1. Môtip (tiếng Pháp: motif), theo Từ điển thuật ngữ
văn học của Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi, cho biết theo Hán
Việt motip là mẫu đề (do người Trung Quốc phiên âm chữ motif trong tiếng Pháp),
có thể chuyển thành các từ khuôn, dạng hoặc kiểu trong tiếng Việt nhằm chỉ những
thành tố, những bộ phận lớn hoặc nhỏ đã được hình thành ổn định bền vững và được
sử dụng nhiều lần trong sáng tác văn học nghệ thuật dân gian. (…) Ví dụ những
bài ca dao Than thân của người phụ nữ đều mở đầu bằng câu công thức “Thân em”,
“Thân em như thể”,…
Theo Từ điển tu từ - phong cách
- thi pháp học, Nguyễn Thái Hòa cho biết thêm “Trong nghiên cứu văn học
có thể hiểu môtip nghệ thuật theo những cách sau:
- Chủ đề được lặp đi lặp lại;
- Trong thơ ca, môtip là biểu tượng mang
giá trị tượng trưng.
2. Khảo sát những câu ca dao Tây Nam bộ
trong công trình Bộ hành với ca dao do Lê Giang sưu tầm, sưu
tập và biên soạn, chúng tôi nhận thấy có gần 60 bài ca dao xuất hiện bằng motip
“Đôi ta…”. Dù cùng một dạng motip so sánh, song, xem xét kỷ từng
nội dung, chúng tôi nhận thấy ở đó có nhiều điều thú vị đặc biệt.
Thứ nhất, xét về cập độ nội
dung, “đôi ta” luôn chỉ đến hai người, là hai đối tượng trong tình yêu lứa đôi.
Thoạt nghĩ, đôi ta đã là chuyện “sum hợp một nhà”! Nhưng thật độc đáo, ở ca dao
cụm đại từ này không dừng lại ở đó. Nó biểu hiện đầy đủ tất cả các cung bậc của
tình yêu lứa đôi:
Từ buổi ban đầu gặp gỡ, một người nào đó
trong “đôi ta” thốt lên:
Đôi ta như đá với dao
Năng liếc năng sắc năng chiều năng quen
Hay bộc lộ một thái độ “mừng rỡ” không thể
kèm nén:
Đôi ta bắt gặp nhau đây
Như con bò gầy gặp bãi cỏ non
Đã quen biết nhau, họ coi đây như “duyên
tiền định”:
Đôi ta như đũa trong kho
Không tề không tiện không so cũng bằng
Tình đầu, duyên mới, sự trong trắng trinh
nguyên được bộ lộ:
Đôi ta như áo mới may
Như chuông mới đúc, như cây mới bào
Và khéo léo ngõ lời:
Đôi ta mưa ướt áo rồi
Kiếm nơi đỏ lửa vô ngồi hơ chung
Họ dặn dò nhau:
- Đôi ta như lúa phơi màu
Đẹp duyên thì lấy ham giàu làm chi
- Đôi ta hát củi một rừng
Bứt dây một cội xin đừng nghe ai
Nguyện vượt mọi trắc trở, tìm đến nhau,
hướng về nhau:
- Đôi ta như ruộng năm sào
Cách bờ ở giữa làm sao cho liền
- Đôi ta như thể đôi chim
Dù muôn vàn cách trở “đôi ta” cũng sẵn
sàng nâng đỡ dìu dắt nhau đến cùng trời cuối đất:
Đôi ta như rắn liu điu
Nước chảy mặc nước ta dìu lấy nhau
Còn đây một lời thề nguyền quen thuộc
trong tình yêu lứa đôi:
- Đôi ta chung thủy vẹn tuyền
Xem lên mái tóc hương nguyền còn đây
- Đôi ta thề thốt giữa đàng
Vạch cây khắc chữ hỏi chàng nhớ không?
Đã đến lúc duyên tình bén lửa, “đôi ta”
không thể chia xa nhau nữa, cung bậc “tương tư” cũng hiện lên thật đẹp:
Đôi ta gá nghĩa giữa đồng
Về nhà luống chịu nước mắt hồng tuôn rơi
Tình yêu nào rồi cũng đến hồi kết thúc,
kết quả thì không phải một mà là hai:
Hoặc “đôi ta” làm con một nhà:
Đôi ta là nghĩa tào khang
Trăm năm vẹn giữ lòng vàng thủy chung
Họ luôn trọn thuỷ tròn chung dù muôn vàn
khốn khó:
Đôi ta bá nghệ tùy thân
Sớm hái rau chiều đốn củi đỡ đần nuôi nhau
Hoặc chịu cảnh:
Đôi ta chẳng đặng sum vầy
Khác nào kiếp nhạn lạc bầy kêu sương
Nguyên nhân thì có nhiều, một trong số đó
là:
Đôi ta như lúa đòng đòng
Đẹp duyên nhưng chẳng đẹp lòng mẹ cha
Hay như nguyên nhân gây ra là bởi “ai”
trong “đôi ta” ấy!
Đôi ta mới gặp đã lìa
Trách ai bẻ khoá quăng chìa xa nhau
Bởi tại “trời”:
Đôi ta trắc trở tại ai
Trăng lu vì bởi đám mây chàng ràng
Tóm lại, motif “đôi ta” đã diễn tả khá đầy
đủ các cung bậc trong tình yêu lứa đôi, điều lý thú hấp trong loại hình nghệ
thuật dân gian: ca dao!
Thứ hai, về nghệ thuật, “đôi
ta như…” thể hiển nổi biện hình thức so sánh tu từ.
Đôi ta như quế với gừng
Dù xa cách mấy cũng đừng quên nhau
Đôi ta xôi đứng “xứng đôi”
Khi đi cũng đẹp, khi ngồi cũng cân
Câu ca sử dụng biện pháp chơi chữ theo
cách nói lái giữa hai thành tố: xôi đứng (động
từ) để tạo ra hình tượng “xứng đôi” (tính từ). Từ chuyện “đôi ta”
cùng thực hiện hành động đứng “đồ xôi” để họ nói lên điều cần thiết hơn, ngõ
lời: đôi ta - xứng đôi!
So sánh với điển tích:
Đôi ta như nghĩa Châu - Trần
Khi xa ngàn dặm khi gần tấc gang
Sách xưa Trung Quốc chép rằng: Châu
Trần nhị tính thế thế hôn nhân, nghĩa là hai họ (có sách ghi là
hai thôn) Châu và Trần đời đời kết hôn với nhau.
Hay so sánh với mối tình Kim - Kiều, hai
nhân vật quen thuộc của văn học viết (Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Đôi ta như Kim Trọng - Thúy Kiều
Đã lắm lúc đắng lại nhiều lúc cay
Mượn “mười lăm năm đoạn trường của hai
nhân vật này để “đôi ta” nói lên cảnh tình “đắng cay” của chính họ!
Một môtip khác đi đôi chút với những điều
mà chúng tôi đã đưa ra ở trên:
Đôi ta cùng một chữ nghèo
Tỷ như có bọt thì bèo lăn tăn
Không so sánh dạng “đôi ta như”
quen thuộc mà đưa ra điểm chung của hai đối tượng được so sánh (đôi ta
với bọt và bèo) trước đó là “chữ nghèo”,
thay “như” bằng “tỷ”, không khác motip nhưng hình thức diễn đạt
thì đa dạng hơn.
Thứ ba, chúng tôi xin điểm
qua các đối tượng dùng để so sánh với “đôi ta”. Đã nói là so sánh tất
chúng phải có điểm chung và từ điểm chung nó giúp cho người đọc liên tưởng để
tìm ra nét tương đồng. Có khi điểm chung ấy hiển hiện ngay trên câu chữ mà tác
giả dân gian sử dụng:
Đôi ta như thể con ong
Con quấn, con quít con trong con ngoài
Điểm giống nhau giữa đôi ta với “con ong”
là sự “quấn quít” từ con trong đến con ngoài ấy!
Đôi ta như quế với gừng
Dù xa xôi mấy cũng dừng quên nhau
Quế với gừng luôn
ở cạnh nhau, vị cay của hai loại thực vật này tạo nên cảm giác nồng ấm,… tất
cả những điều đó được dùng “huy động” để liên tưởng đến tình “đôi ta”,…
Qua khảo sát, chúng tôi thấy ở motip so
sánh “đôi ta” có rất nhiều “đối tượng được đưa ra để người tiếp nhận liên
tưởng. Từ những hình tượng dân dã, quen thuộc, đó là các con vật như rắn liu
điu, như con bò gầy, như cá thờn bơn, như thể con ong, là đôi chim,… đó là các
đồ vật: đá với dao, nút với khuy, như thể đồng tiền, như bộ chén chung, đũa
trong kho… đó là các loài cây cỏ: như lựu với đào; như quế
với gừng; như lúa đòng đòng; như lúa phai màu; như cỏ mọc hoang;…
đó là như hình ảnh chung chung từ một cổ ngữ: như ngãi Châu - Trần (một
điển tích); là ngãi tào khang (một từ cổ ẩn chứa một điển
tích); như nghĩa ba sinh (từ Hán Việt, gợi chuyện trăm năm),…
3. Vài dòng kết luận
Trí tuệ dân gian thật phong phú và sâu
sắc, rất nhiều dạng thức cùng motip nhưng vẫn rất đa dạng, không hề trùng lặp,
không tạo sự nhàm chán.
Những hình ảnh quen thuộc, gần gũi giản dị
của cuộc sống thường nhật trở nên lung linh, đa sắc thái khi đi vào nghệ thuật
so sánh. Bên cạnh đó, những từ Hán Việt, những điển tích trong sử sách càng làm
cho những viên ngọc dân gian thêm chói sáng bởi sự tiếp thu
sắc nét từ văn chương bác học.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét