Cách nói của người
miền Tây Nam bộ qua ca dao
Kính
tặng T.S Nguyễn Văn Nở
1. Người miền Tây Nam bộ với câu nói,
tiếng cười
Theo Cơ sở văn hóa Việt Nam của
Trần Quốc Vượng (chủ biên), phần được coi là Tây Nam Bộ có diện tích khoảng
4.000 km2, chủ yếu là vùng đồng bằng sông Cửu Long, một số đảo (lớn
nhất là đảo Phú Quốc) cùng một vài dãy núi thấp ở phía Tây An Giang, Kiên
Giang.
Hầu hết các nhà văn hoá học, dân tộc học,… đều có chung nhận định tương đối thống nhất về tính cách người Nam Bộ. Họ là
những người hào hiệp trong cuộc sống, bình đẳng trong giao tiếp, ít bảo thủ.
Xưa, Tây Nam bộ từ miền đất
hoang vu rừng rậm, nhiều sông rạch, đầm lầy muỗi kêu như sáo thổi, đỉa
lội tợ bánh canh, dưới sông sấu rống, trên rừng cọp um,…
Người nông dân Tây Nam bộ lao động cần cù, dũng cảm. Thế hệ sau tiếp
nối thế hệ trước cải tạo những vùng đất bát ngát nhưng phèn chua và ngập nước,
sinh sống bằng nghề trồng lúa, đánh bắt cá tôm,… Ở vùng đất giồng cao hơn thì
trồng cây hái trái, trồng tỉa hoa màu,… Ðể tồn tại và phát triển tất yếu các
gia đình nông dân trong xóm ấp liên kết lại, lao động dần công cưu mang đùm bọc
trong cái nghĩa bán anh em xa mua láng giềng gần, giúp đỡ nhau
từ chén cơm manh áo, đến hột gạo của khoai. Nói
chuyện thì thích ăn ngay nói thẳng, ghét ăn gian nói dóc…
Nói chuyện phải rõ ràng, thẳng thắn:
Nước chảy cho đá lăn tròn,
Giận thì nói vậy chớ bụng còn thương em
Trong nghi lễ đính hôn, người ta gọi
là đám nói. Ở đó hai bên sui gia “nói chuyện” tác thành cho đôi
trẻ. Người con gái trong câu ca sau đây đã bộc lộ một suy nghĩ “táo bạo”...
hết chỗ nói!
Ba nơi đi nói chẳng màng,
Chờ nơi chết vợ sẵn sàng nhảy vô
Tiếng nói không dừng lại ở chức năng kể
lể, truyền đạt mà đối với họ nói còn là nghệ thuật. Độc đáo hơn chính từ lớp
khẩu ngữ mộc mạc ấy, đi vào lời ngâm, câu hò, điệu lý, …, hình thành nên những
vần ca dao - một thể loại trữ tình dân gian. Khám phá từ đây, phần nào chúng ta
nhận thấy được bản tính của người bình dân miền đất Cửu Long giang.
2. Những cách nói của người
Tây Nam bộ thể hiện qua ca dao
2.1. Về mặt ngữ âm
Thứ nhất, khi khảo sát về mặt ngữ âm,
chúng tôi nhận thấy ca dao Tây Nam Bộ có nhiều hiện tượng nói trại,
tức là nói lệch đi cấu tạo của âm chính trong tiếng. Từ đó, tạo nên lớp từ biến
âm đa dạng trong lời nói của đồng bào. Họ không nói thuyền mà
thay bằng thoàn, nhơn ngãi, nhơn ngỡi, thay cho nhân
nghĩa, Châu Do thay cho Chu Du (nhân vật
trong Tam Quốc diễn nghĩa), bệnh thay bằng bịnh, huê thay
cho hoa, lụy thay cho lệ,… Nguyên nhân thì
có nhiều: vì kiêng huý, để kiêng dè, kính trọng, hoặc… để đơn thuần chỉ hiệp
vần cho thơ,…
- Phụ mẫu tình thâm,
Phu thê nhơn ngãi trượng,
Một mai anh có xa em rồi, thờ phượng mẹ
cha
- Lao xao sóng bủa dưới thoàn
Vắng em một bữa ăn vàng không ngon
- Lụy xang xang đưa nàng
xuống vịnh,
Anh trở lộn về nhuốm bịnh tương
tư.
- Hai vừng nhựt nguyệt rành
rành
Sao anh đứt đạn (đoạn)
chung tình bỏ em
Thứ hai là cách nói tránh. Gặp
chuyện không hay, tránh điều thô tục, người ta thường mượn từ ngữ khác để diễn
đạt, ý vẫn giữ.
Còn duyên kẻ đón người đưa
Duyên có nhiều nghĩa, nó vốn là một từ mà
nhà Phật, Từ điển tiếng Việt giải thích là “cái nợ từ kiếp trước đeo đẳng lấy
nhau”. Duyên có thể hiểu là sắc đẹp của người con gái mới lớn.
Theo thời gian, duyên dần tàn phai. Còn ở trường hợp này, tác
giả dân gian dùng “duyên” thay cho một từ khác, chỉ nơi nhạy cảm của người con
gái, cứ xem cách so sánh của chàng trai ở ngay dưới đây, giữa còn duyên sẽ
cưới nàng bằng ba heo, còn mất duyên chỉ phải tốn
… con mèo cụt đuôi thì giá trị của từ duyênmà
người nói cố ý tránh, đã quá tường minh.
Còn duyên anh cưới ba heo
Hết duyên anh cưới con mèo cụt đuôi
Thứ ba, nói bằng tiếng địa phương. Theo
quy luật tồn tại của ngôn ngữ, ở miền Tây Nam Bộ cũng có những “đặc sản” của
riêng mình.
Ngó lên tổ nễ chau mày,
Mảnh lo sự khó quên ngày muối dưa
Tổ nễ là tiếng lóng, cách tôn xưng
chỉ ông bà, tổ tiên, xuất hiện khá phổ biến trong khẩu ngữ dân gian
miền quê.
Phương ngữ trong câu ca sau, rất đáng chú
ý:
Chiều mai chiều mốt anh cốt cây bần
Chẳng cho ghe cá đậu gần ghe tôm
Anh chàng nào đó không cho người khác đến
gần người con gái anh ta đã để ý. Anh ta dùng tiếng “cốt” để nói. “Cốt” có
nghĩa là đốn cây, chặt cây, từ này phổ biến trong dân gian miệt Rạch Giá - Cà
Mau. Cây bần là loài thực vật mà người ta xem chỉ toàn… giống đực! (Bởi rễ bần
được gọi là… cặc bần!). “Cốt” cây bần là lời cảnh báo dư sức nặng dành cho
những ai ham trổ mòi với “ghe” đã có chủ!
Người Tây Nam Bộ nói hun, tức
dùng mũi để… biểu lộ tình cảm không dùng hôn, không dùng môi,
miệng để… làm việc hun!
Ước gì anh hoá con kiến vàng
Bò qua quay nón của nàng mà hun
Dân gian nói hiếm hiệm, nghĩa
của nó là đủ rồi, là bộn bàng rồi, hay chỉ sự dư dã của một
thứ nào đó,…
Muốn cúc chơi chậu tam hường,
Liễu huê hiếm hiệm dọc đường thiếu chi.
Dùng phương ngữ để nói ẩn ý, ngầm so sánh
giữa chậu cúc tam hườngvà liễu hoa (huê) dọc đường.
Từ hiếm hiệm đã làm tăng giá trị một chủ thể và cũng làm giảm
đi giá trị một chủ thể, bởi nhiều, dư dã thì khó gọi… quý hiếm được! Nói hiếm
hiệm tức là… không hiếm vậy!
Thứ tư, nói bằng cách mượn tiếng của người
Tiều (Triều Châu), bộ phận người Hoa đã di cư và định cư ở đây từ mất thế kỷ
trước. Qua thực tế điền dã, chúng tôi dẫn lại mấy câu ca ở Bạc Liêu, thế này:
- Chờ anh em hết sức chờ
Chờ cho ến xại (rau muống) lên bờ khùi hui
(khai huê, tức trổ bông)
- Nào khi ến thạo, hoan tùa (Khi nào thấy
hơi gió lớn thổi)
Sùn hoang nghệc láo, xuốt gùa thăm em (Gió
xuôi, nước ngược ra thăm em)
- Trời mưa dít ạm hoang tùa (Trời mưa,
trời tối gió to)
A hia phề chuối xuốt gùa thăm em (Anh chèo
ghe ngược ra thăm em) (…)
2.2. Về mặt ngữ nghĩa
2.2.1. Nói toạc móng heo
Nói toạc móng heo là cách nói thẳng
hết những sự thật, không cần giấu giếm, che đậy.
Đầu tiên là cách nói thẳng để tỏ tình:
Gió đẩy đưa rau dừa quặn quỵu,
Anh mảng thương nàng lịu địu xuống lên
Những tiếng mang thành trắc tạo thành vần
ở hai dòng thơ đã góp phần diễn tả một hiện thực của buổi đầu ngỏ lời trao ý,
đồng thời nó cũng tả đúng tình cảnh khắc khổ của người chân đất chân quê!
Không xao xuyến làm sao được, bởi hình
bóng của người con gái có duyên:
Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài bối rối dạ anh
Lẽ tất nhiên, khi con tim đã rộn ràng,
người trong cuộc cần nhiều hơn nữa sự chân thật, và họ bày tỏ nỗi lòng:
Bước cẳng xuống tàu, tàu khua rổn rổn
Tàu qua Nhựt Bổn lấy nước Châu Thành
Anh với em phải nói cho rành
Cần lưu ý, những dòng đầu, cách dùng
phương ngữ cẳng thay cho chân, hay từ tượng
thanh lổn rổn như để diễn tả tâm trạng, họ chỉ mượn cớ để nói
chứ không hẳn cần đúng sự thật, bởi sự thật thì làm gì có nước Châu Thành, mà
nó cũng chẳng liên quan đến Nhựt Bổn! Mới hay, đó là cách tạo cớ để nói, cớ
không thật nhưng lòng người thì thẳng băng như mực tàu!
Khi tương tư, họ nói mà như bày tỏ cả gan
ruột với người mình yêu:
Phụ mẫu đánh anh quặt quà quặt quại,
Đem anh treo tại nhánh bần.
Rủi đứt dây mà rớt xuống,
Anh cũng lần mò kiếm em.
Lời thề được thốt lên mãnh liệt:
Chẳng thà lăn xuống giếng cái chũm
Chết ngủm rồi đời
Sống chi đây chịu chữ mồ côi
Loan xa phượng cách biết đứng ngồi với ai
Hay như:
Dao phay kề cổ, máu đổ không màng
Chết thì chịu chết, buông nàng anh không
buông
Song không phải vì những lời nói ngay
thẳng thế mà mọi chuyện tốt đẹp vẹn toàn, người trong cuộc đã cảnh giác:
Biển Đông gió thổi bốn mùa,
Say mê lời nói thuốc bùa không hay
Miệng đàn ông nói như tha mỡ, trơn lu, giỏi bỏ bùa các cô nhẹ
dạ, vì thế, người bình dân mới gửi gắm lời khuyên ấy!
Lúc tan vỡ, cô gái đã nhận ra tất cả phũ
phàng nên quyết liệt tránh xa:
Bần gie, bần liệt, diệc đau chờ mồi
Anh với em duyên nợ hết rồi
Đi tìm chỗ khác đừng ngồi kế em
Phía nam nhi chi tử cũng nhạy cảm chuyện
trắc trở:
Vỗ vai con Bảy không ừ,
Hay là con Bảy giận, con Bảy từ ngãi anh
Gọi người yêu bằng con thì
chân tình lắm, hành động cũng thật táo bạo, nhưng rồi anh ta chỉ nhận được sự
im lặng thay cho cách trả lời từ đối tượng. Cuối cùng, có lẽ ngẫm nghĩ lại anh
ta đã nhận ra sự thật!
Có trường hợp nguy hiểm hơn, ai đó, vì lý
do tế nhị đã quẩn quanh, cố giấu che một sự thật, đến khi sự thật kia bị...
phát hiện:
Bậu nói với qua bậu không lang chạ,
Qua bắt đặng bậu rồi, đành dạ bậu chưa
Nói huỵt tẹc để người trong cuộc không thể
“đổ thừa” nữa, dù cách “đổ thừa” cho “tại” cho “bị” vốn là câu nói cửa miệng
của những người... trót lỡ lầm!
Em đi lên xuống cầu dừa
Lấy ai có chửa đổ thừa cho anh
Có chửa hoang, là người hư đốn, là một
chuyện động trời, có lẽ vì sự chấn động kinh khủng ấy, nên mới có chuyện “đổ
thừa” nhằm tránh tội chăng?
Cũng là cách nói thẳng, ta gặp câu ca đáo
để khác:
Nước ròng trong ngọn chảy ra
Thấy em chồng chết anh bôn ba qua liền
Bôn ba là tính từ chỉ sự vội vã,
vội vàng trong hành động. Qua lời nói trực tiếp ấy dường như người
trong cuộc đã hiểu được nỗi lòng của người nói. Chồng em chết anh vội qua ngay
để… giúp đỡ! Tất nhiên là trong cảnh goá bụa, chiếc bóng một mình, có nhiều
chuyện cần phải có bàn tay người đàn ông lắm! Nói thật, nói thẳng nhưng không
phải là không có ẩn ý trong kiểu nói như vậy! Cảnh giác quá mức sẽ phụ lòng của
người hàng xóm tốt bụng, còn nếu “ngây thơ” thì biết đâu… chấp được mối tơ
thừa! Nên chăng?
2.2.2. Nói vòng vo, nói bóng nói gió
Ở trên, chúng tôi đề cập đến cách nói
tránh. Đến đây, chúng tôi phân tích chi tiết hơn cách nói bóng gió, vòng
vo Tam Quốc của người bình dân.
Khi gặp tình huống không nói thật được,
đành phải nói xa xăm để đặt vấn đề:
Đội ơn bà ngoại đẻ má, má đẻ mình dễ
thương
Muốn khen một cô gái đẹp mà mình vừa ý,
muốn tỏ tình thương, nói bằng lời thật khó, không khéo dễ bị vô duyên, chối từ,
như thế, mọi việc hỏng bét. Vì thế, chàng trai đã dày công bắt cầu trong
cách nói. Vừa nhớ ơn bà, vừa khen má và tất nhiên là khen cả đối tượng anh ta
muốn nói đến.
Hơn nữa, với cách nói lấp lửng, vô tình
anh ta đã gọi được tiếng ngoại, tiếng má của cô
gái như chính cô gái hay kêu. Thông thường, cách kêu như vậy, chỉ xảy ra khi
hai người đã nên vợ nên chồng. Thật là đáng khâm phục trong cách nói vòng vo!
Để nói bóng gió, người ta còn sử dụng cách
nói bằng thành ngữ, điển tích
Thành ngữ: cụm từ cố định, bền vững, có
tính nguyên khối về ngữ nghĩa không nhằm diễn trọn một ý, một nhận xét như tục
ngữ, mà nhằm thể hiện một quan niệm dưới một hình thức sinh động, hàm súc. [2;
297]
Trong ca dao Tây Nam Bộ không ít câu sử
dụng thành ngữ. Do phạm vi bài viết là khảo sát cách nói, chúng tôi chỉ xem
thành ngữ nhất là thành ngữ Hán Việt như một phương tiện của lời nói chứ không
đi sâu phân tích chức năng của chúng.
Đây là một cách dùng thành ngữ Hán Việt
trong điệu hò:
Thiện ác đáo đầu chung hữu báo.
Cao phi viễn tẩu dã nan tàng
Từ khi anh xa cách con bạn vàng
Cơm ăn chẳng được như con chim phụng hoàng
bị tên.
Dễ hiểu hơn, nói bằng thành ngữ Hán Việt
và sau đó dùng lời thơ để giải thích nghĩa cho người nghe biết luôn:
Thiên sinh nhơn hà nhơn vô lộc,
Địa sinh thảo hà thảo vô căn.
Trời sinh người đều có lộc trời,
Đất thì sinh cỏ rễ chồi nào không.
Đi liền với thành ngữ là những điển tích.
Điển tích (hay điển cố) là một biện pháp tu từ, ở đó tác giả sử dụng “câu
chuyện” sao cho phù hợp với văn mạch mình nhằm tạo tính hàm súc cho lời văn, ý
thơ. Ca dao Tây Nam Bộ cũng vậy, không hiếm những câu chuyện trong sách sử được
dùng để nói:
Ai khôn bằng Tiết Đinh San,
Cũng còn mắc kế nàng Phàn Lê Huê.
Tiết Đinh San, Phàn Lê Huê là nhân vật
trong bộ tiểu thuyết chương hồi Tiết Đinh San chinh Tây.
Hay câu ca khác:
Văng vẳng bên tai
Tiếng ai như tiếng con Điêu Thuyền?
Anh đây Lữ Bố kết nguyền thuở xưa
Lữ Bố, Điêu Thuyền là hai nhân vật
trong Tam Quốc chí diễn nghĩa. Các tác phẩm vừa kể được dân gian
gọi chung là truyện Tàu, thể loại văn học ảnh hưởng sâu rộng trong
đời sống người bình dân Tây Nam Bộ từ nửa đầu thế kỷ XX trở về trước.
Mượn thành ngữ, điển tích để chen vào lời
nói, làm cho ý của người diễn đạt thêm sinh động, hàm súc, người tiếp nhận phải
có cùng “kênh” giao tiếp thì mới tường tận vấn đề mà người nói muốn biểu đạt!
Phương tiện hỗ trợ đắc lực cho cách nói
bóng gió là các biện pháp tu từ.
Một là, dùng từ đa nghĩa để chơi chữ:
Em ơi hãy lấy anh thợ bào
Khom lưng ảnh đẩy cái nào cũng êm
Rất dễ dàng nhận ra chuyện thợ bào đẩy bào
để bào cây, bào ván cho bóng, cho trơn, đến chuyện đẩy theo
cách nói trây, dân gian gợi nên hành động của vợ chồng chốn phòng the!
Tương tự từ đẩy vừa phân
tích, là từ cày sau đây:
Chồng em nào phải trâu cày
Mà cho chị mượn cả này lẫn đêm
Cách nói táo bạo hơn, nhưng người nghe
không thể bắt lỗi được họ:
Cu tui vừa mới mọc lông
Cu là con chim gáy, lồng là vật để nhốt
chim. Nhưng thật tình không người nghe nào chỉ dừng cách hiểu của mình ở đó cả,
…
Chúng ta hãy nghe lời một cô gái dặn người
mình yêu khi chàng và nàng muốn “gần” nhau:
Chuột kêu chút chít trong rương
Anh đi cho khéo kẻo đụng giường mẹ hay
Ngày xưa cái giường của người nhà quê là
loại giường chỏng đóng bằng tre già, lâu ngày thành xiêu lỏng, đụng vào đó nó
kêu cót két, giống như tiếng chuột kêu chút chít. Có lẽ bà mẹ của cô gái kia đã
hơn một lần chợt thức giấc, nghe tiếng chiếc giường tre kêu rúc rích, cô gái đã
nhanh trí trả lời rằng đấy là do chuột ở trong rương (!). Rút
kinh nghiệm, cô gái đã nhắc khéo cho tình nhân kẻo lỡ làng chuyện ân ái.
Hai là, người bình dân dùng hình thức so
sánh, phúng dụ, ẩn dụ, hoán dụ,…, trong lời ca, tiếng hát:
Từ hình ảnh so sánh:
Thân em như cá rô mề
Lao xao giữa chợ biết về tay ai
Cá rô mề quá đỗi quen thuộc với vùng sông
nước, ruộng đồng. Mượn nó, để ví với… thân em thì thật là dí dỏm! Tình cảnh
của người con gái ngày xưa không khác gì thân cá rô nằm trong rổ nhảy
rồ rồ, lao xao giữa chợ. Tinh ý hơn, người nghe còn phát hiện cá rô
mề là để liên tưởng đến chỗ kín đáo nhất của người con gái,… thật là
một cách nói khéo không ai bằng được người bình dân!
Đến cách nói phúng dụ, mượn lời con vật để
thay lời người muốn nói:
Cóc chết nàng nhái rầu rầu
Chàng hiu đi hỏi lắc đầu hổng ưng
Con ếch ngồi ở gốc đưng
Nó kêu cái ẹo biểu ưng cho rồi
Nói vòng vo nhưng là thiệt bụng, thiệt
lòng làm sao!
Rồi nói bằng ẩn dụ:
Ruộng ai thì nấy đắp bờ
Duyên ai nấy gặp đợi chờ uổng công
Câu ca tả thực cảnh của người nông dân
chân lấm tay bùn. Song, ý người muốn nói chưa dừng hẳn ở đó. Ruộng và bờ liên
quan nhau như vật sở hữu và người sở hữu. Vậy tình yêu, có cần phải cắm ranh,
cặm cọc hay không? Có lẽ trả lời rằng “cần” phải có “bờ” có “đập” để xác lập
chủ quyền, xem ra không có gì là quá đáng!
Hoặc dùng hoán dụ:
Nước chảy re re con cá he nó xoè đuôi
phụng
Em có chồng rồi trong bụng anh vẫn còn
thương
Mượn từ bụng để nói cả
tâm tình lưu luyến của cố nhân! Lấy bộ phận để nói khái quát cho cái toàn thể
là vậy.
2.2.3. Nói khó
Trong giao tiếp, hay sinh hoạt người ta
thường nhắc lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Thực tế thì không
phải không có những lời nói khó nghe. Mượn những câu hỏi để bộc bạch:
Gần sông cội mới ngã kề,
Tiếng tăm anh chịu, em về tay ai?
Hỏi mà không có lời đáp và chắc cũng chẳng
cần ai trả lời, bởi đó là cách nói khó. Vấn đề là người nghe, cụ thể hơn là đối
tượng hướng đến của giao tiếp có hiểu hay không mà thôi!
Có chồng bậu nói rằng không,
Con đâu bậu ẵm bậu bồng trên tay?
Không biết sự thể của người trong cuộc thế
nào, có chịu nỗi oan Thị Kính hay không?
Nhẹ nhàng hơn, nói một cách đón ngách chặn
đầu rằng:
Đá cheo leo muốn trèo sợ trợt,
Muốn nói một hai lời sợ nhột ý em?
Chia sẻ hay mỉa mai, chọc ghẹo, …, tính
chất đa nghĩa ấy bộc lộ qua lời hỏi khó, dành cho người kém may mắn trong
chuyện lứa đôi:
Cau già lỡ lứa bán trăm,
Chị nọ lỡ lứa biết nằm cùng ai?
Có thể tìm ra nguyên nhân của những lời
hỏi khó như vậy là vì cuộc sống vốn không thiếu người có tính này, ý khác:
Cái áo bậu bận cũng tiền anh cho?
Nhiều lúc, những câu hỏi trong lời nói khó
đã nâng lên thành triết lý trong quan hệ giữa người với người trong xã hội:
Nước không chưn sao gọi rằng nước đứng,
Chén của người sao gọi chén chung?
Ai từng bận áo không bâu,
An cơm không đũa, ăn trầu không vôi?
Chim bay mỏi cánh chim ngơi,
Đố ai bắt đặng chim trời mới ngoan.
2.2.4. Nói cho hả dạ, nói cho đã tức
Từ nói khó chuyển sang nói cho hả, nói để
trút cơn tức giận.
Miệng đuổi chim, tay cầm cần vụt
Mãn mùa rồi xí hụt anh ơi
Thế là công lao bao nhiêu tháng ngày vun
quén giờ bị đem bỏ sông bỏ biển. Ai mà không buồn, không đau, không tức trào
máu, nhưng biết ai chia sẻ, thôi thì cứ nói lên, hét lên cho hả hê!
Họ nói như mỉa mai, cười cho sự chua chát
của thân phận mình:
Anh tưởng giếng sâu anh nối sợi dây cụt
Ai dè giếng cạn nó hụt sợi dây
Qua tới đây không cưới được cô hai mày
Qua chèo ghe ra biển đợi nước đầy qua chèo
trở vô
Bằng cách nói ngược: giếng sâu -
dây cụt, rồi giếng cạn - hụt sợi dây, dường như để ám chỉ
sự đổi trắng thay đen của thói đời, đã vậy, dại gì chết đi cho uổng!
Tiếng nói của sự khao khát yêu đương,
tiếng nói cũng những chuyện oái oăm được dân gian thể hiện:
Con gái mười bảy mười ba
Đêm nằm với mẹ, khóc la đòi chồng
Mẹ giận mẹ phát ngang hông:
Đồ con mất nết đòi chồng suốt đêm!
Có lúc nói cho hả lòng, nói cho mọi người
biết, vì chỉ cần lơ là một chút, người chủ quan đã bị bạn bè, lối xóm ra tay
hãm hại:
Mảng coi con quạ rỉa lông,
Chị em lân cận giựt chồng không hay
Hướng đến đối tượng tiếp nhận chính là
người mình yêu ngày trước. Nay anh đã không vẹn chung tình, anh bỏ em đi cưới
vợ khác, anh hãy nghe đây:
Bần gie bần liệt đóm đậu ngọn bần
Anh đi cưới vợ em vái cho sóng thần nhận
ghe
Đúng, rất chính xác, chỉ có những cô
em gái quê rang quê rít, tóc dài bỏ xoã, bận áo bà ba (lời một bài dân
ca ở Sóc Trăng) mới có trực tính để bật thành tiếng nói như vậy!
Với cảnh ngộ khác, một anh chàng thật tội
nghiệp, trút giận:
Bờ bụi tối tăm, anh quơ nhằm cái tộ bể
Cưới vợ có chửa về thổi lửa queo râu
Thật trớ trêu, ai nghe mà chẳng cảm thông
cho chuyện nhầm lẫn tai hại đó.
Với kết cấu đối đáp, ta gặp một lời chọc
ghẹo của chàng trai lắm môi mép:
Trời mưa cho ướt ruộng gò
Thấy em chăn bò anh để ý thương
Cô gái chẳng vừa, tát lại ngay:
Trời mưa ướt cọng rau mương
Bò em, em giữ anh thương cái giống gì?
Độc hơn ở cách nói nước đôi, cụm từ anh
thương cái giống gì vừa chỉ giống… người (là em) vừa chỉ giống… ăn
cỏ! Vậy mới chết chớ!
Cọc tính hơn, cô gái lớn tiếng rủa kẻ ve
vãn mình:
Dê xồm ăn lá khổ qua
Ăn nhầm lá đậu chết cha dê xồm
Đảo lại, cũng trong lời đối đáp, nhưng lần
này “phần thắng” nghiêng về phía chàng trai:
Áo vắt vai đi đâu hăm hở,
Em có chồng rồi mắc cỡ lêu lêu.
Áo vắt vai anh đi dạo ruộng,
Anh có vợ rồi chẳng chuộng bậu đâu.
Tiếng nói uất nghẹn còn hướng đến những
đối tượng đã gây ra nhiều chuyện phiền toái:
Quất ông tơ cái trót
Ổng nhảy tót lên ngọn cây bần
Biểu ông se mối chỉ năm bảy lần, ổng không
se
Cà rỡn là lời nói với chức năng đùa vui,
không thể hiển sự giọng cao thấp, cạnh khóe. Chàng trai thấy cô gái dễ thương,
bèn bông lông rằng:
Nước Láng Linh chảy ra Vàm Cú
Thấy em chèo cặp vú muốn hun
Quả là lời tỏ tình trắng trợn, muốn chuyện… rất nhạy cảm mà dám cất thành lời, nhưng xét cho cùng đối tượng cần nghe hình
như không nghe thấy, người dưới sông, người trên bờ, khoảng cách quá xa… Có
lẽ, khi gần nhau chẳng ai dám nói kiểu… đó! Nhưng cũng chẳng sao, nếu bị phản
ứng, anh ta sẽ dễ dàng ứng phó, theo kiểu “tán gái”:
Bới tóc cánh tiên, bỏ vòng lá liễu
Thấy miệng em cười trời biểu anh thương
Nhiều khi, tỏ tình không được thì làm liều
kiểu Chí Phèo yêu Thị Nở (nhân vật của Nam Cao), nói chơi cho vui, ai nghe được
thì cứ xem là câu nói giễu, để cười, song không phải vì thế mà không có ẩn
tình:
Tui hun mình, dẫu mình có la
làng
Thì tui la xóm hai đàng la chung
Tui hun mình dẫu có làm hung
Nhơn cùng tắc biến tui chun xuống sàn
Ở cảnh ngộ khác, có lẽ chàng trai đã “để
ý” đến người mình thương nhiều lắm, nhưng anh ta không dám mở lời. Anh chàng
mượn con cuađể nói khơi khơi:
Con cua càng bò ngang đám bí
Nó với chị mày giờ tí qua qua
Chức năng bông đùa của câu ca này theo
chúng tôi nằm ở mốc thời gian hẹn ước. Giờ tý là canh ba, mọi người đã yên giấc
ngủ, anh ta lại “qua” để gặp chị mày thì chắc là sẽ… có chuyện!
Trong kết cấu đối đáp cũng có những câu
lém lỉnh, cà rỡn:
- Ai mà bày đặt dị kỳ
Áo bà ba may hai túi đựng giống gì hở anh
- Ba má bày đặt cho anh
Áo bà ba may hai túi đựng dầu chanh o mèo
Một trường hợp hỏi - đáp khác:
Nước mắm ngon dầm con cá bẹ
Anh biểu em rình lén mẹ qua đây!
Nói như đùa chơi kiểu đó, người
Tây Nam bộ gọi là nói giỡn. Chàng nói kiểu giỡn chơi thì nàng cũng
đáp kiểu giỡn chơi.
Nước mắm ngon dầm con cá đối
Em biểu anh chờ để tối em qua
Chưa biết sự thể sẽ ra sao, chỉ có điều
nói là để… chơi, vậy thôi!
Khi nói cà rỡn, yếu tố tục, những từ ngữ
gợi đến những bộ phận trên cơ thể của con người được tận dụng triệt để. Phần
trên chúng tôi đã dẫn câu ca mà chàng trai… muốn hun! Đến đây, thấy cần bổ
sung mấy ví dụ nữa để bài viết thêm sinh động:
Thân anh lỡ dại hai lần
Nhỏ măn vú mẹ, lớn mằn vú em
Cách nói tếu táo của chủ thể phát ngôn khi
anh ta nhận mình là dại nhưng thật ra thì là khôn đấy,
một cách nói ngược đáng nghe!
Tiếu lâm hơn là lời của “ông” anh rể:
Giữa trưa đói bụng thèm cơm
Đem “đùi” của cô em vợ nõn nà so sánh với
“tôm kho tàu” giữa khi bụng đói… thì thật là chỉ có anh ta dám nói những điều
mà nhiều người nghĩ, nhiều kẻ muốn, nhưng không ai dám… giỡn kiểu đó!
Sau hết, xin dẫn một câu ca có miêu tả
trực tiếp yếu tố sinh thực khí của nữ giới:
Cô kia cấy lúa Nanh Chồn
Chổng mông cô để cái l… cô lên
3. Chức năng của cách nói trong ca dao
Những biểu hiện của cách nói trong ca dao
mà chúng tôi vừa liệt kê đã góp phần quan trọng để các nhà thi pháp học khẳng
định ca dao là câu thơ điệu nói, nó mang ngữ điệu người, giọng điệu người, thể
hiện đa dạng các cung bậc, cảm xúc trong tâm hồn con người.
Chính từ những cách nói bằng ngữ điệu ấy
đã đem đến cho ca dao hơi thở rất riêng, dù đặc trưng thể loại đã làm cho tính
cá nhân bị xóa nhòa.
- Bên dưới có sông, bên trên có chợ
Hai đứa mình kết vợ chồng nghen
- Thấp đăng cá nhảy qua lờ
Anh đừng xí gạt em chờ uổng công
- Tưởng rằng anh tới anh chơi
Ai dè anh tới kết đôi vợ chồng
Những từ vốn dĩ quen thuộc trong lời nói
hàng ngày như “nghen”, “xí gạt”, “ai dè”,… đã làm cho lời ca lung linh như
chính họ nghĩ, họ làm, họ nói,…
Ai đó từng “chê” cụ Đồ Chiểu sao để cho
Vân Tiên “ừ” trước mặt nàng Nguyệt Nga xinh đẹp trong truyện thơ Lục Vân Tiên (Vân
Tiên ngó lại rằng: ừ), thì hãy nghe đây, cách nói, cách tỏ bày tình cảm
trong dân gian miệt này:
Ngó lên chữ ứ, ngó xuống chữ ư,
Anh thương em hổng thẳng em ừ,
Anh đừng thương vội mẫu từ em hay
Còn đây là lời của một cô vợ trong cảnh
gia đình chồng một vợ hai:
Vợ lớn đánh vợ nhỏ,
Chạy ra cửa ngõ ,
Ngóng cổ kêu trời!
Ớ anh ơi ?
Nhứt phu lưỡng phụ, ở đời đặng đâu?
Cuối cùng, chúng tôi mượn câu ca mùi mẫn
bậc nhất chốn ruộng đồng dưới đây để thay lời tiểu kết:
Con cá làm nên con mắm
Vợ chồng già thương lắm mình ơi!
3. Kết luận
Người Tây Nam Bộ bộc trực, thẳng thắn,
nhưng cũng rất tinh tế, khéo léo trong ứng xử. Họ sẵn sàng đùa cợt, cười rần để
xua tan đi những nỗi nhọc nhằn trong quá trình chinh phục thiên nhiên hoang
dại. Và lời nói là nơi thổ lộ rõ ràng nhất.
Lời nói là phương tiện không thể thiếu
trong giao tiếp. Trong giao tiếp lại bộc lộ văn hóa ứng xử của người bình dân.
Hơn thế, lời nói đã đi vào lời ca, tiếng hát, nó góp phần làm lung linh thêm
những “hạt ngọc” tinh thần của người dân quê chơn chất.
Từ lời nói dân gian, chúng ta còn phải học
tập nhiều lắm ở họ:
Chim khôn kêu tiếng rãnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét