Thứ Ba, 27 tháng 8, 2019

Mắt biếc 2

Chương 6
Khuya lắc khuya lơ, Dũng mới về nhà. Tôi quấn chăn kín người, nằm nghe nỗi buồn rứt tóc. Tiếng đẩy cửa của Dũng khiến người tôi như run lên. Trong một thoáng, tôi cảm thấy đầu mình nóng ran. Lần đầu tiên, tôi chìm vào một tâm trạng khó tả trong đó trộn lẫn lòng ghen tức, sự phẫn nộn và nỗi xót xa tê dại. Tôi không biết tôi sẽ làm gì. Tôi như một hỏa diệm sơn vừa bị đánh thức, đang nghĩ xem nên phun lửa ra đốt tan tành thế giới hay giữ lửa lại trong lòng để riêng đốt tình tôi.
Dũng tưởng tôi chẳng biết gì. Nó vào phòng bằng những bước chân nhún nhảy, rồi vừa huýt sáo miệng nó vừa nhảy nhót liên tục quanh phòng. Nó chẳng buồn che giấu niềm vui của mình. Dòm bộ tịch của Dũng, tôi đoán ngay nó và Hà Lan đã đi chơi ở đâu. Nhưng tôi chẳng thèm hỏi. Hỏi làm gì, tôi nhủ bụng, biết được chỉ buồn thêm.
Dũng tiếp tục nhảy nhót. Không hiểu vô tình hay cố ý, thỉnh thoảng nó lại chạm vào giường tôi. Tôi càng thêm bức rứt. Quên phắt những gì vừa tự nhủ, tôi liếc nó vào hỏi bằng giọng cố tỏ ra hờ hững:
- Bộ mới đi nhảy về hả?
Dũng không trả lời thẳng câu hỏi của tôi. Nó vừa nháy mắt vừa tặc lưỡi xuýt xoa, chân vẫn không ngừng nhún nhảy:
- Một bữa tối tuyệt vời!
Tôi lặng lẽ quan sát Dũng bằng ánh mắt ác cảm. Tôi đọc được sự "tuyệt vời" nó nói trên vẻ mặt thỏa mãn của nó. Chiếm được người yêu của bạn mình, chắc nó hả dạ lắm. Đối với con người như Dũng, hẳn đó là một thành tích. Nhưng tất cả không chỉ do Dũng, tôi cay đắng nghĩ thầm, vấn đề còn tùy thuộc ở Hà Lan. Hà Lan đã dẫm lên trái tim tôi bằng đôi guốc đinh nhọn như trong giai thoại về học sinh trường Nữ. Nó giẫm lên và không hề ngoái lại. Nó chẳng buồn biết trái tim tôi còn đập nữa hay không. Phải chăng đã đến lúc Hà Lan rời bỏ tôi như nó đã một lần rời bỏ mùa thị vàng và rừng Sim hoa tím, lòng không gợn chút bâng khuâng? Bỗng dưng tôi nhớ tới một ca khúc của Phạm Đình Chương:
Người đi qua đời tôi
Không nhớ gì sao người?
Và tôi xoay lưng nằm úp mặt vô tường, buồn muốn khóc. Tôi làm con cá nhỏ, bơi trong nỗi buồn. Nỗi buồn mênh mông như biển, tôi bơi suốt đêm vẫn chưa ra khỏi. Nhưng tôi vẫn lặng lẽ bơi, ngậm ngùi, cô độc, thỉnh thoảng quẫy mạnh chiếc đuôi dài làm xuất hiện những đốm bọt màu sữa như những ngôi sao nhỏ. Có ngôi sao nào tên gọi Hà Lan?
Tôi buồn, dĩ nhiên. Nhưng đốm lửa hy vọng trong tôi chưa tắt hẳn. Nó vẫn cháy, dù là leo lét. Bản chất của tình yêu là hy vọng. Nhiều khi trước một sự thật phũ phàng đã rõ mười mươi, người ta vẫn tìm cách giải thích theo chiều hướng ít bi quan nhất. Tôi cũng vậy. Tôi cố nghĩ rằng Hà Lan thích nhảy, Dũng lại nhảy giỏi, Hà Lan đi chơi với Dũng là chuyện tự nhiên. Tôi cố nghĩ rằng đi chơi với một người và yêu người đó là hai chuyện hoàn toàn khác. Và tôi thôi buồn. Tôi cấm tôi nghĩ ngợi vẩn vơ.
Hôm sau, tôi đến trường Hà Lan với nụ cười tươi tỉnh trên môi. Không thấy Dũng lảng vảng ở đó, lòng tôi nhẹ nhõm quá chừng. Nhưng rồi tôi chợt giật mình: hôm qua chắc nó đã hẹn hò với Hà Lan nên hôm nay nó không cần đón ở cổng trường. Ý nghĩ đó vắt ngang đầu tôi như mây xám vắt ngang bầu trời. Niềm vui trong lòng bỗng chốc bay vèo. Và như cánh chim đại bàng trong chuyện cổ, khi bay đi nó cắp theo cả chút bình yên cuối cùng còn sót lại trong tôi.
Tôi đón Hà Lan bằng vẻ mặt hân hoan giả tạo. Hà Lan chẳng nhìn thấy gì. Nó vẫn cười với tôi bằng đôi mắt biếc. Không hiểu sao khi nhìn vào đôi mắt nó, lòng tôi bỗng thấy nhói đau.
Trong tâm trạng rối bời đó, tôi chẳng còn buồn giữ khoảng cách an toàn như trước đây nữa. Hà Lan vừa dắt xe ra khỏi cổng, tôi đã xáp lại chạy song song bên cạnh. Tôi chẳng còn sợ cô Thịnh bắt gặp. Cô gặp, kệ cô. Lúc này tôi chẳng còn sợ gì nữa. Tôi chỉ sợ mất Hà Lan.
Hà Lan trò chuyện với tôi một cách tự nhiên. Và tôi cũng làm ra vẻ như không biết gì, mặc dù điều đó đối với tôi quả thật khó khăn. Suốt trên đường về, chúng tôi chỉ nói với nhau về chuyện học tập, về kỳ thi sắp tới. Câu chuyện gượng gạo làm sao!
Đến nhà cô Hà Lan, tôi không quay xe về như thường lệ mà nói:
- Tôi vào chơi nghen?
Hà Lan có vẻ ngạc nhiên trước thái độ khác lạ của tôi. Nó ngần ngừ:
- Lát nữa Hà Lan phải đi công chuyện...
Câu đuổi khéo của Hà Lan chẳng khác nào một nhát dao đâm vào tim tôi. Tôi đâm bướng:
- Tôi chỉ vào chơi một chút thôi!
- Một chút thôi nghen!
Hà Lan đáp, và tôi đọc được vẻ ngại ngần trong mắt nó.
Câu chuyện trong phòng khách diễn ra không khá hơn ngoài đường chút nào. Nó ngượng ngập và đứt khúc, phần lớn thời gian rơi vào sự im lặng nặng nề. Tôi ngồi như khúc gỗ và cựa mình một cách khó khăn. Hà Lan thì chốc chốc lại nhìn lên đồng hồ. Nó lộ vẻ sốt ruột và nó không giấu điều đó. Thậm chí nó còn muốn tôi biết rằng nó đang sốt ruột, nó đang vội đi và rằng nếu tôi còn chút xíu lịch sự thì tôi nên xéo ngay trước khi nó nói ra.
Tôi không đợi nó nói ra. Vì vậy, tôi đứng dậy cáo từ:
- Thôi tôi về!
Hà Lan tiễn tôi ra cửa, mặt mày tươi tỉnh:
- Ừ, Ngạn về! Mai mốt ghé chơi!
Tôi phóng xe đi, không buồn ngoái lại. Mai mốt là ngày nào? Là mai, là mốt hay không ngày nào hết? Tôi rẽ ngoặt xe ở một góc phố và không biết mình đang rời bỏ một con đường hay đang rời bỏ một giấc mơ.
Tôi về đến nhà đúng lúc Dũng vừa dắt xe ra.
Tôi không cố tự đánh lừa mình nữa. Tôi hiểu điều gì đang xảy ra và cố đón nhận nó bằng một thái độ bình tĩnh như đón nhận một vết thương của số phận. Tôi cũng tự nhủ tôi đừng trách Hà Lan. Rằng nó có quyền chọn lựa con đường của riêng nó. Rằng tôi không thể buộc nó phải gắn bó lòng mình với những kỷ niệm của một thời thơ ấu dài lâu. Tôi không thể bắt Hà Lan phải giống tôi.
Tôi khác. Không ai bắt tôi phải hoài vọng kỷ niệm. Không ai bắt tôi phải nhớ da diết cái làng nhỏ xa xăm của mình mỗi khi chiều xuống. Không ai bắt tôi đêm nào cũng phải mơ thấy bóng trăng tuổi thơ treo lơ lửng trên đường làng và rơi từng giọt vàng xuống giàn hoa thiên lý. Những điều đó xảy đến một cách tự nhiên, cũng giống như hồi học lớp chín, một hôm nhìn vào mắt Hà Lan, lần đầu tiên tôi cảm thấy lòng mình dậy sóng. Mà chẳng hiểu vì sao.
Bây giờ thì tôi hiểu. Và cũng lại hiểu rằng, với Hà Lan bây giờ, Dũng hấp dẫn hơn tôi nhiều. So với Dũng, tôi chỉ là một thằng con trai quê mùa. Quê mùa từ lối sống, từ cách ăn mặc đến cách tỏ tình. Bây giờ chẳng còn ai tỏ tình bằng cách bõ công ngồi gảy đàn và rụt rè hát lên những lời bóng gió. Hệt như một thằng ngốc. Tôi cứ bắt chước Trương Chi, hèn gì hồn tôi chết đuối. Mà những bản tình ca cũng chẳng ra gì, ngay từ đầu Dũng đã liệt vào loại "cổ điển" vứt đi.
Tôi chẳng trách Hà Lan. Nhưng tôi không buồn gặp nó nữa. Tôi giã từ con đường chạy ngang qua trường Nữ. Chiều chiều, tôi lững thững đạp xe ra ngoại ô, ngồi một mình trên bãi cỏ chân cầu nhìn nước chảy. Và tôi ôm đàn tỉ tê cùng sông nước:
Một người bỏ một người đi
Một bài thơ dở dang vì
Lãng quên
Giữa trời
Sao mọc lênh đênh
Một đàn cá lội
Buồn tênh chân cầu
Một người
Đi mất từ lâu
Để người kia hát
Về đâu hỡi người
Hoa bâng khuâng
Rụng không lời
Chim bay ngơ ngác
Cuối trời hoàng hôn
Tôi ngẩng đầu lên và thấy ở cuối chân trời xa, chim bay ngơ ngác. Chúng là chim gì, chim én hay chim sẻ, mà ở đằng sau những đôi cánh thấp thoáng kia dãy ráng đỏ cứ cháy lên thảng thốt?
Suốt ngày suốt đêm, tôi viết nhạc. Tôi viết ngoài giấy. Tôi viết trong đầu. Nỗi khổ đau khiến tôi ngớ ngẩn. Nỗi khổ đau tuôn trào như thác, ngập lụt cả lòng tôi. Trong những ngày u ám đó, nếu không có âm nhạc, tôi đã không ngoi lên nổi, tôi đã không còn là tôi.
Âm nhạc đã dìu tôi qua đèo cao vực sâu. Bằng đôi cánh dịu dàng và bay bổng, nó đã nhấc tôi lên khỏi nỗi mê đắm xanh xao, phiền muộn. Tôi viết những bản tình ca buồn bã và rung chúng lên trên sáu dây đàn để nghe lòng vơi đi sầu nhớ. Khi nỗi đau đã thoát được ra ngoài, sức công phá mãnh liệt. Tôi ngồi giữa hoàng hôn, bên chân cầu sóng vỗ, nhắn cùng mây gió:
Ai về qua chỗ người thương
Đứng giùm tôi
Trước cổng trường ngày xưa
Ướt giùm tôi
Chút cơn mưa
Để nghe trên tóc
Hương vừa bay đi...
Khi hát, tôi thấy tôi trở về. Tôi thấy tôi bồn chồn đứng trướng cổng trường Nữ, mỏi mắt tìm Hà Lan trong dòng sông áo trắng. Thấy tôi, Hà Lan mừng rỡ. Và nó trách:
- Ngạn đi đâu mà mất biệt?
Tôi cười:
- Tôi bận học.
- Xì! Hà Lan không tin.
Tôi lại cười. Tôi chẳng buồn thanh minh. Chỉ cần nhìn vào đôi mắt nó, tôi biết rằng nó đã biết tất cả. Tôi rủ Hà Lan về làng, nó gật đầu ngay. Tôi thấy tôi và Hà Lan ngồi trên chiếc xe đò của ông chú nó. Xe chạy từ sáng sớm, đến chiều thì về tới phố huyện. Từ huyện, tôi và Hà Lan đạp xe về làng. Hệt như ngày xưa.
Và cũng hệt như ngày xưa, về ngang rừng Sim ven làng, chúng tôi rủ nhau ghé vào hái sim và tìm bông dủ dẻ. Tôi lại trèo lên cây trâm hái từng chùm trái tím thẫm ném xuống cho Hà Lan. Sau đó hai đứa tôi len lỏi qua mé rừng bên kia để ngồi ngắm hoàng hôn trên phiến đá năm nào. Trong giây phút êm đềm đó, tôi bỗng thấy tôi quên hết khổ đau. Tôi đã thôi buồn. Trong tôi chỉ còn lại một niềm vui rộng lớn và tinh khôi, như chưa hề vẩn đục. Hà Lan ngồi bên cạnh, co chân lên phiến đá, nom dịu dàng và dễ thương như một con mèo nhỏ. Tôi tưởng nó chưa bao giờ đặt chân ra thành phố. Nó vẫn là nó ngày nào.
Lòng tràn ngập hạnh phúc, tôi kể cho Hà Lan nghe những câu chuyện ngày xưa bà kể. Những câu chuyện tuyệt vời đã nuôi dưỡng tôi từ tấm bé. Hà Lan ngồi nghe, có chuyện biết, có chuyện chưa biết, nhưng đôi mắt nó bao giờ cũng ngẩn ngơ và say đắm.
Đang say sưa kể chuyện "Ăn khế trả vàng", tôi chợt giật mình khi nghe tiếng còi xe quen thuộc vọng lại từ ngoài bìa rừng. Tôi chưa kịp hiểu ra chuyện gì, Hà Lan đã nhỏm người dậy và vội vã bỏ đi. Tôi hốt hoảng gọi to nhưng Hà Lan không quay lại. Nó đi một mạch, tà áo thấp thoáng sau những bụi sim già. Khi tôi đuổi theo ra đến ven rừng thì Hà Lan đã mất hút. Tít đằng xa, chiếc Yamaha đỏ lẩn khuất sau đám bụi mờ...
Tôi chớp mắt và nhìn ra sông nước. Những hình ảnh không đâu sao cứ ám ảnh tôi hoài. Có bao giờ Hà Lan về lại rừng Sim, sao tôi cứ cực lòng mong mỏi. Cánh chim đã bay đi, ai biết buổi chim về. Ngày nào chim ăn khế ở vườn tôi, may túi ba gang, chim không hề dặn. Chim ăn khế, chim chẳng trả vàng. Chim chỉ trả buồn đau cho lòng tôi đong đầy sầu muộn. Tôi nghe sáu dây đàn cùng lúc rung lên:
Lòng tôi là cây khế
Em là chim về chơi
Vàng kia em chẳng trả
Chỉ nhả hạt xuống thôi
Hạt rớt xuống thành cây
Cây cũng toàn cây khế
Từ khi em đi rồi
Vườn tôi thành lặng lẽ
Biết bao giờ trở lại
Cánh chim em ngày nào
Lòng tôi hoa khế rụng
Xuống nỗi buồn nôn nao...
Tôi nhìn xuống bàn tay mình, xem năm đầu ngón tay có ngón nào rỏ máu. Tôi sợ tôi giống như nàng Kiều. Nhưng dòm dỏ một hồi, tôi chẳng thấy gì. Dù sao nỗi buồn của tôi cũng đã được ngân lên, đã được sẻ chia. Dù là với cỏ cây. Dù là với ngàn trùng sông nước.
Tôi không gặp Hà Lan một thời gian dài. Tôi tránh nó. Và nó cũng tránh tôi. Có lẽ nó đã biết tôi biết chuyện nó và Dũng. Bất chợt gặp nhau ngoài đường, tôi và Hà Lan chỉ mỉm cười chào nhau và hỏi han qua loa dăm ba câu rồi đường ai nấy đi. Gặp mà như không gặp.
Tôi cố dìm tình cảm của mình xuống đáy lòng. Tôi cố chôn chặt kỷ niệm. Tôi muốn quên Hà Lan, quên hết. Khi nỗi nhớ dâng lên, tôi ôm đàn ngồi hát. Tôi hát, và gởi tâm sự của mình cho gió cuốn mây trôi.
Tôi đang muốn quên. Thì Hà Lan lại tới.
Tôi ngạc nhiên khi thấy nó xuất hiện, càng ngạc nhiên hơn khi thấy mắt nó đỏ hoe. Tôi bồn chồn hỏi:
- Có chuyện gì vậy, Hà Lan?
- Anh Dũng...
Hà Lan ngập ngừng đáp và cúi mặt xuống. Thấy nó ngừng bặt, tôi lại hỏi, giọng hồi hộp:
- Anh Dũng sao?
Sau một thoáng phân vân, Hà Lan ngước nhìn tôi, sụt sịt nói:
- Ảnh tệ quá!
Hà Lan làm tôi lo lắng quá chừng. Nó nói kiểu đó, tôi chẳng biết đường nào mà lần. Tôi đoán già đủ thứ vẫn không biết Dũng "tệ" với Hà Lan là "tệ" như thế nào.
Cuối cùng, tôi đành hạ giọng hỏi:
- Dũng "tệ" sao?
Hà Lan lại ngập ngừng. Có lẽ nó cảm thấy khó nói. Tôi động viên:
- Hà Lan nói đi! Đừng ngại!
Hà Lan chớp mắt:
- Lâu nay, ảnh không đến... Hà Lan.
Tôi cố nén một tiếng thở dài. Hóa ra Hà Lan buồn vì chuyện đó. Chuyện cỏn con vậy mà nó phải quýnh lên. Tôi nhìn nó, chép miệng:
- Biết đâu Dũng bận chuyện gì!
Hà Lan cắn môi:
- Chẳng có chuyện gì đâu! Ảnh bận đi chơi với Bích Hoàng!
À! thì ra thế! Tự dưng lòng tôi dâng lên một cảm giác thích thú kỳ lạ và tôi thấy hổ thẹn vì điều đó. Tôi hỏi, cố trấn áp niềm vui cay độc trong lòng:
- Bích Hoàng là ai?
Hà Lan nhún vai:
- Ngạn không biết đâu! Cô ta là con ông Thanh Đạm.
Tôi không biết Bích Hoàng. Nhưng tôi biết tiệm bánh Thanh Đạm ở ngã tư Thái Bình Dương. Con nhà Thanh Lâm cặp kè với con nhà Thanh Đạm, một sự kết hợp chẳng lấy gì làm kỳ quái. Tôi nghĩ trong đầu như vậy nhưng không nói ra, sợ Hà Lan buồn thêm. Tôi nhìn Hà Lan và thấy sự đau khổ ánh lên trong mắt nó, bèn nói, giọng không được tự tin lắm:
- Tôi có thể giúp cho Hà Lan được gì?
Hà Lan khẽ lắc đầu:
- Hà Lan chẳng muốn làm phiền Ngạn. Hà Lan chỉ kể cho Ngạn nghe vậy thôi.
Nói xong, Hà Lan bỏ về, buồn thỉu buồn thiu. Nhìn nó lầm lũi đạp xe đi, lòng tôi sao quá đỗi bùi ngùi.
Thoạt tiên, nghe Dũng bỏ rơi Hà Lan, tôi mừng khấp khởi. Như vậy tôi sẽ có cơ hội thực hiện giấc mơ tình cảm của mình, cái cơ hội mà tôi luôn âm thầm chờ đợi và có lúc tưởng đã đời đời vuột thoát. Bây giờ thì nó đã trở về. Tôi đã nhìn thấy đôi cánh xanh biếc của con chim hạnh phúc thấp thoáng trước hiên ngoài.
Tôi còn tìm thấy trong mối tình đổ vỡ của Hà Lan một khoái cảm thầm kín khác, ích kỷ hơn và hèn mọn hơn. Đó là niềm vui chứng kiến cảnh Hà Lan rơi vào đau khổ. Nó rơi vào đúng nỗi đau khổ mà trước đây nó đã gây cho tôi. Hà Lan đã bỏ tôi để đến với Dũng. Mà chẳng được gì. Bây giờ đến lượt Dũng bỏ nó để đi chơi với Bích Hoàng. Hà Lan đã hất hủi tôi, đã khiến tôi chịu đựng khổ sở như thế nào thì giờ đây nó cũng chịu đựng những khổ sở y hệt như vậy. Thậm chí, Hà Lan còn ray rứt hơn tôi. Bởi nỗi khổ của nó do chính nó gây ra. Nó mờ mắt trước vẻ phong lưu của Dũng. Nó tự đưa đẩy nó đến tình cảnh hiện thời. Đáng đời nó. Tôi nghe những lời phán xét thì thầm, hí hửng và cay nghiệt không ngớt vang lên trong lòng. Tôi cũng nghe ả giọng điệu uất ức và giận dỗi của chúng, những buồn thương đè nén lâu ngày.
Nhưng khi sự phấn khích ban đầu qua đi, niềm vui trong lòng tôi vụt tắt. Tôi trở lại là tôi yếu đuối mềm lòng. Tôi không thể dửng dưng trước nỗi buồn của Hà Lan. Tôi yêu nó, tôi không đang tâm nhìn nó khổ sở. Và nó, hẳn phải khổ sở ghê lắm, nó mới đến tìm tôi. Ra thành phố chưa đầy một năm, bạn bè chẳng nhiều, lại chẳng thân, Hà Lan đâu biết tâm sự cùng ai. Ở nhà bà cô sung sướng đầy đủ mọi bề nhưng những chuyện như thế này lại không thể sẻ chia.
Xét cho cùng, chỉ còn có mình tôi, người bạn thuở thiếu thời. Chỉ còn có mình tôi, người con trai quê mùa, yêu chẳng được yêu, đau hoài một nỗi đau thầm lặng. Tìm đến tôi, tìm đến mối tình ngày nào nó đã quay lưng, hẳn Hà Lan dằn vặt vô cùng, hẳn lòng nó rối bời đến mức không thể không một phút giãi bày. Tội nghiệp nó ghê!
Ngày hôm sau, tôi bảo Dũng:
- Tôi muốn nói chuyện với anh.
- Chuyện gì vậy? - Dũng hỏi, vẻ ngạc nhiên.
Tôi trầm tĩnh đáp:
- Chuyện liên quan đến anh.
Dũng hất hàm:
- Vậy thì nói đi!
- Không thể nói ở đây được! Đi chỗ khác!
Dũng nheo nheo mắt:
- Nhưng mà chuyện gì vậy?
- Lát nữa tôi sẽ nói. Bây giờ tụi mình đi!
- Đi đâu?
- Ra ngoại ô.
Dũng không hỏi nữa. Nó lặng lẽ dắt xe ra.
Khi thấy tôi cầm lấy ghiđdông xe đạp, nó khoát tay:
- Khỏi! Mày ngồi lên đây, tao chở đi!
Tôi không muốn ngồi lên chiếc Yamaha của nó chút nào. Hà Lan đã bao lần ngồi lên đó. Nhưng rồi cuối cùng, thấy đi xe đạp bất tiện, tôi đành leo lên ngồi đằng sau Dũng.
Dọc đường, hai đứa tôi không nói một lời.
Ra tới ngoại vi thành phố, Dũng ngoảnh cổ, nói:
- Tới ngoại ô rồi! Tìm một quán nước nghen!
Tôi trầm giọng:
- Quán nước không tiện.
Dũng nhún vai:
- Thằng này lạ! Vậy đi đâu?
- Ra cầu Đá.
Cầu Đá là nơi mỗi chiều tôi vẫn ra ngồi ngắm lục bình trôi và thả hồn theo khói sóng. Dũng không nói không rằng, nó lạnh lùng phóng xe về phía bờ sông.
Tới nơi, đợi Dũng dựng xe bên thành cầu, tôi dẫn nó đến bãi cỏ quen thuộc.
- Sao phải ra đây? - Dũng hỏi.
- Ở đây yên tĩnh! - Tôi đáp, cố tỏ ra bình thản.
Không đợi tôi bắt đầu, Dũng đi thẳng vào đề:
- Mày muốn nói với tao chuyện gì?
Tôi mím môi:
- Chuyện Hà Lan.
Dũng nhếch mép:
- Hà Lan không dính dáng gì đến mày nữa! Mày đã nói với tao là mày không can thiệp kia mà!
Tôi nhìn thẳng vào mắt Dũng, gằn giọng:
- Anh đừng giả vờ. Anh thừa biết tôi muốn gì rồi. Tôi chỉ không can thiệp nếu anh đem lại hạnh phúc cho Hà Lan. Còn anh làm cho cô ta đau khổ, tôi sẽ không bỏ qua cho anh đâu!
Thái độ cứng rắn của tôi khiến Dũng chột dạ. Nó vờ vịt:
- Tao có làm khổ Hà Lan hồi nào đâu!
- Nói láo! Anh đang gây ra đau khổ cho Hà Lan!
Dũng tặc lưỡi:
- Như vậy chắc là có hiểu lầm gì đây!
-Chẳng có hiểu lầm gì ở đây hết! - Tôi hừ mũi - Anh đang bỏ rơi Hà Lan để chạy theo Bích Hoàng! Anh là đồ sở khanh! Tôi không cho phép anh làm như vậy!
Dũng bắt đầu tự ái. Nó nghiến răng:
- Đủ rồi! Hôm nay mày ăn nói với tao như vậy là đủ rồi! Tao nhắc cho mày nhớ, tao yêu ai, đó là chuyện của tao! Chuyện của tao, mày rõ chưa!
- Anh yêu ai thì mặc anh, nhưng anh không được làm cho Hà Lan khổ... - Tôi kêu lên bi phẫn.
Dũng quắc mắc, giọn đểu cáng:
- Nếu mày sợ nó khổ thì mày đi mà yêu nó! Tao nhường lại cho mày đó!
Trong một thoáng, mắt tôi bỗng hoa lên. Cảnh vật chung quanh trở nên chập chờn. Một sự phẫn nộ khủng khiếp dâng trào trong tôi, lan ra khắp người, tận các đầu ngón tay. Trong cơn giận mù mịt đó, tôi đã giang tay tống một quả trời giáng vào bụng Dũng. Tôi không ý thức được cú đánh của mình. Ngày xưa xa lắc, khi thằng Hòa con thầy Phu dẫm lên đôi chân bé bỏng của Hà Lan, tôi đã trừng trị nó bằng một cú đánh dồn nén như vậy. Bây giờ, đến lượt Dũng. Dũng không dẫm lên chân, nó dẫm lên trái tim của người tôi thương. Nó đáng bị ăn đòn.
Nhưng Dũng khác Hòạ Thằng Hòa cậy oai phong của thầy Phu. Dũng cậy những ngón đòn karaté của mình. Nó là võ sinh đệ nhất đẳng huyền đai của võ đường Ánh Sáng. Cú đánh bất ngờ của tôi khiến nó nhăn nhó và cúi gập người xuống. Nhưng chỉ một lát sau, nó lại đứng dậy được. Và vừa xoa bụng, nó vừa gật gù nhìn tôi:
- Được lắm! Nếu mày muốn, tao sẽ cho mày biết thế nào là đánh nhau!
Nói xong, Dũng lao vào tôi. Một cú đá trúng quai hàm khiến tôi ngã lăn ra bãi cỏ. Nhưng tôi chẳng thấy sợ, cũng chẳng thấy đau. Nỗi căm giận giúp tôi thêm sức mạnh. Tôi lồm cồm bò dậy và lăn xả vào đối thủ.
Trên bãi cỏ hoang vắng bên bờ sông, tôi và Dũng lặng lẽ quần nhau đến tận tối mịt. Không ai hé môi một lời. Chúng tôi câm nín ra đòn.
Dĩ nhiên, tôi ăn đòn nhiều hơn. Hồi nhỏ tôi là chúa đánh nhau. Nhưng đã lâu rồi tôi giã từ đánh đấm. Vả lại, tôi chỉ biết võ... rừng, ăn nhau chỗ gan lì và sức mạnh. Trong khi đó, Dũng đánh bài bản. Nó ra đòn nhanh và chính xác. Đánh nhau một hồi, người tôi bầm tím. Lẽ ra tôi đã gục ngay từ đầu. Nhưng lòng phẫn uất và sự gan góc đã giúp tôi đứng vững. Dũng có vẻ ngạc nhiên khi thấy tôi cầm cự dai dẳng. Nó vừa đánh vừa khen:
- Khá lắm!
Nhưng tôi chỉ "khá" được đến thế. Tôi không thể chịu đựng đến giây cuối cùng. Trận đấu kết thúc bằng cảnh tôi nằm bẹp dí trên cỏ, thở hổn hển, mặt mày sưng vù.
Dũng đứng bên cạnh, chống nạnh nhìn tôi:
- Thôi nghen!
Tôi nằm im không đáp. Không hiểu sao tôi chẳng thấy đau đớn dù người đầy thương tích. Lúc này, lòng tôi chỉ là một nỗi trống vắng mênh mông.
Dũng lại nói:
- Ngồi dậy tao chở về. - Anh về trước đi! Lát tôi về sau! - Tôi đáp và không buồn nhúc nhích.
Dũng lếch thếch quay lại chỗ thành cầu. Nhìn bộ dạng xơ xác của nó, tôi đoán nó cũng ê ẩm không kém gì tôi. Bất giác tôi thở dài và cảm thấy mình thật là điên. Liệu tất cả những chuyện vừa xảy ra có đem lại cho Hà Lan điều gì tốt đẹp?
Tôi cứ nằm yên như thế, bất động và suy tư. Bãi sông hoang lạnh như một bãi tha ma, bóng đêm phủ dày và trên bầu trời đen thẳm những vì sao bắt đầu lấp lánh.
Đến khi người tỉnh hẳn, những dư âm của trận đánh đã qua đi, tôi mới nhỏ người dậy và lần mò xuống bờ sông rửa mặt. Nước sông mát lạnh khiến lòng tôi bỗng chốc trở nên thư thái mặc dù các vết thương dần dần nhức nhối. Tôi vốc nước bằng cả hai tay. Có khi tôi vùi đầu vào mặt sông. Để nghe sông nước vỗ về. Để nghe trong một phút, trong một giây, lòng bỗng lênh đênh như những vì sao đang bềnh bồng trên lớp sóng kia.
Chương 7
Tôi nghỉ học cả tuần lễ. Tôi không thể đến lớp với bộ mặt như thế. Cậu Huấn hỏi, tôi bảo tôi bị đụng xe. Nhìn ánh mắt cậu, tôi biết cậu không tin. Nhưng cậu không gặng hỏi. Cậu vốn trọng kẻ sĩ. Một khi kẻ sĩ không chịu giải thích nguyên nhân các vết bầm trên mặt mình hẳn là có điều gì uẩn khúc.
Nhỏ Mai và thằng Liêm hỏi, tôi cũng đáp như thế. Tụi nó nói:
- Vậy anh phải bắt người ta bồi thường!
Tôi cười:
- Người ta chạy mất tiêu!
Năm ngày sau, Hà Lan ghé.
Thấy mặt tôi, nó la hoảng:
- Trời ơi! Ngạn sao vậy?
Tôi tặc lưỡi:
- Té.
-Té ở đâu ghê vậy?
Tôi bịa:
- Té ở nhà chứ đâu! Lăn từ trên cầu thang xuống!
Hà Lan thật khờ, nó tin ngay. Và nó vội vã lục lọi trong túi xách lấy ra chai dầu, nói:
- Để Hà Lan xức dầu cho Ngạn nghen!
Rồi không đợi tôi có ý kiến, Hà Lan dốc dầu ra tay và xoa lên các vết bầm trên má tôi.
Tôi khẽ nhắm mắt lại và có cảm giác những ngón tay dịu dàng và mềm mại của Hà Lan đang mơn man lên trái tim tôi. Chúng như đang an ủi và xoa dịu nỗi đau trong lòng tôi bằng sự âu yếm lặng thầm. Hệt như ngày xưa, thuở còn học ở trường làng. Thuở ấy, Hà Lan luôn luôn ở bên cạnh tôi trong những trận đánh nẩy lửa và sự lo lắng săn sóc của nó bao giờ cũng đem lại cho tôi một sự êm ái tuyệt vời.
Bây giờ cũng vậy. Tôi đang chìm vào một trạng thái êm đềm ngây ngất. Những ngón tay mượt mà của Hà Lan đang lướt nhẹ trên má tôi đã đánh thức trong tôi những xúc cảm quen thuộc, những xúc cảm mà tôi tưởng đã mãi mãi thuộc về kỷ niệm. Và tôi bồi hồi hỏi:
- Dầu ở đâu vậy?
- Của Hà Lan.
- Bộ lúc nào Hà Lan cũng bỏ theo chai dầu hả?
Hỏi xong, tôi chợt mỉm cười. Tôi nhận ra tôi đã hỏi Hà Lan đúng cái câu ngày xưa tôi đã hỏi, lúc tôi trèo lên đầu hồi tìm trứng chim cho Hà Lan và bị ngã u đầu. Tôi nghe Hà Lan đáp:
- Ừ.
Và tôi lại bâng khuâng hỏi:
- Bỏ theo chi vậy?
Hà Lan cười:
- Để xức chứ chi! Tối đi chơi không xức dầu, dễ trúng gió lắm...
Đang nói, Hà Lan bỗng im bặt. Và ngó lơ chỗ khác. Còn tôi, trong một thoáng, bỗng sực tỉnh và nhanh chóng rơi ra khỏi giấc mơ ngọt ngào của quá khứ. Cảm giác dịu dàng mà Hà Lan đem lại không còn lừa phỉnh tôi được nữa. Và tôi cay đắng nhận ra sự thay đổi của số phận. Hà Lan trước mặt tôi không còn là cô bạn bé bỏng ngày nào. Nó bỏ chai dầu theo người không phải vì "Ngạn chuyên môn đánh nhau, lại chúa hay té" như trước đây nữa mà vì những buổi tối đi chơi với Dũng. Tối nào cũng đi nhong nhong ngoài đường, nó sợ trúng gió.
Từ lúc biết được điều đó, Hà Lan càng xức dầu, tôi càng thấy đau. Và tôi nằm im như khúc gỗ, u sầu và giận dỗi. Hà Lan cũng lặng thinh. Xức dầu cho tôi xong, nó lặng lẽ ra về, không nói một lời. Nó biết câu nói vô ý của nó đã làm tôi thương tổn. Hà Lan yêu Dũng, điều đó chấp nhận được, dẫu chẳng dễ dàng gì. Nhưng tôi không thể chịu đựng nổi khi nghe bất cứ một điều gì thuộc về "chi tiết" của mối quan hệ đó.
Hà Lan về, tôi không tiễn. Tôi nằm trên giường nhìn nó biến mất sau khung cửa. Và thở dài. Hẳn nó đến đây không phải để săn sóc tôi. Nó đâu biết tôi bị... té cầu thang. Chắc Hà Lan tìm tôi để tâm sự, để sụt sùi, và để trút nỗi khổ của nó lên nỗi khổ của tôi.
Tôi nhìn lên trần nhà, tôi nhìn lên mặt phẳng nằm ngang, và thầm nói:
Ừ, em hãy đi đi
Với niềm vui và nỗi hân hoan choáng ngợp trong lòng.
Em hãy tìm đến bất kỳ nơi nào em thích
Đừng tìm đến anh
Đừng tìm đến anh làm gì
Dẫu trong hạnh phúc của em
Anh chẳng được dự phần
Thì anh cũng chẳng nề hà gì làm một kẻ đứng ngoài
Tham dự vào số phận của em bằng những lời chúc tụng
Hãy cứ nghĩ như em từng nghĩ
Anh có là gì đâu
Anh chỉ mong em hãy đến với anh
Khi nào em không còn bất kỳ nơi nào để đến
Khi nào đôi chân quen nhún nhẩy của em
Đã bắt đầu thất thểu
Dưới gánh nặng của khổ đau
Bấy giờ anh sẽ ở bên em
Với một ước muốn nhỏ nhoi
Được chia sớt cùng em
Một phần cơ cực.
Những lời thì thầm cứ vang lên trong lòng tôi, ngậm ngùi, thanh thảnh, trở đi trở lại như một điệp khúc tưởng vọng. Chúng không tan, suốt một tuần.
Cô Thịnh đến vào lúc tôi chẳng mong đợi chút nào. Cô đến với chị Nhường, tay ôm một chục cam. Vừa bước vào phòng, cô Thịnh ỏi liền:
- Ngạn bị đụng xe sao vậy?
Tôi trả lời lấp lửng:
- Thì đụng chứ đụng sao! Hai xe đâm vào nhau, ngã lăn quay! - Rồi tôi nhìn cô Thịnh, tò mò hỏi - Ai nói cô biết Ngạn bị đụng xe?
- Thằng Liêm. Nó nói với Nhường. Nhường nói lại với cô.
Hóa ra là thằng Liêm lẻo mép! Nó thương tôi thành ra hại tôi. Tôi muốn giấu nhẹm mọi chuyện, bây giờ lại tung tóe ra. Cô Thịnh đâu phải là Hà Lan, tôi đừng hòng bịp cô được. Đúng như tôi nghĩ, nhìn lướt qua tôi một cái, cô Thịnh biết liền.
Cô trách:
- Ngạn nói dối. Không phải Ngạn bị đụng xe.
Tôi giật thót, vội quả quyết:
- Ngạn bị đụng xe thật mà!
Cô Thịnh nhìn tôi chằm chằm. Rồi lắc đầu:
- Đụng xe phải xây xát, trầy trụa ghê lắm! Ở đây chỉ toàn những vết bầm. Chắc là Ngạn đánh nhau với ai!
Cô Thịnh nói trúng phóc, tôi đành ngồi im.
- Ngạn đánh nhau với ai vậy? - Cô Thịnh lại hỏi.
Tôi gãi đầu:
- Với... thằng bạn cùng lớp.
- Bạn cùng lớp mà đánh nhau?
Tôi lại bối rối:
- Ừ, chuyện nhỏ thôi. Do hiểu lầm.
Tôi cố tình giải thích mập mờ. Nhưng cô Thịnh chẳng hỏi nữa. Cô chỉ thở dài:
- Hồi nhỏ Ngạn là chúa đánh nhau. Lớn lên, tưởng Ngạn thay đổi, ai ngờ vẫn vậy. Hư quá!
Cô Thịnh trách tôi rõ là oan. Nhưng tôi không thể thanh minh. Tôi ngậm bồ hòn. làm ngọt.
Chị Nhường không trách tôi. Thấy tôi bị đánh, chị vừa thương vừa tức, bèn xúi:
- Đứa nào đánh Ngạn, Ngạn nhờ anh Dũng trả thù giùm cho! Anh Dũng có đi học võ đấy!
Tôi dở khóc dở cười, chưa biết nói sao, cô Thịnh đã nạt:
- Nhường đừng có xúi bậy! Không có chuyện đánh nhau nữa!
Rồi cô quay sang tôi, đe:
- Ngạn còn đánh nhau lần nữa, cô méc ba Ngạn liền.
Tôi gật đầu, buồn xo. Cô làm như tôi ham đánh nhau lắm. Cô chẳng hiểu gì tôi.
Đợi cho cô Thịnh và chị Nhường ra về, tôi uể oải ngồi dậy. Tôi vớ lấy cây đàn và lướt khẽ những đầu ngón tay lên dãy phím để nghe những âm thanh rung lên bồi hồi. Tôi tì cằm vào thùng đàn. Cằm tôi đau nhói. Nhưng tôi mặc xác. Những vết bầm trên mặt. Anh chẳng kể làm gì. Trái tim nhiều xây xát. Mới khó lòng quên đi...
Dũng quay về với Hà Lan.
Tôi đón nhận tin đó nửa vui nửa buồn. Tôi yêu Hà Lan, tôi muốn Dũng quay lại để Hà Lan nguôi đau khổ. Nhưng cũng vì yêu Hà Lan, trong thâm tâm tôi cầu mong Dũng đi luôn. Nó và Bích Hoàng cứ dắt nhau tếch đi đâu thì tếch, khuất mắt càng tốt. Tôi không rõ giữa hai ước muốn trái ngược đó, cái nào mạnh hơn. Chúng mạnh ngang nhau, tôi càng chết. Chúng mạnh ngang nhau, tôi cứ phải tự dày vò: rốt cuộc thì bản chất tình yêu là gì, vị tha hay ích kỷ. Tôi hỏi, và tôi không trả lời được. Đó là một trong những câu hỏi mà mãi mãi về sau tôi vẫn không thể tìm ra câu trả lời chính xác.
Tôi cũng không rõ Dũng quay về với Hà Lan vì lý do gì. Có phải vì trận đánh kinh hồn trên bờ sông hôm nọ? Tôi chẳng biết. Dũng chỉ ngắn gọn:
- Con Bích Hoàng chỉ được cái mẽ ngoài, chán bỏ xừ!
Sau đó, nó phóng xe đến chỗ Hà Lan. Nó sẽ chở Hà Lan đi chơi. Hà Lan sẽ rất hớn hở, và khi ra đi trong túi xách hẳn không quên bỏ theo chai dầu gió.
Hà Lan không quên chai dầu gió. Nó chỉ quên tôi.
Từ ngày Dũng quay trở lại, Hà Lan chẳng buồn đến tìm tôi nữa. Khi đau khổ, nó mới cần đến tôi.
Tôi chẳng giận Hà Lan. Tôi lại nhìn lên trần nhà. Tôi nhìn lên mặt phẳng nằm ngang. Và điệp khúc lại thì thầm:
Ừ, em hãy đi đi
Với niềm vui và nỗi hân hoan choáng ngợp trong lòng
Em hãy tìm đến bất kỳ nơi nào em thích
Đừng tìm đến anh
Đừng tìm đến anh làm gì
Đừng tìm đến anh làm gì. Cứ để tôi ngồi đây, lẻ loi, cô độc, và thấy lòng bỗng bao dung như trời bể. Sự độ lượng bao giờ cũng đem lại niềm vui tinh thần cao quí. Như kẻ ngoan đạo đang đắm mình trong đức tin, tôi thấy lòng nhẹ không. Lòng tôi đang rũ sạch bụi trần.
Không, vẫn còn sót lại một hạt bụi cuối cùng. Nó rơi vào mắt tôi khiến mắt tôi cay xè. Khiến tôi ngạc nhiên thấy lòng vui quá xá vui mà trên môi sao có gì mặn chát. Có phải muối đấy không?
Mùa hè năm đó dài đằng dặc đối với tôi.
Như không phải là ba tháng, mà ba năm, hay lâu hơn thế nữa. Tôi có cảm tưởng như đã biến mất những mùa thu, những mùa đông, những mùa xuân trên trái đất. Khắp trần gian chỉ có mỗi mùa hè. Hoa phượng nở lê thê từ tháng giêng đến tháng chạp, kép theo những tiếng ve gầy.
Tôi về làng đủ đầy ba tháng ve kêu.
Hà Lan chỉ ở có hai mươi ngày. Nó cắt mùa hè ra làm hai phần không đều nhau. Phần lớn nhất nó dàng cho thành phố. Ở đó có vui chơi, có hội hè, có Dũng. Nó chỉ dành cho làng Đo Đo có hai mươi ngày ít ỏi.
Trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, tôi chỉ đến chơi vài lần. Chẳng lần nào giống như ngày xưa. Chúng tôi vẫn ngồi cạnh nhau dưới giàn hoa thiên lý, vẫn tinh nghịch đong đưa chân trên những khúc gỗ tròn, nhưng niềm hào hứng ngày nào đã bỏ đi đâu. Dường như giữa chúng tôi chẳng còn gì để nói, cứ mỗi lần cất lời là mỗi lần nhận thấy mình ngượng ngập. Giữa trưa hè ngột ngạt, chúng tôi ngồi lặng thinh, trống vắng, ở bên nhau mà nghìn trùng xa cách. Đôi mắt biếc ngày nào, khi dõi theo những cánh chuồn chuồn đang ngẩn ngơ bay bên hàng giậu đổ, em có chạnh lòng tiếc nuối tuổi thơ qua?
Tôi ra về lầm lũi. Tôi hiểu rằng từ nay chỉ có một mình tôi giữa bốn bề phượng vĩ. Hà Lan về làng nhưng lòng nó chẳng theo về. Lòng nó đã thôi tím hoa sim, thôi vàng hoa thị và có lẽ hình ảnh những phiên chợ đêm giăng mắc ánh đèn dọc quãng đời tuổi nhỏ cũng đã từ lâu thôi lấp lánh.
Tôi về một mình. Hè này, cô Thịnh không về. Cô ở lại nhà chị Nhường ráo riết ôn tập chuẩn bị thi tú tài hai. Chắc cô lại thức khuya lắc khuya lơ và dậy từ khi trời còn mờ mịt. Chắc cô lại thường xuyên nhúng đầu vào thau nước trong lúc học bài để cho tỉnh ngủ. Chắc cô chả nhớ đến tôi.
Suốt mùa hè, hầu như chiều nào tôi cũng vào chơi trong rừng Sim. Tôi đi một mình, ngay cả thời gian Hà Lan còn ở làng. Tôi lững thững đặt chân trên những lối mòn quen thuộc, nghe tiếng lá khô vỡ dưới gót giày, lòng cứ ngỡ chiều đi xào xạc. Tôi ngồi trên phiến đá năm nào, lạnh một bên vai, chỗ trống một người trong thoáng mắt đã ngập đầy lá rụng.
Tôi ngồi lặng thinh giữa hoàng hôn vây bọc, mơ màng hoài niệm về những ngày xưa cũ. Mà cũng chẳng xưa cũ gì, mới đây thôi. Mùa hè năm ngoái, trước ngày giã từ phố huyện, tiếng đàn tôi chẳng giấu giếm điều gì:
Lòng anh
Dù rộng dài như bể
Vắng cách buồm em
cũng lẻ loi
Lúc ấy, tôi chẳng lẻ loi. Hà Lan ở bên tôi. Nó đón nhận tình tôi, dẫu chẳng hứa hẹn điều gì. Nhưng chỉ cần vậy thôi, trái tim tôi đã reo vui và hồn tôi trang hoàng bao nhiêu là mơ mộng. Vậy mà, tất cả đã xa, mù khơi, thăm thẳm. Tôi chẳng bao giờ ngờ chỉ cần một khoảng cách ngắn ngủi giữa hai mùa hè, mọi thứ trên đời đều có thể bị đẩy lùi vào quá khứ chẳng chút xót thương. Mọi thứ, trừ tình yêu của tôi.
Hà Lan tưởng có thể thổi tắt tình yêu của tôi dễ dàng như thổi tắt một ngọn nến. Nó lầm. Nó chẳng hiểu lòng tôi. Từ rất lâu, lòng tôi đã hứa, như tôi đã một lần thổ lộ với bà khi còn sống: "Lớn lên cháu sẽ cưới nó làm vợ, bà ạ!". Tôi đã nói, và tôi mãi mãi không quên. Hà Lan chẳng biết điều đó. Chẳng ai biết điều đó. Trừ bà. Bà là người nắm giữ sức mạnh của các câu chuyện cổ. Bà hiểu rõ điều kỳ diệu của tình yêu, lòng nhân ái, tính giản dị và sự trong trẻo của tâm hồn. Không cần phải suy nghĩ, chỉ bằng trực giác, bà đã hiểu ngay điều tôi muốn bà hiểu: đối với tôi, Hà Lan chính là hóa thân yêu kiều của tuổi thơ rực rỡ, của đất đai quê xứ. Nó mang vào mối tình tôi một niềm hoài vọng không nguôi.
Những ngọn nến tình yêu trong lòng tôi không tắt. Dù Hà Lan cứ thổi, thổi hoài. Chúng không tắt, chúng chỉ mờ đi. Chúng cháy lập lòe, kiên trì và buồn bã, và đợi mong.
Tôi đợi mùa hè sắp tới. Tôi đợi mọi sự đổi thay. Nếu sang năm chẳng có tin vui, tôi sẵn lòng đợi thêm mấy mùa phượng đỏ. Hẳn trái tim Hà Lan sẽ có buổi quay về, hẳn thế! Lẽ nào nó chẳng nghe thấy tiếng đàn tôi ngậm ngùi tan đi trong gió, dẫu nó đang ở tận đâu trong xa thẳm mịt mù:
Mùa hè nào gặp gỡ
Mùa hè nào chia ly
Mùa hè nào hội ngộ
Tôi cầm trên tay hai mùa hè rực rỡ
Còn mùa hè cuối cùng rơi đi đâu?
Ai nhặt được mùa hè tôi đánh mất
Xin trả lại cho tôi
Xin trả lại cho người yêu tôi
Dẫu chỉ là xác con ve sầu chết khô
Ấy chính là mùa hè của tôi
Ngủ quên trong nách lá
Những ngọt bùi tôi đã nếm trải
Những đắng cay tôi đã nếm trải
Những mùa hè bỏng rát sau lưng
Còn mùa hè cuối cùng tôi gặp lại
Tôi đi đâu ngoài tầm mắt tôi tìm?
Tôi sẽ đi tìm mùa hè tươi đẹp của tôi
Tôi sẽ không bao giờ tìm thấy nếu Hà Lan nhất quyết giấu mùa hè đằng sau lưng nó. Nó và Dũng sẽ đứng che khuất mùa phượng đỏ mà tôi ngóng đợi. Nó mặc tôi tìm kiếm lang thang trong cuộc đời. Nó mặc tình yêu tôi dãi nắng dầm mưa, trái tim tôi sốt ba mươi chín độ. Nghĩ vậy, tôi buồn quá, chẳng thèm hát hỏng. Tôi buông đàn xuống và ngồi im. Ngồi im vui hơn.
Lên lớp mười một, tôi học vùi đầu. Cuối năm thi tú tài một, rớt là vô lính, đứa nào cũng ngán. Dũng ngoại lệ, nó đi chơi tà tà. Chắc nó nghĩ đằng nào nó cũng thi rớt, trước khi bị đẩy ra chiến trường, ăn chơi xả láng cho sướng thân.
Dũng xả láng bằng cách cặp bồ lung tung. Nó đi chơi hết cô này đến cô khác, báo hại Hà Lan khóc sưng cả mắt. Và, cũng như năm ngoái, Hà Lan lại tìm đến tôi, kể khổ. Lần này, nó không buồn giữ kẽ. Nó không rơm rớm nước mắt, mà gục đầu lên vai tôi, khóc vùi.
Hà Lan khóc mà tôi ướt áo. Nước mắt nó cháy bỏng da thịt tôi, như a-xít. Nếu nó khóc vì tôi, hẳn tôi sẽ xúc động ghê gớm. Hẳn tôi sẽ mủi lòng khóc theo. Nhưng đằng này, nó khóc vì Dũng. Nó khóc thằng sở khanh đó, trái tim tôi chai lì.
Lần đầu, vụ Bích Hoàng còn khiến tôi điên tiết nện nhau với Dũng. Tôi làm kẻ giữa đường thấy chuyện bất bằng chẳng tha. Tôi muốn Hà Lan hạnh phúc. Nhưng càng về sau, trái tim tôi càng nguội máu anh hùng. Tôi chẳng thiết làm Lục Vân Tiên nữa. Phong Lai trá hàng và liên tục trở mặt khiến Lục Vân Tiên mệt mỏi. Cuối cùng chịu hết nổi, tôi nói:
- Dũng đã như vậy, Hà Lan nghỉ chơi luôn đi! Dính dáng làm gì cho khổ thân!
Thấy Dũng chẳng ra gì, tôi định khuyên Hà Lan dứt áo từ lâu. Nhưng tôi ngại Hà Lan hiểu lầm. Tôi ngại nó nghi tôi yêu không được giở trò phá đám. Nhưng đến nước này, tôi bất chấp. Bây giờ tôi chỉ ngại mỗi một điều, dây dưa với Dũng, Hà Lan sẽ chuốc thêm đau khổ.
Hà Lan chẳng nghe tôi. Nó lắc đầu:
- Hà Lan không thôi Dũng được!
Hà Lan nói vậy, tôi chỉ biết thở dài. Tôi buồn cho tôi. Và tôi buồn cho Hà Lan. Tôi chẳng biết làm sao xoa dịu nỗi đau trong lòng nó. Những lời an ủi của tôi mới tẻ nhạt làm sao. Điều đó khiến tôi vô cùng ray rứt và tôi có cảm giác như tôi, chính tôi, chứ không phải Dũng, đã gây ra nỗi bất hạnh cho Hà Lan.
Mối tình giữa Hà Lan và Dũng cứ dùng dằng như vậy, suốt năm. Dũng chập chờn như cánh bướm, nay đóa hoa này, mai đóa hoa khác, thỉnh thoảng lại quay về với Hà Lan. Tôi nghiến răng chứng kiến cảnh đó, chẳng vui gì. Tôi thương Hà Lan đến nát ruột. Và tôi cũng chửi thầm nó tơi bời. Nó ngốc nghếch hệt như cô bé quàng đỏ. Nó bị con sói đánh lừa mà chẳng biết. Nó cứ tưởng con sói là bà ngoại.
Hà Lan nghỉ học khi chỉ còn ba tháng nữa là đến hè. Nó có mang. Tin đó khiến tôi đau xót hơn là ngạc nhiên. Từ lâu, tôi đã phấp phỏng, lo lắng. Tôi sợ điều không hay sẽ xảy đến cho Hà Lan. Bây giờ, nó đến, sớm hơn tôi nghĩ. Nó đến khi năm học chưa kết thúc, thật ngặt nghèo.
Tôi biết được điều đó không phải do Hà Lan. Hà Lan tâm sự với tôi đủ chuyện, trừ chuyện đó. Hai tháng gần đây, nó trốn biệt. Tôi thấy lo lo, liền đi tìm. Tôi đạp xe đến trước cổng trường Nữ đứng đợi suốt ba buổi chiều liền, không thấy nó. Hà Lan biến mất khỏi dòng sông áo trắng khiến lòng tôi lửa đốt.
Tôi chạy đến nhà bà cô và bắt gặp Hà Lan ngồi lặng thầm trong phòng khách. Vẻ xanh xao trên gương mặt nó khiến tôi kinh hãi. Tôi hỏi, nó bảo bịnh. Tôi hỏi bịnh gì, nó bảo cúm. Tôi liền phóng xe đến hiệu thuốc Thanh Lâm của cậu Huấn, kêu nhỏ Mai bán cho tôi mấy vỉ aspirin.
Tôi đưa thuốc, Hà Lan không lấy. Nó bảo có rồi. Tôi nhét mấy vỉ thuốc vào tay nó, dịu dàng nói:
- Hà Lan cứ cầm lấy! Có rồi thì để dành!
Nói xong, tôi về. Hà Lan tiễn tôi ra cửa bằng ánh mắt bối rối. Nó chẳng nói gì, chỉ cười. Một nụ buồn. Lúc đó, tôi nghĩ: tại bịnh đó thôi!
Ba hôm sau, tôi lại ghé. Hà Lan vẫn còn xanh. Một tuần sau, cũng vậy. Nó cứ xanh hoài hoài.
Tôi không giấu được lo âu:
- Hay là Hà Lan đến bệnh viện thử coi!
Hà Lan lắc đầu. Và khóc. Tiếng nức nở của nó khiến lòng tôi quặn thắt. Nhưng tôi chẳng hiểu gì. Tôi hỏi gì, Hà Lan cũng chẳng nói. Tôi chỉ biết đứng nhìn nó sụt sùi và đoán mò, chắc nó lại buồn thằng Dũng bỏ bê.
Tôi về, hỏi Dũng:
- Hà Lan bịnh, anh có biết không?
- Biết! - Dũng đáp cộc lốc, vẻ khó chịu.
Tôi phớt lờ, hỏi tiếp:
- Anh đến thăm Hà Lan chưa?
Dũng nhăn mặt:
- Chuyện của tao, mày hỏi làm gì?
Dũng lại giở cái giọng trịnh thượng hôm nào. Tôi nổi khùng:
- Hỏi để biết!
Dũng liếc tôi, mặt đanh lại:
- Mày chẳng cần biết ba chuyện đó!
Nói xong, nó quay lưng bỏ ra khỏi phòng. Nó không thèm nói chuyện với tôi. Nếu như trước đây, tôi đã chặn nó lại, và hỏi cho ra lẽ. Nếu cần, tôi sẵn sàng đánh nhau. Những cú đòn của nó khủng khiếp thật, nhưng chẳng thể khiến tôi lùi bước. Nhưng đó là trước đây, còn bây giờ, tôi mặc xác. Bây giờ tôi biết nó là loại người không thể nói chuyện.
Tôi chẳng buồn gây sự với Dũng. Nhưng nhìn nó vừa lừ lừ ra cửa vừa nhăn nhở hát "thôi, em đừng khóc, đừng khóc nữa làm gì...", tôi lại chạnh lòng nghĩ tới Hà Lan và bụng bỗng tức sôi lên. Nếu có một hòn đá trên tay, tôi sẽ không ngần ngại ném vào lưng nó. Tôi sẽ ném thật mạnh.
Trước sau, Hà Lan vẫn câm như thóc.
Thái độ của nó khiến tôi nghi ngờ. Biết không thể dò hỏi nó được, tôi khai thác bà cô. Thoạt đầu, cô Hà Lan định giấu, sau biết tôi sắp về làng, cô sợ làm lộ chuyện, bè kể thật tất cả.
Tôi ngồi nghe, mắt mờ đi, mồ hôi chảy thành dòng.
Kể xong, cô dặn:
- Về làng, cháu đừng nói gì với ai nghen!
Tôi gật đầu.
Cô lại nói:
- Mẹ Hà Lan có hỏi, cháu nói là Hà Lan vẫn đi học bình thường nghen!
Tôi băn khoăn:
- Làm sao giấu mẹ Hà Lan được? Trước sau gì bác ấy chẳng biết!
- Chuyện ấy để cô lo. Cô sẽ tìm cách nói chuyện với mẹ Hà Lan sau.
Tôi chẳng thắc mắc nữa, mà ngồi im.
Nỗi buồn cao như núi, kéo về án ngữ trái tim tôi. Nỗi buồn như dòng nhạc Ngô Thụy Miên chảy ngập lòng tôi:
Dù mai đây
Ai đưa em đi đến cuối cuộc đời
Dù cho em
Em đang tâm xé, xé nát tim tôi
Dù có ước, có ước nghìn lời
Có trách một đời
Cũng đã muộn rồi, tình ơi!
Dù sao, dù sao đi nữa
Xin vẫn yêu em...
Có phải niệm khúc cuối đấy không, mà sao Hà Lan xé nát tim tôi, tôi vẫn yêu nó vô bờ? Mà sao, dẫu trách nó một đời, trước hôm về thăm làng, tôi vẫn đến tìm nó? Tôi ngồi bên cạnh Hà Lan suốt một buổi chiều, an ủi nó bằng sự thinh lặng dịu dàng và chia sẻ. Tôi mong sự cảm thông của tôi sẽ giúp nó đỡ phần nào trống vắng. Tôi muốn làm ngọn thu phong biết mấy, để thổi tan đi bóng mây u ám đang bắt đầu sẫm màu trong mắt biếc kia! Dù sao, Hà Lan có biết không, dù sao đi nữa... Tôi buồn bã nói thầm, và chỉ có buổi chiều nghe thấy.
Hà Lan bảo tôi Dũng sẽ cưới nó. Dũng hứa như vậy. Tôi chẳng biết tôi có mong như vậy không, nhưng khi nghe tin đó, lòng tôi nhẹ nhõm.
Mười bảy tuổi với đứa con trong bụng, Hà Lan dại dột quá chừng. Dù sao, nếu Dũng làm đám cưới, cuộc đời Hà Lan khỏi lâm vào cảnh dở dang. Tôi mừng cho nó. Dẫu rằng ngày vui của nó hẳn sẽ để buồn cho tôi, buồn chết được!
Tôi ngậm ngùi hỏi:
- Chừng nào đám cưới?
Hà Lan đáp, nó nhìn xuống đất:
- Anh Dũng bảo đợi thi tú tài xong.
Hà Lan nói vậy, tôi biết vậy. Tôi không hỏi Dũng, sợ nó tự ái. Nó nổi khùng lên là hỏng chuyện. Trong thời gian đó, tôi cố tỏ ra dịu dàng với nó. Tôi làm như tôi không biết gì hết.
Với ba mẹ Hà Lan, lại khác. Hai người đã biết chuyện, tôi không thể giả ngây. Mỗi lần về làng, ghé chơi, lòng tôi nơm nớp. Ba Hà Lan chẳng nói gì. Vẫn như dạo nào, đôi mắt đẹp của ông thường xuyên hướng lên bầu trời, dõi theo những tia nắng và những đ am mây. Ông nghĩ ngợi về thời tiết và mùa màng. Ông chẳng hỏi thăm về Hà Lan một tiếng nào nhưng tôi đọc thấy trong mắt ông nỗi buồn thăm thẳm. Ông buồn như đá, khắc khổ và thinh lặng. Đâu phải tự nhiên ông là người duy nhất trong dòng họ dành trọn đời mình cho làng núi Đo Đo. Tôi liếc ông, lòng bỗng dưng xao xuyến, khôn cùng.
Cũng như chồng, mẹ Hà Lan ra vào lặng lẽ. Bát canh thiên lý tôi ăn đã chẳng còn ngon miệng. Chiếc mâm gỗ tròn nằm ngơ ngác giữa trưa im. Tôi ngồi xếp bằng trên phản, lóng ngóng, vụng về.
Bất giác, mẹ Hà Lan buộc miệng nói:
- Hà Lan ra thành phô, chẳng quen biết ai. Cháu thân nhất, sao chẳng bảo nó?
Câu nói nửa than, nửa trách, buồn hiu hắt. Chẳng biết trả lời sao, tôi ngồi im ngó ra cửa. Trưa dội nắng xuống giàn hoa thiên lý, ánh lên màu lá biếc, và rụng xuống mặt sân những giọt vàng lốm cốm. Tôi chạnh nhớ đến trưa nào, tôi và Hà Lan ngồi chơi ô quan trước sân, trên vai áo cũng nắng vàng vương vãi, chẳng nghĩ dòng đời sẽ có khúc sông quanh.
Trong khi tôi đang ngẩn ngơ với rộn ràng xưa cũ, mẹ Hà Lan chợt chép miệng nói:
- Nhưng bác chỉ nói vậy thôi,cháu làm sao bảo nó được! Bác bảo, nó còn chẳng nghe!
Rồi bà hạ giọng thì thầm, như nói với chính mình:
- Nó chẳng giống ông ấy! Nó rời làng như cây bật rễ, biết bám vào đâu! Rồi nó sẽ khổ suốt đời!
Câu nói như gió thoảng khiến tôi bất giác rùng mình. Và trong một thoáng, tôi bỗng nhớ đến bà tôi. Hồi còn sống, lần đầu tiên để ý đến Hà Lan, bà đã nói "đời nó sẽ khổ". Lúc đó, tôi chẳng buồn quan tâm đến sự tiên đoán của bà. Bây giờ tôi mới hiểu, cũng như tôi hiểu vì sao bà mong tôi cưới Hà Lan làm vợ. Tôi cưới Hà Lan, đời nó sẽ tránh được bao nhiêu chông gai rắc rối. Cưới nó, tôi vừa là "rể" lại vừa là "rễ", tôi làm sợi dây nối nó với đất đai nguồn cội dẫu cuộc đời có thổi dạt nó đi đâu. Chẳng ai ngờ mọi chuyện lại xảy ra quá nhanh, sợi dây chưa kịp buộc vào đã đứt tung như đàn tôi sáu sợi. Nỗi mong mỏi của bà vùi xuống đất sâu.
Tôi vẫn lặng thinh ngồi nhìn ra sân nắng. Thấy tôi buông đũa ngừng ăn, mẹ Hà Lan cũng chẳng giục giã gì. Bà cũng nhìn ra sân, nhưng tôi chắc ánh mắt u hoài của bà chẳng trông thấy cỏ cây hoa lá ngoài kia. Nỗi buồn kín đáo và sức chịu đựng phi thường của bà khiến tôi xúc động và cảm phục vô cùng. Độ lượng, kiên nhẫn, dịu dàng, bà là người mẹ thương con và khổ vì con. Bà giống tôi, bề ngoài có vẻ chậm chạp, lẩm cẩm nhưng tâm hồn lại cực kỳ sâu sắc và nhân ái. Chỉ tiếc là Hà Lan không hiểu bà. Nó đã tự đánh mất một chỗ dựa tinh thần vững chắc. Nó như chú chim non nóng lòng rời tổ, mải mê bay theo muôn tía nghìn hồng, không biết cuộc đời lắm kẻ giương cung.
Mùa hè năm đó không phải là mùa hè của tôi. Mùa he của tôi không bao giờ về nữa. Từ ngày Hà Lan nghỉ học, nó đã bỏ đi luôn. Nó ra đi, mang theo hy vọng, lấy hết ước mơ, hành trang giã từ chỉ để lại cho tôi mấy trang sách luyện thi tú tài khô không khốc.
Tôi vùi đầu vào tập, dặn lòng thôi mơ tưởng vẩn vơ, thôi nhớ về vơ vẩn. Tôi dặn lòng tôi, rớt là vô lính, cầm súng ra chiến trường không biết chết cho ai. Tôi đóng chặt cửa, ngồi nhà, tụng bài như cầu nguyện. Cho đến ngày đi thi, tôi không dám bước ra sân, tôi sợ trông thấy màu hoa phượng. Màu phượng đỏ sẽ đốt cháy lòng tôi tức khắc, trái tim ra tro, tôi đâu thể học bài. Tôi cũng không dám đụng đến cây đàn, sợ xưa cũ vọng về không sao ngăn nổi:
Lặng lẽ chiều nay
Lặng lẽ mùa hè
Sân trường vắng
Và lòng tôi cũng vắng
Muốn tặng em
Một chùm phượng thắm
Tôi nhờ mùa hè
Bẻ hộ tôi...
Cành phượng vĩ tôi muốn tặng Hà Lan, mùa hè bao lần không bẻ được, tôi còn ngước nhìn phượng đỏ làm chi.
Thốt nhiên, tôi nhớ đến T.T.KH. Người yêu bà đứng dưới bóng hoa ti-gôn, vuốt tóc bà và nói:
... Hoa giống như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!
Làng tôi không có hoa ti-gôn, chỉ có hoa phượng. Hoa phượng cũng đỏ tươi, cũng giống như tim vỡ. Tình tôi đã vỡ rồi, tôi chẳng sợ. Tôi chỉ sợ tim tôi có mệnh hệ nào, tôi sẽ đi theo bà tôi, đi theo chú Hoan. Tôi sẽ ngủ, ngủ hoài. Tôi sẽ nằm một mình dưới đất sâu, đêm đêm nghe côn trùng rả rích. Nghĩ vậy, tôi hãi quá, ở luôn trong nhà.
Tôi chỉ rời nhà ban đêm. Ban đêm chẳng thấy màu phượng đỏ, lòng tôi đỡ xốn xang. Tôi đi tắm dưới giếng cây Duối chỉ có trăng treo.
Tôi đậu tú tài năm đó, hạng bình, thuộc loại khá. Dũng rớt, chờ đi quân trường. Nó trốn quân dịch đã ba lần, lần này khó thoát.
Dũng đi, tôi cũng đi. Tôi định vào Quy Nhơn, học sư phạm, mai mốt về làng dạy học. Ba tôi muốn tôi học tiếp lớp mười hai, sang năm thi vào đại học nhưng tôi tìm mọi cách thoái thác. Mẹ tôi chẳng có ý kiến gì rõ rệt, nghe tôi định trở về làng, ở cạnh mẹ, mẹ thích lắm.
Trước ngày lên đường, tôi ghé Hà Lan. Nó có mang đã gần năm tháng, suốt ngày mặc áo bầu rộng thùng thình. Nghe tôi sắp đi xa, nó buồn thiu. Nó nói:
- Ngạn đi rồi, Hà Lan không biết trò chuyện với ai.
Vừa nói, Hà Lan vừa nhìn tôi. Ánh mắt thăm thẳm của nó gợi nhớ biết bao điều, kỷ niệm chợt về vây bọc. Tôi xao xuyến khôn tả, vội nhìn ra sân, khẽ nói:
- Tôi ở xa nhưng lúc nào cũng nghĩ đến Hà Lan. Khi nào cần, Hà Lan cứ viết thư cho tôi.
Hà Lan chẳng nói gì, nó lặng lẽ gật đầu. Tôi cũng ngồi im và cảm thấy không khí đột nhiên nặng nề. Tôi cố nói một câu gì đó nhưng nghĩ mãi không ra, cứ lúng túng một cách khổ sở. Xét cho cùng, tôi với Hà Lan chẳng ra bạn bè, chẳng phải anh em, cũng chẳng phải tình nhân. Tôi từ giã nó như từ giã một mối tình đổ vỡ, từ giã một lần để mãi mãi chia tay. Sắp có chồng, sắp có con, Hà Lan trong trái tim tôi vẫn muôn đời là giấc mơ tuổi nhỏ. Nó chỉ là bóng hình trong cổ tích của bà xưa.
Trước lúc ra về, tôi nhìn Hà Lan, băn khoăn hỏi:
- Còn chuyện đám cưới, Dũng tính sao?
Hà Lan chớp mắt, giọng bối rối:
- Ảnh bảo đợi học xong chín tháng quân trường.
Tôi giật mình nhủ bụng, như vậy đám cưới được tổ chức khi đứa bé đã được năm, sáu tháng tuổi, thật bất tiện. Sao Dũng không làm đám cưới ngay bây giờ?
Bữa đó tôi về, lòng không vui.
Chương 8
Tôi tới Quy Nhơn như tới một thế giới mới. Con trai núi về thành phố biển, chuyến hành hương tuyệt vời của con cháu Âu Cơ về xứ sở Lạc Long Quân gió cát đã giúp tôi nguôi nỗi đau phượng vĩ.
Những ngày xa cách, lòng tôi trầm lại và tôi thương Hà Lan nhiều hơn. Số phận nó rốt lại chẳng sung sướng gì. Lúc nào cũng lo âu, lúc nào cũng phiền muộn, nó như tổ chim chào mào trên lũy tre sau hè nhà nó trong những ngày bão lớn, luôn phập phồng sợ gió cuốn bay đi. Bây giờ tôi chỉ mong Hà Lan tìm thấy hạnh phúc trong đám cưới trễ tràng. Tôi cũng mong hai năm sư phạm chóng qua để tôi sớm trở về làng rừng sim hoa tím của tôi xưa. Qui Nhơn trở thành những ngày tháng đợi mong.
Lá thư đầu tiên Hà Lan gửi cho tôi là lá thư báo tin vui. Lá thư khá vắn tắt. Nó cho biết nó vừa sinh con gái, đặt tên là Trà Long, thế thôi, ngoài ra chẳng nói thêm chuyện gì khác. Tôi viết thư về thăm hỏi sức khỏe hai mẹ con, Hà Lan cũng chỉ trả lời qua quít: mẹ khỏe con khỏẹ Nhưng đối với tôi, vậy là vui rồi. Từ nay, Hà Lan sẽ không còn cảm thấy cô đơn trong ngôi nhà mênh mông của bà cô giàu có. Nó sẽ không còn thấy lẻ loi, trống vắng trong những ngày dằng dặc đợi Dũng về. Trà Long, cháu làm ngọn lửa sưởi ấm lòng mẹ cháu, có phải không?
Trong những lá thư tiếp theo, tôi cũng chỉ thăm hỏi hai mẹ con. Tôi không đả động gì đến Dũng, mặc dù tôi rất muốn biết thái độ của Dũng trước tin Trà Long ra đời cũng như dự định của nó về đám cưới ra sao. Hà Lan cũng không nhắc đến Dũng một lời. Nó cố ý phớt lờ, giống như tôi.
Thời gian lặng lẽ trôi qua, giấc ngủ tôi đêm đêm thơm nồng vị biển. Trong giấc mơ, tôi thấy thơm nồng vị biển. Trong giấc mơ, tôi thấy Hà Lan dắt bé Trà Long vào Quy Nhơn thăm tôi, hai mẹ con chạy nhảy trên ghềnh đá nhấp nhô, đùa giỡn cùng sóng nước. Cũng như trong những lá thư của tôi, trong giấc mơ tôi không có Dũng. Nó biến đâu mất.
Nhưng đó là giấc mơ. Trong thực tế, kết thúc thời gian huấn luyện tại quân trường, Dũng trở về.
Dũng trở về, làm đám cưới, Hà Lan báo tin cho tôi trong một lá thư đầy nước mắt, không phải cưới Hà Lan, mà cưới... Bích Hoàng, cô gái Dũng đã từng bỉu môi nhận xét "chỉ được cái mẽ ngoài, chán bỏ xừ". Hà Lan chỉ báo như vậy, không bình luận gì thêm. Nhưng tôi biết, trái tim nó đang tan ra từng mảnh.
Tôi đọc đi đọc lại lá thư hàng chục lần, vẫn không hiểu sao mọi chuyện lại như vậy. Tôi như kẻ mộng du trôi bồng bềnh giữa vùng khói sương hư thực, lòng trải qua muôn ngàn cảm giác khác nhau, bàng hoàng, sửng sốt, phẫn nộ, điên cuồng và cuối cùng là nỗi mệt mỏi bao trùm.
Tôi xé vụn lá thư, vo tròn, ném qua cửa sổ rồi uể oải đứng lên đi về phía biển. Tôi ôm theo cây đàn như ôm người bạn nhỏ. Bây giờ chỉ có mày chia sẻ cùng tao!
Ngồi trên ghềnh đá, sóng bủa mịt mù, tay tôi lướt trên phím đàn, và tôi nghe tiếng lòng tôi vọng về cố quận:
Từ thời xa xửa xa xưa nào
Em tôi đã yêu ai
Đã vô cùng hạnh phúc và vô cùng khổ đau
Để rồi trong buổi chiều ảm đạm nào
Em tôi đã nhìn thấy tình yêu
Như vết chém
Rời bỏ khoảng trời xanh mơ mộng
Trái tim em tôi đã trở về
Nằm ốm trong lồng ngực
Tiếng thở dài như mũi tên rung.
Ở phương trời xa, Hà Lan mấy tiếng thở dài sao trái tim tôi bồi hồi đến vậy. Tôi nhớ em và tôi lại thương em. Ngày mai tôi sẽ vội vã đón xe về. Lúc này, em cần có tôi bên cạnh, nương tựa, sẻ chia. Sức em có là bao, tôi không nỡ để mình em gánh nặng. Không có bờ vai tôi, em lấy đâu chỗ gục đầu để khóc vùi như mưa bấc, dẫu em khóc người tình, nước mắt em cháy nám trái tim tôi, cường toan không sánh nổi.
Tôi thẫn thờ ngồi trên bãi biển suốt cả buổi chiều, cho đến lúc thủy triều lên. Biển Qui Nhơn những ngày này sấm động. Biển có biết gì không?
Tôi về lại Đo Đo làm ông giáo làng. Tôi dạy ở trường tiểu học năm nào và trở thành đồng nghiệp của cô Thung và của các thầy cô trước đây từng dạy dỗ tôi. Các thầy cô cũ thấy tôi về, mừng lắm. Hôm đầu tiên, cô Thung nhìn sững tôi và kêu lên mừng rỡ:
- Ôi, thầy Ngạn đó hả? Trông thầy khác hồi nhỏ dữ a!
Cách xưng hô của cô Thung khiến tôi ngượng đỏ mặt. Tôi bối rối nói:
- Cô đừng gọi em là thầy! Cô cứ kêu em bằng em như hồi xưa! - Bỗng dưng tôi nhớ tới kỷ niệm ngày nào và buộc miệng - Hồi xưa em vẫn thường tranh nhau đi... rót nước cho cô!
Cô Thung mỉm cười:
- Chuyện cũ, thầy nhắc làm chi! Hồi xưa khác, bây giờ khác! Hồi xưa thầy đi học, còn bây giờ thầy đi dạy, làm sao tôi kêu thầy bằng em được!
Trước lý lẽ cứng nhắc của cô, tôi đành xuống nước:
- Vậy thôi, cô kêu em bằng tên! Cô đừng kêu bằng thầy, em áy náy lắm!
Cô Thung suy nghĩ một lát rồi gật gù:
- Vậy cũng được! Tôi sẽ kêu Ngạn là Ngạn!
Tôi mừng quýnh. Từ đó, các thầy cô trong trường đều bắt chước cô Thung, gọi tôi bằng tên. Tôi là cái thằng Ngạn ngày xưa, trùm đánh nhau, chúa bị phạt, bữa nào đi học về cũng rách quần rách áo, bươu cổ u đầu, nay đi học mấy năm về, tự nhiên được xếp ngang hàng với thầy cô kính mến ngày xưa, tôi đâu dám.
Tôi nhớ chuyện ông Các-nô ngày xưa, làm tới đại tướng, về làng không quên ghé thăm thầy cũ. Thầy giáo già đang dạy học trò, thình lình thấy một ông tướng oai vệ bước vào, cầu vai sáng lóe, vội vã nghiêm chào. Ông tướng liền ngả nón, vòng tay kính cẩn: "Thưa thầy, con là học trò Các-nô ngày xưa đây ạ!". Tôi cũng vậy. Tôi là trò Ngạn ngày xưa. Bên cạnh các thầy cô thuở thiếu thời, tôi luôn luôn là chú học trò nhỏ. Chú học trò ấy, bây giờ mới qua tuổi hai mươi.
Khi tôi về làng, trường tiểu học đã mở thêm lớp một. Lớp một hút gần hết trẻ con trường thầy Phu. Học trò loe hoe, thầy dạy nấn ná thêm một thời gian, rồi đóng cửa trường. Dù sao, thầy cũng đã già, sức khỏe không còn được như xưa. Bây giờ thầy ngồi nhà dạy kèm dăm ba đứa trẻ, sống qua ngày.
Hôm tôi ghé thăm, thầy Phu không nhận ra tôi. Tôi xưng tên, thầy mới nhớ. Thầy kéo chiếc kính lão xệ xuống sống mũi, nhìn tôi trân trân, giọng xúc động:
- Ngạn đấy ư? Em về từ hôm nào?
Tôi nhìn nụ cười lấp lánh những chiếc răng vàng của thầy, lòng bồi hồi khôn tả. Ngày xưa, ngày xưa bỗng hiện về. Sao tôi cứ nhớ mãi ngày xưa?
- Thưa thầy, em mới về! - Tôi đáp khẽ.
Thầy đặt tay lên vai tôi:
- Em về chơi được bao lâu?
Tôi chớp mắt:
- Thưa thầy, em về luôn. Em về dạy ở trường tiểu học làng mình.
Nghe vậy thầy vui vẻ hẳn lên:
- Hay lắm, em chọn nghề dạy học! Đó là một nghề khó nhọc nhưng cao quí em ạ!
Tôi dạ khẽ. Thầy lại gật gù:
- Nghe em về dạy học ở làng, thầy rất ngạc nhiên. Khi trưởng thành, không phải ai cũng quay về chốn cũ. Làng quê mình sỏi đá nhiều hơn thóc gạo, nghèo khó muôn đời!
Giọng thầy bâng khuâng nghe buồn da diết. Lúc mới vào nhà, không thấy chị Hạnh và thằng Hòa đâu, tôi định hỏi. Bây giờ, nghe thầy nói vậy, tôi không hỏi nữa. Hai người con thầy hẳn đã đi lập nghiệp phương xa. Tự nhiên tôi nhìn thầy thương cảm. Sống cô quạnh giữa xế chiều của cuộc đời, thầy đã mất đi vẻ quắc thước, nghiêm nghị ngày nào. Trước mặt tôi chỉ là một tuổi già thui thủi, cuối đời ngồi lần đếm tháng ngày qua.
Khi chào thầy quay ra, tôi không giấu nổi tiếng thở dài, ngậm ngùi, u uẩn.
Tôi đến chơi nhà Hà Lan khá thường xuyên. Bây giờ trong căn nhà phên tre mái lá ấy có thêm một nhân vật mới: Trà Long.
Khi Trà Long được một tuổi rưỡi thì Hà Lan gửi nó về ở với ông bà ngoại. Được bà cô cấp vốn mở tiệm may, Hà Lan bận bù đầu. Vừa đi học may, vừa chạy thuê nhà, lại phải lo chiêu mộ thầy thợ, Hà Lan không có thì giờ chăm sóc Trà Long, đành giao cho bà ngoại.
Lúc tôi về, Trà Long đã gần hai tuổi. Nó giống hệt mẹ, xinh xắn, dễ thương, đôi mắt đẹp di truyền ba thế hệ. Nhờ có nó bi bô suốt ngày, căn nhà đỡ trống vắng. Mẹ Hà Lan hẳn đã vùi xuống đáy lòng nỗi khổ tâm năm nào. Mỗi lần đến chơi, bao giờ tôi cũng bắt gặp bà vui vẻ đùa giỡn với cháu.
Tôi trở thành người bạn trai đầu đời của Trà Long, như trước đây bà tôi đã từng là bạn gái của tôi. Ba Hà Lan ít khi nựng cháu, ông có những mối quan tâm riêng. Thương Trà Long, ông chỉ biểu lộ tình cảm của mình bằng ánh mắt âu yếm thầm lặng. Thường thường, ông chọc cho nó cười và trong khi nó cười chưa dứt, ông bỏ ra sau hè với chiếc liềm hoặc những bó mạ trên tay.
Tôi thương Trà Long với một tình thương đặc biệt. Nó là hóa thân nhỏ bé bỏng của Hà Lan. Nó là sự nối dài số phận không may của mẹ nó. Ngay từ lúc lọt lòng, nó đã là đứa trẻ không cha và mới hơn một tuổi đã sớm rời khỏi vòng tay mẹ. Ngôi sao bản mệnh của cháu nằm lẩn khuất nơi đâu giữa bầu trời thăm thẳm, đêm đêm chú mỏi mắt dò tìm sao chẳng thấy? Cứ mỗi lần ngồi lặng ngắm Trà Long dạo chơi quanh quẩn bên bộ ván, lòng tôi không khỏi bâng khuâng.
Trà Long khoái cỡi ngựa, tôi chỏi hai tay hai chân, nằm bẹp xuống nền nhà, bò loanh quanh cho nó ngồi ngất ngưỡng trên lưng. Trà Long khoái xem trò, tôi lấy nhọ nồi bôi đầy mặt, giả làm khỉ, làm cọp, làm mèo. Tôi gầm gừ, tôi kêu meo meo, khọt khẹt, nó thích lắm, cười ngặt nghẽo.
Trà Long đòi đi chơi, tôi cõng nó trên lưng, dạo khắp làng. Ban đêm, tôi cõng nó ra chợ, rảo khắp các hàng quán, mua cho nó những con thú sặc sỡ bằng bột để sung sướng nhìn nó nắm khư khư như những con thú trong tay với vẻ mặt thích thú.
Hôm nào, bọn người bán thuốc dạo ghé làng, hai chú cháu lại chen chúc giữa vòng tròn người bao quanh gốc bàng già giữa chợ, mải mê xem những trò biểu diễn kỳ quặc và đầy xúc cảm. Những lần như vậy, khi rời khỏi chợ bao giờ Trà Long cũng ngoẹo cổ ngủ trên vai tôi tự hồi nào. Những lúc ấy, tôi cố đi thật chậm, sợ Trà Long thức giấc và trong khi thận trọng đếm từng bước chân, tôi lại nhớ Hà Lan ray rứt.
Lần trước tôi về, Dũng và Bích Hoàng đã cưới nhau được mười ngày. Gặp tôi, Hà Lan khóc như mưa, người tôi ướt đẫm. Quê tôi lắm bão lụt, lần này tôi về ngồi bên cho nước mắt em dâng ngập lòng tôi.
Nước mắt dẫu đầy như biển khơi, khóc hoài cũng hết. Khóc một hồi, Hà Lan thôi nức nở, ngồi ngó tôi. Tôi nhìn nó, không nói một lời. Tôi thấy buổi chiều đang dâng lên trong mắt biếc kia. Tôi thấy hồn nó lặng thinh, câm nín.
Lần đó, tôi ở nhà bà cô Hà Lan suốt ba ngày. Bấy giờ sự sang trọng hay nghèo hèn đối với tôi không còn ý nghĩa gì nữa. Tôi chỉ muốn Hà Lan thôi sầu tủi. Tôi không thể ở nhà cậu Huấn, dù Dũng không có nhà. Nó và Bích Hoàng đã tếch đi Đà Lạt. Tôi cũng không thể ở nhà chị Nhường. Chị lải nhải suốt ngày khiến tôi phát điên:
- Sao Ngạn không về sớm dự đám cưới anh Dũng? Đám cưới lớn lắm!
Trong ba ngày ít ỏi sống bên nhau đó, tôi và Hà Lan không nhắc đến Dũng một lời. Chúng tôi đùa giỡn với bé Trà Long. Tôi đưa hai mẹ con đi chơi đây đó cho khuây khỏa. Chúng tôi chỉ nói với nhau về chuyện học tập, về những dự định tương lai. Tất cả chỉ có thế, cho đến ngày tôi trở lại Qui Nhơn. Trước lúc chia tay, tôi chỉ nói mỗi một câu:
- Hà Lan hãy cố gắng! Hãy nghĩ đến Trà Long!
Hà Lan gật đầu, đôi mắt u buồn vương vấn. Nó không tiễn tôi ra bến xe. Nó chỉ đứng tựa cửa trông theo. Mười tám tuổi, nó đã lâm vào nghịch cảnh, tôi vừa giận lại vừa thương nó, bữa ra đi cứ dục dặc dùng dằng.
Cho đến lúc ra trường, tôi không về lại thành phố thêm một lần nào. Tôi ở xa, gửi thư thăm hỏi. Hà Lan trả lời, thư có thư không, những trang giấy đã thôi nhòe nước mắt. Điều đó giúp tôi yên tâm học tập. Tôi ở Quy Nhơn, đêm nằm nghe tiếng biển, trong cơn mơ tôi thấy tôi trở về cố xứ, dạy học trò.
Một năm sau, tôi về thật. Tôi về giữa mùa phượng vĩ, bỏ lại sau lưng hai năm lủi thủi học hành. Tôi ghé thăm Hà Lan, không thấy Trà Long đâu. Tôi hỏi, nó bảo nó gửi Trà Long về ngoại. Những ngày này, Hà Lan tất bật. Ngược xuôi chuẩn bị cho việc mở tiệm may, nó không có thì giờ lo cho con. Nó cũng không có thì giờ trò chuyện với tôi. Tôi ở xa về, ôm trong lòng hai năm thương nhớ mà chẳng thể giãi bày. Tôi đạp xe ra ngoại ô, một mình một bóng, ngồi lặng lẽ bên chân cầu năm nào nhìn nước chảy, thấy tình mình cuốn trôi đi.
Nhưng tôi không trách Hà Lan. Nó quên nỗi buồn, nó vượt qua hoàn cảnh éo le để vui cùng công việc, tôi mừng cho nó. Những bóng mây thôi giăng mờ mắt biếc, thương một người, tôi còn mong mỏi gì hơn!
Làng Đo Đo không có gì thay đổi. Hôm tôi về, những trái duối chín vàng bên thềm giếng năm xưa, hàng dâm bụt trước nhà lão Tứ hớt tóc vẫn đỏ rực phía đầu làng.
Tôi đi qua chợ, những chiếc sạp chỏng chơ đang đứng nép vào nhau chờ đêm xuống. Giữa chợ, những đứa trẻ thò lò mũi xanh đang chia phe đánh nhau và đuổi quanh gốc bàng, miệng la chí chóe. Tự nhiên tôi cảm thấy bồi hồi. Tôi bắt gặp hình ảnh tuổi thơ tôi ngày trước.
Tuổi thơ thương nhớ ấy có mình tôi về lại. Bạn bè xưa tản mác nơi đâu, chỉ còn lại lèo tèo dăm ba đứa. Bạn gái lại càng mất hút. Con gái quê tôi cứ đến tuổi đôi mươi không hẹn mà cùng biệt ly quê xứ. Họ đi tìm lục biếc ở xa xăm, tiết thanh minh mới rủ nhau về tảo mộ.
Thời niên thiếu rộn ràng kỷ niệm, cùng đi với tôi có những ai mà chẳng có lấy một người về. Cô Thịnh sau khi thi đỗ tú tài hai, ở luôn ngoài thành phố. Cô bỏ đại học, xin vào làm ở ngành ngân hàng, chuẩn bị lấy chồng. Chị Quyên, đứa con gan góc, hiếm hoi của quê núi, cũng bỏ đi sau tám năm dài phụ gia đình buôn bán. Chị ra thành phố cùng chị Nhường coi tiệm vải. Hẳn chị chẳng còn là chị Quyên của tôi xưa.
Tôi chẳng muốn nhắc đến Hà Lan. Hà Lan đã xa cách quê làng ngay từ khi vừa giã từ trường huyện. Hoa chưa trôi, lòng của nó đã sớm bèo dạt, những bản tình ca của tôi chẳng níu giữ được gì. Nhưng chẳng hiểu sao, nó xa tôi mà lòng tôi không thể nào xa nó. Mỗi chiều, nghe tiếng trống tan trường vang lên rộn rã ngoài hiên, tôi lại thẫn thờ nhớ về Hà Lan da diết. Ngày nào giành nhau đánh trống, tôi chảy máu mũi ròng ròng phải nằm ngửa đầu ngắm diều bay cho Hà Lan nhét lá, ngày nào sao như mới hôm qua!
Dù sao tôi cũng còn có mẹ. Mẹ tôi bảo tôi lấy vợ. Tôi lắc đầu nói chờ vài năm nữa. Những lúc đó, mẹ tôi thở dài. Mẹ thở dài mà mẹ có biết gì không? Mẹ giận tôi thì tôi đành chịu. Lòng tôi xốn xang nhưng tình trong đâu thể riêng ngoài, mẹ chẳng giống bà, tôi đâu dám nói.
Bên cạnh mẹ, tôi còn có Trà Long. Ngày nào tôi cũng xuống chơi với nó. Thấy tôi đến, nó rất mừng. Mỗi lần đến, tôi đều đem phấn cho nó. Nó cầm phấn vẽ nguệch ngoạc đầy nền nhà khiến sau đó tôi phải chùi toát mồ hôi. Nó còn bày ra lắm trò nghịch ngợm khác nữa. Có lần thấy tôi nướng khoai, nó bắt chước cho tay vào bếp trấu, phồng rộp cả da, báo hại tôi phải kiếm mật ong xức suốt một tuần.
Trà Long thông minh, hiếu động nhưng thể chất không được khỏe. Nó ốm luôn. Cùng với mẹ Hà Lan, tôi đã thức suốt bao đêm bên cạnh giường nó, lòng thắt lại vì lo âu. Khi ốm, Trà Long trông yếu ớt vô cùng, tay chân không nhúc nhích nổi. Vậy mà, vừa khỏe dậy, nó đã chạy nhảy tung tăng và nói líu lo như sáo. Mãi đến năm, sáu tuổi Trà Long mới hết ốm vặt.
Thỉnh thoảng, tôi dẫn Trà Long ra thành phố thăm Hà Lan. Được đi chơi xa, Trà Long thích lắm. Ngồi trên xe đò, nó hỏi tôi hết câu này đến câu khác, có lắm câu tôi không trả lời được. Sau mỗi chuyến đi, bao giờ nó cũng thủ thỉ với tôi:
-Mai mốt chú Ngạn dẫn Trà Long ra thành phố chơi nữa nghen!
Trà Long đòi ra thành phố vì nó thích đi chơi. Nó tỏ ra không quyến luyến Hà Lan mấy. Mỗi lần Trà Long ra thăm, Hà Lan đều mua cho con vô số đồ chơi và kẹo bánh, toàn thứ đắt tiền. Nhưng Trà Long thường tỏ vẻ hờ hững trước các món quà hấp dẫn của mẹ. Nó chỉ vòi vĩnh:
- Mẹ về ở với con đi!
Trước đòi hỏi của con, Hà Lan chỉ biết cười trừ. Từ lâu Hà Lan đã không thể xa thành phố. Đã nhiều lần, nó muốn đem Trà Long ra ở với mình nhưng Trà Long giẫy nẩy không chịu. Hai mẹ con đành phải mỗi người một nơi. Tôi làm chiếc cầu, dẫn Trà Long đi đi về về, lòng chẳng vui nhưng không làm sao khác được.
Mỗi lần dẫn Trà Long ra chơi, tôi ít trò chuyện với Hà Lan. Nhưng tôi không giấu được lòng mình. Ánh mắt tôi đã nói bao điều thầm kín. Hà Lan đã nhìn thấy tất cả nhưng nó chẳng nói gì. Nó thấy mà như không thấy. Hay nó còn chờ đợi điều gì? Đợi nạn hồng thủy chăng?
Lên bảy tuổi, Trà Long vào lớp một. Tôi sắm cho nó không thiếu một thứ gì, từ quyển vở, đôi dép, chiếc nón vải đến bình biđdông đựng nước có quai đeo.
Mẹ Hà Lan mặc tôi lo liệu. Bà chẳng cản, chỉ lặng lẽ thở dài. Bà nhìn thấy đáy lòng tôi và bà thương tôi như con. Qua cách chăm sóc của tôi dành cho Trà Long, bà hiểu được tình yêu của tôi đối với Hà Lan. Chắc bà buồn cho tôi lắm, bà không lộ ra đó thôi. Bà kín đáo hệt như bà tôi xưa.
Ngày khai giảng, tôi dẫn Trà Long đến trường. Trước khi trao nó tận tay cô giáo lớp một, trên đường đi tôi đã dặn dò nó đủ điều. Và đợi đến khi nó đã ngồi vào chỗ, tôi mới yên tâm bỏ lên văn phòng.
Trà Long là một đứa bé dạn dĩ. Lần đầu tiên đi học, chung quanh toàn người lạ, nó không hề mếu máo. Điều đó khiến tôi ngạc nhiên một cách thích thú. Hồi nhỏ, lần đầu tiên đi học, tôi khóc la ầm ĩ. Mẹ tôi dắt tôi đến trường, khi về, tôi níu áo không cho về. Tôi khóc đòi mẹ tôi ở lại học với tôi. Vào học cả buổi, tôi vẫn còn rấm rức rên rỉ, nước mắt nước mũi chảy đầy mặt. Mãi đến khi cô giáo mua kẹo dỗ tôi, tôi mới nín.
Trà Long chững chạc hơn tôi nhiềụ Trước khi bỏ đi, tôi nói:
- Cháu ngồi đây học nhé! Nhớ nghe lời cô! Khi nào tan học, chú sẽ đón cháu về!
Trà Long khẽ gật đầu và nhìn tôi bằng cặp mắt đen láy. Đôi mắt đó như muốn nói: "Chú cứ đi đi! Đừng lo cho cháu!". Và tôi mỉm cười, như để trả lời nó: "Ừ, chú tin cháu! Chú đi đây!". Tôi đi và tôi hiểu rằng Trà Long đã nghe thấy những lời thì thầm của tôi.
Suốt những năm Trà Long học tiểu học, ngoài những buổi dạy ở trường, tôi còn kèm thêm cho nó khi về nhà. Tôi kiếm sách bắt nó đọc, ra toán cho nó làm và tối nào cũng vậy, tôi đợi nó học thuộc lòng bài vở của ngày hôm sau, dò đi dò lại kỹ lưỡng, mới đứng dậy ra về. Những lúc ấy, một mình trên đường làng, tôi nghe sương xuống trên vai mà tưởng hồn mình cỏ mọc. Tôi như dòng sông ốm, đứng mãi không trôi, kỷ niệm như rong rêu chập chờn níu giữ. Hà Lan dẫu xa lắc, trong giấc mơ tôi nó giả bộ gần kề. Nó biết hồn tôi đêm đêm không khép cửa, nó nương theo gió lùa, theo ánh trăng xanh về đứng bên đời tôi thấp thoáng, để sáng ra tôi nhớ mãi điều gì.
Trăm công nghìn việc ban ngày
Anh xoay xở để lấp đầy nhớ em
Dặn lòng đóng cửa cài then
Trong chiêm bao lại tự mình mở ra.
Tình tôi lững lờ như câu hát. Tình tôi chiêm bao mộng mị. Mắt biếc năm xưa nay đâu để hồn tôi trống vắng. Hà Lan sương khói nghìn trùng, chỉ để lại Trà Long, hóa thân nó một thời niên thiếu. Tôi dốc lòng chăm sóc Trà Long tưởng như lời Hà Lan ký thác, đôi lúc lòng cũng nguôi khuây.
Trà Long thông mình, học đâu nhớ đó, tôi không phải vất vả nhiều. Những lúc rảnh rỗi, hai chú cháu thường bày trò chơi với nhau. Tôi ngồi chơi ô quan với Trà Long dưới giàn hoa thiên lý, tay rải sỏi mà hồn ngẩn ngơ, cứ ngỡ trước mặt mình là người bạn nhỏ năm nao. Những lúc ấy, bồn chồn khắc khoải, tôi chơi như người mất hồn, Trà Long cứ hoài hoài nhắc nhở.
Chơi ô quan chán, tôi dẫn Trà Long đi rảo quanh các bụi bờ hái duối và tìm bông dủ dẻ. Ngày nghỉ, tôi dẫn nó lên trường tìm trứng chim trên các đầu hồi. Tôi kể cho nó nghe ngày xưa tôi đã tìm trứng chim cho mẹ nó và tôi đã té u đầu như thế nào. Nghe tôi kể, Trà Long cười khúc khích:
- Chú té chỗ nào đâu?
Tôi chỉ tay xuống chân:
- Ngay chỗ này nè! Chú té hai lần. Lần thứ nhất u đầu. Lần sau chảy máu mũi.
Trà Long đưa tay bụm mặt:
- Eo ôi, ghê quá! Rồi chú làm sao?
Tôi cười:
- Chú phải nằm ngửa mặt lên trời cho mẹ cháu hái lá nhét vào mữi.
Trà Long trố mắt:
- Làm sao nhét lá vào mũi được?
- Được chứ! À, trước khi nhét phải vò nát.
Trà Long lại hỏi, giọng hồi hộp:
- Rồi sao nữa hả chú?
- Sao là sao?
- Rồi mũi chú có hết chảy máu không?
- Hết chứ! Hết ngay lập tức!
Trà Long reo lên:
- Hay quá hén! Lá gì vậy chú?
Tôi lắc đầu:
- Chú không biết. Nhưng bà ngoại cháu biết. Cháu về hỏi bà ngoại ấy.
Tôi không biết Trà Long có định hỏi bà ngoại không nhưng tôi thấy mặt nó lộ vẻ ngẩn ngơ. Nó nhìn tôi, thận trọng dặn:
- Lát nữa chú trèo kheo khéo nghen! Cháu không biết hái lá như mẹ cháu đâu!
Tôi cười:
- Cháu đừng lo. Hồi nhỏ chú mới té. Bây giờ chú không té nữa đâu. Bây giờ trèo một mình chú cũng không té.
Nói xong, tôi thoăn thoắt trèo lên đầu hồi. Các bậc thang kêu răng rắc dưới chân tôi. Cái thang không người vịn, lắc lư phát khiếp. Trà Long trố mắt dòm, chắc nó hồi hộp lắm. Nhưng tôi vẫn giữ được thăng bằng. Tôi đã nói rồi, tôi không té. Tôi đã lớn rồi, tôi không té ở đây. Cái thang này bắc lên đầu hồi chứ đâu phải bắc lên trái tim của Hà Lan. Trà Long còn nhỏ, nó chỉ sợ tôi u đầu, nó đâu sợ trái tim tôi xây xát. Cháu đâu có biết, tìm trứng chim cho cháu đối với chú nào có khó khăn gì, chỉ có tìm hạnh phúc cho mình chú mới chẳng biết tìm đâu. Mẹ cháu đã lấy đi tất cả.
Chương 9
Thỉnh thoảng tôi dẫn Trà Long vào rừng hái sim. Tôi len lỏi giữa những bụi sim hoa tím. Tôi len lỏi giữa những kỷ niệm.
Trà Long đi bên cạnh tôi, hồn nhiên, sung sướng. Mỗi lần tìm thấy một trái sim chín mọng đang ranh mãnh giấu mình sau cành lá lòa xòa, nó reo lên hớn hở.
Tôi hái cho Trà Long đầy cả hai túi sim. Nó vừa đi vừa ăn, thoáng chốc đã hết. Tôi lại phải hái cho nó đầy hai túi khác. Có lúc, thừa dịp tôi quay mặt đi, Trà Long lén hái hoa cài lên mái tóc rồi kêu:
- Chú Ngạn!
Tôi giật mình ngoảnh lại và sững sờ khi thấy Trà Long giống hệt Hà Lan xưa.
Trà Long nghịch ngợm hỏi:
- Chú thấy cháu có đẹp không?
Tôi mỉm cười:
- Đẹp lắm!
Nó lại nghiêng đầu hỏi:
- Cháu có giống bà tiên không?
Ý nó muốn nhắc đến những câu chuyện cổ tôi thường kể cho nó nghe, những câu chuyện tôi học được của bà tôi. Tôi nhìn nó, bâng khuâng:
- Cháu không giống bà tiên. Nhưng cháu giống hệt mẹ cháu hồi nhỏ.
Trà Long chớp mắt:
- Sao chú cứ nhắc đến mẹ cháu hoài?
Câu hỏi ngây thơ của Trà Long khiến tôi bối rối. Tôi chưa biết trả lời sao, nó lại hỏi:
- Hồi nhỏ chú có dắt mẹ cháu vào rừng chơi không?
- Có! - Tôi vội vã gật đầu.
- Chú có hái sim cho mẹ cháu không?
Tôi cắn môi:
- Có. Cả chú và mẹ cháu cùng hái.
Nó bỗng hỏi:
- Ai hái nhiều hơn?
Tôi ấp úng:
- Tất nhiên là... mẹ cháu.
Trà Long nheo nheo mắt:
- Chú nói dối!
Tôi chỉ biết cười trừ:
- Thật ra thì...chú quên rồi!
Trà Long ngó tôi, vẻ nghi ngờ:
- Chú không quên. Cháu biết chú nhớ. Chú nhớ nhiều chuyện.
Rồi bỗng dưng nó lại gần, nắm lấy tay tôi:
- Chú nói cho cháu nghe đi!
Tôi hoang mang:
- Nói chuyện gì?
Trà Long ngước nhìn tôi:
- Chuyện về mẹ cháu ấy! Ba cháu đâu?
Tôi nuốt nước bọt và thấy bóng mình in sững giữa hoàng hôn buốt tím. Tôi đứng lâu thật lâu, tim thót lại. Trà Long lại lắc lắc tay tôi:
- Chú nói đi! Ba cháu là ai?
Tôi chép miệng:
- Tại sao cháu không hỏi bà ngoại?
- Cháu hỏi rồi.
- Bà ngoại cháu bảo sao?
- Bà ngoại bảo ba cháu chết rồi. Có đúng vậy không chú?
Tôi tránh ánh mắt của Trà Long. Tôi nhìn về phía chân trời xa nơi những cụm mây đang bốc cháy, khẽ thở dài:
- Ừ, ba cháu chết rồi.
Trà Long vẫn nhìn sững tôi:
- Chú nói thật không?
- Thật mà.
- Cháu không tin! - Trà Long vùng kêu lên - Người chết là phải có bàn thờ. Nhà cháu đâu có bàn thờ.
Trà Long làm tôi khó xử quá chừng. Tôi chưa kịp nghĩ ra cách đối phó, nó đã hỏi dồn:
- Chú nói thật đi! Ba cháu đâu?
Tôi vẫn cứ đứng trơ như phỗng, ruột rối tơ vò. Tôi chìm vào suy tưởng, lâu thật lâu, Trà Long vẫn im lìm bên cạnh, thấp thỏm chờ đợi. Quanh tôi, thời gian vẫn lầm lũi trôi qua và buổi chiều đang lướt đi xào xạc, cánh áo mỏng của nó khẽ chạm vào vai tôi hờ hững. Trong một thoáng, tôi bỗng bàng hoàng hiểu rằng nếu tôi không cất tiếng, tôi sẽ đời đời câm nín và hai chú cháu sẽ hóa đá trong mỗi phút giây thinh lặng nặng nề. Tôi khẽ rùng mình và đặt tay lên bờ vai bé bỏng của Trà Long, giọng xa vắng:
- Thôi, cháu đừng hỏi làm gì! Lớn lên cháu sẽ hiểu tất cả!
Trà Long vùng vằng:
- Nhưng bây giờ cháu đã lớn rồi! Cháu học lớp năm!
Tôi mỉm cười và nhìn nó bằng ánh mắt âu yếm:
- Cháu chưa lớn đâu! Lớp năm hãy còn bé lắm!
Trà Long lập tức buông tay tôi ra, giọng giận dỗi:
- Chú nhất định không nói phải không?
Tôi cười khổ sở:
- Chú đã nói rồi. Cháu hãy hiểu cho chú...
Không đợi tôi nói hết câu, Trà Long bỏ chạy ra ngoài bìa rừng. Nó vừa phóng thoăn thoắt trên các mô đất nhấp nhô vừa ngoái cổ lại nói:
- Chú không nói, cháu không thèm chơi với chú nữa đâu! Cháu về nhà đây!
Tôi hốt hoảng chạy theo:
- Trà Long, đứng lại! Chờ chú với!
Nó vẫn cắm cổ chạy, vạt tóc thấp thoảng sau các bụi lá xanh. Tôi đuổi phía sau, miệng kêu ơi ới:
- Trà Long! Lại đây chú chở về!
Trà Long vẫn không thèm ngoái lại. Nó bướng bỉnh hệt như mẹnó xưa. Hồi đó, Hà Lan hờn giận, tôi phải năn nỉ cả ngày trời, khổ ơi là khổ.
Đang chạy, thình lình Trà Long vướng phải một gốc cây cụt, ngã lộn nhào. Tôi điếng người, nhảy bổ lại vội vàng đỡ nó dậy và lo lắng hỏi:
- Cháu có đau lắm không, Trà Long?
Trà Long không trả lời. Mà nó gục đầy vào cánh tay tôi, rấm rức. Tiếng khóc nó xuyên qua ngực tôi.
Thỉnh thoảng, Hà Lan vần về làng thăm con. Mỗi lần về, nó ở quanh quẩn trong nhà, chẳng đi đâu. Tôi đến chơi, nằm đu đưa trên võng, bồi hồi ngắm hai mẹ con xúm xít bên nhau. Hà Lan hỏi con đủ chuyện, Trà Long trả lời chẳng đâu vào đâu. Nó có vẻ kém hào hứng. Nó không thích loanh quanh trong nhà. Nó muốn mẹ dẫn đi chơi nhưng Hà Lan lại không hưởng ứng.
Trà Long không hài lòng mẹ, nó một mực kỳ kèo:
- Mẹ và chú Ngạn dẫn con vào rừng Sim chơi đi!
Hà Lan thở dài liếc tôi. Tôi hiểu, Hà Lan giờ đã khác. Tôi chẳng mong đợi gì. Lòng nó bây giờ như chiếc lá khoai, tình tôi mưa xuống, nghìn giọt rơi nghìn giọt chảy ra ngoài. Nó sợ vào rừng Sim. Nó sợ kỷ niệm bủa vây. Trà Long giục nó hoài, nó nhìn tôi cầu cứu.
Tôi nhỏm dậy, bảo Trà Long:
- Cháu muốn vào rừng chơi, chú sẽ dẫn cháu đi! Mẹ cháu mới ở thành phố về còn mệt để cho mẹ cháu nghỉ!
Trà Long ngúng nguẩy:
- Cháu không chịu đâu! Cháu muối đi chơi với cả hai người kìa! - Rồi nó nhe răng cười - Cháu đi giữa, mẹ một bên, chú Ngạn một bên!
Trước đòi hỏi quá quắt của Trà Long, tôi chẳng biết nói sao, bèn tìm cách lẻn ra khỏi nhà. Đi một quãng xa, tôi còn nghe tiếng Trà Long gọi với theo:
- Chú Ngạn! Chú trốn cháu phải không? Cháu không thèm chơi với chú nữa đâu!
Tôi cắn chặt môi, bỏ đi luôn.
Trà Long lên lớp sáu, ra trường huyện. Ngày rời làng, nó khóc như mưa bấc, nước mắt nó muốn trôi cả chợ Đo Đo. Nếu không có tôi đưa nó ra phố huyện, đi nửa đường dám nó thổn thức quay về ngồi trước thềm nhà khóc tiếp.
Ngày vào lớp một, Trà Long gan lì, đi từ nhà đến trường không rơi một giọt nước mắt, sao hôm nay rời làng, lòng nó lắm mưa bay. Hay nó giống như tôi, nó giống như ông ngoại nó, khúc ruột liền với tình yêu quê xứ, mỗi bước ra đi là mỗi bước bận lòng.
Ra đến huyện, đôi mắt Trà Long còn đỏ hoe. Tôi đưa nó đến nhà ông chú chạy xe đò, nơi trước đây Hà Lan từng ở. Sắp xếp nơi ăn chốn ở cho nó xong xuôi, tôi quay xe về làng.
Nhưng Trà Long không cho tôi về. Nó níu tay tôi, khẩn khoản:
- Chú ở chơi với cháu thêm một ngày nữa đi!
Tôi nhìn nó, thấy tội tội. Lần đầu tiên ra phố huyện, lạ cảnh lạ người, chắc nó buồn lắm. Tôi gật đầu:
- Ừ, chú ở lại, mai về. Bây giờ chú chở cháu đi chơi một vòng nghen!
Trà Long mừng lắm. Nó nhảy tót lên yên sau, ôm chặt lấy hông tôi, mặt mày hớn hở:
- Chú chở cháu đi mấy vòng cũng được!
Tôi chở Trà Long ngang qua trường huyện. Trường vẫn như xưa. Những dãy lớp đóng cửa im ỉm chờ ngày nhập học. Sân cỏ mênh mông, uá vàng vì nắng hè và hàng dương liễu vẫn thướt tha dọc hàng rào cát trắng.
- Trường cháu đây nè! - Tôi nói.
- Ôi, trường đẹp quá hả chú? - Trà Long kêu lên - Hồi nhỏ chú và mẹ cháu cũng học ở đây phải không?
- Ừ! - Tôi gật đầu và chỉ tay về phía hàng rào - Hồi đó mẹ cháu hay ngồi chơi ở dưới gốc cây dương liễu này.
Nói xong, tôi giật mình. Tôi sợ Trà Long lại bảo: "Chú sao cứ nhắc đến mẹ cháu hoài!". Nhưng Trà Long vẫn ngồi im sau lưng tôi. Chắc nó đang tò mò ngắm nghía ngôi trường mới của mình.
Tôi ghé thăm bà Năm Tự. Thấy tôi, bà nhận ra ngay:
- Ồ, Ngạn đấy hả? Lâu ghê mới gặp cháu! - Giọng bà mừng rỡ, rồi không kịp để tôi nói gì, bà vồn vã hỏi tiếp - Sao, cháu đã vợ con gì chưa?
Tôi mỉm cười, lắc đầu:
- Dạ chưa.
Bà Năm Tự quay sang Trà Long:
- Vậy chứ đứa bé nào đây?
- Dạ, đây là con gái Hà Lan.
- Phải Hà Lan là con bé hồi trước vẫn thường tới đây học chung với cháu? - Bà Năm Tự nắm tay Trà Long lại gần, xuýt xoa - Chà, con gái lớn quá hén!
Tôi nhìn quanh nhà, ngập ngừng hỏi:
- Anh Nhân đâu rồi, bà?
- Nó đi câu ngoài sông Ngang. Nó buồn đời, suốt ngày ngồi bên bờ sông.
Anh Nhân là con trai bà Năm Tự. Anh đi lính tận Ban Mê Thuột, đánh nhau què giò, bị cưa một chân, thành thương phế binh giải ngũ về nhà. Ngày anh về, bà Năm Tự đốt nhang cảm ơn trờ phật: "May mà nó không chết bờ chết bụi, cụt một chân đã là phúc, còn dẫn xác về nhà với mẹ". Nhưng từ ngày đó, anh Nhân đổi tính. Anh lầm lì, chẳng nói chuyện với ai, ngày nào cũng xách cần câu ra đi từ sáng sớm, tối mịt mới về. Bà Năm Tự buồn lại hoàn buồn. Khoái đi câu, ở làng tôi có thầy Cải khác anh Nhân. Thầy Cải đi câu vì niềm vui, anh Nhân đi câu vì nỗi buồn.
Sau một hồi trò chuyện, bà Năm Tự kêu tôi vàTrà long ở lại ăn cơm. Tôi một mực từ chối. Tôi không sợ món canh rau dền, tôi chỉ sợ ngồi chơi lâu, bà Năm Tự buộc miệng hỏi thăm về ba của Trà Long thì khốn.
Tôi chào bà Năm Tự, chở Trà Long về nhà. Tối đó, tôi ngủ lại nhà ông chú nó. Tờ mờ sáng hôm sau, tôi đạp xe lặng lẽ về làng. Khi tôi đi, Trà Long còn ngủ.
Từ ngày Trà Long ra phố huyện, cuộc sống tôi trở nên quạnh quẽ. Tôi ngồi trên lớp dạy học trò, nhìn đứa bé nào cũng nhớ tới Trà Long. Những buổi chiều càng trống trải, dài lê thê. Hai mẹ con đi xuyên qua trái tim tôi, mỗi người về mỗi ngã, tôi ở lại làng chiều chiều đếm lá bàng rơi.
Đến nhà Trà Long, tôi chỉ biết leo lên võng nằm đọc sách. Đọc sách chán, chẳng biết làm gì, tôi lại ôm đàn ngồi gảy tích tịch tình tang dưới giàn hoa thên lý, nghe xưa cũng vọng về như mộng mị:
Tôi nằm trong cỏ ngó ra
Bóng ai thấp thoáng như là sương rơi
Tưởng người trong mộng về chơi
Nào hay lãng đãng một trời mưa giăng.
Mưa giăng kín hồn tôi từ dạo ấy, tiếng đàn rung lên còn nghe ẩm ướt, lạnh muôn trùng, dẫu từ hồi về làng đến nay, tôi ít đụng tới cây đàn. Tôi treo đàn lên vách, chôn buồn thương xuống đáy lòng, tình yêu của tôi dồn vào việc chăm sóc và dạy dỗ Trà Long, hiện thân bé bỏng của người thương muôn thưở. Bây giờ, Trà Long ra đi, lòng tôi bỗng dưng hiu quạnh. Nhìn tới nhìn lui, chỉ còn cây đàn bụi giăng lớp lớp ở lại cùng tôi, người bạn đường đã theo tôi suốt cuộc tình buồn.
Cứ vậy, ngày nào cũng như ngày nào, đọc sách chán tôi đem đàn ra gảy. Đàn chán, tôi đi lang thang trong làng, đến thăm các thầy cô và bạn bè cũ. Bạn bè năm xưa chẳng còn ai, mỗi đứa trôi dạt một phương trời, cũng có lúc tình hoài hương níu đôi người về lại nhưng cố xứ nghèo nàn chẳng giữ được ai lâu. Thầy cô thì tuổi tác chất chồng, áo cơm nặng gánh, chẳng mấy người lưu được nét xuân xưa. Thầy Cải trước đã hư một mắt, con mắt kia nay mây cũng kéo lòa, đành chia tay suối Lá. Bây giờ thầy ngồi nhà mò mẫm đan giỏ vừa kiếm miếng ăn vừa vui ngày tháng xế. Cô Thung hết than khát nước đến than tức ngực, nghi mình ho lao nên cũng đã giã từ bảng đen phấn trắng, bỏ lại đám học trò nheo nhóc nhớ thương cô.
Trường thiếu người phải mời thầy Phu ra dạy. Hôm nhận được tin, thầy xúc động rơm rớm nước mắt. Được dạy dỗ bọn trẻ con là hạnh phúc của thầy. Hạnh phúc đó đã tan thành mây khói khi trường tiểu học làng tôi mở thêm lớp một. Bây giờ hạnh phúc đột ngột trở về, thầy Phu thay đổi hẳn. Nét khắc khổ trên mặt thầy biến mất. Hôm gặp nhau trên trường, thầy bắt tay tôi thật chặt, đôi mắt long lanh sau cặp kính lão. Tôi mừng cho thầy. Tôi còn mừng hơn nữa khi thầy khoe:
- Thằng Hòa đã về rồi, Ngạn ơi!
- Về luôn hả thầy?
- Ừ, lần này nó về luôn!
Thầy Phu đáp bằng một giọng phấn chấn. Trong hai đứa con của thầy, chị Hạnh biệt tích giang hồ. Chi*. ở đâu tít mãi phương Nam, lấy chồng, sinh con, lâu nay không thấy ghé về. Thằng Hòa cũng bỏ xứ đi làm ăn. Gặp hết thất bại này đến thất bại khác, nó than bất phùng thời và phẫn chí khăn gói về làng trồng cây ăn trái. Thầy Phu kể với tôi như vậy. Và kết luận:
- Có nó bên cạnh cũng đỡ buồn!
Tôi nhìn thầy, chia xẻ. Cuộc đời đỡ buồn, còn mong mỏi nào hơn! Buồn thầy đã đỡ. Còn buồn tôi, biết đến bao giờ?
Chiều thứ bảy nào, Trà Long cũng đạp xe về làng, hệt như tôi và Hà Lan xưa. Hai năm đầu, thỉnh thoảng tôi phóng xe ra huyện đón nó về. Gọi là đón, thực ra hai chú cháu mỗi người một chiếc. Tôi lững thững đạp xe bên cạnh Trà Long qua những nẻo đường xưa, cứ ngỡ mình đang trôi trong kỷ niệm. Tự nhiên tôi nhớ đến những câu thơ Xuân Diệu:
Thuyền qua mà nước cũng trôi
Lại thêm mây trắng trên trời cũng bay
Tôi đi trên chiếc thuyền này
Dòng mơ tơ tưởng cũng thay khác rồi
Cái bay không đợi cái trôi
Từ tôi phút trước sang tôi phút này
Cuộc đời đã thực sự đổi thay. Có những đổi thay sâu sắc, những đổi thay mang màu sắc số phận mà thoạt nhìn không dễ nhận ra. Buổi chiều thứ bảy này với buổi chiều thứ bảy mười bảy năm về trước có vẻ như một sự lặp lại đầy bí ẩn. Vẫn những tia nắng nhấp nháy nằm phơi mình trên các mái nhà và các ngọn lá hai bên đường, không đậm hơn, không nhạt đi, vẫn những ngọn gió đến từ phía sau lũy tre xa, thổi ngang mặt đường làm bốc lên những đám bụi mờ, vẫn những con cánh quýt bay ra từ đám lá keo tây, kêu vù vù rồi lại chui vào những nách lá khuất, và trên con đường nứt nẻ, dài đặc, vẫn hai người đạp xe bên nhau từ phố huyện về làng. Tôi vẫn tôi, dẫu tôi chẳng tôi xưa. Chỉ có Hà Lan biền biệt, để lại con mình thay chỗ lối đi quen. Buổi chiều chỉ khác đi một chi tiết mà khác biết bao nhiêu.
Rõ ràng Trà Long không phải là Hà Lan. Nhưng đến khi nó lên lớp chín, tôi lại không thể quả quyết về điều đó. Khi trở thành cô gái, Trà Long giống mẹ như hai giọt nước. Mỗi lần nó nhìn tôi, đôi mắt nó có khác nào mắt biếc năm xưa. Điều đó khiến tôi bối rối lạ lùng và bất giác tôi đâm ra sợ hãi. Tôi càng kinh hoàng hơn khi nhận ra mỗi khi đạp xe bên cạnh Trà Long, nghe nó ríu rít trò chuyện và thỉnh thoảng bắt gặp ánh mắt long lanh của nó, tôi quên bẵng tôi là một gã đàn ông ba mươi mốt tuổi chồng chất trên vai. Tôi ngỡ tôi là cậu học trò lớp chín đang cùng Trà Long rong ruổi những ngày xanh. Tôi vào rừng Sim lúi húi tìm bông dủ dẻ cho Trà Long. Tôi lại làm con khỉ trèo cây, hí hửng leo lên cây trâm năm nào hái cho nó từng chùm trái tím thẫm. Có phải tôi đang bơi ngược dòng thời gian để tìm lại những rung động đầu đời trong suốt như pha lê của gần hai mươi năm về trước, để đôi lúc ngẩn ngơ nhìn Trà Long, lòng bồi hồi mộng mị: "Hà Lan, có phải em đã về?".
Từ khi phát hiện tâm trạng bất thường của mình, tôi không ra phố huyện đón Trà Long nữa. Nó tự về, với bạn bè, như trước đây vẫn thế. Chỉ những lần ra thành phố thăm Hà Lan, tôi mới đưa nó đi.
Trà Long bây giờ đã lớn. Nó biết nhiều chuyện. Một hôm, đột nhiên nó bảo tôi:
- Cháu biết ba cháu là ai rồi! Ba cháu không chết!
Tôi giật mình:
- Ai bảo cháu vậy?
Trà Long vẫn điềm tĩnh:
- Bà ngoại bảo.
Tôi ngồi im, không nói gì.
Trà Long lại nói:
- Cháu không ghét ba cháu. Nhưng cháu không tôn trọng ông ấy.
Tôi hỏi, sau một thoáng ngập ngừng:
- Cháu đã gặp ba cháu chưa?
Trà Long lắc đầu:
- Chưa. Cháu cũng không có ý định đó. Vả lại, ba cháu đã chuyển vào miền Nam, đem cả vợ con theo. Mẹ cháu bảo vậy.
Tôi ngạc nhiên trước thái độ bình tĩnh và lời lẽ chững chạc của Trà Long. Nó không yếu đuối như Hà Lan. Nó cương nghị hơn. Bất giác tôi nghĩ đến cây bàng già giữa chợ Đo Đo, cây bàng đã đứng vững qua nghìn cơn gió dữ. Trà Long cũng vậy. Nó sinh ra ở thành phố nhưng nó là đứa con kiêu hãnh của cái làng nghèo nằm dưới chân núi Phượng. Làng gan góc, làng sinh những đứa con gan góc. Chị Quyên hấp thụ sức mạnh thể chất. Còn Trà Long thừa hưởng sức mạnh tinh thần.
Trà Long lên tiếng, cắt đứt những nghĩ ngợi miên man trong đầu tôi:
- Sao lâu nay chú không ra huyện đón cháu về?
Câu hỏi bất ngờ của Trà Long khiến tôi lúng túng. Tôi đưa mắt nhìn đi chỗ khác, tặc lưỡi đáp:
- Chú bận.
Trà Long bán tín bán nghi:
- Thật không?
Tôi gật đầu:
- Thật mà. Chú bận. Bây giờ tuần nào chú cũng bận.
Trà Long nheo nheo mắt:
- Thứ bảy này chú bận không?
Tôi giật thót. Chắc nó lại kêu tôi đạp xe ra huyện đón nó. Tôi không trả lời ngay mà ngập ngừng hỏi lại:
- Chi vậy?
- Chú dẫn cháu đi thăm mẹ cháu. Lâu rồi cháu không ra thành phố.
Tôi thở phào:
- Ừ, chú sẽ dẫn cháu đi.
Trà Long liếc tôi, mỉm cười láu lỉnh:
- Rủ chú đi thăm mẹ cháu là chú đi liền, còn kêu đi đón cháu lúc nào chú cũng bảo bận!
Câu nói đùa của Trà Long khiến tôi bất giác đỏ mặt. Tôi ngượng ngùng đưa mắt nhìn theo những cánh bướm đang chập chờn trên giàn hoa thiên lý. Những cánh bướm lúc nào cũng vô tư.
Tôi và Trà Long ra thành phố gặp lúc Trà Lan đang có khách. Khách là một người đàn ông trạc tuổi tôi nhưng phong thái lịch sự, chải chuốt hơn nhiều. Sự xuất hiện bất ngờ của hai chú cháu khiến Hà Lan vô cùng bối rối và tôi đọc được điều đó trên vẻ mặt khác thường cũng như trong thái độ lúng túng của nó.
Thoạt đầu Hà Lan không định giới thiệu hai bên với nhau nhưng khách bỗng hỏi:
- Ai vậy, Hà Lan? Bà con của em hả?
Khách hỏi, giọng chủ nhà. Tôi không ngạc nhiên nhưng cảm thấy khó chịu. Tuy nhiên, tôi vẫn đứng im.
Hà Lan chỉ khách:
- Đây là anh Linh.
Rồi Hà Lan quay sang tôi và Trà Long:
- Còn đây là Ngạn và... Trà Long, ở quê ra.
Hà Lan giới thiệu cộc lốc, không ai biết ai là ai. Khách không hỏi nữa, chỉ đưa mắt nhìn tôi và Trà Long, vẻ dò xét. Còn Trà Long thì đứng ngẩn ra giữa nhà, ngơ ngác nhìn hết người này đến người khác. Tôi không mất nhiều thời gian để hiểu ra tình thế khó xử của Hà Lan. Tôi nắm tay Trà Long, nói:
- Hai chú cháu tôi phải ra phố mua một ít đồ đạc, lát nữa ghé lại!
Và không đợi Hà Lan có ý kiến, tôi khẽ gật đầu chào Linh rồi cùng Trà Long quay ra.
Thái độ lạ lùng của Hà Lan có lẽ khiến Trà Long thắc mắc. Nhưng nó không hỏi. Cũng có thể nó đã đoán ra mọi chuyện. Hai chú cháu lặng lẽ đi bên nhau suốt buổi chiều. Tôi không ghé cô Thịnh, không ghé chị Nhường. Tôi dẫn Trà Long lang thang qua các ngả phố và ghé vào các cửa hàng đứng ngắm nghía hàng giờ những chùm hoa lộng lẫy bằng vải, những con thú nhồi bông và những thỏi son đứng xếp hàng đằng sau các tủ kính.
Thỉnh thoảng, tôi vẫn bắt gặp ánh mắt của Trà Long nhìn trộm tôi, nhưng tôi phớt lờ. Cháu xót xa chú chăng, Trà Long? - Tôi nghe tiếng nói của mình vang lên trong đầu - Vâng, chú đã chờ đợi mẹ cháu, chờ đợi từ rất lâu trước khi cháu ra đời. Bao giờ chú cũng chờ đợi. Nhưng nếu như mẹ cháu tìm thấy hạnh phúc với một người nào khác không phải là chú, thì đó cũng là nỗi mong mỏi buồn bã của chú. Chú chỉ mong sao cuộc đời mẹ cháu tránh xa những nỗi bất hạnh. Nỗi bất hạnh, nếu không thể tránh, chỉ nên rơi xuống một người.
Trà Long có nghe thấy những ý nghĩ của tôi không mà mặt nó buồn lắm vậy. Nó cứ nắm chặt lấy tay tôi như sợ tôi tan biến đi giữa mịt mờ sầu muộn.
Mãi đến khi phố đà lên đèn, hai chú cháu mới quay về đường cũ.
Linh đến, rồi đi, như một giấc mộng thoáng qua. Hà Lan vẫn ngồi lại bên đời hiu quạnh. Tôi biết được điều đó không lâu. Chính Hà Lan kể. Lần này, nó không khóc, nhưng giọng nó buồn hiu. Nguyên nhân tan vỡ chính là... Trà Long. Khi quen Linh, Hà Lan không nói gì về Trà Long. Hà Lan không cố ý giấu, nó chỉ định nói khi có dịp thuận tiện.
Nhưng Hà Lan chưa kịp nói, Linh đã biết. Hai mẹ con giống nhau như tạc, sau lần gặp hôm nào, Linh ngờ ngợ, hỏi ngay. Hà Lan đành thú thật. Thế là chia tay, gọn gàng, dứt khoát. Cuộc chia tay trong tình yêu sao mà lạnh lùng, đơn giản như một phép trừ. Tôi ngồi nghe, buồn thương hờn giận, chẳng thốt được một lời. Giọng Hà Lan hiu hắt:
- Một người vợ có con riêng. Linh không chấp nhận chuyện đó.
Tự nhiên, tôi tức run người. Và tôi kêu lên, giọng phát khùng:
- Linh là người như vậy, tôi chẳng hiểu Hà Lan yêu anh ta ở điểm nào!
Nói xong, tôi nhận ra tôi đang mất bình tĩnh. Tôi nhận ra tôi vừa nói một câu tồi tệ. Tôi vội vàng nhắm mắt cho lòng dịu lại, và khẽ thì thầm:
- Hà Lan cho tôi xin lỗi. Tôi điên rồi.
Tôi nghe tiếng Hà Lan văng vẳng bên tai:
- Ngạn có lỗi gì đâu! Thật ra, Hà Lan quen Linh chỉ vì... chỉ vì...
Chỉ vì sao mà Hà Lan cứ ấp a ấp úng, tôi tự hỏi và mở mắt ra:
- Nếu Hà Lan thấy không tiện nói thì thôi!
Hà Lan tặt lưỡi, nó tránh không nhìn tôi:
- Hà Lan quen Linh chỉ vì Linh có những nét rất giống... Dũng.
Tôi như từ trên mây xuống đất. Lời giải thích của Hà Lan khiến tôi thẫn thờ. Hóa ra là vậy. Gần hai mươi năm qua, em vẫn là cô bé quàng khăn đỏ ngày nào, ngây thơ và ngốc nghếch. Dũng đã dẫm qua đời em bằng đôi giày đầy gai nhọn, trái tim em rớm máu, sao lòng em còn giăng mắc sợi tơ xưa. Để bây giờ Linh ghé lại đời em ngắn ngủi, tình yêu em hụt hẫng đến bao giờ.
Tôi giã từ Hà Lan, ra về không bước nổi. Tội nghiệp em. Tội nghiệp tôi. Tôi và em như sao Sâm sao Thương, bầu trời kín mà quay hoài chẳng gặp, đã ngoài tuổi ba mươi mà nỗi cô đơn cứ tỏa sáng một mình.
Tôi lại ôm đàn ngồi dưới giàn thiên lý xưa, nghe lòng mình rạn vỡ:
Anh ôm trái tim Trương Chi
Chờ tan trong nước mắt
Đi tìm em qua những chợ búa và xóm làng
Qua những chiều tắt nắng
Dấu chân anh trong cỏ
Còn đọng đầy mưa xuân
Tiếng hát tôi gửi buồn thương cho gió. Ánh trăng xanh run trên sáu dây đàn:
Dẫu rằng khi anh yêu em
Em giấu anh đi yêu kẻ khác
Những người đàn ông không ngừng làm khổ em
Vì những điều bé mọn
Trà Long, đêm nay cháu về làng, cháu ngồi cạnh chú. Bản tình ca u hoài chú hát, cháu có hiểu gì không mà mặt cháu ngẩn ngơ? Trà Long ngồi dầm mình trong ánh trăng, đôi mắt đẹp long lanh như hai vì sao biếc, có đôi khi tôi tưởng chính Hà Lan về ngồi nghe tôi dạo nhạc Cung Tiến của tôi xưa. Và tôi thấy trái tim mình như nén lại:
Lo âu và vất vả
Anh đi tìm em
Anh đi tìm cô bé quàng khăn đỏ ngày xưa
Sợ rằng năm nay em đã lớn
Đàn sói nhiều hơn xưa
Trái tim em thì bé bỏng
Biết chiều nay em có kịp về nhà
Mà không bật khóc
Em có khóc không, đêm nay có một người đang hát? Giấc ngủ em cách chỗ tôi ngồi hàng trăm cây số, biết đâu trong cơn mơ đêm nay em đang lần theo tiếng hát dọ dẫm trở về làng, ngồi lặng lẽ trước hiên nhà tuổi nhỏ, nghe tiếng tơ xưa mà tưởng tiếc xuân thì. Tôi làm người tình lỡ, chẳng có gì trao em, ngoài lòng tôi lửa ấm:
Anh biết lấy gì chở che cho em
Ngoài tình yêu lẻ loi
Cháy lặng thầm trong ngực
Như bếp lửa mùa đông
Để những khi thất vọng lúc yêu ai
Em có chỗ để tạt về sưởi ấm
Tình tôi bếp lửa, em mấy bận nương nhờ. Bờ vai tôi em khóc vùi mấy bận, cho tôi nghe thác đổ trong lòng. Qua cơn quẫn bách, em lại lìa xa tôi. Tôi chẳng giận em, chỉ lo em đời đời sa sẩy. Tôi mong cuộc đời em toàn lá biếc hoa hồng:
Anh biết lấy gì làm dịu nỗi đau trong lòng em
Ngoài những bài thơ nhỏ đầy nắng và cỏ hoa
Đêm đêm anh thức viết
Để mong xua được mùa đông
Ra khỏi trái tim em
Cùng với những âu lo và phiền muộn
Để mai đây trên con đường dài dẫu nhiều trắc trở
Em chỉ gặp toàn niềm vui
Và những chàng trai thật thà và tốt bụng
Yêu em
Chỉ cần bằng một nửa anh thôi...
Có phải đây là bản tình ca cuối cùng tôi viết cho Hà Lan không mà sao khi tôi hát xong sợi đàn bỗng đứt, mười đầu ngón tay tôi buốt tựa kim châm.
Tôi đưa tay lên ôm đầu và ngạc nhiên thấy mồ hôi ra ướt từng chân tóc, mặc dầu ngoài trời đã lạnh lắm sương khuya.
Trà Long đứng đằng sau lưng tôi tự hồi nào. Khi tôi buông đàn, nó khẽ đặt tay lên vai tôi bồi hồi không nói. Lâu thật lâu, nó mới hỏi, ngậm ngùi:
- Có phải chú hát về mẹ cháu?
Câu hỏi kề bên mà nghe như ảo ảnh, như có như không. Tôi đáp và nghe tiếng lòng mình từ xa xăm vọng lại:
- Bản nhạc nào chú cũng hát về mẹ cháu.
Lúc đó, trăng tan.
Mẹ tôi càng ngày càng buồn phiền. Thấy tôi chẳng tưởng gì đến chuyện vợ con, mẹ nhắc nhở năm lần bảy lượt, tôi vẫn trơ trơ. Lúc trước, hồi tôi mới về làng dạy học, mẹ mừng lắm. Mẹ vui khi tôi ở cạnh mẹ. Bây giờ mẹ lại muốn tôi ra thành phố. Mẹ than vãn: "Con gái Đo Đo chưa kịp lớn đã rời làng đi biệt, thằng Ngạn dại dột quay về đây, chắc lủi thủi suốt đời!". Thấy mẹ lo âu, ca cẩm, tôi thương mẹ, cũng muốn lập gia đình. Nhưng mối tình đau khiến tôi mệt mỏi, tuổi mới ngoài ba mươi mà lòng đã then cài.
Mẹ tôi lo. Nhưng có người còn lo cho tôi hơn mẹ. Đó là mẹ Hà Lan. Bà chẳng hề nhắc nhở tôi chuyện vợ con nhưng ánh mắt xót xa của bà mỗi lần nhìn tôi đã nói lên tất cả, những muộn phiền pha lẫn buồn thương. Bà đã nhận ra tình cảm sâu nặng của tôi đối với Hà Lan ngay từ khi chúng tôi còn nhỏ, dẫu bấy giờ tôi và Hà Lan chỉ là đôi bạn thơ ngây. Và hơn hai mươi năm qua, không hề bước chân ra khỏi làng, bằng nỗi mong ngóng và lo âu khôn nguôi của người mẹ, bà vẫn âm thầm theo dõi cuộc hành trình của hai số phận không may. Hà Lan cuộc đời dang dở, bà bạc nửa đầu. Đời tôi dang dở vì Hà Lan, tóc bà trắng hết phần còn lại. Tuổi già chưa kịp chạm tay, bà đã sầu héo vội vàng. Thấy bà thương tôi mà tôi ứa nước mắt.
Có phải vì thấy thời gian cứ lầm lũi trôi mà tình tôi rong rêu níu giữ nên hôm Hà Lan về làng mới đây, bà đã nói chuyện với Hà Lan suốt một đêm đèn chong bên vách liếp. Lúc chập tối, tôi tình cờ bước vào và ngạc nhiên thấy hai mẹ con lập tức nín thinh. Mẹ Hà Lan lặng lè đưa tay vặn bấc ngọn đèn dầu. Còn Hà Lan giật mình ngó ra và tôi bàng hoàng khi nhìn thấy những giọt lệ long lanh trên mắt nó. Đôi mắt Hà Lan đêm nay sao u uẩn lạ lùng. Lần đầu tiên đôi mắt đó nhìn tôi thăm thẳm, dạt dào, như chứa cả một trời tâm sự. Tôi như bị điện giật, tim thót lại và ấp úng cáo lui.
Ra khỏi nhà, chân tôi còn lảo đảo. Mặt mày nóng ran, lòng tôi bỗng chốc sóng cồn. Hà Lan, tại sao em nhìn tôi xốn xang như muốn nói điều gì? Có phải ánh trăng xưa gọi em về lại, con đường làng năm nào hai đứa cùng đi? Hay em lo tôi thương hoài ngàn năm, lấy em chẳng đặng, tôi chẳng lấy ai, lòng trơ như đá núi? Tôi bồi hồi suốt đêm không ngủ được, cứ trằn trọc trên giường chờ sáng mai ra.
Sáng mai ra, Hà Lan về thành phố. Tôi thấp thỏm đến chơi, mẹ Hà Lan chẳng thấy nói gì. Suốt ngày hôm đó tôi ở chơi bên bà, bà vẫn lặng thinh. Mặt bà rầu rầu, đôi khi tôi liếc thấy.
Thái độ của mẹ Hà Lan làm tôi thêm thắc mắc và hồi hộp. Chuyện đêm qua hẳn là trọng đại, ánh mắt Hà Lan cứ ám ảnh tôi hoài. Đến tối, không chịu đựng nổi cảm giác nặng nề trong ngực, tôi nín thở hỏi:
- Bác ơi, chuyện gì...
Đang nói, tôi cảm thấy lúng túng và im bặt. Tôi thấy câu hỏi của tôi kỳ cục làm sao. Nhưng mẹ Hà Lan đã đọc được trong mắt tôi những gì tôi muốn nói. Bà dịu dàng nhìn tôi, giọng trầm buồn:
- Mọi việc đã xong, cháu ạ.
Tôi ngớ người ra, không hiểu mẹ Hà Lan định nói gì. Câu trả lời của bà sao mà mờ mịt.
- Xong chuyện gì kia bác? - Tôi rụt rè hỏi.
Mẹ Hà Lan không nhìn tôi nữa. Bà nhìn ngọn đèn, nói như nói với ánh lửa hắt hiu:
- Bác thương cháu. Bác thương Hà Lan. Đời đứa nào cũng khổ, bác muốn hai đứa sống với nhau. Đêm qua bác đã nói chuyện với Hà Lan.
Tôi nghe lồng ngực mình như sắp vỡ tung. Tôi phải cắn chặt môi, không dám thở mạnh. Tôi phải cắn chặt môi, không dám thở mạnh. Tiếng mẹ Hà Lan vẫn đều đều, càng về cuối càng nhẹ như gió thoảng:
- Hà Lan cũng muốn lập gia đình, nó đã lớn tuổi rồi. Nhưng nó nhất định... không lấy cháu. Cháu đã đối xử với nó quá tốt. Nó bảo vậy.
Trong chốc lát, tôi như lịm người đi. Có phải bên trời, ai mới vừa thổi tắt một vì sao biếc?
Chương 10
Những ngày sau đó là những ngày nặng nề. Tôi đã kịp trấn tĩnh để hiểu rằng những lời nói của Hà Lan là những phán quyết khắt khe của định mệnh. Những phán quyết đó, tôi không mong gì thay đổi. Bây giờ ngồi nghĩ lại, tôi biết Hà Lan hẳn đã hiểu rõ lòng tôi từ lâu. Nó cũng biết tình tôi dành cho nó không bến không bờ. Nhưng nó thích xa đi, tôi thích quay về, hai người hai thiên hướng khác nhau, đời chia hai ngả, gần hai mươi năm qua khổ ai nấy chịu. Hà Lan đã tự chọn lấy con đường riêng cho mình, con đường đó không có tôi. Bây giờ, sau hai lần gãy đổ, mộng ước không thành, chút duyên lỡ nó không nỡ dành cho tình tôi vằng vặc. Hèn gì đôi mắt nó đêm nào nhìn tôi chan chứa. Nhìn một lần rồi mãi mãi quay lưng. Tình bạn thuở thiếu thời bao năm qua vẫn chỉ là tình bạn, lòng tôi cứ hoài trinh bạch quạnh hiu.
Tôi nhớ Hàn Mặc Tử:
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn kia bỗng dại khờ
Một thời gian dài, tôi tưởng tôi đã chết. Nhưng tôi không chết được. Trà Long đã học xong lớp chín, chuẩn bị ra thành phố, tôi cố nén buồn thương để lo cho nó.
Trà Long không học tiếp lớp mười. Nó thi vào trường trung học sư phạm, ba năm sau quay về làng dạy học. Nó bảo:
- Cháu sẽ về lại. Cháu sẽ ở bên chú.
Ý định của Trà Long giúp tôi khuây khỏa. Nó luôn luôn làm tôi ngạc nhiên. Đôi khi tôi có cảm tưởng Trà Long sinh ra là để thực hiện những điều tôi đã hoài công chờ đợi ở Hà Lan.
Thành phố lúc này đã mở trường sư phạm. Trà Long khỏi phải đi Qui Nhơn. Ngày Trà Long lên đường, tôi cùng đi với nó. Đó là một chuyến đi lý thú. Tôi đã đưa Trà Long ra thành phố nhiều lần nhưng chưa lần nào nó tỏ ra phấn khích và vui vẻ như vậy. Dọc đường, Trà Long cứ ríu rít luôn miệng. Lớn rồi, mà sao nó giống như một chú chim non. Phải chăng đó là tâm trạng của một thiếu nữ sắp trở thành người lớn và chuyến đi này đối với nó là chuyến đi vào tương lai mong đợi, nơi những giấc mơ xanh một sớm mai kia sẽ thức thức dậy bên người.
Trà Long không ở chung với Hà Lan. Nó ở nhà bà cô, lặp lại chặng đường xưa của mẹ. Hãng sản xuất vỏ xe ô-tô của ông dượng đã giải tán từ lâu. Hai vợ chồng già bây giờ chẳng làm gì, sống nhàn nhã bằng tiền tiết kiệm. Ông dượng tiêu tháng ngày vào thú chơi hoa và cây kiểng, lúc nào cũng cặm cụi tỉa lá bắt sâu. Bà cô giết thì giờ trong sòng tứ sắc, đêm đi nằm cứ than vãn đau lưng.
Cũng giống như Hà Lan xưa, Trà Long được vợ chồng bà cô cưng chiều hết mực. Nhưng nó chẳng ham chơi, suốt ngày chỉ biết chúi đầu vào tập, mong chóng ra trường về lại Đo Đo.
Tôi ở lại làng, ngày ngày dạy học, thỉnh thoảng mơ màng ngồi ôn lại tình qua. Hy vọng không còn, nỗi đau cũng lặn. Tình yêu năm nao như ngọc đã bụi mờ, chỉ phát sáng những đêm nằm trằn trọc.
Trà Long ít về thăm. Hai, ba tháng, nó mới về làng một lần. Tôi buồn rầu hỏi:
- Sao cháu ít về?
Nó cười:
- Cháu bận học. Cháu ráng học thật giỏi. Cháu sợ ở lại lớp.
Trà Long chỉ nói vậy thôi, nhưng tôi hiểu. Tôi âu yếm nhìn nó, lòng bồi hồi cảm động. Hóa ra nó cũng bồn chồn mong mỏi như tôi. Nó cũng nôn nao đợi ngày ra trường để sớm về với quê làng, với ngoại. Và với tôi, hẳn thế. Nó sợ học hành kém cỏi, đúp lại thêm vài năm, ngày trở về sẽ xa lăng lắc.
Tôi dịu dàng nói:
- Ừ, cháu ráng lo học. Đừng về làng thường xuyên làm gì!
Trà Long tròn mắt nhìn tôi:
- Chú nói thật không?
Tôi ngạc nhiên:
- Sao cháu lại hỏi thế?
Trà Long cắn môi:
- Tại cháu thấy chú buồn buồn.
Tôi mỉm cười:
- Đó là khi nãy. Bây giờ chú hết buồn rồi.
Trà Long nhìn tôi chăm chăm:
- Chú cười giả vờ.
- Đâu có. Chú cười thật mà.
Trà Long vẫn chưa chịụ Nó nói:
- Cười thật là phải cười thành tiếng kìa!
Tôi đành phải bắt mình cười thành tiếng. Chắc tiếng cười của tôi nghe kỳ cục lăm nên Trà Long che miệng cười theo. Rồi nó gật gù nhận xét:
- Bây giờ cháu mới tin là chú đã thôi buồn...
Đang nói, bỗng nhiên Trà Long quay phắt người đi, mái tóc dài bay tung trong gió. Tôi chưa kịp hiểu ra chuyện gì đã nghe đằng sau suối tóc lững lờ kia có ai đó đang nói với tôi những lời thì thầm êm ái, những lời thì thầm tôi tưởng gặp trong mơ:
- Nhưng thôi, chú đừng buồn nữa. Mùa hè sắp đến rồi. Hè này cháu sẽ về làng. Cháu sẽ sống suốt ba tháng hè bên cạnh... bà ngoại, chú không vui sao?
Trong một thoáng, tôi bỗng ngỡ ngàng, tôi biết rằng Trà Long đã lớn. Và tự dưng tôi nghe lòng xao xuyến, có phải trong vườn tôi vừa nở một nụ hồng?
Mùa hè tươi đẹp của tôi, Hà Lan đánh mất, gần hai mươi năm sau Trà Long đem về lại, đủ đầy biếc thắm hồng tươi.
Mùa hè phượng vĩ ra hoa, hoa thôi giống như tim vỡ. Hoa phượng nở khắp đường làng, tôi đi dưới hạ hồng, lòng như tết sớm. Những nôn nao một thời thơ dại, tưởng như ký ức ngủ vùi, nay bỗng dưng theo về bỡ ngỡ.
Suốt ba tháng hè, tôi đến với Trà Long, hai chú cháu không rời nhau nửa bước. Ngày ngày, tôi dẫn Trà Long đi câu trên suối Lá, nơi ngày nào thầy Cải vẫn lang thang. Tôi và Trà Long ngồi im lặng bên nhau trên bãi cỏ ven suối, tai lơ đãng nghe chim kêu trong lá, mắt dõi theo những cánh hoa rụng đang lững lờ trôi theo dòng nước, thỉnh thoảng lại vướng vào chiếc phao điên điển đang bập bềnh chờ cá cắn câu. Hai chú cháu cứ ngồi thinh như đá, có khi suốt buổi không nói với nhau một tiếng nào. Mà sao, trong lặng lẽ, ánh mắt mỗi người đều ấm áp, long lanh.
Đi câu chán, tôi và Trà Long lại đạp xe vào rừng Sim. Trà Long đã lớn, nó chẳng khoái hái lá sim nhét đầy hai túi như ngày nào. Nó cũng chẳng buồn bắt tôi hái trâm cho nó ăn tím miệng, hái chà là cho gai chích đau tay. Trong những niềm vui thời niên thiếu, bây giờ Trà Long chỉ còn thích mỗi trò hái bông dủ dẻ bỏ trong túi áo, để cho hương đượm ba ngày. Vậy thôi. Rồi hái hoa sim, đóa cầm trên tay, đóa cài trên tóc và đi thơ thẩn qua các nẻo rừng chiều, chẳng có ý định gì rõ rệt, chỉ để bồi hồi nghe gió lướt qua vai, tóc bay như khói.
Tôi đi bên, lòng vui không tiếng, tưởng như thế giới vừa được sửa sang. Tâm hồn tôi ai vừa trang hoàng lại, để bên cạnh nỗi đau vơi kịp có nỗi vui đầy, để tiếng chuông mùa phục sinh reo leng keng trong ngực, suốt ba tháng phượng hồng không một bóng mây giăng. Chỉ có những ngày cuối cùng, mây mùa thu chớm vắt ngang cành phượng và trên những ngọn cây cao tiếng ve thi nhau khản giọng dần, tôi mới buồn chút chút.
Trà Long biết tôi buồn, nó chẳng nói gì, chỉ thở dài. Ánh mắt nó cũng buồn như tôi vậy.
Trước lúc rời làng, Trà Long chỉ nói mỗi một câu:
- Vậy là chỉ còn hai năm nữa thôi!
Câu nói bình thường sao tôi nghe như lời ước hẹn. Tôi ngỡ tôi vừa mới sinh ra.
Mùa hè năm sau lặp lại một cách tuyệt vời niềm hân hoan rạng rỡ của mùa hè năm trước. Với những niềm vui không hề biết dè sẻn. Với những giấc mơ đẹp đẽ, đầy ắp hoa hồng.
Trước đó, tôi đã sống những ngày dài mong đợi. Tôi không dám ra thành phố hoài, sợ ảnh hưởng đến chuyện học tập của Trà Long. Tôi xách cần câu lần mò lên suối Lá ngồi, ngồi bên bãi cỏ hôm nào, câu kỷ niệm. Tôi vào rừng Sim, hái bông dủ dẻ nhét đầy túi áo, nghe hương thơm tưởng mùa hạ đang về.
Tôi ôm đàn, nối dây tơ đứt, hát khúc chờ mong. Từ ngày Hà Lan gạt lệ ra đi, tôi chẳng tưởng đến đàn tôi im tiếng. Bây giờ tôi nhớ Trà Long, tiếng đàn tôi thức giấc, thầm thì:
Khoác chiếc ào vàng mùa thu
Tôi đứng đợi mùa hè
Ngậm nhánh rêu mùa đông rét mướt
Tôi ngồi đợi mùa hè
Rồi cùng mùa xuân, dưới bờ mi thảo mộc
Tôi nằm đợi mùa hè
Đi cùng các mùa đi
Tôi đi gặp mùa hè
Bằng trái tim mảnh như tiếng ve
Tôi đi tìm mùa hè mà mùa hè trốn đâu mất biệt. Tôi giận nó ghê. Và tôi hát:
Biết tôi đợi mùa hè
Sao thời gian nhuộm màu trắng xóa
Sao hoa phượng bỏ đi đâu
Không về trên nhánh lá
Để tôi nhớ mong người xa xôi quá
Cắn môi mình bật máu
Tưởng mùa sang...
Tôi cắn chặt môi cho lòng bớt nhớ. Môi tôi rướm máu, tôi thấy màu đỏ, tưởng phượng báo tin hè. Hóa ra mùa hè ở xa lăng lắc. Buồn ghê, tôi cứ phải đợi dài cả cổ. Trà Long ở xa, nó có đợi như tôi?
Yêu mến ơi,
Ở bên kia thời gian và khoảng cách
Khi nhớ tôi
Em có đợi mùa hè?
Tôi hỏi và tôi tự trả lời. Rằng Trà Long cũng đợi. Nó đợi giống như tôi.
Thấy tôi suốt ruột, mùa hè lại trở về, dắt Trà Long theo. Tôi bồi hồi hát cho Trà Long nghe bài tình tôi chờ đợi. Nghe xong, Trà Long im lặng. Lát sau, nó chép miệng:
- Chú đừng làm nhạc nữa!
Tôi ngẩn ngơ:
- Sao vậy?
Trà Long đáp, giọng thẫn thờ:
- Nhạc chú buồn quá. Cháu sợ.
Lập tức tôi buông đàn, không hát nữa. Sự lo lắng không đâu của Trà Long khiến tôi cảm thấy hoang mang. Tôi bỗng nhớ đến tình tôi ngày nào, những bản nhạc trong đời tôi đều dành cho Hà Lan duy nhất, sao cuối cùng tình lạt duyên phai? Những khúc hát của tôi buồn đến thế sao?
Kể từ hôm đó, tôi chẳng mảy may rớ đến cây đàn. Tôi và Trà Long chỉ dạo chơi qua đường xưa lối cũ, mải mê cỏ nội hương đồng, mỗi ngày qua mỗi ngày thêm quyến luyến.
Lần này, hè đi vội vã. Nó về như rùa bò, sao đi tựa chim bay. Lúc chia tay, Trà Long lại nói:
- Chỉ còn năm nay nữa thôi.
Rồi nó nhìn tôi, cười:
- Sang năm cháu về luôn rồi. Chú đừng cắn dập môi mình nữa.
Tôi cũng cười. Và hiểu rằng những tháng ngày trống trải sắp trôi qua.
Năm đó, Hà Lan lấy chồng. Tôi nhận được tin nhưng không đi dự đám cưới, chỉ gửi quà mừng. Chắc Hà Lan hiểu rõ lòng tôi, nó không nỡ trách.
Đối với tôi, mối tình ngày xưa đã lần giở đến trang cuối cùng. Đám cưới của Hà Lan chỉ là dấu chấm hết đặt lên dòng chữ cuối. Lòng tôi ngậm ngùi, nhưng dẫu sao tôi cũng mừng cho nó. Tôi chỉ mong từ đây Hà Lan sẽ chia tay với những ngày lận đận, như nỗi ước mong trong câu hát đêm nào:
Anh chỉ mong xua được mùa đông
Ra khỏi trái tim em
Cùng với những âu lo và phiền muộn
Để mai đây trên con đường dài dẫu nhiều trắc trở
Em chỉ gặp toàn niềm vui
Và những chàng trai thật thà và tốt bụng
Yêu em
Chỉ cần bằng một nửa anh thôi
Chàng trai mà Hà Lan đã gặp hẳn là một chàng trai như thế, thật thà và tốt bụng, không giống chút nào với Dũng và Linh xưa.
Sáu tháng sau ngày đám cưới Hà Lan, Trà Long ra trường. Nó về làng trên đôi chân sáo, mặt mày rạng rỡ xinh tươi. Ngày hôm đó, trời đẹp lạ lùng. Như có một mùa xuân trong một mùa hè. Làng Đo Đo tưng bừng lễ hội, hay lòng tôi hoa lá reo mừng. Mà sao, khi gặp Trà Long, tôi xúc động chẳng nói nên lời. Ngay cả khi Trà Long mừng rỡ nắm lấy tay tôi, nói:
- Chú ơi, cháu về đây nè! Lần này, cháu về luôn.
Tôi cũng chỉ biết hắng giọng đứng im. Trà Long ngó tôi:
- Chú làm sao thế?
Tôi đỏ mặt như con trai mới lớn:
- Chú... chú...
Thấy tôi ấp úng khổ sở, Trà Long không hỏi nữa. Chắc nó hiểu tâm trạng của tôi. Chắc nó biết tim tôi đang quá chừng rộn rã.
Hai chú cháu vào nhà. Ngày hội tụ diễn ra đầm ấm, vui vẻ. Ba Hà Lan hôm nay ở nhà đón cháu. Ông ngồi lặng lẽ nơi góc ván, chẳng nói gì, như trước nay. Nhưng tôi bắt gặp trên gương mặt khắc khổ của ông ánh mắt long lanh và nụ cười hiếm hoi ít khi xuất hiện.
Mẹ Hà Lan ngắm cháu, gật gù:
- Cháu bà lớn quá! Con người ta tuổi này đã đi lấy chồng rồi!
Tự nhiên Trà Long đưa mắt nhìn tôi khiến tôi bất giác đỏ mặt. Mẹ Hà Lan lại nói:
- Ừ, cháu về đây dạy học cho vui.
Bà nói lấp lửng, tôi giật mình. Vui ai, sao bà không nói? Vui bà, vui Trà Long hay vui tôi? Chẳng lẽ ba năm qua, bà cũng âm thầm ngóng đợi ngày này?
Những câu hỏi quay cuồng trong đầu khiến tôi đâm ra bối rối. Thừa lúc mọi người hỏi han nhau, tôi lẳng lặng bỏ ra khỏi nhà. Ở thêm một khoảnh khắc, tôi sẽ hóa điên. Con chim xanh hạnh phúc, mày về đậu trên vai tao, sao mày không báo trước?
Tôi và Trà Long đều hân hoan đón chờ năm học mới. Chỉ một tháng nữa thôi, hai chú cháu sẽ trở thành đồng nghiệp, cô bé Trà Long xưa thành cô giáo trường làng.
Làng Đo Đo thêm một người con về lại, làng tươi tắn hẳn ra. Trên ngọn bàng già giữa chợ, trời xanh vời vợi và trong suốt như pha lê. Hoa dâm bụt chói chanh trước nhà lão Tứ, cây thị trong vườn ông Cửu Hoành nhiều trái chín hơn xưa. Hoa phượng vẫn đỏ dọc đường làng, mùa hè chưa qua hết. Hoa phượng năm nay sao giống như pháo cưới, tim vỡ năm xưa ai đã gắn lại rồi.
Tôi và Trà Long đi chơi trong rừng Sim, ngạc nhiên thấy rừng Sim đã khác. Hoa lá cỏ cây bỗng dịu dàng và thân thiết hơn xưa. Mà tím hoa sim thôi còn là màu hoa tuổi nhỏ, bây giờ trông chúng bâng khuâng như muốn nói điều gì.
Tôi liếc Trà Long, thấy nó đang trầm tư bên cạnh. Phải nó đang nghĩ như tôi, rằng rừng lá đổi thay hay ấy chính lòng mình đã khác? Mang tình yêu trong lòng, thấy thế giới tinh khôi như sinh thành trở lại, ai mà chẳng ngẩn ngơ?
Lúc này, chuyện tình cảm giữa tôi và Trà Long chẳng còn là điều bí mật. Chúng tôi đã đợi chờ nhau, mặc dù chưa ai nói với ai một lời nào về những điều thầm kín. Đối với tôi, Trà Long chính là người con gái tôi đã gặp trong những giấc mơ đẹp đẽ và không ngừng lặp đi lặp lại suốt quãng đời hiu quạnh, người con gái đã đem lại cho tôi hạnh phúc ngọt ngào ngay trên mảnh đất của tuổi thơ rực rỡ. Trà Long còn là hiện thân của tình yêu tôi xưa, một mối tình đã được thượng đế sắp xếp lại để hạnh phúc được đặt vào tay tôi, như một quà tặng muộn màng của số phận.
Thượng đế muốn vậy, mẹ Hà Lan cũng muốn vậy. Với tấm lòng đầy yêu thương và trắc ẩn, hẳn bà muốn cuộc đời tôi được đền bù. Bà xót xa chứng kiến cảnh ngộ trái ngang giữa tôi và Hà Lan, bà không muốn nỗi đau xưa lặp lại.
Hà Lan dường như chẳng để có ý kiến gì khác. Nó cũng muốn tôi và Trà Long ở bên nhau, nó biết Trà Long gần gũi với tôi hơn nó ngày xưa nhiều. Trong những lần gặp gỡ hiếm hoi, Hà Lan không giấu diếm sự mong mỏi của mình bằng những lời bóng gió xa xôi. Cuộc đời Hà Lan bây giờ yên ổn, hẳn nó rất nóng lòng lo cho hạnh phúc của tôi.
Mẹ tôi là người mừng rỡ nhất. Mẹ lo con mẹ suốt đời héo khô như cây mục, từ ngày có Trà Long về, tôi bỗng tốt tươi như cây gặp nước, mẹ thấy nhẹ lòng. Mỗi lần Trà Long đến chơi, mẹ cưng Trà Long hơn con mẹ. Những lúc đó, thấy mẹ cuốn quít mà tôi bật cười.
Trà Long mỉm cười nhận xét:
- Trong nhà, mẹ chú là người cưng cháu nhất.
- Không hẳn thế đâu! - Tôi âu yếm nói - Có một người cưng cháu hơn cả mẹ chú!
Trà Long bỗng dưng mắc cỡ. Bao giờ tôi nói những lời như vậy, Trà Long cũng đều mắc cỡ. Nó vừa cười khúc khích vừa chạy ra xa và kêu lên:
- Cháu biết rồi! Khỏi cần chú nói ra!
Tôi nhìn theo, ngẩn ngơ tự hỏi: Trà Long đã biết rồi sao lúc nào tôi cũng cứ muốn nói ra?
Những tháng ngày này là những tháng ngày đẹp nhất đời tôi. Bây giờ chiều nào, tôi và Trà Long cũng dạo chơi tha thẩn trong rừng Sim hoa tím. Có lúc chúng tôi đi cạnh nhau, có lúc hai người đi lang thang hai ngả, chỉ nhìn thấy nhau thấp thoáng sau những nhánh sim già. Đôi khi, Trà Long nghịch ngợm trốn tôi. Nó nấp đâu đó trong bụi rậm, mặc tôi kêu khản giọng, nó cứ ngồi im, báo hại tôi tìm muốn chết. Đến khi tôi dọa bỏ về một mình, Trà Long mới ló đầu ra, cười ngặt nghẽo:
- Chú dở ẹc! Cháu nấp kế bên chú mà chú tìm cũng không ra!
Trong một lần trốn tôi như vậy, tôi chưa kịp gọi, Trà Long đã la thất thanh và đứng bật dậy khỏi chỗ nấp.
Tôi hốt hoảng chạy lại:
- Gì vậy cháu?
- Cháu chống tay phải bụi chà là!
Vừa nói, Trà Long vừa đưa tay ra trước mặt tôi, miệng không ngừng xuýt xoa. Tôi cầm lấy bàn tay Trà Long, nghiêng ngó, và phát hiện trên ngón út có hai chỗ bị gai đâm rỉ máu. Tôi liền nói:
- Cháu ngậm ngón tay trong miệng, một lát hết chảy máu liền!
Nói xong, bất giác tôi đưa ngón tay Trà Long lên miệng mình. Thú thật lúc đó tôi không hiểu sao tôi lại làm như vậy. Hành động của tôi đột ngột đến mức tôi cũng không ý thức rõ mình đang làm gì.
Thoạt đầu, Ttà Long sửng sốt định rụt tay lại nhưng rồi cuối cùng nó để yên và quay mặt đi chỗ khác.
Tôi cảm nhận được sự xúc động của Trà Long. Tôi cảm thấy bàn tay nó đang run lên trong tay tôi. Tôi xúc động cũng chẳng kém gì. Tôi cũng thấy tay mình run lên. Đôi lúc tôi không biết được thực sự là tay ai đang run rẩy. Chắc là tay tôi. Bởi vì tôi nghe trái tim mình đang đập thình thịch trong ngực. Nó muốn nhảy ra ngoài. Nó đang dậm chân và la hét. Đã bao lần tôi định cắn chặt răng để trấn tĩnh cơn xúc động nhưng tôi sợ sẽ nghiến đứt ngón tay của Trà Long. Ngón tay của nó đã hết chảy máu chưa, sao tôi cứ ngậm hoài trong miệng. Chắc máu vẫn còn chảy ri rỉ, tôi nghĩ và thầm mong rừng Sim quê tôi sẽ mọc lắm chà là. Chà là sẽ mọc um tùm và sinh sôi nảy nở bất tận, hệt đám rau dền quỉ quái trong vườn bà Năm Tự. Lúc ấy, ngón tay của Trà Long sẽ gai chích ngàn lần và tôi sẽ ngàn lần ngậm ngón tay xinh xinh kia trong miệng.
Tôi đang nghĩ ngợi vẩn vơ thì Trà Long bỗng quay mặt lại. Nó chẳng nói gì, chỉ mỉm cười nhìn tôi, ánh mắt long lanh, bồi hồi và xao xuyến. Chỉ trong khoảnh khắc, tôi hiểu rằng, tôi và Trà Long sinh ra trong cuộc đời này là để sống bên nhau.
Tình yêu làm quên thời gian, có ai đó đã nói như vậy. Trong trường hợp tôi, câu nói đó mới đúng làm sao! Từ ngày Trà Long về làng, tôi không nhớ trái đất đã quay quanh mặt trời như thế nào. Ngày và đêm nối tiếp nhau lướt qua như ảo ảnh. Bên trời lá rụng, tôi chẳng hay. Lòng tôi chỉ ngập đầy hoa nở.
Dạo này, mỗi khi vào rừng Sim, tôi không quên mang theo cây đàn. Tôi muốn nghe tình tôi ca hát. Tôi muốn nghe sáu dây đàn reo vang những bản tình ca ngọt ngào và trong trẻo. Trà Long đã thôi trách tôi nhạc chú sao buồn.
Một hôm cao hứng, tôi dẫn Trà Long đi xuyên qua mé rừng bên kia, đến chỗ tảng đá dưới gốc bàng bìa rừng, nơi ngày xưa tôi và Hà Lan thường ngồi ngắm mặt trời xuống bên kia thung lũng. Không hiểu sao, từ trước đến nay, tôi vẫn ngại rủ Trà Long đến chỗ này. Chắc là tôi sợ hồn tôi lần về kỷ niệm. Kỷ niệm dẫy đầy dưới từng bước chân tôi.
Tôi ngồi trên tảng đá, bâng khuâng ngắm Trà Long đang nhởn nhơ bên mấy bụi sim già, trên tay ôm một chùm hoa tím. Giữa rừng chiều nhạt nắng, Trà Long bỗng đẹp lạ lùng. Nó như nàng tiên đọa, bước ra từ cổ tích, xuống trần gian làm bạn để tôi vui.
Lòng dạt dào, tôi so dây và khẽ hát:
Có phải em vừa mới hiện ra
Từ trong xa thẳm của hôm qua
Y như cô Tấm ngày xưa ấy
Tiếc nuối làm chi trái thị già
Trà Long lần theo tiếng hát, đến ngồi bên tôi. Nghe tôi hát, nó cười bảo:
- Chú lại nhớ đến những trái thị trong vườn ông Cửu Hoành rồi! Chú cứ nhắc kỷ niệm hoài!
Giọng Trà Long êm ái bên tai, nghe như tiếng chiều đi xào xạc. Hạnh phúc dâng ngập lòng tôi khiến tim tôi như thót lại. Cuộc đời sao như một giấc mơ. Có phải Trà Long ngồi bên, hay đó chỉ là khói sương mộng mị? Tiếng đàn tôi nhắn hỏi với mây chiều:
Hay chính em là một giấc mơ
Len trong nắng sớm hỡi sương mờ
Em đang bên cạnh mà như thể
Một bóng hình ai khéo giả vờ
Tiếng đàn cuối cùng tự nhiên chùng xuống như một tiếng thở dài. Trà Long dịu dàng đặt tay lên cánh tay tôi, giọng xao xuyến:
- Cháu không phải là giấc mơ đâu! Lúc nào cháu cũng ở bên chú!
Tôi quay lại, lòng xốn xang khôn tả. Và không ngăng được lòng mình, tôi bồi hồi vòng tay ôm lấy Trà Long. Trong một phút, tôi tưởng như tôi đang ôm cả thế giới vào lòng. Tôi nghe thấy bờ vai Trà Long dang run rẩy trong cánh tay tôi run rẩy. Tôi nghe thấy trái tim Trà Long đang đập bồn chồn trong ngực tôi. Em khẽ ngước nhìn tôi, bờ môi đang chờ đợi điều gì, sao ánh mắt em nồng nàn đến vậy, có phải đây là phút giây tôi đã đợi chờ suốt tuổi xuân xanh. Em ra đi, em bỏ mặc hồn tôi hoa khế rụng, nỗi đau tôi ngấm trong mỗi cung đàn. Em ra đi, em bỏ mặc rừng sim xao xác, những nẻo đường làng không có dấu chân qua. Tôi đợi em, hồn run như nến lụi, trong giấc mơ tôi thấp thoáng bóng em về. Chiều nay, em về thật đấy sao, mắt biếc em nhìn tôi sâu thẳm, hai mươi năm qua đôi mắt em vẫn đẹp tựa ngày nào. Tôi cúi xuống hôn em, môi tôi cháy bỏng và trái tim tôi như tan ra trong kỷ niệm dạt dào.
Tôi như người mộng du. Tôi nghe trong đầu tôi vang lên lời xúc động nghẹn ngào: "Hà Lan ơi, bao nhiêu năm qua anh đã đợi ngày này!". Ý nghĩ trong đầu mãnh liệt đến nỗi tôi chợt rùng mình và suýt nữa bật lên thành tiếng.
Trà Long chớp mắt, nhìn tôi ngơ ngác:
- Chú làm sao thế?
Tôi ngẩn ngơ như kẻ mất hồn:
- Không... không... chú...
Trà Long nhẹ nhàng gỡ tay tôi ra và nhìn tôi lo lắng:
- Chắc chú bị trúng gió rồi! Mặt chú thất thần thế kia!
Tôi gật đầu, giọng thẫn thờ:
- Ừ, chắc là trúng gió!
Trà Long giục tôi về.
Hai chú cháu băng qua những lối mòn quen thuộc, sao tôi thấy quanh co như lạc giữa sương mờ. Cho đến khi về tận nhà, hồn tôi vẫn còn bàng hoàng, váng vất.
Tôi nghe tiếng Trà Long văng vẳng đâu đây:
- Sáng mai chú khỏe, chú dẫn cháu lên suối Lá đi câu nghen!
Tôi nghe tiếng tôi "ừ" xa thẳm. Trà Long lại nói:
- Sao chú "ừ" nhỏ xíu vậy? Hôm trước chú đã hứa với cháu rồi kia mà!
Tôi lại ừ. Lần này tôi nghe tiếng tôi "ừ" lớn hơn. Và tôi thấy thấp thoáng trước mắt mình nụ cười rạng rỡ của Trà Long. Nhìn cháu vui mà lòng chú thêm xót xa, cay đắng-tôi nghe ý nghĩ của mình run lên trong đầu - Cháu biết không, chú thương cháu nhất trên đời. Chú thương cháu bằng tất cả tình thương trong đời chú cộng lại. Mọi ý nghĩ của chú từ nay sẽ thuộc về cháu, chỉ một mình cháu thôi!
Đêm đó, tôi lặng lẽ và ngậm ngùi thu xếp đồ đạc. Ngày mai tôi sẽ ra đi. Tôi sẽ rời làng.
Hẳn mẹ tôi sẽ buồn. Mẹ Hà Lan sẽ buồn. Và Hà Lan, khi biết được, chắc cũng sẽ buồn. Nhưng tôi biết làm gì khác hơn. Tôi cứ ngờ tình tôi xưa đã tắt, chiều hôm qua tôi bỗng thảng thốt nhận ra nó vẫn cháy trong lòng. Tôi đã tê tái hiểu ra mối tình tôi với Trà Long chẳng qua chỉ là sự nối dài của mối tình tôi với Hà Lan qua một hình bóng khác. Cứ nghĩ đến cảnh ôm Trà Long trong tay mà lòng cứ ngỡ đang hôn Hà Lan đắm đuối, tôi rùng mình, nghe lạnh toát sau lưng.
Trà Long, cháu hiểu cho chú không? Ngày mai chú ra đi, chú biết mọi người sẽ buồn. Và cháu sẽ là người buồn nhất. Tình yêu của cháu dành cho chú trong sáng, ấm áp và chân thành xiết bao! Cháu giống bà ngoại cháu, tình cảm của cháu bao giờ cũng sâu lắng, đầy tin cậy và nhân ái. Mặc dù cháu không nói ra, nhưng chú biết, với tình yêu đằm thắm của mình, cháu những muốn băng bó vết thương lòng của chú, nỗi đau ngày nào do mẹ cháu gây ra.
Những ngày cháu đi học xa, chú nhớ cháu biết bao. Chú mong ngóng cháu từng giờ từng phút. Hơn mười năm về làng dạy học, chú đã chứng kiến bao nhiêu người con gái rủ nhau rời bỏ làng. Họ đi ngang qua mắt chú, lũ lượt và lầm lũi. Làng quên dần dà chỉ còn người già và trẻ nhỏ. Chỉ có cháu là người duy nhất ở lại. Cháu yêu làng, cũng như chú. Cháu yêu làng vì ở đó có tuổi thơ và kỷ niệm. Vì ở đó có những người thân. Và vì ở đó, có chú. Những năm tháng đi xa, cháu đã mỏi mòn chờ ngày về lại. Cháu đã đếm từng ngày, từng tháng, từng mùa phượng nở. Làm sao chú có thể quên hôm mới về làng, cháu đã reo lên hớn hở: "Chú ơi, cháu về đây nè! Lần này cháu về luôn!". Ánh mắt cháu hôm đó vui mừng biết mấy. Vậy mà, ngày cháu về, chú lại ra đi.
Tôi thở dài nhìn qua song cửa. Đêm nay, trăng xanh vời vợi. Trăng lung linh trên tàu lá chuối sau vườn. Ở dưới nhà Trà Long, hẳn giờ này trăng đang rụng từng giọt vàng xuống giàn hoa thiên lý. Có giọt nào rơi vào giấc ngủ cháu không?
Tôi lại quay vào và thẫn thờ sờ tay lên mặt ván mát lạnh, mặt ván ngày xưa tôi đã biết bao lần leo lên nằm sấp người chờ ngọn roi ba tôi dánh xuống. Trà Long, làng mình bao giờ cũng đẹp. Cháu hiểu rõ điều đó hơn mẹ cháu. Làng mình đẹp, nhưng buồn. Hồi chú còn nhỏ, làng vui hơn. Cũng có thể làng vẫn thế thôi, nhưng bây giờ chú thấy khác. Khi lớn lên, người ta thường thấy mọi thứ khác đi, cháu ạ! Chúng ít rực rỡ hơn và ít trong suốt hơn. Nhưng dù sao chú vẫn tin rằng trong mắt cháu, thế giới vẫn còn nguyên vẹn, dù ngày mai khi cháu đến đây thì chú đã đi rồi...
Trà Long, bây giờ thì chú phải đi. Đã đến giờ rồi, tiếng gà gáy vọng lại từ cuối làng, trong cơn mơ cháu có bồn chồn nghe thấy? Hay cơn mơ cháu đêm nay đầy ắp hoa hồng, cháu thấy cháu cùng chú đi câu trên suối Lá và ngay vào lúc chú lặng lẽ rời bỏ cháu thì cháu đang mỉm cười với chú trong giấc ngủ thơ ngây?
Tôi bước chân đi mà lòng như thắt lại, hồn tôi sao quá đỗi nặng nề. Tội nghiệp Trà Long, tôi nghiệp cháu vô cùng! Ngày mai khi cháu nghe thấy tiếng còi tàu thì chú đã ở xa ngoài năm trăm dặm. Có một bài hát đã hát như thế. Chú đã nghe bài hát buồn bã này nhiều lần, nhưng không bao giờ chú nghĩ bài hát đó lại hát cho chú và hát cho người chú yêu dấu. Ngày mai, khi cháu đến tìm chú, hẳn lúc ấy mặt trời đã lên và những cánh phượng cuối cùng của mùa hè đang bắt đầu ứa máu. Nhưng Trà Long yêu thương của chú, chú vẫn tin rằng, dù sao lúc ấy cháu cũng sẽ không khóc, cháu sẽ không khóc, có phải thế không?
T.p HCM 1990
Nguyễn Nhật Ánh
Theo https://sachvui.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cảm thức thời gian trong thơ Trần Hoàng Phố

Cảm thức thời gian trong thơ Trần Hoàng Phố Cảm thức thời gian trong thơ Trần Hoàng Phố không nằm ngoài quỹ đạo của tư duy thơ nhân loại. ...