Đơn, và một vài thứ hoa khác nữa mà chúng ta
không biết được tên họ. Toàn còn chặt cả một đọt thông lớn để cắm vào chiếc ché
Thượng men nâu để trên thiền thất. Như Khoa và Thanh Giới cũng đã băng rừng
băng núi tìm vào. Các bạn của Phương Bối như thế, cũng đã khá đông. Sau buổi lễ
Phật trang nghiêm và ấm áp, chúng ta đưa mọi người đi một vòng ở Phương Bối.
Tuy nói một vòng nhưng kỳ thực chỉ là một vòng nhỏ, bởi vì phần lớn đồi núi ở
Phương Bối vẫn là hoang vu, không đặt chân đến được.
Những người bạn của Phương Bối đã ở lại đến ba giờ chiều để
đàm đạo về những dự tính cho Phương Bối trong tương lai. Rồi thì Toàn cùng với
Như Ngọc và Như Thông từ giả chúng ta trước. Họ phải về Saigon và trước khi đi
tìm tới xe, họ phải băng rừng đến Đại Hà, rồi Như Khoa và Thanh Giới cũng về,
Thanh Tuệ cũng về, bởi vì Thanh Tuệ chưa vào Phương Bối luôn với chúng ta được
- lý do là Tuệ còn cưu mang dỡ dang mấy lớp học ở Blao. Buổi chiều ấy, sau khi
họ ra về hết rồi, Phương Bối thật vắng lặng và thanh tịnh.
Đưa Tuệ và chị Diệu Âm về xong, chúng ta từ rừng Tham Thiền -
nơi có mấy chữ nho viết dọc theo một bảng gỗ đóng trên một thân cây “Đại Lão
Sơn Phương Bối Am” - thong thả đi vào. Phương Bối là một thực tại rồi
đó, nhưng mà cũng như chiều hôm trước, chúng ta vẫn không chắc là nó có thực.
Nó hiện hữu như một cái ráng trời. Ta có thể nghĩ rằng nó muốn tan biến đi lúc
nào thì nó tan biến. Có lẽ vì Phương Bối không giống bất cứ một cái gì chúng ta
đã gặp, đã thân thiết. Cũng có lẽ vì Phương Bối đối với ta còn mới mẽ quá,
nhưng đã thân thiết quá. Lại cũng có lẽ Phương Bối đẹp không cùng. Ta chưa hề
nghĩ rằng số kiếp của ta mà lại có thể liên hệ đến một thực hữu kỳ diệu như
Phương Bối. Vậy cho nên Phương Bối nửa như là thực nửa như là hư. Ta không nghĩ
rằng Phương Bối thuộc về ta. Tôi không bao giờ nghĩ như vậy. Cho nên tôi rất đồng
ý với Nguyên Hưng khi Nguyên Hưng nói: Chúng ta thuộc về Phương Bối. Vì câu nói
ấy mà sau này Lý thêu dệt thêm ra. Lý nói Phương Bối là “thánh địa”. Chúng ta
là “dân” của thánh địa, đi đâu cũng thuộc về thánh địa. Cái tính của Lý thì hay
“ăn to nói lớn” như vậy đó mà, Nguyên Hưng.
Tôi còn nhớ buổi chiều hôm ấy, khi đưa Tuệ và chị Diệu Âm ra
về, chúng ta đã đi thẳng lên đồi Thượng, nhìn ra bốn phía. Rồi chúng ta đi vào
trong những hàng trà. Đất rất mềm và xốp. Chúng ta men theo bờ rừng và đi mãi
xuống gần thung lũng. Bỗng dưng Nguyên Hưng chỉ cho tôi những dấu chân cọp rất
mới, in rõ ràng trên nền đất xốp sau những trận mưa hồi hôm. Dấu chân ấy hướng
về phía lối cầu Mai. Trời cũng đã chiều rồi. Thanh vắng quá. Tôi hơi ngài ngại,
liền rủ Nguyên Hưng trở về. Chúng ta băng qua những đồi chè để trèo lên đỉnh đồi
Thượng. Khi vào tới nhà, chúng ta đi đốt lửa, và trời đã rét. Dì Tâm Huệ ngày
hôm ấy chưa ở lại được với chúng ta, nên đêm ấy chỉ có một mình tôi với Nguyên
Hưng. Chúng ta soạn một bữa cơm chiều rất giản dị, rồi ngồi ăn bên nhau dưới
ánh sáng của bốn ngọn đèn nến. Đêm ấy, tôi đã nói cho Nguyên Hưng nghe về những
dự liệu văn hóa chúng ta sẽ thực hiện sau này. Trước khi đi ngủ chúng ta đã có
một buổi “công phu” ngắn và cảm động.
Tôi đã nhắc Nguyên Hưng nhớ lại những cảnh trăng rừng Phương
Bối. Tôi tưởng cũng phải nhắc Nguyên Hưng nhớ lại thêm về những buổi sáng mai
trên rừng núi Đại Lão. Hồi đó, chúng ta thường ưa làm việc tay chân vào các buổi
sáng. Chỉ trong vòng ba tháng sau ngày chúng ta về, Phương Bối đã trở nên quang
đãng và đẹp đẽ. Bởi vì sáng nào chúng ta cũng làm việc tay chân và ngày nào
chúng ta cũng có ít ra một người bạn Thượng làm việc trong phạm vi Phương Bối.
Sau này ta lại có anh Năm, người con trai hiền lành từ xứ Quảng di cư vào – Năm
đã ở lại với chúng ta trong suốt thời gian hưng thịnh của Phương Bối.
Chỉ trừ những ngày mưa, còn thì buổi sáng nào ở Phương Bối
cũng đẹp. Buổi sáng Phương Bối thật là linh động. Sáng nào Phương Bối cũng vang
động tiếng chim tiếng vượn. Trời Phương Bối rét nên chúng ta không dậy sớm. Thường
thường tôi chong đèn ngồi viết đến nửa đêm. Buổi sáng tôi thường thức dậy giữa
tiếng chim tiếng vượn. Chính Tuệ và Nguyên Hưng biết rằng tôi chưa khôi phục lại
được sức khỏe ngày xưa nên hai người cứ lẳng lặng dậy trước, để yên cho tôi ngủ.
Còn dì Tâm Huệ thì ngủ rất ít. Thường thường khi tôi dậy thì đã có nước trà để
uống cho ấm bụng. Nồi cháo trắng đỗ xanh lúc ấy đã chín rồi; thường thường
chúng ta hay chạy vào bếp sưởi ấm, uống nước và ăn điểm tâm ngay trong cái nhà
bếp nghèo nàn nhưng ấm cúng đó, Nguyên Hưng nhớ không.
Nắng mai tuy rất trong và đẹp nhưng không đủ ấm. Cho nên
chúng ta phải bắt đầu mỗi ngày bằng công việc tay chân. Làm như thế thì chỉ
trong mười phút thì đã thấy ấm người rồi. Hồi đó tôi cũng biết xử dụng phảng,
cuốc và mai không kém gì Nguyên Hưng vậy. Nguyên khu đồi Thượng, chúng ta cũng
phải để ra hàng tháng mới dọn xong. Bao nhiêu là gốc cây. Bao nhiêu là giây chằng.
Bao nhiêu là gai góc. Chúng ta đã làm được không biết bao nhiêu là ghế, là bàn,
bằng những nguyên liệu của rừng như mây, như gỗ, ngay trên đồi Thượng. Lại còn
có những chiếc ghế treo nữa. Các thầy ở Huế hay ở Sàigon mỗi khi lên thì cứ ưa
ngồi hàng giờ trên đồi Thượng và dù lớn cách mấy, vị nào cũng thích ngồi đu
trên những chiếc ghế treo.
Buổi mai ở Phương Bối đẹp như một tờ giấy trắng tinh, nguyên
vẹn, một tờ giấy trắng tinh có ửng mầu hồng ở góc. Thực vậy, Nguyên Hưng. Chúng
ta thức dậy ở Phương Bối với ý thức là chúng ta có trước mặt một ngày trọn vẹn
không bị ai xâm phạm. Không phải đi hội họp không phải chờ xe buýt, không phải
ngồi ở phòng đợi, không phải thao thức vì những cái rendez-vous. Một ngày
trọn vẹn có đủ sáng, trưa, chiều tối, và đẹp như mầu hồng của bình minh. Một
ngày trọn vẹn mà ta muốn xử dụng như thế nào cũng được. Nguyên Hưng có thể làm
cỏ ở đồi trà, hoặc dọn thêm khu rừng trước mặt, hoặc trồng thêm cây ăn trái, hoặc
viết lách hay nghiên cứu. Chúng ta làm được thật nhiều việc, nhưng không bao giờ
chúng ta chán việc, bởi vì tất cả những gì ta làm đều do sở thích. Nếu ta không
làm cỏ ở đồi chè chẳng hạn, thì anh Năm cũng chịu khó làm và thế nào đồi chè
cũng sạch cỏ. Nếu ta không dọn thêm được khu rừng trước mặt hôm nay thì ta có
thể làm vào một lúc khác. Chúng ta, tóm lại, muốn làm gì thì làm. Buổi sáng,
sau khi ăn điểm tâm, thế nào trong chúng ta cũng có một người đề nghị, là nên
đi làm việc sáng hôm nay.
Tôi nhớ hồi đó Phương Bối có Nguyên Hưng, có Tuệ, có Triều
Quang, có Lý, có Năm, có Phú, có dì Tâm Huệ và có Tôi. Nếu Nguyên Hưng đề nghị
“sáng nay dọn thêm ở khu đồi Thượng” thì ít nhất cũng có ba người hưởng ứng. Hoặc
nếu Lý đề nghị “sáng nay làm một con đường xuống thung lủng” thì Lý chắc chắn
cũng có người hưởng ứng. Thường thường các đề nghị đều được tất cả mọi người tán
thành. Có khi hai người cùng đề nghị một lần, và chúng ta chia ra hai nhóm theo
sở thích. Lâu lâu chúng ta lại có một cuộc thám hiểm núi rừng. Ai nấy đều chuẩn
bị kỹ lưỡng. Thường thường những cuộc “thám hiểm” như thế kéo dài cả ngày.
Chúng ta hay dừng lại ăn trưa và nghỉ ngơi bên một dòng suối. Nhiều hôm Nguyên
Hưng và Triều Quang mang về những cây phong lan tuyệt đẹp. Ai nấy đều mệt
nhoài. Đêm đến chúng ta ngủ rất ngon.
Trong những buổi đi rừng phục sức của tất cả mọi người đều rất
kỳ dị. Nguyên Hưng có nhớ không? ở Phương Bối chúng ta không cần vâng theo luật
lệ của… người phàm. Ta có thể đội bất cứ thứ mũ nào, mang bất cứ thứ giầy ủng
nào, dùng bất cứ thứ thắt lưng nào. Có khi nhìn vào tấm gương tôi thấy tôi giống
như một ông ngáo ộp. Râu thì có khi một tuần chưa cạo một lần. Không phải vì
làm biếng mà vì chúng ta có những việc khác ưa làm hơn! Áo thì bằng da dày cộm
để gai rừng không bấu rách. Ống quần thì túm lại bỏi vào đôi ủng cao su để khỏi
bị vắt xâm nhập. Vai thì mang một cái xách đựng hoặc cơm trưa, hoặc chiếc võng
đay, hoặc hộp cứu thương. Tay thì cầm một cái xà gạc hoặc một cây gậy. Những
người học tò của tôi ngày xưa nếu có trông thấy tôi trong hình dáng ngáo ộp ấy
chắc cũng không thể nào không kinh ngạc cho được. Ăn mặc như thế này để vào lớp
giảng thơ Nguyễn Du thì chắc là không được đâu, phải không Nguyên Hưng?
Ở rừng núi chúng ta đi đứng mạnh bạo hơn. Chào nhau ở cửa rừng
đôi khi chúng ta không chắp tay trước ngực mà chúng ta đưa một cánh tay thẳng
lên trời. Đi lại trên các con đường rừng núi thì không cần bước từng bước đĩnh
đạc bệ vệ nữa; chúng ta đi rất mau, hoặc là chúng ta chạy. Từ đồi này
chúng ta la hét sang đồi kia. Nguyên Hưng hét to hơn ai hết, như một cái còi xe
lửa. Có một điều mà ta thấy rất rõ là ai lên Phương Bối cũng ưa la hét thật to.
Tôi nhớ có một lần trèo lên cây thông cao ở Rừng Tham Thiền để đốn một
cành thông xanh, Nguyên Hưng hét vang cả núi rừng. Tôi lúc đó đang dọn dẹp thiền
thất cũng bị tiếng hét của Nguyên Hưng kích động. Tôi bỏ chiếc chổi lau, chạy
ra, nhìn về phía Rừng Tham Thiền. Và buồn cười chưa, tôi cũng hét to để hỏi
và để trả lời Nguyên Hưng. Rừng núi lớn lao quá khiến ta có cảm tưởng là bị nhỏ
bé lại và vì thế tiếng hét của ta là để phá tan cái mặc cảm là chúng ta bé nhỏ.
Có phải không Nguyên Hưng?
Lại cũng có lẽ là vì chúng ta muốn trả thù những công thức
giao tiếp của cái xã hội cũ. Trong xã hội đó, nói thì phải nói với giọng giữ
gìn, để ý từng câu từng chữ. Xã hội quy định ta phải ăn như thế nào, chào như
thế nào. Vì vậy khi lên Phương Bối chúng ta đã có khuynh hướng lật nhào tất cả
những luật lệ đó. Và chúng ta chạy hoặc hét là để phá vỡ cái mặc cảm chúng ta bị
nô lệ, để chứng tỏ chúng ta có “tự do”. Cũng như ở bên này người ta có cái kiểu
chào nhau “How are you” lạt như nước ốc. Câu chào ấy ai cũng thấy vô ích, thế
mà không chào thì lại thấy thiếu một cái gì. Có thì là dư, mà không thì lại là
thiếu. Buồn cười nhất là khi một người bệnh tới khám bệnh. Bác sĩ hỏi: “ông mạnh
giỏi không?” một cách vô ý thức. Và bệnh nhân cũng trả lời “mạnh” một cách vô ý
thức. Trong khi đó, ta biết rằng nếu “mạnh” thì bệnh nhân đâu có cần tới bác sĩ
làm gì.
Nguyên Hưng, giữa ta và vũ trụ có những liên hệ nào mà mỗi
khi vũ trụ kêu gọi, không thể nào cưỡng lại được? Tôi vừa mới viết cho Hưng về trăng
rừng, một tiếng gọi hết sức thiết tha ít khi tôi có thể làm ngơ
được. Tôi muốn kể cho Nguyên Hưng nghe về những trận mưa đầu mùa. Từ hồi còn bé
thơ, tôi đã bị những trận mưa đầu mùa quyến rũ rồi. Hồi đó tôi còn ở đồng quê.
Tiếng sấm động. Trời sa sầm xuống thấp. Những giọt nước to nặng đầu tiên rơi lộp
độp trên mái ngói. Vài ngọn gió thổi tới đập các cánh cửa sổ ầm ầm. Tôi đã bị
kích động ngay sau những hiện tượng đó. Thật giống như prélude của một
bản hùng ca vĩ đại. Thế rồi sau một tiếng sấm long trời lỡ đất, mưa trút xuống
rào rào như thác đổ.
Những lúc như thế, đố mà tôi ngồi yên cho được. Tôi phải chạy
ra, vén màn, dán mắt vào cửa kính. Những đọt cau xa oằn oại. Trong lúc trời đất
thét gào. Vũ rụ rung chuyển. Những chiếc lá to bị gió hắt mạnh vào cửa sổ và
vách tường. Nước trút xuống ào ào và chảy ồ ồ ngoài sân, trước rãnh. Trong màn
mưa bạc, có những con chim quật cánh chống lại với gió với mưa. Trong bản hùng
ca đó, tôi cảm nghe thấy rõ rệt tiếng gọi của hồn vũ trụ. Tôi muốn trở thành một
đọt cau hay một cây nghiêng ngả oằn oại trong mưa. Tôi muốn trở thành một con
chim bay quằn quại giữa trời để chịu đựng sức mưa sức gió. Tôi muốn chạy ra giữa
mưa mà hét, mà múa mà quay cuồng, mà cười, mà khóc. Nhưng mà tôi không dám. Bởi
vì tôi sợ mẹ tôi mắng.
Trong tiếng ào ạt rạt rào của mưa và gió, tôi ráng lấy tất cả
gân cổ hát một bài. Dù tôi có hét to đến mấy người ta cũng không nghe được, bởi
vì bản nhạc long trời lở đất đã lấn át hết. Trong khi tôi hát như thế, mắt tôi
vẫn không rời cảnh tượng hùng vĩ của trời mưa, thần trí tôi như bị hút vào cảnh
tượng hùng vĩ của trời mưa, và tôi cảm thấy tôi được hòa mình vào trong bản hòa
tấu vĩ đại. Tôi thấy dễ chịu. Tôi hát bài hát này rồi bài khác. Sau đó, trời tạnh,
hơi đột ngột. Tôi cũng dừng tiếng hát. Thần kinh tôi êm dịu lại và tôi nhận ra
rằng trên mi tôi còn đọng một vài giọt nước mắt.
Cho mãi tới ngày nay, tôi cũng vẫn còn giữ cái thói làm như vậy,
Nguyên Hưng, tuy rằng có đôi khác chút ít. Tiếng gọi của đất trời vẫn tha thiết
và rõ rệt như ngày xưa. Mỗi khi văng vẳng có tiếng gọi ây là tôi lại giật mình,
và với tất cả với bản thể của tôi, với tất cả mọi nguyên tử của sinh lý tôi, với
mọi đường máu, mọi đường giâythần kinh của thân thể tôi, tôi lắng nghe một cách
kính cẩn và thiết tha. Nguyên Hưng cứ tưởng tượng một người mất mẹ đã mười năm,
một hôm bất giác nghe tiếng mẹ gọi. Tâm trạng của tôi là như thế đó, mỗi khi
tôi nghe tiếng gọi của đất trời. Mới vừa hôm qua đây, trong cảnh rừng mưa, tôi
quỳ dưới cửa sổ để nghe bản nhạc hùng của tời, của đất, của rừng, của gió. Cửa
sổ để ngỏ, nhưng tôi không đứng dậy đóng lại. Tôi qùy đó, thành kính, đầu hơi
cúi thấp, trong khi gió tạt mưa vào ướt cả đầu cả cổ cả áo tôi. Tôi thấy rất được
dễ chịu, rất được yên lành trong cử chỉ ấy. Mãi cho dến khi rùng mình, thấy lạnh,
tôi mới đứng dậy, đóng cửa và đi thay áo, đốt lò sưởi, trong lúc rừng Medford vẫn
cuồng nhiệt gào thét trong cơn mưa…
Chương 4
Nguyên Hưng, không phải tôi chỉ nghe tiếng gọi mầu nhiệm kia
trong lúc trăng và rừng nói chuyện hay trong những cơn mưa lớn đầu mùa. Tôi lại
còn nghe tiếng gọi ấy và những buổi trưa rất là yên lặng nữa. Những buổi trưa ở
quê hương ta, những buổi trưa mà Lưu Trọng Lư nghe thấy cả tiếng gà não nùng
xao xác gáy, những buổi trưa mà Vũ Anh Khanh thấy cả nắng lổ đổ rụng lên đầu
người viễn khách ở xóm đạo vắng người. Những buổi trưa ấy miền Bắc cũng có, miền
Trung cũng có, mà miền Nam cũng có. Tôi không tin rằng buổi chiều, dù rằng những
buổi chiều nhìn ra cửa biển, là lúc gợi buồn nhiều nhất. Buổi chiều đối với tôi
dù là ở đâu cũng chỉ là đẹp thôi, chứ không buồn. Chỉ có một lúc duy
nhất trong ngày có thể gọi là buồn: đó là buổi trưa, vào khoảng một giờ, hay trễ
hơn một chút. Buổi chiều cũng như buổi mai, bao giờ cũng linh động, biến ảo và
tràn đầy sức sống. Buổi chiều đã không mang màu sắc tàn tạ như người ta thường
tưởng, mà trái lại còn hứa hẹn một sức sống rạt rào vào đêm. Tôi thấy vũ trụ sống
về ban đêm nhiều hơn. Ban đêm, cái gì cũng linh động, cũng mầu nhiệm, cũng hùng
mạnh. Chỉ có loài người mới ngừng hoạt động trong đêm, chớ vũ trụ, từ trăng sao
nước mây đến trùng dế cây cỏ đều rì rào mầu nhiệm. Nếu nói đến giờ ngưng đọng, ấy
phải là giờ buổi trưa, lúc quá ngọ một chút. Không có một giọt gió.
Trời cao cao quá, cao đến im lìm, cao cho đến nỗi trở nên vô cùng sâu thẳm. Cây
cối như chết đứng; không nói năng được một lời nào trong giây phút ấy. Mặt trời
như thôi miên trái đất và điểm huyệt trái đất bằng con mắt lửa hung hãn của nó
khiến trái đất và muôn loài trên trái đất trở thành bất động không còn cựa quậy
được nữa. Tôi dám chắc rằng đúng vào giờ phút ấy trái đất không thể nào
còn quay được. Phải đợi cho đến khi nào có một đám mây hoặc một tí
gió tới cứu vãn thì trái đất mới thoát khỏi được tình trạng bị điểm huyệt và mới
có thể tiếp tục cuộc hành trình. Nếu ta thiếp đi vào buổi trưa trong một giấc
ngủ ngắn mà thức dậy đúng vào giờ phút ngưng đọng ấy, thì lập tức ta nghe tiếng
gọi. Tôi nghe tiếng gọi như thế đã có đến hàng trăm lần rồi Nguyên
Hưng, mà lần nào trái tim tôi cũng hồi hộp như nhau. Mà vì vừa mới thiếp đi cho
đến lúc chợt tỉnh tôi nghe nó không phải với lý trí của tôi mà với tất cả biển
tiềm thức còn đương dâng tràn, còn chưa kịp rút xuống khỏi lằn mức ý thức. Tôi
nghe tiếng vũ trụ gọi tôi về, và tất cả bản thể tôi rung động đáp lại
tiếng gọi ấy.
Nguyên Hưng, ở Phương Bối tôi cũng trải qua bốn lần nghe như
vậy. Rừng cây ít khi nào đứng chết lặng như trong những lúc ấy và trời không
bao giờ cao như thế, sâu như thế. Trong giây phút kia, tôi thấy lòng ngập nhớ
nhung và một niềm thao thức muốn trở về. Trở về theo tiếng gọi mầu
nhiệm. Những lúc ấy tôi có cảm giác như đứng ở một biên giới có sương mù. Nếu
tôi làm tan được sương mù ấy, tôi có cảm tưởng nó có thể tan biến trong bất cứ
một sát na nào, dễ như không, dễ như nó chưa bao giờ từng hiện hữu, em ơi.
Nguyên Hưng, để tôi nhắc lại cho Nguyên Hưng nghe về đem giao
thừa đầu tiên ở Phương Bối. Từ hôm hai mươi sáu Tết, Triều Quang, Từ Mẫn và
Thanh Hiện đã tự động kéo về Phương Bối, như con trở về nhà cha mẹ vào những
ngày giỗ lớn. Quang ở Dalat về mang theo rất nhiều nhánh bạch mai thật đẹp.
(Trước đó, chị Diệu Âm đã cho Như Hiền đem tặng cho chúng ta rất nhiều cây bạch
mai con để trồng quanh nhà). Chúng ta bàn với nhau ăn một cái Tết lớn nhất
trong đời chúng ta, và ăn tại Phương Bối. Sau một đêm bàn luận, chúng ta đồng
ý như sau:
1) Đốt một đống lữa vĩ đại ngay trên đồi Thượng.
2) Cắm trại ở đồi Thượng.
3) Nấu một thùng bánh chưng ở trên đồi Thượng.
4) Cúng giao thừa, đốt pháo ở đồi Thượng.
5) Hội họp ăn bánh chưng, chúc Tết và bình văn ở đồi Thượng.
Cái đống lữa vĩ đại ấy, chắc trong chúng ta không ai có thể
quên được. Nguyên Hưng cũng nhớ là để phá rừng trồng trà chúng ta phải đốn ngã
hàng trăm cây rừng thật lớn. Những cây ấy, sau khi chúng ta đốt rừng, đã bị
cháy xém và khiêng chất thành lại thành đống. Chúng ta đã tốn hết hơn hai ngày
mới chất được đống củi. Vì vậy đống củi lửa trại to lớn như một cái nhà và đã
được chất lên một cách rất công phu. Trong lòng đống củi vĩ đại, chúng ta đã đặt
rất nhiều cỏ khô, lá khô và các cành củi rất dễ bén lửa. Đống củi đã cháy suốt
đêm giao thừa và mãi đến sáng ngày mồng hai vẫn còn cho ta than hồng. Nguyên
Hưng nhớ không?
Ban đầu thì một số trong chúng ta không tán thành ý kiến cắm
trại trên đồi Thượng vì sự sương khuya. Nhưng sau lại, chúng ta quyết định cứ
căng lều trên đồi, bởi vì đống lửa vĩ đại sẽ làm tan sương và ấm cả khu đồi. Mà
thực vậy, Nguyên Hưng. Không những chúng ta thấy ấm mà nhiều khi còn thấy nóng
bức là khác nữa.
Còn bánh chưng, Lý là người Bắc và lý tuyên bố có thể gọi
bánh chưng vào hạng đẹp nhất Bắc Hà. Ban đầu ai cũng tưởng là Lý chỉ “ăn to nói
lớn” theo kiểu một nhà văn như Lý, nhưng sau khi thấy Lý trổ tài, ai cũng phục
lắm. Dì Tâm Huệ mua nếp, đỗ xanh và cung cấp lá rong tươi cho Lý. Hôm gói bánh
tôi cũng làm phụ tá cho Lý trong việc lau lá, xếp lá, rọc lá. Lý làm một cái
khuôn nhỏ và gói những chiếc bánh chưng nhỏ xíu, vuông vắn, thật đẹp. Bánh
chưng được nấu từ lúc năm giờ rưỡi chiều để kịp chín nữa giờ trước giờ Giao Thừa.
Mẫn và Hiện đã bắc hai bếp gần dưới chân đồi Thượng, một bếp để luộc bánh
chưng, một bếp khác để nấu nước sôi tiếp cho nồi bánh. Bếp phải đặt phía dưới,
bởi vì gần đỉnh đồi quá thì sẽ nóng vì đống lửa đỉnh đồi.
Cả nhà chuẩn bị ăn Tết một cách rộn rịp và chính sự chuẩn bị
rộn rịp để ăn Tết ấy quả đã là Tết một cách đích thực rồi. Từ lúc ba
giờ chiều, Nguyên Hưng và Triều Quang đã vào rừng đốn về những cây tre lớn và
cưa ra từng ống một, chất đầy bên lều. Khi thùng bánh chưng sôi, tất cả chúng
ta đều tắm rửa, quây quần trong chiếc lều lớn nhất cắm trên đồi, nghỉ ngơi,
nghe chương trình phát thanh cuối năm của đài Saigon từ chiếc Sony quen thuộc
và ăn cơm, một bữa cơm chiều thật đơn giản. Tha hồ cho chúng ta nói chuyện bốn
phương. Hồi ấy thường trú tại Phương Bối mới chỉ có Nguyên Hưng, Lý, Tuệ, dì
Tâm Huệ và tôi, còn những người khác là “chim bốn phương bay về đây cả”. Những
con chim ấy bay về Phương Bối và tíu tít kể cho nhau nghe những mẩu sinh hoạt
những câu chuyện những biến cố đã xảy ra cho chúng từ những phương trời khác
nhau. Không ai là không thấy rõ rằng Phương Bối chính là alma mater của
mình.
Trên những cây cao còn lại của đồi Thượng và cả trên lan can
của thiền thất nữa, Mẫn và Lý đã treo đèn. Vào lúc mười giờ rưỡi, Nguyên Hưng
ra lệnh đốt lửa. Thế là chỉ trong nửa giờ sau, đống lửa cháy rực trời trên đồi
Thượng. Tàn lửa lên cao, cao ngất, khiến cho một vài người trong số chúng ta tỏ
ý lo ngại cho sự cháy rừng. Nguyên Hưng nghĩ, cháy rừng làm sao được khi tàn lửa
phải bay lên được bốn trăm thước mới tới được cửa rừng? Tuy vậy, đống lửa vĩ đại
soi sáng rực rỡ cả một vùng núi hoang dại. Bởi vì đồi Thượng là chiếc đồi cao
nhất trong vùng. Chúng ta trông rõ tất cả những vùng núi bao quanh Phương Bối
nhờ ánh lửa rực trời trên đồi Thượng. Có lẽ tất cả thú vật, dân chúng của núi rừng
đang ngạc nhiên, và qua kẻ lá, đang hướng những cặp mắt nhìn về đồi Thượng. Xa
xa, ta có thể trông thấy ngôi nhà của Đại Hà thấp thoáng trong đồi núi chập
chùng. Mười một giờ rưỡi khuya rồi và đống lửa đã cháy lên rất cao. Chúng ta trở
về thiền thất cúng giao thừa. Chiếc bánh đầu tiên vớt ra đã được đem lên cúng
Phật. Buổi lễ đơn giản và ấm áp chỉ kéo dài vào khoảng 20 phút. Giao thừa đến Mẫn,
Hưng, Quang, Hiện, Lý, tất cả đều mang các ống tre liệng dần vào đống lửa vĩ đại.
Đó là pháo lệnh giao thừa của Hưng đấy. Các ông tre liên tiếp nổ lớn vang động
cả núi rừng và có lẽ làm kinh hoàng cả mọi loài ẩn náu trong rừng. Tôi còn nhớ
là các cậu đã quăng vào đống lửa năm mươi mấy ống pháo tre như thế, và không có
ống tre nào là không nổ lớn.
Bánh chưng của Lý quả thật là rất ngon - có lẽ cũng ngon nhờ
những điều kiện khác nữa, như là không khí đặc biệt của Phương Bối, sự hiểu biết
của mọi người, vui vẻ của mọi người và nhất là sự… đói bụng của mọi người. Nói
như thế không có hại gì đến cái “uy tín” gói bánh của Lý cả. Mỗi người trong
chúng ta phải chúc tất cả mọi người và như thế chúng ta nghe tất cả đến năm
mươi bốn câu chúc tết. Dì Tâm Huệ tỏ vẻ nhiều e thẹn nhất dù dì lớn tuổi bằng
dì của tất cả chúng ta, và dì đã chúc cho tất cả những câu chúc đơn sơ mà chân
thành cảm động.
Tôi nhớ suốt ngày mồng một tết các cậu dã chia thành hai ba
toán rủ nhau đi chơi thám hiểm núi rừng. Đến đâu cũng đốt lửa, chặt tre làm
pháo đốt vang cả rừng. Thầy Thanh Từ chưa có mặt ở Phương Bối trong cái tết thứ
nhất ấy. Nhưng trong cái tết thứ hai, thầy cũng tham dự những trò nghịch ngợm
nhất của mọi người. Ở đây ai cũng dễ dàng sẵn sàng để mà “đồng sự”. Kiểu chào của
thầy Thanh Từ cũng thay đổi như tất cả mọi người và cả đến những kiểu sinh hoạt
khác như đi núi, trồng cây, cắm trại nữa.
Lần đầu lên Phương Bối thăm, thầy Thanh Từ đã tỏ sự ưa thích
Phương Bối một cách mặn nồng. Thầy bảo chúng ta nhường cho thầy một ít vùng núi
để làm thiền thất. Tôi nói: tất cả rừng núi Phương Bối là của thầy. Thế là sau
đó vài ba tháng, nhờ sự giúp đỡ của vài người bạn thân của thầy, chúng ta đã dựng
nên một thiền thất ở triền Đông Bắc của đồi Thượng. Nhà thiền này được đặt tên
là Thiền Duyệt Thất. Duyệt có nghĩa là sự vui vẻ hoan lạc về tinh thần.
Trong bài cúng dường của Nhị Thời Khóa tụng, ta thấy có câu thiền
duyệt vi thực nghĩa là thức ăn làm bằng sự hoan lạc của thiền định.
Thầy Thanh Từ nghe đặt tên cho nhà thiền như thế thì chịu lắm bèn chấp nhận
ngay.
Bên cạnh Thiền Duyệt Thất, chúng ta còn xây thêm một cái
hồ chứa nước nữa và thầy Thanh Từ đã tự tay làm một chiếc giàn hoa leo thật đẹp
phía trước. Hai bên con đường từ dưới đồi đi lên, thầy đã trồng những cây thông
con bứng về từ Djiring. Thầy lại còn trồng thêm bao nhiêu là thứ hoa nữa xung
quanh thất. Lúc Thiền Duyệt Thất làm xong, thì chiếc nhà Thượng cũng được khởi
công dựng trên chót vót đỉnh đồi. Hai người có công nhất là Triều Quang và
Nguyên Hưng. Hợp tác với anh Phương ở ngoài xóm và với hai người Thượng nữa
Quang và Hưng đã hoàn thành được chiếc nhà duyên dáng ấy trong vòng một tháng.
Vì đứng chót vót trên đỉnh đồi nên nhà Thượng phải được tạo dựng vững chãi. Tôi
biết Nguyên Hưng đã tốn rất nhiều công phu vào ngôi nhà ấy. Tôi đã cùng Nguyên
Hưng trang trí bên trong và bên ngoài nhà Thượng. Sau này chính nhà Thượng trở
thành hình ảnh tượng trưng nhất của Phương Bối. Buổi chiều chúng ta hay quây quần
bên nhà Thượng cho đến tối, và nhiều đêm chúng ta đem chăn ngủ ngay ở sàn nhà
Thượng. Có đêm rét quá mà trên đồi thì nhiều gió, chúng ta bắt buộc ôm chăn rời
nhà Thượng nửa đêm để về nhà cũ. Tôi không quên được những đêm chúng ta đứng
trên lan can nhà Thượng ngắm sao ngắm trăng. Những đêm như thế thật là huyền diệu.
Sao và trăng gần chúng ta quá. Nhất là sao Mai. Lớn gần bằng một mặt trăng.
Không biết ở những nơi như Trúc Lâm, Toàn có thấy sao Mai lớn như thế không. Có
những đêm tôi kéo Lý ra khỏi những đống bản thảo dày cộm của Lý để chỉ cho Lý
thấy trăng sao thấy sao. Tôi thì cũng ham viết lắm, nhưng vào những đêm nhiều
sao như thế này, tôi không thể nào viết được.
Nguyên Hưng, tôi nghe Phương Bối đã trở nên bất an quá, cho
nên thầy Thanh Từ cũng đã rời Thiền Duyệt Thất mà về Phú Lâm rồi. Thật là buồn.
Hôm tôi từ giả Phương Bối, tôi tưởng thầy Thanh Từ có thể ở lại Phương Bối bình
yên. Nhưng mà không. Lâu nay Nguyên Hưng có tiếp xúc với thầy Thanh Từ bằng thư
không? Hôm qua, tôi có viết cho thầy Thanh Từ một lá thư. Lá thư còn để đây,
chưa có dịp gởi nhà giây thép. Tôi đã viết lá thư ấy trong một tâm trạng bình
yên và yêu thương. Nhưng chỉ những người thuộc về “thánh địa” Phương Bối như thầy
Thanh Từ, như Hưng, như Lý mới hiểu được tại sao tôi có thể viết như thế mà
thôi. Thôi để tôi chép cho Nguyên Hưng đọc một đoạn trong lá thư đó. Đoạn này nằm
ở giữa lá thư.
“Tôi đã tìm ra chân lý rồi. Trời ơi có phải là nghe câu ấy thầy
đang ôm bụng cười tôi phải không? Tôi nói thật đó mà. Khi tôi thấy nó, tôi giật
mình. Nó không phải là ai xa lạ cả. Nó là, thầy ơi, nó là kẻ mà tôi đã gặp từ
lâu, đã biết rõ mặt mũi từ lâu. Nó không có chi mới lạ đối với tôi cả. Thế mà tại
sao lâu nay, có tới ngàn vạn kiếp rồi, tôi không nhận diện được nó. Lần này thấy
nó, tôi ngạc nhiên đến nỗi không biết làm gì hơn là phá lên cười. Cũng giống
như bây giờ thầy đang ôm bụng cười tôi vậy.
Tôi hỏi: “Tôi tưởng tên của cậu mày hay như thế thì mặt mũi cậu
phải đẹp lắm kia chứ?”.
Nó hỏi lại: “Vậy thầy thấy tôi xấu hay sao?”.
Tôi giật mình nó lại, thì quả thực nó không xấu.
Nó lại hỏi: “Hởi người đã tìm thấy tôi, người sẽ làm gì chiều
hôm nay?”
Thầy ơi, hôm từ giã phi trường Tân Sơn Nhất, tôi có mang theo
một cái hột gà. Tôi như một con gà ấp trứng, và luôn luôn có một cái hột gà để ấp,
đêm và ngày. Tôi mang theo qua bên này một cái hột gà đã ấp từ sáu bảy hôm nay,
và những kẻ đưa tôi ra phi trường không có ai hay biết. Họ chỉ biết tôi mang
theo một cái áo lạnh và một cây viết Pilot. Nhân viên quan thuế không biết, mà
tôi cũng không biết phải khai báo ra làm sao. Tôi nín thinh. Nhưng mà tôi tin
ngồi ở Thiền Duyệt Thất, thầy có thể biết. Tôi nhớ cũng đã từng nói cho thầy
nghe và hứa với thầy là khi nào hột gà nở ra con gà thì tôi tin cho thầy hay.
Thầy có nhớ điều đó không? Hôm nay tôi có thể tin cho thầy biết là thêm một năm
ấp ủ, và do khí hậu thuận lợi, con gà đã mổ được vỏ quả trứng và chui ra ánh
sáng. Ra khỏi vỏ nó lớn rất mau chóng, không khác gì cậu bé Phù Đổng năm xưa.
Đêm mồng bảy tháng năm vừa qua, tôi được chứng kiến một cuộc
đàm thoại giữa Đức Phật và Ma Vương Ba Tuần, Đức Thế Tôn tiếp Ma Vương Ba Tuần
tại núi Linh Thứu với tư cách một thượng khách của Ngài. Thầy nghe không, một
thượng khách của Ngài. Tôi thích thú lắm. Tôi định sẽ ghi tất cả nội dung của
cuộc đàm thoại đó làm thành một cuốn kinh:
“Đức Phật: Xin mời Ngài ngồi.
Ba Tuần: Xin cám ơn Ngài. Gớm cái ông thị giả của Ngài khó
tính quá. Khi tôi xưng danh hiệu, ông ta nhất định không cho tôi vào. Ông nói:
Nhà ngươi còn đến đây làm gì? Ngươi không nhớ năm xưa dưới gốc cây Bồ Đề, ngươi
đã bị đức Thế Tôn đánh bại hay sao? Ngài sẽ không tiếp nhà ngươi đâu. Nhà ngươi
là kẻ thù của Đức Phật”. Tôi phải nói khích một câu ông ấy mới cho vào.
Đức Phật (cười): Ngài nói khích như thế nào?
Ba Tuần: Tôi nói: “Phật thì làm gì có kẻ thù. Phật mà còn
phân biệt kẻ oán người thân thì đâu có phải là Phật”. Chừng ông ta đã được nghe
đâu cái câu ấy của Ngài một vài lần rồi cho nên khi nghe tôi nói khích ông ta động
lòng tự ái, cho tôi vào ngay.
Đức Phật: Cái kiểu của ngài thì muôn đời như vậy. Và cứ phải
mưu mô mà đi đường cong như vậy thì mới thắng được thiên hạ. Nhưng mà thực ra
có dám làm như thế mới được gọi là Ma Vương.
Ba Tuần: Đúng lắm thưa Ngài. Làm Ma Vương bực lắm. Mặc áo thì
luôn luôn phải mặc áo giấy. Vẻ mặt thì khi nào cũng phải hoặc nham hiểm, hoặc độc
ác hoặc u mê. Thở thì phải thở toàn khói nghi ngờ đen nghịt. Để có hình thức
phù hợp. Để cho danh chánh ngôn thuân là Ma Vương mà. Đi đâu thiên hạ cũng
tránh, cũng ghét, cũng sợ. Làm Ma Vương quả thực bực lắm.
Đức Phật: Vậy ngài tưởng làm Phật sung sướng lắm hay sao?
Thiên hạ dán vào lưng tôi nhiều nhãn hiệu mà tôi không hề tự xưng bao giờ.
Thiên hạ đem tôi ra bán buôn. Và cứ tưởng tượng ngồi trên xe hoa để thiên hạ rước
đi từng bước gật gù qua các phố bán than, bán thực phẩm, bán nước mắm v.v… thì
tôi tưởng Ngài sẽ chẳng bao giờ ước muốn làm Phật, Thế Tôn của nhân loại.
Nghe đức Thế Tôn nói xong, Ba Tuần cười ha hả…”
Nguyên Hưng ơi, tôi chỉ chép Nguyên Hưng đọc từng đó mà thôi
nghe.
Không phải tôi sợ rằng Nguyên Hưng nhìn tôi bằng cặp mắt
thương hại hay trách móc đâu. Tôi đã nói với Nguyên Hưng rằng tôi viết lá thư
đó trong tâm niệm an lành và thương yêu rồi mà. Mai sau nếu chúng ta được trở về
Phương Bối thì bản thảo cuốn kinh kia sẽ được để trên bàn giữa của chiếc nhà
Thượng. Và sẽ chỉ có những người có căn cơ đại thừa của đại thừa mới được
đọc cuốn kinh đại thừa của đại thừa ấy có phải không?…
Chương 5
Mấy hôm này trời khá lạnh. Ngày mốt tôi đã phải rời bỏ nơi
đây rồi. Tôi sẽ ghé Princeton thăm và ở lại đây vài hôm trước khi về Nữu Ước.
Những ngày sống nơi đây thật là an tĩnh và mạnh khỏe. Tôi đã chơi rừng, đã chèo
thuyền, đã bơi lội với bọn trẻ. Tôi làm tất cả những công việc bọn trẻ làm: đi
quan sát các hiện tượng thiên nhiên, tập làm thủ công, chơi bóng bàn, bóng chuyền,
chạy đua, đóng kịch, hát, chơi trò chơi lớn… Bọn trẻ thích nhất nói chuyện với
tôi và ưa đi theo về Pomona trong những giờ tự do. Tôi đã nói chuyện
nhiều lần cho từng nhóm ba bốn chục người. Tối hôm qua người ta làm lễ bế mạc
trại theo hình thức của người thổ dân bản xứ. Họ mời tôi tới dự: và bởi vì là
khách “quý” tôi được trao tặng lông chim xanh danh dự. Có những màn
khiêu vũ kiểu thổ dân rất ngoạn mục. Buổi lễ được tổ chức trong một khu rừng âm
u vào lúc mười giờ đêm. Để tôi kể cho Nguyên Hưng nghe.
Từ những khu trại khác nhau. Lúc chín giờ rưỡi đêm, các trại
sinh từ bé tới lớn sắp hàng đi lặng lẽ về địa điểm làm lễ. Có những con đường
mòn khác nhau dẫn tới khu rừng đã được chọn làm địa điểm ấy, và từng đoàn người
trong bóng đêm đi im lặng như những bóng ma. Không ai được đốt đuốc cả. Người
đi đầu mỗi đoàn đã phải học thuộc đường rồi và như thế cả đoàn cứ việc đi theo
anh ta không sợ vấp, vướng hay đâm nhào vào bụi. Có trên năm trăm trại sinh
trong toàn trại, và im lặng được tuyệt đối tôn trọng. Tôi thấy họ dạy dỗ trẻ
con tài quá. Mỗi đoàn, khi tới địa điểm, im lặng tìm đến chỗ ngồi của mình. Nơi
làm lễ là một khoảng đất trống. Dưới ánh sao, người ta chỉ trông thấy lờ mờ một
đống củi. Tất cả đều lặng lẽ chờ.
Đúng mười giờ. Từ một góc rừng vọt ra một âm thanh lạ kỳ, một
âm thanh có tính nguyên thỉ và man rợ. Tiếp theo là tiếng trống báo hiệu người
tù trưởng đến. Một lúc sau xuất hiện ba bóng đen trước đống củi lớn. Một bóng
đưa tay làm phép trên đống củi và đọc một đoạn cầu nguyện cho lửa thiêng trở về.
Giọng hắn nghe mọi rợ và ghê rợn. Người ta chờ đợi. Vài phút sau có tiếng rẹt rẹt
trong đống củi, và một tia lửa xanh xẹt lên. Đống củi bừng cháy.
Lửa càng lúc càng sáng và soi rõ hình dáng ba người thổ dân,
cố nhiên là do trại sinh trá hình. Tất cả đều đóng khố. Thân hình đen thui đen
thủi, vì đã được bôi thuốc. Mặt mày cũng thế. Lại có thêm nét rạch. Đầu đội
lông chim. Tên đứng giữa ra lệnh khai mạc buổi lễ. Những màn múa bắt đầu. Trại
sinh đã tập luyện rất kỹ lưỡng. Người nào người ấy đều phục sức như thổ dân, và
những màn múa cố gắng diễn tả nếp sống tôn giáo tín ngưỡng của các bộ lạc. Tất
cả trại sinh dự kiến đều im lặng. Không ai xuýt xoa một tiếng nào, và màn vũ đặc
sắc cách mấy cũng không được vỗ tay. Tôi ưa nhất là cảnh đánh nhau bằng đuốc. Để
cướp một người đàn bà, hai thanh niên đã phải đấu đuốc với nhau. Họ cầm những
cây đuốc sáng rực và tấn công nhau một cách mãnh liệt. Tất cả mọi người đều hồi
hộp cho đến khi cuộc đầu kết thúc và một trong hai người được phép chiếm hữu
người đàn bà.
Tiếp đến là lễ tặng lông chim xanh danh dự cho những người có
công trong “vương quốc” Ockanickon, nghĩa là cho những trại sinh xuất sắc của
trại hè. Khi tù trưởng gọi đến tên một người nào được tặng lông chim danh dự,
thì từ bốn phía rừng Đông rồi Tây rồi Nam rồi Bắc, vọng lên tiếng tên họ của
người ấy kèm theo tiếng mõ ngắn. Tiếng vọng có vẻ huyền bí như tiếng của các thần
linh đang đứng ở bốn phía để chứng kiến buổi lễ.
Tôi không thể nhớ đến những người bạn Thượng của chúng ta ở B’su
Danglu, những người bạn Thượng thường hay đi qua Phương Bối để hái rau rịa.
Rau rịa là một thứ rau rừng ăn rất ngon; người thượng nào cũng ưa thích. Thứ
cây này có rất nhiều ở Phương Bối, nhất là trong khu rừng ở phía Tây Nam. Ta chỉ
có thể hái được những đọt lá non mầu hồng tím. Lá rịa mọc song đôi
trên đọt cho nên Lý đặt tên thứ rau này là song diệp thái. Người Thượng
có thể bán cho người kinh bất cứ thứ gì họ kiếm được ở rừng: tre, mây, phong
lan, thịt nai, măng, v.v… nhưng không bao giờ bán lại rau rịa. Họ nói
không ăn rau rịa thì hai chân sẽ nhức mỏi; đi rừng nhắc chân không nổi. Tôi chắc
thứ rau ấy có được tính trừ được tê thấp, hay gì đó. Bác Đại Hà nói những người
mất ngủ nếu ăn rau rịa thì sẽ ngủ được. Chúng ta ai cũng thấy điều đó là đúng,
và lâu lâu lại đi vào rừng đi hái thứ rau quý giá đó về để cho dì Tâm Huệ nấu
canh. Những người bạn Thượng không nấu canh rau rịa theo kiểu dì Tâm Huệ. Họ
đem rau rịa giã nát ra, rồi trộn với ít muối. Xong họ đổ thêm nước và đun sôi
lên. Thế là họ có món ăn mà họ ưa thích nhất. Có một bữa Phượng từ Saigon lên ở
lại, không nhận mặt được rau rịa cho nên hái nhầm những đọt lá không phải là
rau rịa. Ăn món canh rau rịa chiều hôm ấy ai cũng thấy say say. Và chúng ta lại
có dịp chế riễu cái cô botaniste hiền hậu đó.
Thỉnh thoảng gặp những người Thượng đi ngang Phương Bối,
chúng ta hay ra mời mọc họ vào chơi uống nước. Những người thượng như thế ít
nhiều cũng nói được tiếng Kinh. Còn tiếng Thượng thì chúng ta chỉ biết một vài
câu xã giao mà thôi. Bác Đại Hà nói tiếng Thượng thật giỏi, nhưng không có dịp
dạy chúng ta. Tôi đã kiếm được một tập tự điển Thượng Kinh Kinh Thượng in
bằng ronéo, nhưng cũng chưa có dịp thuận lợi để học. Tập tự điển ấy, tôi nhớ
còn để ở hộc tủ bên trái trong thư viện, Nguyên Hưng.
Trong chúng ta, ai cũng có nhiều cảm tình với người Thượng. Họ
chất phát và thực thà, cho nên nhiều khi bị lợi dụng. Nhưng, càng bị lợi dụng họ
lại càng khôn hơn lên, và bây giờ đây đã có những người Thượng mà tôi tưởng
không ai còn có thể lợi dụng được nữa.
Người thượng có sức chịu đựng rất dẻo dai. Thân thể họ có nhiều
năng lực kháng độc hơn chúng ta, và những điều chúng ta làm gọi là để mà “giữ vệ
sinh” ấy, người Thượng không hề làm, hoặc không cần làm. Họ ít khi ốm đau vặt,
và nếu bị ốm thì là bị ốm nặng mà thôi. Mà một khi đã ốm nặng là khó lòng qua
khỏi. Có lần tôi gặp một gia đình người Thượng cõng một người ốm đi ngang
Phương Bối. Người này đã già, và chân tay gầy tong teo như những cây sậy. Hỏi
ra thì người này ốm già, chứ không phải là ốm bệnh. Ông ta sắp chết, không phải
vì tật bệnh gì, mà chỉ vì già. Biết rằng ông ta sắp chết cho nên gia đình ông
ta cõng về nơi mà ông ta sẽ nằm chết để chết.
Có một lần khác tôi trông thấy một người đàn bà Thượng tắm
cho con trong một dòng suối. Tôi rùng mình. Đứa bé chỉ vào khoảng hai tuổi, tôi
phải mặc áo ấm, thế mà đứa bé chịu đựng được, không hề kêu khóc. Tôi biết là đứa
bé nào ở thành phố mà cho về tắm dưới suối kia theo kiểu người đàn bà Thượng
thì cũng ít nhất là bị sưng phổi. Da thịt của hai mẹ con hình như bằng đồng thì
phải. Dì Tâm Huệ còn nói rằng người Thượng còn tắm nước mát lạnh cho cả những đứa
bé sơ sinh nữa. Người ta nhúng những đứa bé xuống nước vài lần. Những đứa nào
chịu được thì sẽ sống mạnh khỏe. Những đứa nào không chịu được thì sẽ chết.
Không biết điều này có thực không. Nếu thực thì ta có thể có thêm một lý do để
hiểu tại sao dân số Thượng hầu như không tăng không giảm.
Nguyên Hưng có nhớ một buổi chiều cùng với bác Đại Hà trồng bạch
mai trước sân, chúng ta đón một đoàn người Thượng đi ngang Phương Bối hay
không? họ mang cung tên, trong đó có những mũi tên tẩm thuốc độc. Chúng ta đã
ngừng tay và nói chuyện với họ, qua tài nói tiếng Thượng của bác Đại Hà. Lần đầu
tiên tôi được mân mê trong tay những mũi tên có tẩm thuốc độc. Bác Đại Hà cắt
nghĩa về cái chất vàng vàng ở đầu mũi tên đó. Để chứng kiến tài nghệ của những
người Thượng, Lý yêu cầu họ bắn một mũi tên lên cành cây cong ở khu rừng trước
mặt. Bác Đại Hà thông ngôn xong, họ nhận lời ngay một người trong đoàn lấy ra một
mũi tên - không có thuốc độc - và lắp vào cung. Tiếng giật của giây cung và tiếng
mũi tên xé gió đi tới làm cho tôi có cảm nghỉ rằng mũi tên thế nào cũng đi lạc.
Nhưng không, sau một âm thanh khô cứng và bén nhọn, tất cả chúng ta đều reo mừng
khi thấy mũi tên đã cắm trên cành cây cong, thân tên vẫn còn rung rung.
Đối với chúng ta, đoàn người Thượng hôm ấy là một đoàn người
Thượng có phong thái hơn cả, và có tính cách Thượng hơn cả. Một đoàn người như
thế thì đi bất cứ khu rừng nào cũng không còn phải sợ hãi gì nữa. Chắc lúc ấy Triều
Quang đang tưởng tượng trong óc những lúc đoàn người này gặp cọp giữa rừng và
hình dung ra những trận ác chiến ghê gớm giữa người và cọp. Quang hỏi: “Khi gặp
cọp trong rừng các ông làm gì?” và đợi nghe những bí thuật, những chiến lược đặc
biệt của người Thượng để đối phó với cọp. Bác Đại Hà vừa thông ngôn xong thì
câu trả lời bằng tiếng Thượng của người vừa bắn mũi tên trổ tài cũng tới ngay,
và rất ngắn. Bác Đại Hà dịch lại: “Khi gặp cọp thì chúng tôi… chạy.” Tất cả
chúng ta đều rũ ra cười, phá lên cười, ôm bụng mà cười vì không có ai chờ đợi một
câu trả lời như thế, có lẽ trừ bác Đại Hà, người thông hiểu về đời sống của người
Thượng hơn hết. Những người khách Thượng ngơ ngác không biết chúng tôi cười vì
duyên cớ nào. Họ đã trả lời một cách giản dị và thành thực. Điều đó không có gì
đáng cho là khó hiểu hay buồn cười cả. Họ không ngờ chúng tôi cười chỉ vì đã tưởng
tượng nhiều quá trong óc chúng tôi về những trận ác chiến với cọp.
Bác Đại Hà cắt nghĩa: “Cọp ở miền này không có ý hại người,
không hay giết người ăn thịt. Vì hươu nai và các thú rừng rất nhiều, rừng không
nghèo như ở miền rừng Quảng Bình, Quảng Trị. Cọp chỉ xông vào vồ người hoặc kịch
chiến với người khi nào cọp bị dồn vào một thế bí. Vì vậy gặp cọp trong rừng
thì chỉ cần tránh ra khỏi con đường cọp đi, thế là yên. Chạy có nghĩa
là tránh đừng gặp mặt cọp trên đường cọp đi”.
Tuệ cười đến chảy nước mắt, phải lấy khăn lau. May là chúng
tôi gặp những người Thượng chất phát cho nên chúng tôi mới có thể cười thẳng thắng
như vậy mà không sao, chứ gặp những người dưới phố mà cười như thế thì chắc là
phải có gây gổ với nhau rồi. Muốn tránh sự gây gổ thì phải bóp bụng lại, đừng
cười. Mà làm sao có thể nín cười trong một trường hợp như thế, hả Nguyên Hưng.
Có một hôm, anh Phương con dì Tâm Huệ một mình với chiếc xe đạp
cũ leo theo con đường mòn để vào Phương Bối. Qua rừng Tham Thiền chưa được mười
thước, anh thấy một ông Ba Mươi rất to lớn nằm ngay giữa đường, xoay lưng về
phía anh đang mơ mộng nhìn về giải núi xa xa trước mặt. Thật là bất thần. Không
biết là nếu ở vào trường hợp của Phương, Nguyên Hưng hay tôi có chết khiếp đi
không chứ theo lời Phương kể lại hôm đó thì Phương thấy lạnh hết xương sống.
Ông Ba Mươi vẫn nằm đó, như không hay không biết, chi cách Phương có ba bước.
Quay xe đạp chạy trốn là một điều nguy hiểm vì Phương biết nếu ông Ba Mươi nghe
tiếng động quay lại, ông ta sẽ vồ ngay Phương. Thật là tiến thối lưỡng nan.
Phương liền thi hành kế sách làm cho ông Ba Mươi giật mình để ông ta phóng vào
rừng. Cậu ta liệng chiếc xe đạp ngay sau lưng con cọp một cái rầm vừa
la “ối trời ôi, ối trời ôi” vang cả rừng, tôi giật mình tìm ra tới chỗ Phương.
Lúc ấy thì ông Ba Mươi đã đi rồi, và Phương ngất xỉu giữa đường với chiếc xe đạp.
Thì ra nghe tiếng rầm của chiếc xe đạp và tiếng hò hét của Phương ông Ba Mươi
không “giật mình phóng vào rừng” như Phương dự tưởng. Ông ta từ từ đứng dậy,
không thèm ngoái lại, và uể oải đi từng bước vào rừng. Tôi ra, gặp một anh
Phương xám xanh như gà cắt tiết. Tôi vội gọi dì Tâm Huệ và chúng tôi dìu Phương
vào. Suốt ba ngày, Phương chưa lấy lại đủ ba hồn, bảy vía.
Nguyên Hưng ơi cũng là may ở B’su Danglu cọp không
ăn thịt người nên mấy lần gặp cọp chúng ta cũng chẳng bị hề hấn chi. Ngày xưa
có người đành lòng lên ở chỗ nhiều thú dữ để dù rằng có bị thú dữ ăn thịt đi nữa
thì cũng không đau khổ bằng sống dưới một sự cai trị hà khắc nhiều khốn đốn.
Phương Bối tuy rằng không phải là một nơi đầy thú dữ, một nơi sơn lam chướng
khí độc địa - trái lại; là một nơi rất đẹp, rất yên tĩnh, rất kỳ thú - nhưng
còn chúng ta, cái gì đã khiến chúng ta bỏ thành thị bỏ xóm làng mà lên đây?
chúng ta nhất là Lý và tôi, không được chế độ chấp nhận. Mà không được chế độ
chấp nhận là bởi vì chúng tôi thao thức muốn nói những điều mà chúng tôi cho là
sự thực. Nguyên Hưng ơi, tôi thấy rằng cái Chân hoặc cái Thiện bao
giờ cũng phải đi với cái Cường nữa thì mới có thể có chỗ đứng trên
trái đất này. Ngày xưa học thơ ngụ ngôn của La Fontaine, tôi rất bất bình khi
nghe nói rằng lý luận của kẻ mạnh là lý luận hay hơn cả. La raison du
phus fortest toujours la meilleure! Tôi giận ứ cả cổ. Tôi ghét
con chó sói lắm. Tôi vẫn tin rằng câu ấy là một câu nói mĩa mai, chớ không phải
là một chân lý. Nhưng mà đã mấy mươi năm qua rồi, cuộc đời đã bao nhiêu lần cho
tôi biết rằng đó là một chân lý, dù là một chân lý đáng ghét. Chân lý mà không
có sức mạnh thì không có chỗ đứng. Sức mạnh không hẳn là bạo lực. Nhưng mà anh
phải mạnh. Chúng ta chỉ có những cây bút nhỏ, làm sao chúng tôi chống chọi lại
với một chế độ, hả Nguyên Hưng.
Và tất cả chúng ta, nào Mẫn, nào Hiện, nào Hương, nào Tuệ,
nào Hưng, và bao nhiêu người khác nữa cũng không tìm được chỗ đứng của chúng ta
trong tổ chức Phật giáo. Chúng ta đã mang tiếng là những người gieo rắc tư tưởng
phản giáo lý truyền thống, những người quá khích, những người chỉ biết phá hoại.
Chế độ không dung được ta mà truyền thống cũng không dung được ta. Cổ họng
chúng ta bé bỏng. Nói chuyện thống nhất Phật giáo, nói chuyện hiện đại hóa lễ
nhạc, giáo dục, hoằng pháp, nói chuyện về một nền Phật giáo nhân bản và dân tộc,
những điều ấy chúng ta đã đeo đuổi từ gần tám năm nay. Những hạt giống đã gieo,
một cách vô cùng khó khăn. Trong khi chờ đợi, chúng ta gặp toàn những giông tố,
những ghen ghét, những thành trì cố chấp hủ bại, tuy nhiên chúng ta không nản
chí, không thất vọng. Một số hạt giống đã lưa thưa mọc lên. Cùng với sự bất mãn
chế độ, ý thức về một nền Phật giáo dân tộc dần dần tượng hình. Nguyên Hưng
không ngờ được rằng ảnh hưởng của những tư tưởng kia đã sâu đậm như thế nào ở
miền Trung. Một buổi chiều đi với Như Huệ và Như Vạn trong một xóm nghèo ở Quảng
Nam, tôi nghe tiếng võng kẽo kẹt hòa theo tiếng ru em, những câu ca dao của Tâm
Kiên! Tôi muốn chảy nước mắt.
Có lẽ là chúng ta không nên ngạc nhiên quá, và không nên đòi
hỏi quá. Sự vùng dậy để thoát xác của một nền văn hóa không phải là một cái gì
có thể thực hiện một cách dễ dàng và êm đềm. Sự dễ dàng và êm đềm đó chi có thể
đi đôi với tinh thần nô dịch. Mà đã là nô dịch thì văn hóa không còn là văn hóa
nữa, mà chỉ còn là một dụng cụ. Những mâu thuẫn và khổ đau gây nên do sự va chạm
giữa cái cũ và cái mới vốn là những gì không tránh được. Chỉ có một con đường
phải đi – con đường của sự tranh đấu bền bỉ và gian khổ.
Nguyên Hưng ơi, vì nghĩ như thế nên chúng ta đã làm việc tích
cực trong thời gian ở Phương Bối. Tuy rằng chúng ta có những buổi thám hiểm núi
rừng, những ngày cắm trại, những buổi bình văn, và tuy rằng tất cả những sinh
hoạt ấy đều rất thú vị, chúng ta cũng đã để rất nhiều thì giờ vào việc học tập,
tra cứu, viết lách. Lý thường thức rất khuya trên đống bản thảo. Còn tôi tuy sức
khỏe không cho thức khuya, tôi cũng làm thật nhiều việc. Ngoài sự sưu tầm, viết
lách tôi đã khởi thảo bộ Phật Học Từ Điển. Công việc này dỡ dang; trước khi đi,
tôi đã giao lại cho một số các bạn trẻ ở Phật học viện Nha Trang tiếp tục. Tôi
rất sung sướng nghĩ đến những buổi học nơi nhà Thượng hay ở thư viện. Nguyên
Hưng và Thanh Tuệ đã làm việc rất siêng năng. Ngoài những môn học thường nhật,
thỉnh thoảng tôi ưa giảng cho Hưng và Tuệ về những đề tại đặc biệt. Tôi chắc
Nguyên Hưng còn nhớ hôm tôi đem giảng những đoạn trong Cựu Ước. Những cuộc hội
thảo xảy ra luôn luôn, một cách tự nhiên và Lý có vẻ hùng biện hơn ai hết. Nói
thế chứ nhiều khi tôi cũng hay “bắt nạt” Lý lắm, phải không Nguyên Hưng? Thầy
Thanh Từ thì ít nói, hay cười hiền lành. Tuy vậy thỉnh thoảng chúng tôi cũng bắt
thầy điều khiển những buổi hội thảo. Tôi nhớ có một lần thầy hướng dẫn hội thảo
về thiền. Lần này có một nhóm sinh viên Phật tử ở Saigon lên thăm và tham dự.
Triều Quang ít nói trong các buổi hội thảo, nhưng hễ nói thì
nói những điều có thể gây nên những “vấn đề lớn”. Quang rất say mê làm việc
ngoài rừng. Cậu ta dọn một khoảng thật đẹp ở khu rừng trước mặt, sửa sang cho
thật xinh, và gọi đó là nội cỏ thiên đường. Quang rất thích nuôi một con
bò, ý định ấy được vài người trong chúng ta tán thành. Tuệ cười nói: “vậy thì sẽ
có sữa nóng uống buổi sáng”. Còn tôi thì ngại ông Ba Mươi. Nuôi một con bò con
tức là mời các ông Ba Mươi tới viếng thăm ban đêm.
Một hôm Quang trông thấy những người Thượng đi ngang, mang
theo một con nai nhỏ. Con nai bị trói lại trông rất đáng thương. Quang nhất định
mua con nai ấy để nuôi trong nội cỏ thiên đường. Lần này không ai
ngăn cản Quang cả. Nhưng con vật, tuy được cởi trói và đối đãi thật tử tế, vẫn
không chịu ăn bất cứ một thứ gì. Ba bốn hôm liền như vậy. Đến hôm thứ tư, Quang
thử cho uống sữa. Con vật thích lắm. Nó uống sữa xong, đi chơi quanh quẩn
trong nội cỏ. Nhưng đến sáng mai, không ai tìm thấy nó nữa. Nó đã trở
lại núi rừng.
Viết cho Nguyên Hưng đến đây tôi lại nhớ đến Datino, con
nai nhỏ bé của bọn Cherrokeesi, Datino lớn như thổi. Đứa trẻ nào cũng
ao ước được mang Datino về nhà. Tôi đã đề nghị trả Datino về
rừng. Một số các em tỏ vẻ luyến tiếc, nhưng phần lớn đều tán thành.
Nguyên Hưng ơi, mùa hè năm ấy, bao nhiêu việc buồn đã xảy đến
cho chúng ta. Chị Diệu Âm ốm nặng phải chở lên điều trị tại bệnh viện của bác
sĩ Sohier. Lý bị bắt. Tôi phải trốn về Saigon. Phương Bối bị đe dọa. Tuệ Hưng
và tất cả những người ở Phương Bối bị bắt buộc phải rời bỏ Phương Bối để vào
trong ấp Chiến Lược. Công an nghi rằng chúng ta đang làm gì ở miền núi rừng nên
cứ đến Phương Bối để hỏi thăm, dò la. Những người công an này lộ liễu lắm bởi
vì trông tướng mạo họ và nghe một vài câu hỏi của họ, ta đã có thể biết ngay rằng
họ là công an rồi. Đột nhiên chúng ta mất hết những an tĩnh của chúng ta.
Phương Bối bị đe dọa trầm trọng. Chúng ta chứng kiến cảnh thiên đường bị mất dần
dần.
Tôi tin rằng không ai trong chúng ta mà không nhớ rõ từng chi
tiết của giai đoạn khó khăn ấy. Ba ngày hôm sau Như Hiền báo tin bệnh chị Diệu
Âm đã được thuyên giảm trong khi điều trị ở bệnh viện Sohier, chúng ta nhận được
tin cấp báo ở Dalat cho biết rằng bệnh tình chị trở lại trầm trọng hơn bao giờ
hết. Hoảng kinh, Nguyên Hưng và tôi vượt rừng tìm về xa lộ, đón xe ngược Dalat.
Từ mười giờ sáng đến bốn giờ chiều chúng ta không đón được một chiếc xe nào cả.
Xe đò chiếc nào cũng đầy ăm ắp. Chúng ta đưa tay lên đón theo kiểu auto-stop bất
cứ một chiếc xe nào. Chúng ta quên đói, quên mệt, mà chỉ lo lắng. Bốn giờ hơn,
may mắn chúng ta đón được xe của một người quen. Xe của Nghĩa. Mừng quá, chúng
ta hối thúc Nghĩa chạy thật nhanh. Con đường như dài vô tận. Đến Dalat, Nghĩa
đưa chúng ta đến thẳng bệnh viện Sohier. Chị Âm đã tĩnh rồi, và cơn nguy hiểm
đã qua rồi. Chị cười yếu ớt. Mắt chị sáng lên khi trông thấy chúng ta.
Chắc Nguyên Hưng cũng nhớ rằng, sau thời gian điều trị ở
Dalat, chị đã được chúng ta mang về Saigon, điều trị ở Grall, và sau
đó về Huế. Bởi vì Dalat rét quá, không thích hợp với bệnh của chị. Chị đã lấy lại
được sức khỏe trong thời gian ba tháng. Khi tôi ra đi, chị có vẻ tin tưởng và
hy vọng. Tôi ngồi bên giường chị, ở Thiên minh, và nói chuyện với chị về
những dự tính cho công việc sau này. Chị hơi mệt, nhưng nụ cười của chị rất
tươi. Tôi nói tôi chỉ vắng mặt chín tháng thôi, rồi tôi lại trở về. Mà khi tôi
về thì tình hình sẽ sáng sủa hơn, chúng ta sẽ làm được nhiều việc hơn. Chị chăm
chú nghe tôi nói và sẵn sàng tin nơi những điều tôi nói. Tôi có cảm tưởng rằng
trong khi nói chuyện với chị, tôi tưới được thêm những chất liệu của niềm tin
trên tâm hồn chị. Tội nghiệp cho chị. Chị mất sau đó không lâu, nghĩa là khoảng
ba tháng sau. Lúc ấy tôi ở Princeton. Điện tín do Hoàng Phong ở Huế gửi sang.
Tôi bàng hoàng và lặng người đi. Bởi vì tôi đã tin rằng chị có thể qua khỏi.
Tôi ghi chầm chậm trên tập bản thảo của tôi mấy chữ đơn
sơ: thương tiếc chị. Rồi tôi quỳ xuống cầu nguyện cho chị. Giờ chị ra
đi chắc chị nghĩ đến chúng ta đến Mai Lâm và đến Phương Bối thân yêu. Rất
an ủi cho tôi là lúc chị ra đi, vẫn còn có Nguyên Hưng ở Huế. Có cả Thanh Hiện.
Như Hiền và Như Liên nữa. Mai mốt tôi về thì đã không còn chị. Bây giờ tôi ước
ao ngồi bên tháp chị ở Từ Quang, để nghĩ đến chị, để tâm hồn tôi có thể nói
chuyện với chị. Cố nhiên là chị không chết, người như thế làm sao chết được. Chị
đã sống một cuộc đời đẹp, hoạt động và giàu tin tưởng. Trong chúng ta, ai cũng
mang hình bóng của chị. Ta thương xót chị, nhưng ta vẫn có thể nở một nụ cười
thương yêu khi nghĩ tới chị. Để tôi kể chuyện hôm vào thăm chị ở nhà thương
Grall Saigon. Chiều hôm ấy là chiều cuối năm. Tết năm nay có lẽ buồn nhất ở
Phương Bối. Nguyên Hưng đã phải phiêu dạt về Huế rồi, và những người khác cũng
đã phải đi mỗi người một ngả, chỉ duy còn thầy Thanh Từ, chú Thanh Tuệ và dì
Tâm Huệ là còn gan ở lại. Tôi thì cũng không sợ gì, nhưng mọi người ai cũng bắt
tôi phải rời Phương Bối cả. Ai cũng lo cho tôi. Tôi phải vào Saigon, và ở lại
Trúc Lâm. Độ ấy tôi bắt đầu hướng dẫn cho một số sinh viên các phân khoa thành
lập hội Sinh viên Phật tử Việt Nam. Công việc gặp khá nhiều trở lực, từ ngoài
đi vào cũng như từ trong đi ra điều này chắc Nguyên Hưng không thấy. Hồi ấy có
Khanh, Dương, Chiểu, Phượng, Chi, Nhiên và Cương là những người có thiện chí nhất.
Họ biết rất rõ điều ấy. Chiều ba mươi tết đáng lẽ đến dự buổi họp mặt của họ,
thì tôi đi thăm chị Diệu Âm. Tôi nói chuyện và đọc báo xuân cho chị nghe, rồi ở
lại với chị cho đến khi giao thừa trở về. Hồi đó người ta cấm đốt pháo, và chắc
bây giờ cũng vậy. Tôi thắp những cây nến hồng bên cạnh những chậu hoa tôi mang
đến tặng chị.
Một giờ khuya, tôi chúc tết chị, và yêu cầu chị đi ngủ trước khi tôi từ giã chị. Một mình tôi đi bộ từ nhà thương Đồn Đất về tới chùa. Giờ này không còn xe cộ gì nữa cả. Sương xuống, tôi phải trùm vạt áo lên đầu. Tôi dang ngang qua tổng thống phủ, sáng rặc với những hàng bóng điện viền quanh mái nhà, và mĩm cười trước sự kiêu hãnh của ngôi nhà. Tôi biết là ngôi chùa gần nhất là chùa Xá Lợi, Và giờ này thì khách thập phương cũng đã đến lễ bái đông đảo như ở Lăng Ông Bà Chiểu rồi.
Một giờ khuya, tôi chúc tết chị, và yêu cầu chị đi ngủ trước khi tôi từ giã chị. Một mình tôi đi bộ từ nhà thương Đồn Đất về tới chùa. Giờ này không còn xe cộ gì nữa cả. Sương xuống, tôi phải trùm vạt áo lên đầu. Tôi dang ngang qua tổng thống phủ, sáng rặc với những hàng bóng điện viền quanh mái nhà, và mĩm cười trước sự kiêu hãnh của ngôi nhà. Tôi biết là ngôi chùa gần nhất là chùa Xá Lợi, Và giờ này thì khách thập phương cũng đã đến lễ bái đông đảo như ở Lăng Ông Bà Chiểu rồi.
Năm tháng sau thì Lý cũng được chở vào điều trị ở bệnh viện
Cơ Đốc Phú Nhận. Chứng bệnh nhức đầu ghê gớm của Lý ngày xưa đã trở lại. Lý là
một người có nghị lực, thế mà khi đau quá, Lý phải hét như một người điên và nước
mắt của Lý chảy ràn rụa. Nếu Lý không bị bắt thì chắc chứng bệnh cũ không đến nỗi
trở lại như thế đâu. Một hôm có người khách quen, thầy Đức Nhuận, từ Saigon lên
thăm Phương Bối, Lý và Nguyên Hưng sau khi đưa khách vượt rừng ra xa lộ đã vui
chân đi bảy cây số đường bộ về tới Bảo Lộc. Hai người đang đi mua ít vật dụng
trong chợ, thì người công an tới đưa giấy tờ cho Lý xem và mời Lý về ty. Thế là
Nguyên Hưng cũng phải đi theo Lý về ty công an. Nguyên Hưng nhất định không ra
về nếu Lý không về. Họ bảo Lý khai, Lý đòi giấy bút. Thế là Lý ngồi viết cho đến
chiều. Viết cho đến chiều hết giấy, Lý xin thêm giấy nữa. Họ đưa Lý và Hưng về
chùa Bảo Lộc. Rồi sáng mai, họ trở lại mời Lý vào ty. Có lẽ để viết thêm.
Lúc ấy đang loay hoay với mấy cái danh từ Phật học, tôi thấy
Nguyên Hưng về. Sau khi kể lại mọi chuyện, Nguyên Hưng đưa cho tôi mảnh giấy của
Lýviết: nếu tôi không về nữa thì thầy sẽ viết cho hết cuốn sách giùm tôi.
Tôi cảm động quá. Mọi người ở Phương Bối ai cũng bảo tôi nên đi Saigon để
tránh. Tôi có làm gì mà phải đi tránh. Có lẽ chúng tôi bị họ để ý chăng. Hoặc
giả họ ghét và muốn trả thù vì chúng tôi đã viết lách chống báng họ chăng. Cái
thời đại này, hễ ghét ai thì cứ gán cho họ tội làm “Việt cộng” dù họ là người
quốc gia. Ở đây thấp cổ bé miệng làm sao nói được cho ai nghe. Nghĩ như thế tôi
liền thu xếp về Saigon xem ra có thể giúp gì được cho Lý. Tôi dặn Tuệ nếu tối
nay chúng không thả Lý thì đánh điện cho tôi biết. Còn nếu chúng thả Lý thì
cũng đánh điện cho tôi biết.
Đợi mãi cho đến trưa hôm sau nữa điện tín mới về. Nội dung bức
điện như sau: “Xin cho biết bệnh tình chị Diệu Âm có thuyên giảm không”. Tôi mừng
rỡ vì có nghĩa là chúng đã buông Lý. Mà tôi đã dặn nếu Lý được ra thì phải cho
Lý về Saigon ngay.
Lý về Saigon được ít lâu thì chứng nhức đầu tái phát. Hồi ấy,
Nguyên Hưng đã ở Huế rồi. Tôi phải đưa Lý vào bệnh viện và phú thác cho Phượng
chăm lo cho Lý. Cũng may mà Lý bình phục sau đó gần một tháng trời. Hôm tôi ra
đi, Lý rất băn khoăn. Chính Lý cũng như mọi người đã khuyên tôi nên đi. Ở nhà
cũng không làm được gì, Lý và cả Nguyên Hưng cũng nói như vậy. Lý có mua cho
tôi một cuốn sách. Mãi đến khi sang bên này tôi mới mở ra xem. Trang cuối có
hai giòng chữ của Lý:
“Nếu ngày về thấy khung trời đổ nát
thì tìm em nơi tận đáy lòng anh”.
Khi tôi phát giác ra hai câu ấy, tôi giật mình và lo sợ. Tình
thế càng lúc càng căng thẳng. Chế độ đã tàn bạo nên bao nhiêu bất mãn và oán
thù. Phương Bối đã coi như vượt khỏi tầm tay của chúng ta rồi. Lý đã tiên đoán
một cuộc đổ vỡ ghê gớm. Tôi rùng mình, nghĩ đến ngày về, và tôi cầu nguyện cho
những người thân yêu, cầu nguyện cho tất cả chúng ta.
Tuệ đã lại đi dạy học lại và chỉ về Phương Bối vài lần trong
một tuần. Ấp chiến lược được thiết lập bên xa lộ. Ban đầu thầy Thanh Từ, Tuệ và
dì Tâm Huệ còn nán ở lại, nhưng sau đó ít lâu, mỗi người cũng phải tản mát một
nẻo. Thầy Thanh Từ cũng đã về Phú Lâm lâu rồi. Thanh Tuệ và dì Tâm Huệ cũng phải
tạm trú ở Đại Hà thỉnh thoảng mới vào thăm Phương Bối. Tội nghiệp cho Thiền Duyệt
Thất. Tội nghiệp cho nhà Thượng. Tội nghiệp cho từng lá cây ngọn cỏ.
Tôi nhớ trước ngày đi, tôi có lên Phương Bối thăm một cách đột
ngột. Tôi ngủ lại một đêm. Buổi sáng hôm ấy trời đầy sương lạnh lẽo. Tôi giã từ
thầy Thanh Từ, giã từ Phương Bối, giã từ những cuốn sách của tôi, tôi để lại cho
thầy Thanh Từ một bài ngũ ngôn, như một bài chúc tụng như sau:
“Gối nhẹ mây đầu núi
Nghe gió thoảng hương trà
Thiền duyệt tâm bất động
Rừng cây dâng hương hoa
Một sáng ta thức dậy
Sương lam phủ mái nhà
Hồn nhiên cười tiễn biệt
Chim chóc vang lời ca
Đời đi về muôn lối
Quan san rộng hãi hà
Chút lửa hồng bếp cũ
Ấm áp bóng chiều sa
Đời vô thường vô ngã
Người khẩu Phật tâm xà
Niềm tin còn gửi gắm
Ta vui lòng đi xa
Thế sự như đại mộng
Quên tuế nguyệt ta đà
Tan biến dòng sinh tử
Duy còn Ngươi với Ta.
Thầy Thanh Từ xem xong rất cảm động. Tôi nói: “Tôi đi rồi lại
về”. Và ở bên này có rất nhìêu khi tôi nhớ thầy, một hôm đọc Ngữ lục tôi thấy
có câu:
Trương kiến kha kha tiếu
Viên lâm lạc diệp đa.
Và bất giác nhớ hình ảnh Phương Bối quá. Tôi dịch hai câu ấy ra
như sau:
“Gặp nhau cười ha hả
Lá rụng ngập vườn rừng”
Có phải là khi nào đi từ cầu Mai đến đồi Thượng mà gặp nhau,
chúng ta cũng thấy như thế phải không Nguyên Hưng?
Nhưng hết rồi, hết rồi, Phương Bối đã lọt ra khỏi tầm tay của
chúng ta rồi. Tội nghiệp cho từng gốc cây, từng bụi cỏ, từng lối mòn. Một người
hiền hòa như thầy Thanh Từ mà cũng không được ngồi yên để tọa thiền trong lòng
Phương Bối nữa! Chúng ta còn lại gì cho ngày mai? Mỗi người một ngả. Phương Bối
đã tủi thân đến mức độ nào? Chiếc nhà Thượng có đứng vững được trước gió mưa
cho đến khi chúng ta trở về hay không?
Nhưng mà Nguyên Hưng, không biết sao tôi cứ tin rằng chúng ta
không bao giờ mất Phương Bối. Phương Bối vẫn còn đó, vẫn chịu đựng biệt ly cũng
như tất cả chúng ta hiện đang mỗi người một nẻo, cũng chịu biệt ly. Phương Bối
đã trở nên thực tại trong lòng người. Phương Bối đã chiếm chỗ linh thiêng trong
lòng chúng ta. Ở bất cứ phương trời nào, nghe đến Phương Bối là ta cảm động. Bữa
trước viết cho Mẫn tôi nói: “dù cho phong ba bão táp có đánh bạt chúng ta mỗi
người một ngã thì niềm tin vẫn đưa chúng ta về trả lại cho nhau”.
Nguyên Hưng, Medford đã rét rồi. Bọn trẻ con đã về hết. Rừng
Medford trở nên im lặng thêm. Tôi đã để nhiều thì giờ nghĩ đến Phương Bối. Và
càng nghĩ tới Phương Bối tôi lại thấy tâm hồn tôi êm dịu hơn lên, giàu có hơn
lên. Tôi tin giờ này ở khắp nơi những con chim của Phương Bối đều đang nghĩ về
Phương Bối, rừng Medford đã cho tôi sống những giờ thanh tịnh. Mai mốt về đô thị,
có lẽ trên hình bóng Phương Bối, tôi cũng sẽ thấp thoáng
Chương 6
Hiện tôi đang ngồi ở Brown Hall viết cho Nguyên Hưng, Đại học
Princeton hiện giờ vắng vẻ lắm: ngoại trừ năm bảy người, tất cả đều đã về nhà
ăn tết và lễ Giáng sinh. Ngoài trời tuyết đang rơi và Brown Hall ngôi nhà cũ kỹ
và thân yêu này của tôi đang chìm trong yên lặng tuyệt đối của một buổi chiều
cuối năm.
Tôi về đây ngày hôm kia, tức là hôm hai mươi mốt tháng chạp.
Suốt một mùa Thu và gần hết mùa Đông tôi không viết tiếp được cho Nguyên Hưng.
Thực ra tôi không bận rộn gì lắm để đến nỗi không có thì giờ viết cho em. Nhưng
tôi không thể viết cho Nguyên Hưng chỉ một vài câu thăm hỏi. Ngồi viết cho
Nguyên Hưng, tôi cần phải có một ít không gian và một ít thời gian, như người sắp
sửa đi chơi dã cầu vậy mà. Tôi không muốn những công việc vụn vặt tới làm gián
đoạn câu chuyện của chúng ta. Tôi có trước mặt đến ba tuần lễ và cả Princeton rộng
lớn sáng sủa. Có lẽ là đó là món quà Giáng sinh quý nhất mà cái xứ này có thể tặng
cho tôi. Nói cho đúng thì trong những ngày vừa qua, tôi cũng có bận bịu thật.
Ý nghĩ được rời bỏ tất cả những bận rộn của mình trong ba tuần lễ về Princeton làm tôi sung sướng quá. Buổi sáng ngày hai mươi mốt sửa soạn hành trang xong, tôi đến thăm một vài người bạn, trong đó có giáo sư Friess, giáo sư Cerbu rồi ghé về anh Bính và chị Bạch Lan để ẵm cháu Tâm Tuyền một lát. Lâu nay bận rộn tôi đã không có những thì giờ để làm việc ấy. Rồi tôi đến văn phòng của tôi trong phân khoa để xem có thư từ gì không. Ghé trụ sở thì thấy cô Mirriam, thư ký, đang sửa soạn bữa tiệc trà cuối năm cho ban giảng huấn, Mirriam nói “Ông khoa trưởng dặn mời thầy chiều nay đến”. Tôi nói: “Chiều nay tôi đi Princeton rồi”. Cô nói: “Tiếc quá; thế thì bây giờ mời thầy ăn trước một miếng bánh vậy”. Rồi cô cắt bánh cho tôi: bánh và rượu đỏ để dành cho bữa tiệc trà buổi chiều. Tôi vừa đi lại trong phòng vừa ăn bánh vừa xuýt xoa vì lạnh. Thực ra trong phòng khá ấm, nhưng vì ở ngoài mới vào cho nên tôi còn run. Mirriam nói: “Thôi thầy uống tí rượu cho ấm nhé”. Tôi nói “Tôi chẳng sợ gì rượu, nhưng uống vào vài giọt thì đỏ mặt và cô sẽ không nhìn ra được tôi đâu”. Tôi gọi điện thoại nhờ một người bạn đem xe tới đưa tôi ra bến xe bus.
Ý nghĩ được rời bỏ tất cả những bận rộn của mình trong ba tuần lễ về Princeton làm tôi sung sướng quá. Buổi sáng ngày hai mươi mốt sửa soạn hành trang xong, tôi đến thăm một vài người bạn, trong đó có giáo sư Friess, giáo sư Cerbu rồi ghé về anh Bính và chị Bạch Lan để ẵm cháu Tâm Tuyền một lát. Lâu nay bận rộn tôi đã không có những thì giờ để làm việc ấy. Rồi tôi đến văn phòng của tôi trong phân khoa để xem có thư từ gì không. Ghé trụ sở thì thấy cô Mirriam, thư ký, đang sửa soạn bữa tiệc trà cuối năm cho ban giảng huấn, Mirriam nói “Ông khoa trưởng dặn mời thầy chiều nay đến”. Tôi nói: “Chiều nay tôi đi Princeton rồi”. Cô nói: “Tiếc quá; thế thì bây giờ mời thầy ăn trước một miếng bánh vậy”. Rồi cô cắt bánh cho tôi: bánh và rượu đỏ để dành cho bữa tiệc trà buổi chiều. Tôi vừa đi lại trong phòng vừa ăn bánh vừa xuýt xoa vì lạnh. Thực ra trong phòng khá ấm, nhưng vì ở ngoài mới vào cho nên tôi còn run. Mirriam nói: “Thôi thầy uống tí rượu cho ấm nhé”. Tôi nói “Tôi chẳng sợ gì rượu, nhưng uống vào vài giọt thì đỏ mặt và cô sẽ không nhìn ra được tôi đâu”. Tôi gọi điện thoại nhờ một người bạn đem xe tới đưa tôi ra bến xe bus.
Bến xe đông thật là đông. Thiên hạ như kiến. Lấy vé xong tôi
phải đứng nối đuôi gần nửa giờ đồng hồ mới lên được xe. Bên trong xe, nhờ có
máy phóng nhiệt nên ấm lắm. Thôi giã từ thành phố rộn rịp.
Đây là lần thứ hai tôi ngồi trên một chiếc xe bus về
Princeton. Xe phải đi gần hai giờ trên xa lộ New Jersey. Sông, hồ, suối, tất cả
đều đông đặc. Khói sương che lấp những vùng xa. Khi về tới New Bruhgswich thì
tuyết bắt đầu rơi. Mọi người trên xe ai cũng yên lặng. Ai cũng nghĩ đến bếp lửa
gia đình đêm Giáng sinh. Ai cũng nghĩ đến đoàn tụ. Người nào cũng mang theo những
gói quà xinh thắt giải đỏ, những gói quà Giáng sinh cho con, cháu, anh, em,
cha, mẹ, bà con. Ngoài xe, tuyết rơi thật nhẹ nhàng, thật êm đềm, không có một
tiếng động. Chỉ có tiếng động cơ của xe đều đều, nho nhỏ, trên xa lộ êm đềm.
Tôi cũng bị ảnh hưởng cái nao nao của những ngày cuối năm ở đây. Nghĩ đến những
thúng gạo nếp trắng tinh và đầy ngọn quê nhà. Những câu đối giấy hồng điều mới
dán trước cửa. Những trái dưa hấu tròn và đẹp. Những cành đào, những cành mai
góc chợ, buổi chiều. Những anh xích lô vui vẻ vì luôn luôn có khách. Và những
người lính ở biên giới, ở núi rừng, đêm khuya nghe tiếng súng nhớ nhà.
Xe đỗ ở Priceton. Tôi bước xuống, hai tay xách hai cái xắc đi
trong mùa mưa tuyết để về Brown Hall, nơi mà tôi đã ở trọn suốt một năm ngoái.
Campus buồn thật đẹp. Tuyết rơi phơi phới. Tuyết rơi trên đầu, trên cổ, trên áo
tôi. Mặc đủ thứ áo, đội mũ, quàng khăn, mang găng, thế mà tôi vẫn thấy rét.
Campus vắng teo. Tôi đến Brown Hall chẳng thấy ai, ngoại trừ Jack. Tôi đi tìm
Saphir, người bạn Ấn Độ dễ thương của tôi, để lấy chìa khóa phòng 115. Và tôi
sung sướng cởi áo, soạn những đồ vật tôi mang theo trong hai cái xắc và bày biện
trong phòng. Tôi mở hết máy phóng nhiệt, làm giường, và ra đứng trước cửa sổ ngắm
tuyết rơi trên Campus. Được về Princeton tôi sung sướng quá và cảm thấy tâm hồn
thật êm dịu.
Chiều hôm qua tôi đi chợ với Saphir trong chiếc Wolkswagen nhỏ
xíu và cũ kỹ của anh. Phòng ăn của trường đại học đóng cửa; cả chiếc quán bán
hàng cũng vậy. Vì vậy những người ở lại trường phải ra ăn ngoài phố. Tuy vậy
cái quán bán hàng gần sát Campus center vẫn sẵn sàng để cho những người ở lại nấu
ăn. Tôi và Saphir mua gạo, bắp cải, sữa và nhiều thức ăn khác. Buổi chiều chúng
tôi nấu cơm và ngồi ăn trong quán.
Trời rét ghê lắm. Nguyên Hưng. Hồi sáng không có tuyết rơi
nhưng tôi cũng không dám đi ra dạo chơi ngoài Campus. Bài phát thanh WPRT dặn:
Sáng nay lạnh 18 độ dưới không độ, nếu không có việc gì cần kíp lắm thì không
nên đi ra ngoài. Cho nên từ sáng đến giờ tôi cứ ở mãi trong phòng. Buổi trưa
Saphir đem đến cho tôi một ít thức ăn khô và một bình sữa. Chiều nay có tuyết,
chắc rằng bớt lạnh. Thế nào tôi và Saphir cũng tới Campus center để nấu vài món
nóng ăn cho ấm bụng. Campus center cũng gần đây thôi, Nguyên Hưng. Xa Brown
Hall chừng ba bốn mươi thước.
Mùa Đông sẽ còn kéo dài mãi đến cuối tháng ba. Tuyết rơi thì
đẹp thật nhưng ba bốn ngày sau lại trông rất xấu xí. Bởi vì tuyết đã đóng cứng
lại và trộn lẫn với đất và bùn rồi. Nhưng một miền xơ xác đầy rác rến và vũng
bùn như các xóm nghèo ở xứ ta mà sau một đêm tuyết rơi cũng sẽ trở thành diễm lệ
không cùng cho xem Nguyên Hưng ạ. Nhưng mà thôi, quê hương ta tuy không có tuyết
nhưng cũng có những cảnh đẹp mà các xứ như xứ nầy không có được: những thôn quê
có từng hàng dừa in bóng trên các dòng sông, những thành phố sáng chói hoa phượng
vĩ… Mùa Đông ở đây có khi quá dài quá thành thử ai cũng trông ngóng cho nó đi
qua để cho mùa xuân trở về. Sau những đêm tuyết rơi nhiều quá, buổi sáng xe cộ
không thể lưu thông được. Xe xúc tuyết phải được huy động gấp để dọn đường. Trời
rét quá khiến tuyết không tan và phải đóng thành băng: những tai nạn gãy tay
gãy chân vì trượt ngã trên những nẻo đường trơn vì băng không phải là hiếm. Đi
trên những con đường như thế còn khó chịu và gặp nguy hiểm gấp mấy lần đi ở các
con đường vũng nước hoặc lầy lội nữa, Nguyên Hưng. Những bữa nhiều tuyết, tôi
phải mang thêm một đôi ủng cao su ra ngoài đôi giầy thường nhật nữa. Bởi vì nếu
chân mà bị ướt sũng thì thế nào khi về nhà cũng bị cảm mạo. Ở bên này mà ốm thì
thật là khổ, không có lấy một người thân săn sóc. Vậy cho nên tôi phải giữ gìn
cẩn thận lắm, Nguyên Hưng.
Ngoài mầu tuyết tươi sáng, mùa Đông chỉ còn mang có một màu
xám buồn tẻ. Những thảm có xanh không còn nữa. Cây cối trơ những cành gầy không
lá ra mà chịu đựng. Sức sống của đất trời như bị bóp chẹt lại. Nguyên Hưng, cái
hồi cuối thu, khi lá đã rụng hết rồi mà trời quả chưa có gì là lạnh ấy, một hôm
ngồi nhìn ra những hàng cây trụi lá bỗng nhiên tôi thấy cảm thương dâng ngập
tâm hồn. Tôi thấy như là cây cối cũng ngang hàng với những sinh vật có linh hồn,
có hiểu biết, có lo lắng, có chuẩn bị. Lá rụng dần, rụng dần cho đến khi cành
hoàn toàn trơ trụi. Mới ngày nào đây tàn lá xanh của chúng làm tươi cả một vùng
và che lấp những dãy nhà phía sau chúng: bây giờ chúng đứng trơ trụi và khổ hạnh
sẵn sàng chờ đợi và chịu đựng một mùa Đông băng giá dài đặc sẽ đến. Những chiếc
cành xương xẩu của chúng in rõ trên nền trời xám, nền trời mà trong suốt mùa Hạ
đã hoàn toàn bị che lấp sau tàn lá xanh. Một mùa Đông băng giá sẽ tới và không
thể dung tha những gì non nớt, bé bỏng và phù hoa. Phải vượt qua những giai đoạn
còn non nớt bé bỏng phù hoa đi để mà chịu đựng. Phải già dặn, phải cô độc, phải
sẵn sàng nghiến răng mà chịu đựng. Nhìn những hàng cây trụi lá đứng đợi chờ một
cách anh dũng và bền bỉ mùa Đông sẽ tới, tôi cảm nhận được tất cả ý nghĩa của
bài học về sự chuẩn bị chịu đựng. Nhớ lại hai câu thơ của Lý, tôi lại rùng
mình. Đất nước chúng ta thế nào rồi cũng phải trải qua một cơn bảo táp tàn khốc.
Chế độ đã gây nên quá nhiều bất công và áp bức, đã sử dụng tiền bạc và bạo lực
để thực hiện những tham vọng của mình. Bất mãn và căm thù càng lúc càng tăng và
hiện những phần tử vì phẩn uất gia nhập hàng ngủ Mặt trận giải phóng Miền Nam để
chống đối đã không phải là ít. Chất liệu bất công, tàn ác và thối nát đã nuôi
dưỡng và làm cho lực lượng chống đối càng lúc càng mạnh. Nay thì chính phủ đã
ban bố tình trạng khẩn trương rồi. Chín năm trời, Nguyên Hưng ơi, đã chín năm
trời rồi mà rốt cuộc chúng ta lai đi vào tình trạng này. Một cơ hội tốt đã mất.
Sóng gió sẽ đến bất cứ vào lúc nào. chúng ta không thể vô tâm vô tư được. Phải bắt
chước những hàng cây kia, rụng hết tất cả mọi lá phù hoa đi để sửa soạn chịu đựng
bảo táp, mưa gió, tuyết sương. Chúng ta không thể nào còn bé bỏng và non nớt gì
nữa. Chúng ta phải già dặn, phải khổ hạnh, phải vững chãi để mà vượt qua cơn thử
thách sắp đến.
Nguyên Hưng, trong những tuần lễ theo sau ngày mà tôi học được
bài học của những hàng cây trụi lá áy, ban đêm tôi thường có những ác mộng kỳ lạ.
Để tôi kể cho Nguyên Hưng nghe vài giấc mộng mà bây giờ nghĩ đến tôi còn rùng
mình. Hai giấc mộng mà tôi còn nhớ rõ. Giấc mộng sau với giấc mộng trước gần
như là cách xa có một phút, trong cùng một giấc ngủ.
Tối đó tôi bị cảm, và vì đã uống thuốc rồi mà không bớt nên
tôi nhờ Steve cạo gió cho tôi bằng Vicks, thứ dầu cù là địa phương. Thật ra
Steve chỉ biết xoa thôi, nhưng tôi dạy cho chú ta dùng một cái thìa để cạo gió
theo kiểu Miền Nam, cho đến khi nào lưng tôi đỏ lên mới thôi. Vì có như thế tôi
mới thấy ấm áp thật sự và cảm giác ớn lạnh sau lưng mới tan biến đi. Steve cho
đó là một điều kỳ quặc, bởi vì bên này không ai chữa bệnh mà phải làm cho da thịt
bầm tím như thế bao giờ. Tuy vậy Steve vẫn chìu theo ý tôi. Ấm lưng rồi, tôi mới
uống thêm một viên Corricidin nữa, với nước nóng, và đắp chăn lại, chai dầu cù
là và bình nước vẫn để đầu giường. Đêm đó, trong giấc mộng thứ nhất, tôi thấy một
người em thân thuộc của tôi, đứng ở gần cửa ra vào của một căn phòng rất rộng
rãi. Xa tôi đến chừng mười mấy thước. Người em đó là ai, quả thật tôi không biết
rõ. Tôi chỉ biết một cách rất mơ hồ rằng đó là người tôi yêu mến nhất, còn thơ
dại, còn yếu đuối và cần phải bảo vệ. Bây giờ nếu ngồi kỹ lại để xét từng người
quen thuộc thì tôi cũng không thể đồng người trong giấc mộng ấy với ai cả. Với
Hưng chăng? Châu chăng? Phượng chăng? Tuệ chăng? Toàn chăng? Có lẽ đều không phải.
Hoặc có lẽ là hình bóng tổng hợp của tất cả, và nhiều nữa. Trong lúc ấy, một
người khổng lồ từ ngoài cửa đi vào, một người dữ dằn cao lớn, như một hung thần,
như một con quái vật; với hai bàn tay khổng lồ, kẻ đó sắp túm lấy em tôi, túm lấy
để tiêu diệt. Khoảng cách giữa tôi và kẻ đó rộng quá, tôi không thể chạy tới để
can thiệp kịp lúc được. Mà tại sao chân tôi như dính cứng vào đất như thế này?
Trong giây phút nguy nan đó, bản năng tự vệ – tự vệ đây có nghĩa là bảo vệ cho
em tôi, khiến tôi liệng ngay vào kẻ hung dữ kia một vật gì mà tôi có sẵn trong
tay, một vật nằng nặng ấy vào kẻ kia với tất cả sức lực bình sinh của tôi.
Nhưng hắn tài quá: hắn đưa tay bắt được vật ấy rồi tôi mới biết được rằng đó là
một chiếc cưa tay, hình vòng cung, ta thường dùng để cưa những tấm ván nhỏ.
Nguy quá, như thế là tôi giúp cho một khí giới để tàn hạn em tôi! Trước sự đau
đớn vô biên của tôi, kẻ kia cười sằng sặc và cưa em tôi ra làm hai mảnh như cưa
một cây chuối non dại.
Tôi đang đau thảm thiết thì bổng thức dậy. Đầu óc tôi nặng
trĩu. Nhưng tôi lại thiếp đi ngay và mơ thấy giấc mơ thứ hai, ngay sau đó. Tôi
thấy tôi đang đứng ở trong một căn phòng khá rộng có bày biện bàn ghế hẳn hòi
chứ không phải là một căn phòng trống trải như trong giấc mơ trước nữa. Tôi thấy
một con rùa nhỏ bé bằng đồng, con rùa theo hình dáng những cặp rùa mang trên
lưng những chân đèn cắm nến thấy trên các bàn thờ ở quê nhà. Con rùa ấy thì tượng
trưng cho gì thì tôi không biết rõ, nhưng tôi nghĩ là rất thân thiết và thiêng
liêng đối với tôi. Không hiểu do đâu mà tôi biết được rằng nó đang lâm nguy,
đang bị ốm nặng và sẽ phải chết. Mà cái chết của nó có liên hệ mật thiết đến cả
hiện hữu tôi. Lo cho con rùa tôi mới đi lấy dầu cù là xoa vào lưng nó và đánh
gió cho nó (Nguyên Hưng đừng cười). Tôi làm công việc ấy với tất cả thận trọng,
sốt sắng trang nghiêm và tin tưởng. Nhưng bỗng nhiên con rùa kêu khóc. Kêu khóc
bằng cách nào thì tôi không biết. Tôi chỉ biết là bệnh tình nó trở nên trầm trọng
do một sự vụng về nào đó của tôi. Tôi xem xét lại thì thấy có một đường nứt
trên lưng con rùa. Tôi hoảng hốt nghĩ rằng có lẽ dầu cù là thấm vào đường nứt ấy
đã gây tác động nguy hại cho lục phủ ngũ tạng của rùa. Và con rùa sắp chết. Tôi
hoảng hốt thêm, định lấy một cây tăm khươi bớt chất dầu cù là ở trong kẻ nứt
ra, nhưng chậm mất rồi. Có một âm thanh kỳ bí nào nói thẳng tới tâm hồn tôi,
cho tôi biết con rùa đang dẫy chết. Lúc đó trong trạng thái tuyệt vọng và hối hận
vô song, tự nhiên tôi quỳ xuống trong tư thế cầu nguyện. Cầu nguyện ai tôi
không biết. Tôi chỉ biết là chỉ trong dáng điệu ấy tôi mới thấy thích hợp với
tâm trạng tuyệt vọng đang ngự trị trong tôi. Nhưng con rùa đã quằn quại dẫy chết.
Nó uốn éo như một chiếc bong bóng cao su bị dằn ép và không biết vỡ khi nào. Rồi
bổng nhiên nó vỡ tung vàc các tia nước từ nó bắn ra tứ tung, một tia nước bắn
thẳng về phía tôi. Tôi nhẩy lùi một bước tránh tia nước đó. Tia nước rơi xuống
trước mặt tôi và biến thành một vật gì nhỏ bằng một cái khuy, xoay tít như
chong chóng. Đến khi vật ấy hết quay, tôi nhìn rõ thì ra là một bông hoa bốn
cánh như hoa lan. Rồi bổng nhiên tôi thấy đứng ở ngoài đường: một số người bị
ôm liệng vào phía sau một chiếc xe cam nhông to lớn. Những người này bị liệng
lên xe một cách tàn nhẫn quá khiến cho có rất nhiều người trong đó bị gẫy đôi,
gẫy đôi một cách dễ dàng như những con người làm bằng chất sành chất sứ.
Thế rồi những chiếc xe cam nhông rồ máy chạy vút đi như bay để
lại cho tôi một khoảng không gian rộng lớn đầy những bụi mù đỏ chạch. Lúc đó
tôi thức dậy. Tim tôi đập thình thịch. Đau khổ trong giấc mơ còn làm cho tôi tê
dại cả người. Tôi đưa tay lên vỗ nhẹ trên trán và cố gắng mỉm cười. Nụ cười đến
trên môi tôi thực như tôi đã ước muốn. Nhưng gian phòng im lặng của tôi vẫn còn
phảng phất không khí rùng rợn của giấc mơ. Mồ hôi ướt đẫm cả trán cả gối, cả
áo. Tôi làm một ít cử động. Cố sức ngồi dậy, lấy khăn lau sạch mồ hôi và đi
thay áo. Tôi không ngủ nữa. Tôi thắp một cây nến, bởi vì ánh sáng điện sẽ sáng
quá và sẽ làm tôi mệt, và ngồi làm massage cho máu trong người chảy đều. Tôi ôn
lại những chi tiết của hai giấc mơ (hay là một giấc mơ?) và cố tìm cách giải
thích. Nhưng tôi không giải thích được.
Mấy hôm sau đó tôi đem những giấc mơ kể lại cho một số người
quen. Gordon đã hùng biện giải thích bằng nhiều cách, nhưng chẳng có cách giải
thích nào phù hợp với thực trạng tâm linh của tôi cả. Có thể đó là phát biểu của
những lo ngại tập thể, hoặc cũng có thể chỉ là những hình ảnh chắp nối đầu Ngô
mình Sở trong một tình trạng thân thể còn bị đau ốm đang chịu tác động của thuốc
men, chẳng có nghĩa lý gì cả.
Dù sao, Nguyên Hưng ơi, tôi vẫn thấy mang máng rằng những giấc
mộng kia có liên hệ xa gần với những câu thơ của Lý. Nếu phong ba bão táp đến,
thì tôi ước muốn được có mặt để cùng được chịu đựng với tất cả mọi người. Đừng
để đến khi tôi về, thì chỉ còn “một khung trời đổ nát” trong đó tôi chỉ tìm được
hình bóng của những người thân yêu ở “trong tận đáy lòng” của tôi.
Nguyên Hưng ơi, hồi tôi rời Madford và những khu rừng hiền
lành, những chiếc hồ rộng lớn của nó thì tôi chỉ kịp ghé Princeton có hai ngày
trước khi tôi về Nữu Ước lại… Cái thành phố có những chiếc nhà chọc trời ấy
không thích hợp với tôi chút nào. Ở đấy thì chỉ có một cái lợi là được gần gũi
những sinh hoạt văn hóa. Luôn luôn có diễn thuyết hay, có triển lãm giá trị.
Luôn luôn có những buổi đại hòa tấu. Nữu Ước có bao nhiêu thư viện, bảo tàng viện
và bác cổ viện lớn. Kỷ niệm ngày đầu tiên tới Nữu Ước vừa buồn cười vừa bực bội.
Ngày ấy Gordon đưa tôi từ Princeton tới Nữu Ước bằng chiếc xe rộng rãi của anh.
Sau khi nhà cửa lo xong, chúng tôi đem đồ đạc lên rồi, tôi mới cùng Gordon đi
phố để mua ít vật dụng cần thiết. Tôi nhớ là khi chúng tôi đang đi trên hè phố
Amsterdam, thì có một người vào khoảng bốn mươi, ăn mặc chững chạc chạy lại gần
chúng tôi. Người ấy nói giọng bô bô có vẻ như quen thân với nhau trong xóm làng
lâu rồi. Ông ta reo lên: “A! mặc cái áo gì mà ngộ quá vậy? Có phải cái áo thầy
tu đạo Phật không”. Nguyên Hưng cũng biết là khi đi ra ngoài phố tôi thường mặc
áo nâu chứ ít khi mặc áo xám. Gordon trả lời thay tôi: “Phải đấy thưa ông”.
Chúng tôi dừng lại bên hè đường nói chuyện. Vẫn bô bô, ông ta hỏi tôi từ xứ nào
đến. Khi nghe tôi nói từ Việt Nam, ông ta có vẻ ngơ ngẩn không biết Việt Nam là
xứ nào, nằm ở góc nào trong bản đồ thế giới. Thế rồi ông ta hỏi. “Thế thì đạo
Phật có tin đức chúa Jésus không?” Câu hỏi hướng về tôi. Tôi trả lời “có chứ”
Ông ta ngạc nhiên hỏi tại vì sao. Tôi có cảm giác khó chịu, bởi vì đứng ngoài
đường thập mục sở thị không tiện đàm luận những vấn đề như thế. Gordon đỡ lời:
“Thực đấy mà, thầy ấy nói thực đấy mà”. Ông ta phân bua với tôi: “Ở đây thiên hạ
bày ra điều này, điều nọ, và cho đó là lời của chúa Ki tô. Họ bán Trời bán Phật
mà ăn đấy, các ông ạ.” Rồi ông ta còn thao thao bất tuyệt các vấn đề ông ta vừa
nêu ra. Để cắt đứt. Tôi mới hỏi: “Thế ông theo đạo nào thưa ông?” Ông ta nghiêm
trang rút ví da ra và nói: “Tôi theo đạo này”. Rồi ông ta loay hoay mở ví, có lẽ
đưa tôi xem một chứng minh thư hay một thẻ tín đồ của một giáo phái nào đó. Kỳ
thực, ông ta chỉ rút ra một xấp giấy bạc đô la và lập lại: “Tôi theo đạo này”.
Thì ra ông ta theo đạo tiền. Gordon cười ha hả. Tôi cười đến chảy nước mắt. Tôi
chào người bạn ngộ nghĩnh vừa gặp và kéo theo Gordon đi theo. Tôi nói “Tuy vậy
nhưng cũng khá khen ông ta là người chân thật, dám nói những điều mình nghĩ.”
Không biết Gordon nghĩ gì khi tôi cho anh biết rằng người kia
là người dân Nữu Ước đầu tiên mà tôi gặp và nói chuyện. Chúng tôi ghé vào một
tiệm hấp nhuộm y phục, bởi vì tôi muốn thuê nhuộm lai mấy cái áo tràng nâu của
tôi bây giờ đã bạc mầu rồi. Tiền nhuộm đắt quá khiến tôi ngần ngại. Một lúc sau
ông chủ tiệm nói với tôi: “Mà ông nhuộm làm gì đã chứ. Tôi biết là trong vòng
vài ba tuần lễ ông sẽ liệng những cái áo rắc rối ấy để mặc đồ tây cho mà xem.
Những người ngoại quốc đến đây lúc đầu thì mặc quốc phục họ, nhưng sau đều mặc
đồ Tây cả”. Tôi cũng không buồn cho ông ta biết là áo tôi đang mặc không là quốc
phục nào cả, và tôi không phải là một người chân ướt chân ráo tới cái xứ này.
Chúng tôi nói lời cám ơn và bỏ đi.
Buổi chiều hôm ấy tôi rủ Gordon về tiệm ăn người Việt Nam ở
đường Amsterdam, tiệm ăn duy nhất bán thức ăn Việt Nam ở đây. Chúng tôi đi bộ
ngược lên đường 21 mới tìm ra được tiệm. Khi chúng tôi vào thì tiệm vắng người.
Có hai người sinh viên Việt Nam hầu bàn, một nam một nữ, đang ngồi nói chuyện.
Thấy chúng tôi vào liền chạy ra mời. Chúng tôi tìm một góc để ngồi. Có lẽ cả
hai đều phải xa nhà từ hồi còn bé nên không nhận được ra tôi, người đồng hương
trong chiếc áo nâu. Người con gái nói tiếng Anh thật hay, hỏi tôi có phải người
Miến Điện không. Tôi cười gật đầu. Gordon cũng cười. Chúng tôi gọi vài thức ăn
chay, rồi nói chuyện hai người về lai lịch cái tiệm ăn này. Mãi đến khi giã từ
tôi mới cho hai người biết là tôi là người Việt. Cả hai đều mừng rỡ vì họ cũng
thuộc về một gia đình Phật tử. Say này tôi biết chính chị Lan điều khiển quán
ăn. Chị nói chị cũng bận dạy học ở trường nên không có nhiều thì giờ chăm sóc
quán. Cái quán ăn, chị nói, vậy mà có giá trị tương đương với cơ sở văn hóa của
tòa đại sứ. Người đến ăn phần lớn là những người trí thức. Những món ăn, những
bức họa, những đĩa nhạc và nhất là những câu chuyện cùng những người hầu bàn đã
giúp cho khách hiểu biết và yêu mến Việt Nam. Mà cái quán ăn ấy cũng oai thật đấy,
Nguyên Hưng. Người hầu bàn nào cũng nói được tiếng Anh và tiếng Pháp rất thông
thạo, và có thể nói từ những câu chuyện thời sự, chính trị, văn minh, rất đứng
đắn. Cậu sinh viên tôi gặp hôm ấy nói tiếng Đức rất giỏi.
Đó là những gì tôi không quên về ngày đầu tiên tôi đến với
thành phố nhộn nhịp kia. Mùa thu năm nay khi trở về, tôi quen thuộc với khung cảnh
hơn, dù vẫn thấy rằng những ngày ở rừng Mendford quá ngắn. Từ đầu mùa thu tôi
được nhận làm việc tại trường đại học Columbia. Tôi dạy mỗi tuần năm giờ, ngoài
ra còn có một số giờ phải ngồi văn phòng để tiếp sinh viên và giúp đỡ cho họ về
việc sưu tầm tài liệu. Lương tôi được ba trăm năm chục đồng; như thế là tương đối
khá “giàu”. Trong những người sinh viên của tôi có một cặp bạn rất thân, đó là
David và Steve. Steve thích tôi lắm và đề nghị thuê chung một cái nhà với tôi.
Tôi bằng lòng ngay. David thường đến chơi và ở lại ăn cơm với chúng tôi. Chúng
tôi có những buổi tối thân mật, có lẽ êm thắm hơn cả những buổi tối gia đình.
Cái chú Steve ấy, để tôi nói cho Nguyên Hưng nghe, đã ăn chay
trường với tôi trong suốt mùa thu qua cả nữa mùa đông này nữa. Tôi hỏi ăn chay
có yếu đi không. “Trái lại còn thấy khỏe mạnh thêm”. Từ ngày có Steve, chúng
tôi tự nấu ăn lấy mỗi ngày và ngày nào cũng được hai lần ăn cơm, bằng đũa.
Steve cầm đũa khá vững vì đã được ở lại Nhật Bản mấy tháng mùa hè năm ngoái.
Chỉ sau mấy ngày gặp Steve tôi mến chú ta liền, cũng thân thiết
như với Hưng và Tuệ vậy. Steve cao bằng tôi, tóc hơi vàng và rất mềm, cằm anh
ta hơi nhọn. Mắt mầu nâu. Rất giàu tình cảm và tính cách nghệ sĩ. Steve rất ham
triết học đông phương; từ mùa thu chú ta đã ghi tên học những lớp đông phương học,
kể cả một lớp Hoa ngữ. Cứ nhìn thấy cậu ta ngồi tập viết chữ nho cũng đã thấy
thương. Không có sự vui buồn nào trong đời mà Steve lại không về kể lại với
tôi. Tôi hay có những nhận xét về suy tư của Steve và anh chàng thường hay ngồi
chăm chú để mà nghe; đôi khi nhíu lông mày đê làm nhăn một ít cái trán thông
minh của nó. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng có hơi giận nhau, nguyên do là vì
Steve vẫn còn quen cái thói tiếp nhận theo đầu óc Tây phương, và tôi cứ nghĩ rằng
tôi không diễn tả bằng bằng cách nào hơn là bằng cách đông phương của tôi. Tôi
chắc Steve nhiễm cái đường lối của giáo sư Cerbu “go East but stay West” rồi. Stay
West thì làm chi có thể thực sự go East hả Nguyên Hưng.
Cái nhà chúng tôi thuê với giá 150 đồng bạc mỗi tháng có 1
phòng ngủ, một phòng làm việc, một phòng tắm, một cái bếp và một cái hành lang.
Đó là địa chỉ của tôi bây giờ: 306 west 109 th Street. Chúng tôi ở từng thứ
năm, có hai cửa sổ lớn nhìn ra đường. Phải nhìn nghiêng mới thấy được một mảnh
trời, về phía Morning Side. Những bàn ghế, giường nệm, chén bát và soong chảo đều
do Steve chở về, nên khi thuê nhà tôi chẳng thể lo lắng gì cả. Steve là con của
một ông khoa trưởng một trường kỹ thuật nổi tiếng, dòng giỏi thông minh nhưng
không thích khoa học, kỹ thuật. Mẹ của Steve có đến thăm một lần cách đây chừng
nữa tháng và mang cho chúng tôi vô số thức ăn ngon.
Tôi phân chia công việc như thế này: tôi thì lãnh phần nấu ăn
và rửa bát, còn Steve thì đi chợ và dọn dẹp lau chùa nhà cửa. Steve phải đi học
nhiều nên tôi phải ra tay làm nội trợ. Mỗi ngày tôi chỉ cần có mặt ở trường vài
giờ đồng hồ, những giờ dạy và những giờ ngồi ở văn phòng – Từ khi thuê được
nhà, tôi hay ở nhà làm việc, thiếu tài liệu gì thì nhờ Steve mượn ở thư viện
giúp. Tôi có cái thẻ có thể mượn một lần hàng mấy chục cuốn sách và mượn như thế
trong nửa tháng. Ngồi ở nhà ấm áp một mình, tôi làm được nhiều việc hơn. Nấu ăn
cho Steve cũng là một sự thích thú. Có thể là món gì do tôi nấu ra Steve cũng
khen ngon cả - tôi nghĩ Steve có thể ăn chay suốt đời mà không biết chán và tôi
có thể nấu cho Steve ăn hoài mà không sợ tốn công.
Cố nhiên là cậu ta không biết đi chợ - tôi phải dẫn Steve đến
một tiệm bán thực phẩm đông phương ở gần đấy và chỉ cho cậu “đi chợ” trong những
lần đầu. Chúng tôi mua nấm hương, tàu yểu, đậu phụ, củ cải, khổ qua, dưa cải
v.v… Rau đậu tươi thì Steve có thể tự đi mua ở bất cứ một nhà bán thực phẩm nào
khác dọc đại lộ Broadway. Chúng tôi tìm được chỗ mua gạo thật ngon và mua từng
chục ký chứ không mua từng hộp nhỏ như những gia đình khác. Thường thường những
hôm đi học về sớm. Steve ghé chợ mua hai giỏ thức ăn về chất đầy chiếc tủ lạnh
lớn đặt trong nhà bếp. Cái nhà bếp chúng tôi thật sạch sẽ và trang nhã. Steve
lau chùi nhà bếp và nhà tắm gần như mỗi ngày. Bếp nấu gaz cho nên rất tiện lợi.
Sáng nào tôi cũng dậy sớm và sửa soạn điểm tâm cho hai người. Thường thường, Steve
thức khuya và chỉ dạy đủ sớm để ăn điểm tâm rồi đi học ngay. Có bữa tôi cũng đến
trường cùng với Steve một lần nhưng chỉ độ mười một giờ là tôi trở về. Tôi làm
việc một lát rồi đi thổi cơm và làm thức ăn. Mười hai giờ mười lăm thì Steve về,
lần nào cũng đói mèm, và chúng tôi ngồi vào bàn ăn. Thức ăn bao giờ tôi cũng
làm chung cho cả buổi chiều trong tủ lạnh; đến tối tôi chỉ cần thổi cơm và hâm
lại thức ăn cho nóng thôi.
Buổi chiều tôi thường không đi ra ngoài. Tôi viết lách, đọc,
soạn bài, trả lời những thư từ. Có việc cần tôi mới đi vào trường hoặc vào thư
viện. Thỉnh thoảng David cùng về với Steve, và chúng tôi ăn cơm với nhau trong
phòng khách một cách im lặng, trang nghiêm. Sau những bữa như thế, tôi để cho
Steve nói chuyện với David và đi rửa chén bát. Tôi rất thích công việc này vì
tôi thấy trong khi rửa chén bát tâm hồn tôi luôn luôn an tĩnh, vui vui. Có khi
tôi bất chợt đang nghịch với những chiếc bóng xà phòng và hát nhỏ những bài hát
học được hồi còn bé thơ. Nước vừa ấm thật dễ chịu. Tôi lau chùi cái bếp gaz thật
sạch sẽ, soạn lại đồ đạc, đi tắm ngâm mình trong nước nóng, thay áo và ra ngồi
góp chuyện với hai người trẻ tuổi. Những buổi như thế thật êm đềm. Steve biết
tính tôi, đi tắt điện, thắp lên vài ngọn đèn nến cho mát mắt và để cho chúng tôi
nghe một ít những bản nhạc êm dịu ưa thích. Những lúc đó chúng tôi thường không
nói chuyện nữa, chỉ ngồi yên mà theo dõi những giòng suy tư của mình.
David thường ở với Steve rất khuya; thường thường khi nào tôi
bảo về mới về. Có lúc hai người bạn đi với nhau suốt ngày và tôi ở nhà một
mình, nấu cơm một mình, ngồi vào bàn ăn một mình.
Nguyên Hưng, tôi biết Steve mến tôi thật sự. Steve nghe tôi
nói về tình trạng đất nước chúng ta với tất cả sự chăm chú và xót xa. Tự nhiên
Steve muốn dùng tiếng Việt Nam, và nếu có thể được, cùng nuôi ước mộng tìm lại
Phương Bối. Tôi đã nói cho Steve nghe về tình của chúng ta đối với Phương Bối.
Tôi đã nói đến Phương Bối như một chút lửa hồng không bao giờ tắt trong tâm hồn
mỗi người chúng ta. Tôi đã nói Phương Bối như một chất liệu tâm linh cần thiết
cho mọi ước ao, mọi xây dựng. Có thể là tôi đã quan trọng hóa Phương Bối quá,
nhưng mà tại sao mắt Steve lại sáng lên như thế mỗi lần nó nghe tôi nói đến
Phương Bối? Steve quyết sẽ học tiếng Việt và tôi cũng bắt đầu dạy cho Steve những
câu đàm thoại đầu tiên. Steve rất ham học ngoại ngữ. Nói tiếng Pháp còn chập chững
mà đòi làm thơ. Rồi trong những lúc đi chợ mua thức ăn, cứ nấn ná ở lại để tập
nói tiếng Tàu với cái cô bán hàng người Trung Hoa. Steve đã bập bẹ nói tiếng
quan thoại rồi đấy. Steve bảo nhất định phải học nói cho được tiếng Việt bởi vì
anh chàng rất thích dự tính của tôi về làm một cái làng dễ thương ở
miền quê, trong đó một số anh em sống thật êm ái với nhau và thật hữu ích cho mọi
người.
Steve dành làm tất cả những công việc khó nhọc. Biết tôi rất
có thể bị cảm khi ra ngoài lạnh nên Steve dành đi những công việc mà Steve có
thể làm thay tôi được. Tội nghiệp, những hôm tôi bị cảm, Steve phải “cạo gió”,
và vì hai tay của Steve khá mạnh, chẳng mấy chốc mà tôi đã thấy ấm áp. Nếu tôi
không bớt thì Steve lại gọi điện thoại cho bác sĩ Cusbman.
Steve không được sung sướng mấy khi nghĩ đến gia đình. Hè năm
ngoài trong khi ở Nhật Bản, anh chàng có làm quen được với một thiếu nữ Nhật và
hai người đã trao đổi thư từ thân mật từ đầu mùa thu đến nay. Người bạn gái Phù
tang tên là Hạnh Trí Tử, hẹn sẽ sang thăm trong mùa Xuân tới và Steve cứ nhắc
hoài đến dịp ấy. Néu không bị gia đình gọi thì Steve đã có thể theo tôi về
Priceton trong dịp lễ giáng sinh này rồi. Nó đã về quê bằng máy bay hai hôm trước
khi tôi rời Nữu Ước. Căn nhà chúng tôi hiện giờ ở đường 109 có lẽ đang lạnh lẽo,
không đèn, không đuốc, không hơi ấm. Còn tôi, tôi đang ngồi đây, giữa lòng
Princeton quen thuộc. Trời đã chạng vạng rồi. Ngoài kia, tuyết vẫn rơi. Tôi sẽ
đi tìm Saphir – chúng tôi sẽ đi làm một thức ăn gì để ăn cho thật nóng, và sau
đó, về campus center ngồi nói chuyện và nghe bản phóng sự bảy giờ rưỡi
tối nưoi chiếc máy truyền hình đặt ở góc phòng.
Chương 7
Hồi trưa tôi nhận được trên ba mươi lá thư từ Nữu Ước chuyển
về. Chỉ có cái thiếp của Huệ Dương và một cái thơ của Phượng là từ Saigon, còn
những lá thơ khác đều là thơ chúc tết địa phương cả. Bên này nội cái số tiền
thiên hạ dùng để mua thiếp chúc tết và dán tem trong dịp Giáng sinh thật là đã
nhiều. Mỗi gia đình có một bản danh sách những người quen thuộc cần được gửi
thiếp Giáng sinh và Năm mới. Chỉ kể cái việc đi mua hàng trăm cái thiếp như thế,
bỏ vào phong bì và viết địa chỉ cũng đã thấy mệt và tốn thì giờ lắm rồi. Nếu
Nguyên Hưng chỉ có chừng mười người quen thì Nguyên Hưng còn có thể có thì giờ
để chọn mua cái thiệp chúc khác nhau, mỗi cái thích ứng với một người quen. Rồi
Nguyên Hưng viết những giòng chữ thăm hỏi chúc tụng riêng cho từng người. Thế
nhưng nếu ta có đến hàng trăm người, ta không thể nào làm như thế được. Cứ việc
mua một thứ thiếp, bỏ phong bì, dán tem rồi gửi đi. Làm như cái máy. Chỉ cần cẩn
thận đừng bỏ quên một tên nào trong “bản danh sách” là được. Mỗi năm bản danh
sách ấy có thể thay đổi chút ít. Có thể là một người chết. Có thể là có một người
bạn ăn ở tệ quá, cần phải cắt đứt “liên lạc ngoại giao”. Có thể là có một vài
người mới quen thân cần phải ghi vào trong danh sách. Nguyên Hưng, có thể thiên
hạ tưởng như là tôi “lẻ loi” lắm mới phải xách khăn gói về Priceton trong cái dịp
lễ Giáng sinh này. Anh chàng Jack chẳng hạn, cũng đã nghĩ như thế đấy. Nhưng thực
ra tôi có lẻ loi đâu; tôi chỉ từ chối lời mời của rất nhiều người quen thuộc mà
thôi. Cả năm chỉ có được mấy tuần lễ hoàn toàn của mình, cho mình, tội gì đem
tiêu phí bằng cách sống ràng buộc trong lễ nghi giao tiếp phiền toái. Ngồi
trong cái phòng nầy đây cũng êm ấm chán: muốn nói chuyện với Nguyên Hưng hay với
bất cứ người nào tôi cũng có thể nói chuyện được mà. Mình còn phong lưu lắm.
Bây giờ đây, còn có những người không có nhà, không có lò lửa, không đón năm mới.
Và trên mảnh đất quê hương ta, chiến tranh càng lúc càng trở nên khốc liệt. Người
dân sống trong tình trạng trên đe dưới búa. Chúng mình mất mát thật nhiều rồi.
Quê hương chia cắt, đất nước lâm vào cảnh khói lửa. Chúng ta còn một chút
Phương Bối, nhưng Phương Bối cũng đã chìm trong sương mù. Tuy nhiên chúng ta
còn có nhau, chưa đến nỗi lẽ loi, cô đơn. Nhưng chúng ta muốn đứng về phía những
người lẻ loi, cô đơn. Tôi muốn người ta thỉnh thoảng nghĩ tới những kẻ khổ đau,
nghĩ tới mà thôi, chứ không nên thương hại. Những người khổ đau không muốn
thương hại. Họ muốn có một thứ tình thương chân thực và đầm ấm.
Bên này, trong dịp Giáng sinh, có nhiều tổ chức quyên tặng những
người nghèo. Tôi không thích người ta gửi quà cho cô nhi quả phụ và những người
bần cùng mà không bao giờ thấy những cô nhi quả phụ và những người bần cùng. Có
thấy họ, anh mới biết thương yêu. Tiền bạc và tặng phẩm nhận được trong dịp này
là hằng chục triệu - nhưng đó chỉ là kết quả của lòng trắc ẩn, chưa phải là
tình thương yêu. Tết này có một tổ chức chuyên môn xin giầy cho trẻ nghèo. Người
ta xin được hàng triệu đôi giày cho trẻ con rồi. Và trong số những người tặng
năm đồng bạc thay vì một đôi giầy trẻ con, hẳn có rất ít người tưởng tượng được
hình dáng đứa bé sẽ có hân hạnh nhận được đôi giày và có lẽ hình dáng của đôi
giầy nữa.
Năm ngoái cũng vào ngày này tôi đi chợ mua thức ăn cùng với
Kenei Kira, một thanh niên Nhật Bản. Buổi chợ chiều hăm bốn tháng chạp có khác.
Ai cũng có vẻ vội vã. Ai cũng muốn công việc mua bán mau xong để về nhà chuẩn bị
lễ Giáng sinh. Chúng tôi phải mua thức ăn cho một tuần lễ, vì từ hăm lăm tới đầu
năm sẽ không có chợ. Hình bóng của những người con trai ngoại quốc đi chợ mua
thức ăn cuối năm có lẽ làm cho một vài người động lòng trắc ẩn. Có một bà ân cần
hỏi chúng tôi xem chúng tôi cần bà giúp đỡ gì không. Chúng tôi nhã nhặn cám ơn
và chúc bà “merry Christmas”. Cô thu ngân viên gói hàng cho chúng tôi rất sốt sắng,
nhìn chúng tôi với đôi mắt ái ngại và chúc “merry Christmas” một cách cảm động.
Họ nghĩ rằng chúng tôi sẽ cô đơn lắm, buồn bã lắm, và nhớ nhà trong dịp lễ
Giáng sinh này. Thực ra thì trong hai chúng tôi không có ai theo đạo Cơ đốc cả
cho nên chúng tôi chưa bao giờ có được cái nao nức của buổi chiều Giáng sinh.
Mà không có cái nao nức thì làm gì có được cái cảm giác cô đơn lẻ loi trong đêm
Giáng sinh. Nguyên Hưng cứ nghĩ lại thì biết. Ở Saigon mỗi năm nhờ sự nhắc nhở
các cành thông, các thiệp chúc, các thứ dây kim tuyến, vân vân… mà chúng ta biết
Lễ Giáng Sinh đến. Chính ở Phương Bối chúng ta cũng ăn lễ Giáng sinh, cũng thức
đêm, cũng có một cây Giáng sinh thật đẹp trong nhà, nhưng không phải vì thế mà
chúng ta có thể chia xẻ được cái nao nức thực sự của những người bạn theo Cơ đốc
giáo. Có lẽ tại vì chúng ta chỉ biết tôn kính đức Ki Tô như một nhà đại văn hóa
chứ không như một vị giáo chủ. Mà chắc đối với Đức Phật cũng vậy, chúng ta ít
khi nhìn Ngài qua sự huyền diệu màu nhiệm của tôn giáo: chúng ta có khuynh hướng
tôn kính Người như một bậc thầy, một nhà văn hóa mà không thờ phụng Người một
cách say mê như người ta thờ phụng thần tượng. Nói nao nức thì có lẽ ngày ba
mươi Tết cho chúng ta nhiều nao nức hơn.
Vậy mà Nguyên Hưng ơi, vào khoảng sáu giờ chiều ngày ấy chúng
tôi bỗng thấy Brown Hall quá vắng. Trời lạnh, nhưng chúng tôi cũng cứ rủ nhau
đi ra phố. Lúc đó, trời không có tuyết. Chúng tôi đi trên những con đường vắng
teo, những con đường phố đầy giấy rác của buổi chiều hăm bốn. Những con đường
này suốt năm không có khi nào đầy giấy rác như vậy. Cửa nhà nào cũng đóng, cửa
tiệm nào cũng đóng. Quả đúng hệt là không khí ba mươi tết bên nhà. Bỗng dưng chúng
tôi thấy buồn, cái nỗi buồn của những người tha hương khi tết đến. Ở đây, đêm
Giáng sinh đúng là một đêm có giá trị tương đương với đêm giao thừa ở quê nhà.
Chúng tôi bỏ dở cuộc dạo chơi và trở về Campus center uống trà, nói chuyện và
xem T.V. Cái hoàn cảnh xung quanh quả có thể ảnh hưởng đến tâm lý ta một cách lớn
lao phải không Nguyên Hưng. Những cái vui buồn thương ghét của chúng ta bị hoàn
cảnh quy định một cách đáng kể. Rốt cuộc chúng ta thường vâng theo mệnh lệnh của
hoàn cảnh, của dư luận mà ít khi thấy rõ được những ước muốn chân thực của con
người chúng ta. Để rồi chúng ta phải trở thành một mẫu người khác, một mẫu người
mà xã hội muốn chúng ta trở thành. Nguyên Hưng, chúng ta thuộc về hạng người muốn
chống lại sự đồng hóa tập thể đó. Chúng ta trỗi dậy, vùng vẫy, đập phá để khỏi
chui đầu vào những khuôn đúc của xã hội. Và cố nhiên là chúng ta gặp sức phản ứng
dữ dội. Nhiều lúc tôi thấy tôi lâm vào một tình trạng thực cực kỳ nguy hiểm. Đó
là những lúc tôi phải đối diện với chính tôi trong một cuộc vật lộn dữ dội giữa
hai cái tôi không đồng nhau.
Xã hội tạo cho ta một cái tôi xa lạ mà chính trong những lúc ấy, ta mới nhận được ra nó là xa lạ. Còn thường ngày ta vẫn cứ tưởng nó là cái tôi đích thực. Sự chạm trán giữa hai cái tôi ít khi đưa đến một cuộc hòa giải. Nó tạo tâm hồn của chúng ta thành một bãi chiến, và chính ngũ uẩn của tôi bị tàn hại tan hoang như mặt đất sau cơn phong vũ điên cuồng. Cây cối ngã nghiêng, cành lá xác xơ, nhà cửa tan nát. Những lúc ấy quả tình là cô đơn lắm, Nguyên Hưng. Nhưng mà mỗi lần vượt qua được một cơn giông tố như thế, tôi thấy tôi lớn hơn lên. Có thể một ngày nào đó ôi không vượt nổi nó và tôi sẽ ngã quỵ, nhưng bây giờ tôi thấy rõ ràng rằng nếu tôi chưa trải qua những cơn bão tố như thế thì tôi không phải và không thể là tôi bây giờ. Tuy vậy không phải là tôi không sợ những cơn giông bão. Nghĩ đến chúng, tôi còn muốn rơi nước mắt. Mỗi lần chúng đến là một lần tôi bị cuốn vào một trận chiến ác liệt đến nỗi thế giới bên ngoài không thể giúp tôi được một chút gì. Mỗi lần chúng đến, chúng tàn hại tôi, tiêu diệt tôi; nhưng cũng có thể nói rằng mỗi lần chúng đến là chúng cứu được tôi. Ít khi chúng ta nghe được bước chân chúng. Chúng xuất hiện một cách đột ngột nhưng chúng đã đến từng bước một trên những đôi hài bằng nhung. Giòng nhận thức và tư duy của tôi, chính dòng nhận thức và tư duy của tôi đã mang chúng đến từ từ, để một buổi sáng nào đó cơn bão tố xuất hiện đột ngột với tất cả mãnh lực của nó.
Xã hội tạo cho ta một cái tôi xa lạ mà chính trong những lúc ấy, ta mới nhận được ra nó là xa lạ. Còn thường ngày ta vẫn cứ tưởng nó là cái tôi đích thực. Sự chạm trán giữa hai cái tôi ít khi đưa đến một cuộc hòa giải. Nó tạo tâm hồn của chúng ta thành một bãi chiến, và chính ngũ uẩn của tôi bị tàn hại tan hoang như mặt đất sau cơn phong vũ điên cuồng. Cây cối ngã nghiêng, cành lá xác xơ, nhà cửa tan nát. Những lúc ấy quả tình là cô đơn lắm, Nguyên Hưng. Nhưng mà mỗi lần vượt qua được một cơn giông tố như thế, tôi thấy tôi lớn hơn lên. Có thể một ngày nào đó ôi không vượt nổi nó và tôi sẽ ngã quỵ, nhưng bây giờ tôi thấy rõ ràng rằng nếu tôi chưa trải qua những cơn bão tố như thế thì tôi không phải và không thể là tôi bây giờ. Tuy vậy không phải là tôi không sợ những cơn giông bão. Nghĩ đến chúng, tôi còn muốn rơi nước mắt. Mỗi lần chúng đến là một lần tôi bị cuốn vào một trận chiến ác liệt đến nỗi thế giới bên ngoài không thể giúp tôi được một chút gì. Mỗi lần chúng đến, chúng tàn hại tôi, tiêu diệt tôi; nhưng cũng có thể nói rằng mỗi lần chúng đến là chúng cứu được tôi. Ít khi chúng ta nghe được bước chân chúng. Chúng xuất hiện một cách đột ngột nhưng chúng đã đến từng bước một trên những đôi hài bằng nhung. Giòng nhận thức và tư duy của tôi, chính dòng nhận thức và tư duy của tôi đã mang chúng đến từ từ, để một buổi sáng nào đó cơn bão tố xuất hiện đột ngột với tất cả mãnh lực của nó.
Trong mùa thu vừa qua, tôi cũng có trải qua một cơn khủng hoảng
nội tâm như thế đó, Nguyên Hưng. Đó là vào ngày mồng một tháng mười dương lịch.
Sự việc xảy ra đến một cách đơn giản. Và giông bão ban đầu tưởng như chỉ là một
cái ráng trời. Năm sáu giờ đồng hồ sau khi sự việc xẩy ra, tôi vẫn chưa thấy gì
rõ rệt. Chỉ thấy bản thể của tôi hình như bốc khói bay đi mất, và ở chỗ thay vì
có tôi, chỉ còn có một đám mây mù loang loãng ở lại. Tôi thấy rằng từ lâu tôi
tưởng tôi là một cái gì có thiệt, nhưng bây giờ thì tôi thấy tôi không là một
cái gì hết.
Cố nhiên đó không phải là một suy tưởng triết học, cũng không
phải là một trạng thái chứng ngộ của thiền định. Đó chỉ là một cảm tưởng tầm
thường, rất thường. Cảm tưởng ấy là cái hình dáng và bản chất mà tôi tưởng là
tôi, mà Nguyên Hưng tưởng là tôi, vốn là một điều được bịa đặt ra. Thực chất của
tôi hư vô hơn thế nhiều mà cũng hiện thực hơn thế nhiều. Nó xấu xí hơn thế nhiều
mà cũng đẹp đẽ hơn thế nhiều. Nó vừa không vừa lại có.
Cảm giác bắt đầu từ lúc gần mười một giờ khuya tối hôm mồng một,
lúc tôi đang lục soạn ở lầu thứ mười một ở một thư viện Butler. Nguyên Hưng biết
rằng đúng mười một giờ khuya thì thư viện đóng cửa. Lúc đó chỉ còn chừng mười
hoặc mười lăm phút nữa thì tôi phải ra khỏi thư viện rồi. Tôi rút ra một cuốn
sách, cuốn sách mang một cái tên có dính líu đến đề tài khảo cứu của tôi, một
cuốn sách lớn và nặng. Cuốn sách xuất bản năm 1892, và năm 1892 cũng là năm được
đóng dấu đưa vào thư viện. Ở bìa sau, tôi dộc bản ghi ngày tháng của người mượn
sách. Lần mượn thứ nhất: 1915. Lần mượn thứ hai: 1932. Và tôi lần mượn thứ ba;
tôi, Nguyên Hưng nghe rõ chưa? Tôi sẽ mượn vào ngày 1-10-1962. Cuốn sách nằm bảy
mươi năm trên giá sách ở từng lầu thứ mười một của thư viện và đã qua hai tay
người đọc. Thư viện được tổ chức theo kiểu stack và vì vậy người ta
có thể tới tận nơi để rút ra xem trước khi quyết định là có mượn hay không. Vậy
thì trong khoảng thời gian bảy mươi năm, đã có hai người đứng chỗ tôi đang đứng,
rút cuốn sách tôi vừa rút vừa có ý định như ý định của tôi là mượn cuốn sách
đem về! Bỗng dưng lúc ấy tôi ao ước được gặp hai người kia quá. Tôi sẽ
ôm lấy họ, không biết để làm chi, nhưng phải ôm lấy. Họ đi mất rồi.
Cũng như hôm nay tôi là họ, và mai tôi sẽ đi. Hai điểm nhất định A và B trên
cùng một đường thẳng không bao giờ gặp nhau, nhưng vẫn ở trên một đường thẳng.
Bởi vì nếu gặp nhau thì không thể được gọi là A và B nữa, sẽ ngỡ ngàng nhìn
nhau. Và sẽ tự giới thiệu với nhau như bất cứ người xa lạ nào khác. Tôi đang đứng
đây, gặp họ trong không gian nhưng không gặp họ trong thời gian.
Ôm cuốn sách trong tay, tôi lặng đi một hồi lâu, có lẽ đén ba
bốn phút,rồi bỗng nhớ lại lời bạn tôi, Cerbu, nói với tôi hôm trước trong lúc
bàn về vấn đề khảo cứu tư tưởng Phật học Việt Nam. Tôi nhớ Anton. Tôi mà còn trẻ
à. Tôi cứ tưởng là mình đã sống lâu quá, đã sống nhiều quá
rồi. Mấy chục tuổi thì được gọi là trẻ. Bây giờ giật mình ngó lại thì mình
không hẳn là trẻ, không hẳn là già, cũng không phải là lưng chừng. Mình chỉ là
một cái gì không thực là có, không thực là không. có những lúc tôi trẻ con quá,
Nguyên Hưng cũng biết đấy, và vẫn tinh nghịch, vẫn đùa cợt, vẫn chơi trò đố tìm
với cuộc sống một cách thành thực say mê. Vẫn biết giận dỗi, vẫn thích được
ngơi khen, vẫn sẵn sàng khóc cười. Nhưng ở dưới đáy những cái đó, còn có cái gì
nữa nhỉ? Có hay không? Nếu có tại sao lôi nó lên không được? Nếu không sao ta cứ
đinh ninh rằng có?
Rồi trong khi ôm cuốn sách 1892, tôi thấy lóe lên vài tia hào
quang của trực giác: thì ra tôi không có lý tưởng nào cả, không có hoài vọng
nào cả, không có lập trường nào cả, không có chủ trương nào cả, không có hứa hẹn
chi với ai cả, không tự công nhận mình là một thực thể giữa những thực thể. Quyết
nhiên không phải môi trường sinh hoạt của nhân loại nói chung đã tạo nên cái thấy
đó. Quyết nhiên không vì chán nản vì lo sợ vì ước muốn vì say mê mà có cái thấy
đó. Cái thấy đó hồn nhiên tĩnh mạc mà xuất hiện. Lấy gậy đập vào tôi, lấy đá
ném vào tôi láy súng bắn vào tôi lấy lửa đốt tôi đi, Nguyên Hưng sẽ thấy tan biến
cái hình dáng cái ý niệm về con người tôi mà cả tôi và Nguyên Hưng đã từng tạo
dựng nên, đã từng tưởng là có thực, mờ ảo như mây khói, như hư vô nhưng sẽ
không phải là mây khói là hư vô, không xấu xí không đẹp đẽ nhưng vẫn có xấu có
đẹp như hình bóng trên màn bạc. Lúc ấy, Nguyên Hưng ơi, tôi thấy tôi trở về. Áo
của tôi, giầy của tôi, ngọn đuốc của tôi mất hết. Tôi chỉ còn là một con châu
chấu vô tư nằm trên lá cỏ, Ừ, đúng là một con châu chấu. Nó không nhớ lại tiền
thân. Tiền thân của nó biết thế nào là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Tiền
thân của nó biết thế nào là tăng, giảm, cấu, tịnh,sinh, diệt. Nó nằm trên lá cỏ,
không phải để xa lánh, để phản đối, để chê bai. Trẻ con thích những con chuồn
chuồn có cánh đỏ và mình đỏ như những trái ớt. Nó mầu xanh, lẫn trong cây cỏ,
ít đứa nào thấy. Nó không trốn, nhưng mà nó không gọi. Nó không biết triết học
là gì và nhất là lý tưởng là gì. Nó cảm ơn bài học của cuộc đời. Nguyên Hưng ơi
em sẽ chạy hấp tấp qua đồng cỏ để đón đứa trẻ năm xưa trở về. Và khi trông thấy
tôi, Nguyên Hưng sẽ trở lại. Trong lúc tâm hồn em tràn đầy thất vọng, em sẽ may
mắn tìm thấy nó trên một lá cỏ.
Nguyên Hưng ơi, những ngày ấy Steve đi Boston và tôi ở nhà một
mình. Cửa sổ phòng tôi để mở rộng suốt ngày đêm, như một lời cầu nguyện. Chuyện
xảy ra cho tôi không phải là một chuyện vui, nhưng không phải là một chuyện buồn.
Có những vấn đề của sự sống mà ta không thể xem là những vấn đề có thể nghiên cứu
và tư duy. Ta phải sống, phải chết với chúng, phải giao chiến, phải đồng nhất với
chúng. Chúng không thuộc riêng phạm vi của trí tuệ, chúng có gốc rễ ở cả phạm
vi của tình cảm và ý chí nữa. Chúng khua động tiềm thức và bản thể. Chúng thống
trị tim óc xương tủy máu huyết của con người. Nó là một hủy thể, rồi nó trở nên
hủy thể của hủy thể. Còn tôi thì thành một bãi chiến trường. Ra khỏi cơn bão tố
thì mới biết còn hay mất. Còn hay mất đây không phải chỉ cho sinh mệnh – còn
hay mất đây chỉ cho một cái gì quan trọng hơn sinh mệnh, đó là cái ta, cái ta
trước giờ bão tố. Lúc đó tôi cảm thấy tôi rất cần những người thương yêu nhưng
tôi cũng biết rằng nếu có mặt họ trong những lúc đó thì tôi lại càng cô đơn hơn,
càng đau khổ hơn. Có lẽ tôi phải đánh đuổi họ, hoặc là tôi trốn chạy họ, nghĩa
là tôi phải đánh đuổi tôi.
Nguyên Hưng khi bão tố đã gây xong tan nát, khi những lớp vô
hồ rã xuống thì quanh cảnh cũ cũng vừa tan. Trong hoang vắng có một vài tia nắng
xuất hiện từ chân trời xa rọi tới. Những tia nắng đó đã không sưởi ấm được cảnh
tượng chút nào mà còn làm tăng thêm tính chất cô đơn và hoang tàn của mặt đất.
Tôi xuất hiện trầm lặng, mình mang đầy thương tích và rất cô đơn, một thứ cô
đơn tuy có sức mạnh nhưng vẫn là cô đơn. Trong hình thể mới, tôi biết Nguyên
Hưng không nhìn ra được tôi. Và những người tôi nghĩ là thân yêu cũng không
nhìn ra được tôi. Mọi người muốn tôi nguyên vẹn như chú bé ngày xưa. Làm sao mà
có thể như thế được, Nguyên Hưng. Làm sao tôi có thể vừa sống vừa không sống
như thế được. Sống nghĩa là phải chết, chết trong từng giây từng phút, chết
trong cơn bão tố để làm điều kiện cho sự sống phát sinh mãi mãi hoài hoài.
Nguyên Hưng hãy xua đuổi tôi đi, mọi người hãy xua đuổi tôi đi. Tôi không thể vừa
sống cuộc sống của con người vừa làm một đối tượng bất biến cho sự thương yêu,
cho sự ghét bỏ, cho sự nhàm chán cho sự chiêm ngưỡng. Tôi phải lớn và vì vậy những
chiếc áo mẹ tôi may cho tôi ngày trước đã phải rách ở những đường chỉ. Tôi có
thể cất kỹ vào rương kỷ niệm những chiếc áo còn thơm mùi trẻ thơ và phảng phất
tình thương của mẹ, nhưng tôi phải có áo khác để mặc cho vừa kích thước. Áo của
tôi, tôi muốn tôi được tự may lấy. Tôi không tìm ra được thứ áo mà xã hội may sẵn.
Chiếc áo tôi, trước mắt xã hội, sẽ có vẻ dị kỳ, sẽ không được chấp nhận. Tôi biết
điều đó. Mà đây không phải chỉ là vấn đề một chiếc áo – đây là vấn đề của cả
con người của tôi. Tôi từ chối tất cả những thứ thước đo người ta bắt buộc
chúng ta phải dùng. Tôi nghĩ rằng tôi có một thước đo riêng của rôi, do tôi tìm
ra. Và như vậy là tôi phải khai chiến với thiên hạ rồi, phải không Nguyên Hưng.
Tôi khai chiến với xã hội, tôi khai chiến với tất cả những ai xâm phạm nhận thức
độc lập của tôi. Nhưng mà còn Nguyên Hưng còn những người thân yêu thì sao? Tôi
bắt buộc phải khai chiến với em, với tất cả mọi người – bởi vì tôi không thể
không là tôi, bởi vì tôi không thể lai chui vào trong cái vỏ cứng mà tôi vừa
phá vỡ để thoát ra. Đó là nguyên do của sự cô đơn. Tôi biết tôi có thể dùng cái
vốn liếng tình cảm cũ để ép đưa Nguyên Hưng cùng đi với tôi trong một chuyến du
hành không gian, chuyến du hành mà đôi khi chính tôi cũng cảm thấy chóng mặt.
Nhưng không gian thì quá hoang vắng và tốc độ thì không thể nào lường trước được.
Liệu Nguyên Hưng có thể ngồi lâu một bên tôi được không hay là lại choáng váng
lại sinh lòng oán hận thù ghét tôi. Lại ép tôi phải trở về ngay trên mặt trái đất,
nghĩa là trên mặt phẳng của những ước lệ những bảng giá trị cố hữu giả tạo? Như
thế có lợi chi cho cả hai bên, cả Nguyên Hưng cả tôi hay không?
Cho nên tôi muốn đốt cháy cái túp lều hiện giờ đang làm chỗ
trú ngụ của Nguyên Hưng. Tôi muốn gây xúc động, gây hoang mang, gây hỗn độn cho
Nguyên Hưng có thể đập vỡ được cái võ cứng đã từng giam hãm mình, bẻ gãy những
xích xiềng đã từng ràng buộc mình và phá tan những thần tượng đã từng chế ngự
mình. Để vươn lên và để nhận thấy rằng mình không thể còn đau khổ còn sung sướng
vì những cái bé nhỏ. Để sống như những người tự do, không chấp nhận một luật lệ
nào hết của sự sống. Có lẽ giây phút huy hoàng nhất là giây phút mà tôi được chứng
kiến sự trở về của Nguyên Hưng - tôi ưa gọi đó là một sự trở về - Sẽ đẹp tuyệt
vời cái giây phút Nguyên Hưng vừa thoát ra khỏi trạng thái hỗn độn nhiệm mầu
gây nên cho Nguyên Hưng bởi sự tiêu hủy của túp lều ẩn cuối cùng. Tôi hình dung
được hình bóng của Nguyên Hưng vừa thoát ra khỏi chiếc vỏ cứng ngàn đời, đứng
oai hùng trong ánh sáng rực rỡ của túp lều đang bốc cháy ngùn ngụt. Giờ phút ấy
là giờ phút mà Nguyên Hưng bắt đầu có hết. Và chỉ bắt đầu từ giờ phút đó tôi mới
thực sự có Nguyên Hưng.
Trong những ngày quằn quại khổ đau tôi không hề nói năng. Tôi
chỉ có thể làm những công việc tay chân. Có lẽ Steve nhận thấy rằng có một cái
gì rất khác thường đang xảy ra cho tôi nên từ hôm ở Boston về Steve nói năng và
cử động rất dè dặt. Nghĩ đến lúc ấy mới thấy thương Steve. Nó không khơi chuyện
với tôi và chỉ nói rất vắn tắt những điều cần nói. Đôi khi tôi biết Steve ngồi
lặng yên nhìn tôi hằng năm mười phút bằng cặp mắt lặng lẽ và đượm chút ít lo lắng.
Steve rút vào buồng ngủ và để tôi ngồi một mình trong phòng. Thái độ của người
con trai trẻ tuổi ấy thật đầy hiểu biết. Một buổi sáng chủ nhật tôi rủ Steve ra
công viên bờ sông; hai chúng tôi ngồi chơi trên thảm cỏ cho đến hơn một giờ
trưa mới về. Chúng tôi chẳng nói chuyện gì cho nhau nghe cả. Khi về đến nhà,
Steve hỏi rất nhỏ nhẹ: thầy có mệt không? Tôi trả lời không và cám ơn Steve.
Tuổi trẻ là tuổi đi tìm chân lý. Ngày xưa tôi viết trong nhật
ký; dù sự thực có tiêu hủy anh, anh cũng phải bám víu vào sự thực. Như thế là
tôi đã biết rất sớm rằng tìm thấy sự thực không phải là tìm thấy hạnh phúc. Anh
ao ước trông thấy nó, nhưng hễ trông thấy nó rồi là anh
không thể không khổ đau. Thà rằng anh không thấy gì hết, thà rằng anh chịu sự
điều khiển của một người độc đoán của một người hay một đám người khác. Mỗi người
đều tự xét mình và xét đoán kẻ khác bằng những nhận thức và những tiêu chuẩn vốn
không phải là của mình. Đó chỉ là những gì tạo ra do ước lệ do truyền thống. Đó
là những thước đo mà con người chung quanh, ở trật tự hiện htời của xã hội mà mọi
người đang phải chấp nhận. Nguyên Hưng cho cái này là xấu, cái kia là tốt, cái
này là thiện, cái kia là bất thiện, cái này là chân, cái kia là ngụy. Nhưng mà
những tiêu chuẩn để đoán định ấy vốn không phải là của Nguyên Hưng. Nguyên Hưng
đi mượn thước đo. Những cái thước đi mượn không bao giờ có thể gọi là chân lý cả.
Chân lý không thể đi mượn, chân lý chỉ có thể thực chứng. Chân lý là trái của
thực nghiệm tâm linh, của khổ đau, của sự xúc tiếp giữa tâm linh và thực tại,
thực tại hôm nay cũng như thực tại muôn đời. May mắn lắm, hoặc rủi ro lắm con
người mới bắt được nó. Và nó của người này không phải là nó của người khác, nó
của hôm nay không phải là nó của hôm qua. Nếu Nguyên Hưng khám phá được một cái
gì mà Nguyên Hưng biết là sự thực của hôm nay do tâm linh của Nguyên Hưng ấn chứng
thì Nguyên Hưng sẽ thấy mọi giá trị cũ đảo loọn và Nguyên Hưng sẽ có một lối
nhìn mới nó khiến cho Nguyên Hưng vượt thoát những ước lệ, những thành kiến, những
kiến chấp, những tiêu chuẩn và những trật tự… Có những khuôn vàng thước ngọc
ngày xưa nay đã được nhận thức như đã mang tính cách phong kiến. Khi Nguyên
Hưng đã đạt tới một tiêu chuẩn nhận thức chân xác về thực tại rồi thì Nguyên
Hưng không thể còn giả dối và chấp nhận những gì đã trở thành sai lạc trước mắt
Nguyên Hưng. Nguyên Hưng sẽ hành động theo nhận thức mình và như thế chỉ biết
tuân theo quy luật của sự sống do nội tâm Nguyên Hưng ấn chứng mà từ bỏ tất cả
mọi quy luật của xã hội hiện tại. Xã hội sẽ trả thù Nguyên Hưng một cách đích
đáng vì Nguyên Hưng đã dám cãi lại trật tự của nó lịch sử nhân loại đã chứng kiến
những cuộc trả thù ấy. Bao nhiêu thảm kịch xảy ra, thầm lặng, bi thiết. Lịch sử
nói “mi sẽ chết nếu mi cãi lại”. Vây mà bao nhiêu người dám, tuy nhận thức sự yếu
đuối của mình, cãi lại bóng tối. Bất cứ ai lỡ trông thấy sự thực, lỡ chia xẻ nhận
thức về sự thực ấy với những bậc vĩ nhân thì dù ít dù nhiều phải chịu chung số
phận của họ. Chịu chung số phận mà không chịu chung danh vọng.
Nguyên Hưng, tôi đã nói rằng những tia nắng đầu rọi trên cảnh
tượng tan nát sau cơn bão tố dù có chứng nhận được cho một cuộc thoát hình, vẫn
chỉ làm cho cảnh tượng là mình đang mang những đau xót của một bà mẹ khi chưa
sinh con mà đã biết trước rằng con mình sẽ bị lên án tử hình. Bà mẹ tương lai
kia sống trong thao thức, đau khổ, không hề có được một chút an ủi, một chút tự
hào, một chút hy vọng. Biết là mình đang có một đứa con. Biết là
mình không nên có đứa con đó thì hơn mà vẫn phải buồn lòng mang nặng đẻ đau để
rồi bi thảm chứng kiến sự tàn diệt của nó và của lòng mình, của chính mình.
Nhưng định nghiệp đã rõ ràng như vậy rồi. Biết trước cả rồi. Sao lại không sinh
một dứa con mũm mĩm? Dễ thương và hiền lành như mọi bà mẹ khác? Để mà hy vọng,
để mà tự hào, để mà sung sướng, để mà tiếp nhận lời khen ngợi của mọi người?
Nhưng mà không lẽ chúng ta không đứng đậy? Không lẽ chúng ta
để cho rêu phủ chúng ta như phủ một ngôi cổ tháp? Không lẽ chúng ta bơi theo một
bản ngã giả tạo không là ta? Gần đây tôi viết cho Hương một lá thư, trong ấy
tôi kể câu huyện một người thiếu nữ nghèo ước mơ được sống trong nhung lụa. Tên
nàng là Minh. Nàng gặp một thương gia trẻ tuổi, rất giàu có, cưới nàng. Như thế
mộng của nàng đã thành tựu. Mộng nàng như tôi đã nói chỉ là được sống trong ngọc
vàng nhung lụa, cho nên nàng về với chàng thương gia trẻ tuổi không vì tình
yêu. Còn người thương gia cũng nói rằng chàng cưới nàng vì nàng rất giống với
người vợ trước của chàng, tên là Nguyệt. Cũng không vì tình yêu. Nàng không nề
hà điều đó. Nàng sống cuộc đời giàu có và chỉ cần chiều chàng một điều: đó là
nghe lời chàng để tập cho mọi ngôn ngữ mọi cử chỉ giống hệt như Nguyệt, người vợ
trước. Đòi hỏi đó ban đầu thì không khó chịu lắm nhưng càng ngày càng trở thành
một thứ gông cùm, một thứ quyền lực thống trị nàng. Nàng là Minh nhưng nàng phải
bắt chước cho giống Nguyệt. Có những mầu áo mà Nguyệt ưa, đọc những tờ báo mà
Nguyệt đọc, nói những lời mà Nguyệt nói, ăn những món ăn mà Nguyệt ăn… Nàng
không được là Minh, mà phải là Nguyệt. Đó là tất cả bi kịch. Nàng thấy khổ đau
vì nhân cách nàng chỉ là một cái móc áo, trên đó chàng móc cái nhân cách Nguyệt.
Nhưng nàng không thể và không có can đảm khước từ cuộc sống giàu có bởi vì nàng
đã làm quen với nó, đã bị nó phong tỏa rồi. Nghe đến đây, chắc ai cũng ước mong
rằng nàng có đủ can đảm để từ bỏ chàng thương gia, về sống lại cuộc đời giản dị
của một người thôn nữ, và khôi phục lại bản ngã đích thực của mình. “Đứng vào địa
vị nàng, ta nhất định từ bỏ nếp sống nhục nhã kia”. Ai cũng nói thế. Nhưng
chúng ta chỉ là những người ngoại cuộc, những người đứng bên ngoài, những người
xem kịch. Vì thế cho nên chúng ta có vẻ sáng suốt, tỉnh táo. Giá chúng ta là
nàng thực, thì chúng ta mới thức sự cảm thấy lúng túng. Mà Nguyên Hưng ơi, ai
trong chúng ta mà lại không là nàng? Tất cả chúng ta đều đang phải tuân theo mệnh
lệnh ác nghiệt của guồng máy xã hội hiện tại, ta đang cúi đầu vâng lời, và
chúng ta phải ăn, nói, suy nghĩ, hành động theo những mẫu mực mà xã hội đã thiết
lập và muốn chúng ta phải tùng phục. Chúng ta không được tự do là chúng ta, cũng
như Minh không được là Minh. Để rồi chúng ta, tất cả chúng ta đều được xã hội
chế biến và khuôn đúc thành những hóa phẩm giống nhau. Hóa phẩm mà không còn là
nhân phẩm. Guồng máy đưa tới một cái collective ressemblance mà khi
nhìn vào, chúng ta thấy nhân tính và cá tính con người bị đe dọa trầm trọng.
Chúng ta cúi đầu đi theo, tại vì chúng ta không có can đảm chống trả lại, không
có can đảm từ bỏ. Cũng như Minh. Chúng ta có hơn gì nàng đâu. Tại vì chúng ta
đã làm quen với cuộc sống xã hội đầy tiện nghi này rồi và chúng ta đã bị nó khống
chế mất rồi.
Nguyên Hưng có biết rồi câu chuyện đi đến đâu không. Một bữa
kia Minh khám phá ra rằng Nguyệt, người vợ trước của chàng thương gia, vốn là kẻ
ngoại tình. Minh mong lấy chứng cớ để làm cho chàng thương gia tỉnh mộng, nhưng
không. Chàng bảo vì Nguyệt ngoại tình nên Nguyệt đã bị chính tay chàng giết.
Nhưng giết xong vẫn chưa hả giận. Thấy Minh giống Nguyệt, chàng cưới nàng về,
làm cho nàng giống Nguyệt thêm, làm cho nàng thành Nguyệt, để được giết Nguyệt
một lần nữa. Và chàng xông lại để giết Nguyệt. Nguyệt vùng vẫy tuyệt vọng.
Tôi không dám kết luận là Nguyệt có chết hay không và vì
không khép câu chuyện lại được. Mà dù Nguyệt không chết thì Nguyệt cũng ngắc
ngoải rồi, như con người của xã hội chúng ta đang ngắc ngoải. Tôi mong ước một
sự vùng dậy của con người, chờ đợi một sự vùng dậy của con người, phải kịp thời,
đừng chậm chạp quá như Minh để đến giờ phút chót mới chịu vùng vẫy.
Nguyên Hưng, một buổi sáng, tôi thấy trời hé nắng, tôi nhận
được một cái thiệp chúc sinh nhật từ nhà gửi qua. Hôm đó quả đúng là ngày sinh
nhật của tôi. Mà cũng là ngày tôi được tái sinh một lần nữa, không biết lần thứ
mấy. Trong một lá thư, Tuệ chép cho tôi ba câu thơ của Trụ Vũ:
“tôi đi giữa sa mạc hiu quạnh
một con gấu bỗng đến vồ tôi
nhưng tôi ngó thẳng vào mặt nó…”
Nhưng tôi ngó thẳng vào mặt nó! Phải tôi đã ngó thẳng vào mặt
nó, và đã thấy được mặt mũi nó rồi. Tôi như một người vừa được giáp mặt tử thần.
Tôi như một người ốm nặng vừa mới bình phục. Tôi mặc áo, xuống đường và lững thững
trên hè phố, thèm khát ánh nắng buổi mai sau một chuỗi ngày u ám. Gió bão dịu dần.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét