Tỳ bà hành, bản dịch của Phan Huy Thực,
một hiện tượng lý thú của văn học
1. Tỳ bà hành - Bạch Cư Dị qua các công
trình nghiên cứu
Bạch Cư Dị (772 - 846), tự Lạc Thiên,
người tỉnh Thiểm Tây, là nhà thơ nổi tiếng sáng tác nhiều nhất đời Đường, hiện
còn hơn 3000 bài. Trong những thi phẩm nổi tiếng không thể không kể Tỳ
bà hành, Trường hận ca,… Sách giáo khoa Ngữ Văn 10 (Trần
Đình Sử chủ biên) đánh giá Tỳ bà hành là “một bài thơ cảm
thương bất hủ”. Các nhà nghiên cứu văn học ở Việt Nam xưa nay, hầu
hết khi nhắc đến Bạch Cư Dị đều nhắc đến Tỳ bà hành (bản dịch
của Phan Huy Thực?). Có thể kể qua Việt Nam văn học sử yếu của
Dương Quảng Hàm; Bạch Cư Dị, Tỳ bà hành, và bản dịch
của Phan Huy Thực trong Việt Nam văn học giản ước tân biên, tập 2,
Phạm Thế Ngũ; Bạch Cư Dị với Tỳ bà hành qua Thành ngữ
điển tích danh nhân từ điển (quyển 1) của Trịnh Vân Thanh (1965),
Mục Bạch Cư Dị, Phan Huy Thực, trong Từ điển văn học (bộ
mới),… Đặc biệt ở Bạch Cư Dị, Tỳ bà hành của Hồ Sĩ Hiệp đã
liệt kê những bài bình luận, phân tích của các học giả: Bùi Thanh Ba, Trương
Chính, Nguyễn Hiến Lê, Thê Húc, Lê Đức Niệm, Nguyễn Khắc Phi, Trần Xuân Đề, Lê
Nguyễn Lưu, Hồ Sĩ Hiệp, Phạm Văn Diêu, Trần Lê Bảo, Nguyễn Xuân Nam…
Trong chương trình giáo dục phổ thông,
trước nay sau bao lần thay đổi sách giáo khoa, nhưng lần nào, Tỳ bà
hành cũng có mặt.
Nhưng gần như ít có ý kiến nào đánh giá
một cách thấu đáo, chi tiết bản dịch thơ của Phan Huy Thực với những đặc trưng
thể loại của nó.
Lâu nay, ở Việt Nam độc giả biết
đến bài thơ này phần nhiều là từ bản dịch Nôm của Phan Huy Thực (?). Xin nói
thêm, trong Cảo thơm toàn tập, in năm 1924, Hải Nam Đoàn Nhữ Khuê
cho rằng bản dịch này là của Phan Huy Vịnh. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 hiện
hành cũng ghi là Phan Huy Vịnh, nhưng chú thích là “nay nhiều người cho là của
Phan Huy Thực”. Hầu hết giới khoa học đều đồng thuận đây là bản dịch của Phan
Huy Thực.
Phan Huy Thực, tự: Vị Chỉ, hiệu: Xuân
Khanh, (1778-1846), nhà thơ Việt Nam. Con trai thứ hai của
Phan Huy Ích, anh của Phan Huy Chú và là cha của Phan Huy Vịnh. Nổi tiếng thông
minh từ nhỏ, học giỏi,... Tác phẩm có: Đại Nam thực lục, Sứ
trình tạp vịnh. Thơ chữ Nôm có: Nhân ảnh vấn đáp, Nhân
nguyệt vấn đáp và bản dịch Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị.
2. Thơ dịch hiện tượng liên văn bản thú vị
trong văn học Việt Nam trung đại
Phải khẳng định ngay rằng, hiện tượng dịch
thơ trong văn học Việt Nam trung đại để lại dấu ấn từ bản dịch Chinh
phụ ngâm khúc của Đoàn Thị Điểm (?), (có người tin rằng đây là bản
dịch của Phan Huy Ích), từ nguyên tác Chinh phụ ngâm của Đặng
Trần Côn. Hiện tượng từ chữ Hán dịch sang tác phẩm Nôm không nhiều. Tác phẩm
văn học dịch chỉ thực sự nở rộ vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khi phong trào
chữ quốc ngữ được truyền bá rộng rãi. Dựa trên các tài liệu đã công bố, căn cứ
theo trình tự của thời gian mà tác phẩm được dịch, và chúng tôi khảo sát chủ
yếu thể thơ được dịch là song thất lục bát (STLB), tạm liệt kê một số tác phẩm
tiêu biểu như sau:
- Chinh phụ ngâm - Đặng
Trần Côn, các nhà nghiên cứu ước đoán ông sinh vào khoảng năm 1710 đến 1720, mất khoảng 1745, sống vào thời vua Lê Chúa Trịnh.
Đoàn Thị Điểm (1705-1748), dịch thành 408 dòng STLB (theo bản dịch mà chúng
tôi chọn khảo sát). Theo Hoàng Xuân Hãn, tác phẩm của Đặng Trần Côn còn một bản
dịch khác bằng thể thơ lục bát.
- Thu dạ lữ hoài ngâm, 140
dòng STLB Hán - Đinh Nhật Thận (1815 - 1866), được chính tác giả dịch thành 140
dòng STLB Nôm.
- Chinh phu ngâm khúc, 460
dòng STLB Hán, của Hồng Liệt Bá, một tác giả không rõ tên sống vào thế kỷ
XVIII. Đây là tác phẩm được phóng tác từ Chinh phụ ngâm khúc của
Đặng Trần Côn và bản dịch của Đoàn Thị Điểm (?), sau đó được chính tác giả dịch
sang 460 dòng STLB Nôm. [10]
- Nhị thập tứ hiếu của
Quách Cư Nghiệp, Lý Văn Phức (1785 - 1849) dịch, gồm 8 câu mở đầu và 8 câu kết
thúc cùng 24 câu chuyện lấy đề tài là những trường hợp con cái biết đối xử hiếu
thảo với cha mẹ và rút ở sách sử đời xưa, đều được viết bằng thể STLB.
- Chức cẩm hồi văn của Tô
Huệ (đời Hán), bản dịch của Hoàng Quang (không rõ năm sinh năm mất chỉ biết
rằng ông sống vào đời Tây Sơn và mất trước năm 1802);
- Nguyễn Du (1765-1820), có Long
Thành cầm giả ca bằng Hán tự với thể thơ trường thiên, 50 dòng, sau đó
được tác giả khuyết danh dịch ra thơ Nôm bằng hình thức STLB dài 54 dòng.
- Tỳ bà hành Bạch Cư Dị
(774-846), Phan Huy Thực dịch (1778-1846), dịch thành STLB, 88 dòng.
- Học Canh (cuối thế kỷ XIX) đã dịch 80
dòng Thu dạ lữ hoài ngâm bằng Hán tự của Nguyễn Văn Cẩm (1874-1929) ra 80 dòng STLB Nôm.
- Long Thành Cẩm giả ca - Nguyễn Du (1765
- 1820), tác giả khuyết danh dịch ra Nôm, 56 dòng (Theo Lãng Nhân trong Hán
văn tinh tuý, trang 305, thì bài này do Học Canh dịch).
- Nguyễn Khuyến (1835 - 1909) sáng tác bằng
Hán tự rồi tự dịch ra Nôm, tất cả có đến 8 bài liên văn bản như vậy: Khóc
Dương Khuê, tự dịch bài Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương
Thượng thư, 38 dòng; Di chúc, tự dịch Di chúc văn,
40 dòng; v.v…
- Hịch tướng sĩ - Trần Quốc Tuấn,
1284, được cử nhân Hán học Nguyễn Văn Bình (? - ?) dịch ra 140 STLB.
- Bia Vĩnh Tế Sơn, được dựng thời Tự Đức,
thế kỷ XIX, được Trần Thiện Chánh (? - ?) dịch ra 50 dòng STLB.
- Ly tao, tác phẩm nổi tiếng của thi hào Khuất
Nguyên (340 tCN - 278 tCN), thời cổ đại Trung Quốc, được Nhượng Tống (1906 -
1949), dịch ra 344 dòng STLB.
- Riêng Lãng Nhân (? - ?), trong Hán
Văn tinh túy (Lữ Hồ), đã dịch các tác phẩm sau đây ra STLB: Từ
Sản thụ chính Thái Thúc của Tả Khâu Minh (thái sử nước Lỗ,
thời Xuân Thu, cổ đại Trung Quốc), 44 dòng; Thiệu Công gián giám báng,
của Tả Khâu Minh, (thái sử nước Lỗ, thời Xuân Thu, cổ đại Trung Quốc), 56
dòng; Thúc Hướng hạ Tuyên Tử bần, của Tả Khâu Minh, (thái sử nước
Lỗ, thời Xuân Thu, cổ đại Trung Quốc), 40 dòng; Hà chính ư mãnh hổ,
theo Sách Lễ Ký, thời Tiên Tần, 15 dòng; Bốc cư của Khuất
Nguyên (340 tCN - 278 tCN), 44 dòng; Đằng Vương cát tự, của Vương
Bột (650 - 676), đời Đường, 100 dòng cộng với một bài thơ thất ngôn bát cú cuối
cùng; Bổ xà giả thuyết, của Liễu Tông Nguyên (780 -
805), đời Đường, 70 dòng; Nhạc Dương lâu ký của Phạm Trọng Yêm
(989- 1052), đời Tống, 50 dòng; Mại cam giả ngôn của Lưu Cơ
(1311- 1375) cuối đời Nguyên, 54 dòng; Đào hoa ổ của Đường Bá
Hổ (? -?) đời Minh, 22 dòng.
Cùng hàng chục bài Đường thi được
Trần Trọng Kim (1882 - 1953), dịch ra STLB. Có thể kể như: Tái hạ khúc (Vương
Xương Linh), Thanh khê (Vương Duy), Thần yết siêu sư
viên độc thần kinh (Liễu Tông Nguyên), Túc Vương Xương Linh ẩn
cư (Thường Kiến), Thu đăng lan sơn ký Trương Ngũ (Mạnh
Hạo Nhiên), Cốc khẩu thư trai ký dương bổ khuyết (Tiền Khởi),… Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939), cũng dịch nhiều bài Đường thi ra thể
lục bát, STLB trong đó nổi bật nhất là Trường hận ca của Bạch
Cư Dị.
Từ sự liệt kê trên chúng tôi đưa ra những
nhận xét:
Thứ nhất, dịch thuật là một việc bình thường trong
đời văn học không chỉ của Việt Nammà cả các nước trên thế giới. Có điều
hiện tượng này diễn ra trong văn học Việt Namtrung đại không nhiều. Từ
trước đến nay, các công trình nghiên cứu văn học nói nhiều đến sự ảnh hưởng của
văn học Việt Nam trung đại từ văn học Trung Quốc cổ trung đại, song hiện tượng
dịch từ một tác cổ điển của Đường thi, hay tiểu thuyết Minh Thanh,… sang thơ
Nôm ít được đề cập. Hiện tượng dịch Nôm bắt đầu từ hiện tượng các nhà thơ “đua”
nhau dịch Chinh phụ ngâm khúc bằng Hán tự của Đặng Trần Côn và
kết thúc cuối thế kỷ đầu thế XX, với những với tác phẩm tự dịch của Nguyễn
Khuyến. Sau đó, dịch giả lại dùng chữ quốc ngữ để chuyển tác. Và, hầu hết các
công trình nghiên cứu văn học sau này thường chỉ đề cập nhiều các tác phẩm dịch
thuật bằng chữ quốc ngữ.
Thứ hai, có thể khẳng định các tác phẩm mô phỏng
hay dựa vào một tác phẩm có từ văn học Trung Quốc cổ trung đại như Truyện
Vương Tường, một truyện Nôm Đường luật, tác phẩm gồm 49 bài thất ngôn bát cú, chưa rõ tác giả và
thời điểm ra đời. Cốt truyện của nó có từ thời Hán (Trung Quốc). Vương Tường
tức Vương Chiêu Quân, một trang tuyệt sắc giai nhân, được tuyển vào cung, không
có tiền đút lót, bị thợ vẽ xấu đi, nên không được vua yêu. Khi nhà vua gả nàng
cho Thuyền Vu, chúa Hung Nô, vua thấy nàng đẹp toan giữ lại, nhưng triều thần
can gián. Vương Tường về đến cung vua Hung Nô thì tự tận.
Tô Công Phụng sứ mà nhiều người tin
là của Lê Quang Bí (1506 -?), một vị quan thời Mạc, người Hải
Dương. Tập thơ này gồm 24 bài thơ Đường luật, thuật lại chuyện Tô Vũ đời nhà
Hán đi sứ sang Hung Nô, để gửi gắm tâm sự của mình. Lâm tuyền kỳ ngộ,
là một truyện Nôm dài bằng thơ, có thể xuất hiện
vào thế kỷ XVII, gồm 146 bài thơ thất ngôn bát cú, Truyện
khuyết danh, kể chuyện tình duyên giữa chồng người vợ vượn, một tiên nữ giáng
trần dưới hình dạng một con vượn trắng. Nội dung dựa vào một truyện cổ tích đời
Đường bên Trung Quốc. Tam quốc thi, cũng là một truyện thơ Nôm
Đường luật kể lại một đoạn trong truyện Tam Quốc diễn nghĩa (La Quán Trung),
khoảng hồi 24 đến hồi 28,
Rõ ràng đây là những tác phẩm dù có mô
phỏng hoặc “mượn” cốt truyện từ những tác phẩm có sẵn từ Trung Quốc. Tương
tự, Truyện Kiều, kiệt tác của Nguyễn Du tuy có bóng dáng, thậm chí
là tên các nhân vật trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân (đời
Minh), nhưng là sang thơ Nôm nó có những sáng tạo hết sức độc đáo từ chủ đề đến
thi pháp thể loại.
Thứ ba, có hiện tượng liên văn bản kiểu
như Thu dạ lữ hoài ngâm (Đinh Nhật Thận), hay các bài vừa dẫn
của Nguyễn Khuyến.
Thứ tư, có những tác phẩm vừa mô phỏng, vừa liên
văn bản như trường hợp Chinh phụ ngâm khúc của Hồng Liệt Bá.
Thứ năm, có hiện tượng dịch một tác phẩm bằng chữ
Hán của một tác giả Việt Nam sang một tác phẩm khác bằng chữ Nôm, hai tác giả
khác nhau, như Đoàn Thị Điểm cùng nhiều người nữa dịch Chinh phụ ngâm
khúc theo thể đoản cú bằng Hán tự của Đặng Trần Côn ra STLB Nôm.
Thứ sáu, có những bài thơ Đường được dịch Nôm, cụ
thể là Tỳ bà hành Phan Huy Thực dịch sang STLB. Có thể xem đây
là một hiện tượng khá đặc biệt bởi nó là bài thơ Đường trường thiên đầu tiên
được dịch sang STLB, và khi sang thể STLB thì chức năng và thi pháp thể loại đã
có sự biến đổi, nó rất gần với các khúc ngâm hình thức STLB cùng thời. Chúng
tôi sẽ phân tích kỹ vấn đề này ngay sau đây.
3. Xác định thể loại của bản
dịch Tỳ bà hành
3.1. Những khái niệm
3.1.1. Thơ cổ phong
Thơ cổ phong còn gọi là thơ cổ thể, một
thuật ngữ mang nội dung khá rộng, chỉ tất cả những bài thơ cổ được sáng tác từ
đời Đường từ đời Đường trở về sau mà không theo luật thơ Đường. Số câu trong
bài không hạn định. Từ điển thuật ngữ văn học trang 311, trong
mục “thơ cổ phong” cho rằng “Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị là bài thơ
rất dài”. Sách giáo khoa Ngữ Văn 10 (bộ do Trần Đình Sử chủ
biên), trang 190 còn chú thích thêm hành là một dạng thơ cổ thể.
Như vậy, là đã rõ tất cả ý kiến đều đồng
thuận xác định Tỳ bà hành bằng Hán tự của Bạch Cư Dị là thể
thơ cổ thể. Vấn đề chúng tôi muốn mở rộng hơn là thể loại mà Phan Huy Thực chọn
để dịch. STLB, một thể thơ gắn liền với các ngâm khúc Nôm nổi tiếng lúc bấy
giờ.
3.1.2. Thể loại STLB
STLB là một thể thơ cách luật của
Việt Nam, mỗi khổ thơ gồm bốn câu: hai câu đầu bảy tiếng câu thứ ba sáu
tiếng và câu thứ tư tám tiếng. [3, 283]
Nguyễn Thái Hòa cho biết: Đặc
trưng STLB không phải là sự tổng hợp giữa thất ngôn và lục bát, lại càng không
phải ảnh hưởng do thơ ca Trung Quốc [6]. Về vần, luật, nhịp chúng tôi
sẽ phân tích chi tiết ở phần sau.
3.1.3. Ngâm khúc hình thức STLB
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, Ngâm khúc là
thể thơ trữ tình dài hơi, thường được làm theo thể STLB để ngâm nga, than vãn
nhằm bộc lộ những tâm trạng, tình cảm buồn phiền đau xót triền miên day dứt. Vì
thế ngâm khúc còn được gọi là khúc, vãn hay thán.
Trong văn học Việt Nam, ngâm khúc giữ một vị trí quan trọng và
đặc biệt phát triển từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX.
Khái niệm của Từ điển văn học (bộ mới), không hiểu sao
không có mục thuật ngữ ngâm khúc, chỉ có khúc: “khúc còn
gọi là tản khúc, một hình thức thơ ca cổ điển của Trung Quốc, gắn
với âm nhạc có nội dung trữ tình, ra đời trên cơ sở những lời ca điệu hát dân
gian đời Kim (1115-1234) và phát triển mạnh vào đời Nguyên (1280-
1368). Khúc gồm có hai loại: tiểu lệnh và sáo sổ. Ở
Việt Nam chữ khúc được dùng trong thuật ngữ ngâm khúc để
chỉ những tác phẩm bằng thơ dài theo thể lục bát hoặc STLB, có nội dung trữ
tình (Chinh phụ ngâm khúc, Cung oán ngâm khúc,…). Tuy nhiên đó không
phải là những tác phẩm mang đặc điểm của thể loại khúc Trung
Quốc”.
Trần Đình Sử trong Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam,
lại xác định ngâm khúc: “là một thể loại văn học trung đại Việt
Nam. Tinh thần bi kịch thể hiện ở chỗ tìm lại giá trị nhân sinh mà không được,
không cam chịu mất mát giá trị mà đành bất lực và do bất lực mà lòng bất lực
càng mạnh thêm, day dứt hơn”; “có thể nói khúc ngâm có nhiệm
vụ phơi trải lòng đau xót, sầu tủi, tiếc hận của mình” [12, 185 - 187].
Vậy là, các nhà nghiên cứu chỉ quan tâm ngâm khúc nói
chung, không đưa ra khái niệm cụ thể nào về thể loại ngâm khúc dùng
hình thức thơ STLB trong lịch sử văn học Việt Nam trung đại.
Trên cơ sở của những ý kiến vừa nêu, và với xác định của riêng mình, chúng
tôi cho rằng: ngâm khúc hay khúc ngâm dùng
hình thức STLB là một thể loại của văn học dân tộc. Thể loại này dùng hình thức
STLB, trường thiên, bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm để thể hiện. Chức năng của ngâm
khúc nhằm bộc lộ những tâm trạng, tình cảm buồn phiền đau xót triền
miên day dứt. Nội dung của nó đa dạng, phong phú phản ánh nhiều cung bậc của
đời sống tình cảm con người thời trung đại. Khúc ngâm là cách
nói Việt hoá từ cụm từ Hán Việt của thuật ngữ này.
3.2. Tỳ bà hành, bản dịch của Phan Huy
Thực - dưới góc nhìn thể loại
3.2.1. Chức năng thể loại
Các thể loại văn học
có chức năng và nội dung riêng của nó, điều này không phải bàn cãi, nhưng không
phải ai cũng thấy rõ nó. Song với một loại nội dung nhất định có một loại hình
thức nhất định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh thể. Nói cách
khác, thể loại văn học là một cấu trúc, một cách thức tổ chức ngôn ngữ theo một
dạng thái nào đó nhằm thể hiện những tình cảm, nhận thức và suy nghĩ của con
người trước các hiện tượng của đời sống. Có thể nói thể loại nào cũng bình
đẳng, cũng đều có quyền trong việc nhận thức và phản ánh hiện thực. Tuy nhiên
mỗi thể loại thường có những chức năng riêng phù hợp với khả năng phản ánh của
nó với đối tượng được nhận thức, phản ánh.
Ở đây xin bàn sâu hơn
về chức năng và nội dung của thể loại thơ.
Thơ là một hình thức
sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những cảm xúc
mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu. Bàn về
thơ, trong Thư gửi Nguyên Chẩn, Bạch Cư Dị cho rằng Thi dã,
căn tinh, miêu ngôn, hoa thanh, thực nghĩa.Theo Phan Huy Dũng thì ý mà nhà
thơ Đường này muốn nói là “cái cảm hoá lòng người chẳng gì trọng yếu bằng tình
cảm, chẳng gì đi trước được ngôn ngữ, chẳng gì gần gũi bằng âm thanh, chẳng gì
sâu sắc bằng ý nghĩa. Với thơ, gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm
thanh, quả là ý nghĩa trên chỉ bậc thánh hiền, dưới là kẻ ngu si nhỏ bé như lợn
cá, thần bí như quỷ thần chủng loại bất đồng nhưng tinh thần tương tự, tình
trạng khác biệt như tình cảm tinh thông không một thứ gì nghe được bằng âm
thanh mà không đáp ứng, không một thứ gì tiếp nhận được tình cảm mà không rung
động”.
Trong văn học hiện
đại, Phan Huy Dũng qua bài giảng dành cho học viên Cao học đã cho biết Huy Cận
đã từng khẳng định việc chọn thể thơ 8 tiếng mỗi dòng cho bài thơ Tràng
Giang của ông hay hơn hẳn thể thơ lục bát mà ông đã từng chọn trước
đó. Hay Đẹp xưa phải là thơ lục bát mới chuyển tải hết tinh
thần của thi sĩ, trước đó bài thơ này được Huy Cận chọn thể thơ Đường luật để
diễn tả chẳng hạn.
Qua các giai đoạn phát
triển, STLB cũng luôn tìm kiếm và khẳng
định những chức năng và nội dung riêng làm nên nét đặc thù của thể loại. Qua
khảo sát văn học Việt Nam trung đại chúng tôi thấy ngay từ lúc manh
nha, STLB đã có mặt ngay
trong các tác phẩm của Lê Đức Mao (1462 - 1529): Nghĩ hộ tám giáp làm
giải thưởng cho cô đầu hát, Hưu kỳ thiên tải hạ và Nhị nguyệt
huyên hoà tiết. Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề xác định rằng “đây là những bài
để cho ả đào hát chúc mừng dân làng trong hội tế xuân cầu phúc”. Tứ
thời vịnh khúc của Hoàng Sĩ Khải thì thể STLB ở đấy lại mang chức năng
và nội dung ngợi ca sự thanh bình thịnh trị của thời vua Lê, chúa Trịnh.
Ở Thiên Nam minh giám, theo Phan Diễm Phương nội dung của nó “lấy
việc trực tiếp bình luận, đánh giá lịch sử làm nhiệm vụ trung tâm”. Ở đây, tác
giả của Thiên Nam minh giám đã dựa vào những nhận thức, suy
ngẫm của mình mà đưa ra những lời biểu dương ca ngợi hay phê phán, chê bai đối
với các nhân vật lịch sử.
Dần sang thế kỷ XVII - XVIII, trong khi
lục bát, đang tung hoành trong vai trò kể
chuyện, STLB cũng thật sự tìm
được mảnh đất mà ở đó nó có thể phát huy một cách tốt nhất khả năng trữ tình
của mình, đó là ngâm khúc. Phan Ngọc đã lần lượt xem xét 70 tác
phẩm STLB, trong đó, theo ông,
có 35 tác phẩm có thể xem là hay nhất, rồi trên cơ sở đó mà nêu lên bốn đặc
điểm “bất biến” về nội dung của chúng: thứ nhất, đó là những
bài thơ nội tâm; thứ hai, là những bài thơ được
xây dựng trên sự đối lập giữa một bên là hiện tại, với bên kia là dĩ vãng hoặc
tương lai; thứ ba, là một lời kêu gọi thôi thúc hành động; thứ tư, là tác giả
đóng vai một lữ khách xem cuộc đời mình như một đoạn đường dài và ôn lại quãng
đường ấy [7, 241 - 244]; Trần Đình Sử, trong Mấy vấn đề về thi pháp văn
học trung đại Việt Nam đã có những nhận định mà chúng tôi hết sức chú
ý: “người ta thường nói hình thức của ngâm khúc là STLB. Nhưng điều đó chưa đủ. Ngâm khúc đã
phát triển đến tột độ quan niệm tự tình của thơ trữ tình trung đại. Chính việc
kể lể tình cảm mới tạo khả năng sáng tác được khúc ngâm dài mà
không cần cốt truyện” [12, 183]. Tiếp đó, ông khẳng định chức năng
của ngâm khúc: “có thể nói ngâm khúc có nhiệm vụ
trải tấm lòng đau xót, sầu tủi, tiếc hận của mình” [12, 185].
Sau đó, STLB cũng có
mặt trong Văn tế thập loại chúng sinh (Nguyễn Du), thơ Nguyễn
khuyến,…
Đến đây, chúng tôi
muốn đề cập sâu hơn chức năng và nội dung của thể STLB, với khía cạnh đó là sự dịch thuật. Đoàn Thị Điểm
đã chọn và rất thành công khi chuyển từ dạng thơ từ khúc trong Chinh
phụ ngâm khúc từ nguyên tác bằng Hán tự của Đặng Trần Côn sang chữ
Nôm.
Người đọc
có thể cảm nhận tính trữ tình và sắc thái trang nhã mà rất gần gũi, rất riêng
biệt của thể STLB.
Từ cơ sở đó, chúng tôi khẳng định rằng
chức năng của ngâm khúc hình thức STLB trong văn học Việt Nam trung đại là
những tác phẩm diễn tả nội tâm với nhiệm vụ trải lòng đau xót, sầu thảm. Nội
dung chính thể loại ngâm khúc hình thức STLB là những tâm sự cá nhân.
Thật là sự trung hợp thú vị, những chức
năng của ngâm khúc hình thức STLB hoàn toàn phù hợp với nội dung và chức năng
trong bản dịch Nôm Tì bà hành của Phan Huy Thực.
Tâm sự của nàng ca kỹ, một tâm sự cá nhân
rõ nét:
Mời mọc mãi thấy người bỡ ngỡ
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa
Vặn đàn mấy tiếng dạo qua,
Dẫu chưa nên khúc tình đà thoảng bay
Chức năng diễn tả nội tâm, trải lòng đau
xót sầu thảm:
Nước suối lạnh dây mành ngừng đứt
Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ
Ôm sầu mang giận ngẩn ngơ
Tiếng tơ lặng ngắt bây giờ càng hay
3.2.2. Thi pháp thể loại
3.2.2.1. Yếu tố trữ tình trong bản dịch Tỳ bà hành
Thứ nhất, sự tham gia của yếu tố trữ tình
trong cấu trúc Tỳ bà hành (bản dịch) trước hết thể hiện ở chất
thơ trong cảnh vật.
Trong hoa oanh ríu rít nhau
Nước tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh
Hay:
Thuyền không, đậu bến mặc ai
Quanh thuyền trăng giải nước trôi lạnh
lùng
Một chủ thể trữ tình trong một dòng tâm
sự, một dòng tình cảm tuôn chảy. Cùng tả cảnh là tả tình:
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu
Người xuống ngựa, khách dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn nhớ chiều trúc ti
Thứ hai, yếu tố trữ tình trong Tỳ bà hành (bản dịch) được thể hiện ở việc miêu tả trực tiếp tình cảm cá
thể của nhân vật:
Năm năm lần lữa vui cười
Mải trăng hoa chẳng đoái hoài xuân thu
Người ca nữ trong tác phẩm của Phan Huy
Thực cũng không ít lần bộc lộ trực tiếp:
Mày chau tay gãy khúc sầu
Giãi bày hết nỗi trước sau muôn vàn
Qua khảo sát thực tế, chúng tôi mở rộng
thêm vấn đề nữa đó là hình thức trữ tình ngoại đề. Các tác giả Từ điển
thuật ngữ văn học xác định: “trữ tình ngoại đề là một trong những yếu
tố ngoài cốt truyện, một bộ phận của ngôn ngữ người kể chuyện trong các tác
phẩm thuộc loại hình tự sự, trong đó, tác giả hoặc là người kể chuyện trực tiếp
bộc lộ những tư tưởng, tình cảm quan niệm của mình đối với cuộc sống và nhân
vật được trình bày qua cốt truyện” [3, 375].
Trong bản Tỳ bà hành, Phan Huy
Thực cũng có lúc thể hiện cách trữ tình ngoại đề:
Nghe não nuột khác tay đàn trước,
Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi
Lệ ai chan chứa hơn người?
Giang Châu Tư mã đượm mùi áo xanh
3.2.2.2. Yếu tố tự sự trong bản dịch Tỳ bà
hành
Theo Wellec và Warren, vấn đề chủ yếu
của phương pháp tự sự là ở cách xử lý mối quan hệ giữa người kể chuyện và câu
chuyện của anh ta, ở cách tổ chức lời văn kể chuyện để tạo ra một chuyện mới
[theo Trần Đình Sử, 13]. Trần Đình Sử còn cho biết thêm: “nói đến nghệ thuật kể
chuyện, ngày nay người ta không còn giản đơn nới tới cách kể theo ngôi thứ nhất
hay thứ ba một cách bề ngoài, mà tìm vào những yếu bên trong đã chi phối đặc
điểm và chất lượng của các ngôi kể ấy. Ngôi kể vẫn có ý nghĩa riêng trong việc
tạo thành giọng điệu kể, một điều không thể coi nhẹ. Nhưng lý thuyết tự sự hiện
đại đã nói đến điểm nhìn, tiêu cự, tức là nói đến phương pháp cảm nhận, nhìn
thấy con người và sự vật được kể. Phương pháp tự sự thực chất là phương pháp
nhìn thấy sự việc và con người, phương pháp phát hiện về con người” [13, 182].
Chúng tôi dựa vào nhận định điểm
quan trọng nhất là các khúc ngâm đã tạo thành một kiểu trữ tình mới, có tính tự
sự. Đó là lối trữ tình nhập vai. Trong lời trữ tình ấy chủ thể trữ tình
nhập vai - một vai người trần thuật, một vai người trong cuộc, người trữ tình.
Yếu tố tự sự xuất hiện trong lời thơ STLB
qua Tỳ bà hành đã góp phần tạo nên cốt truyện sơ giản của tác
phẩm.
Cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể,
được tổ chức theo yêu cầu và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ
bản, quan trọng nhất trong hành động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự
và kịch,… Cốt truyện không phải là yếu tố tất yếu. Trong các loại tác phẩm trữ
tình cốt truyện (với ý nghĩa chặt chẽ nhất của khái niệm này) không tồn tại vì
ở đây tác giả biểu hiện sự diễn biến của tình cảm, tâm trạng [3, 99
- 100].
Cơ sở chung của mọi cốt truyện, xét đến
cùng là những xung đột xã hội được khúc xạ qua các xung đột nhân cách. Nhưng sẽ
sai lầm nếu đồng nhất xung đột xã hội với cốt truyện trong tác phẩm văn học.
Xung đột xã hội là cơ sở khách quan, là đối tượng nhận thức phản ánh, trong khi
đó cốt truyện lại là sản phẩm độc đáo của chủ quan nhà văn.
Bên cạnh khái niệm cốt truyện hiểu theo
tinh thần truyền thống trên đây, còn có cách hiểu cốt truyện như là toàn bộ các
biến cố, sự kiện được nhà văn kể ra, là cái mà người đọc có thể kể lại
(histoire) [3, 101].
Lý luận văn học không xác định cốt truyện
trong thơ trữ tình. Song, với việc Phan Huy Thực chọn thể STLB để dịch, chúng
ta có thể tóm tắt diễn tiến câu chuyện: Sự xuất hiện của người ca nữ - Tiếng
đàn của người ca nữ - Cuộc đời và tâm sự của người ca nữ - Cảnh ngộ hiện tại và
tâm trạng của nhà thơ - Tiếng đàn lần cuối của người ca nữ và những tác động
đặc biệt của nó.
Chúng tôi cũng xin lưu ý thêm rằng, trong
nguyên tác mở đầu còn có lời giới thiệu. Bạch Cư Dị. viết như sau: Năm
Nguyên Hòa thứ mười ta bị giáng xuống làm Tư mã ở quận Cửu Giang. Mùa thu năm
sau, đi tiễn khách ở bến Bồn - tức bến Tầm Dương, đêm nghe tiếng tì bà ở trên
một chiếc thuyền, tiếng nghe lanh lảnh như tiếng đàn ở kinh đô. Hỏi ra mới biết
một người ca nữ ở Trường An đã học đàn tì bà với hai nhạc sự họ Mục và họ Tào.
Tuổi già, sắc kém phải gửi thân làm vợ một anh lái buôn. Liền bảo đặt tiệc rượu
và bảo nàng chơi vài khúc đàn. Gãy xong mấy khúc, nàng buồn bả tự kể sự vui
chơi lúc thiếu thời, nay phiêu bạc, tiều tuỵ ở chốn giang hồ. Ta ra làm quan ở
ngoài đã hai năm, tâm hồn thanh thản, cảm lời nói của nàng, đêm nay mới nghĩ
đến việc giáng chức bị đưa đi xa kinh đô, bèn làm bài trường ca để tặng. Bài có
616 chữ đặt tên là Tỳ bà hành. [11,190]
Nhưng xem ra, giữa nội dung câu chuyện với
lời tác giả cũng không phải hoàn toàn thống nhất.
3.2.3. Nghệ thuật tổ chức ngôn từ
trong thể loại của bản dịch Tỳ bà hành
3.2.3.1. Vần, luật và nhịp
Các nhà nghiên cứu thống nhất mô hình luật
thơ STLB:
Khổ 1
|
Thất trên
|
0
|
t
|
T
|
b
|
B
|
t
|
T
|
|
Thất dưới
|
0
|
b
|
B
|
t
|
T
|
b
|
B
|
||
Lục
|
b
|
B
|
t
|
T
|
b
|
B
|
|||
Bát
|
b
|
B
|
t
|
T
|
b
|
B
|
t
|
B
|
|
Khổ 2
|
Thất trên
|
0
|
t
|
T
|
b
|
B
|
t
|
T
|
|
Thất dưới
|
0
|
b
|
B
|
t
|
T
|
b
|
B
|
||
Lục
|
b
|
B
|
t
|
T
|
B
|
B
|
|||
Bát
|
b
|
B
|
t
|
T
|
b
|
B
|
t
|
B
|
Dương Quảng Hàm thuyết minh thêm: “hai câu
sáu tám theo luật lục bát. Đến hai câu bảy thì chữ thứ nhất không kể, muốn đặt
tiếng gì (tức thanh bằng hay thanh trắc) cũng được, còn sáu chữ sau chia làm ba
đoạn, mỗi đoạn hai chữ. Trong câu bảy (hiểu là câu bảy trên) thì có đoạn đầu
là trắc trắc; đến câu bảy dưới thì trái lại đoạn đầu là bằng
bằng. Vậy luật bằng trắc trong thể song thất theo cách trên. Dấu 0 chỉ chữ
đầu câu bảy là chữ gác ở ngoài không kể. Những chữ in thường là những chữ không
cần đúng luật, còn những chữ in hoa buộc phải theo” [4, 153].
Lấy tình cờ một đoạn trong bản dịch Tỳ bà hành, ta thấy nó rất phù hợp với luật này:
Chúng tôi dựa vào một số tác phẩm sử dụng
hình thức thơ STLB trước và cùng thời với bản dịch Tỳ bà hành làm
căn cứ để so sánh qua những bảng thống kê:
Vần và âm luật ở dòng thất trên.
Tác phẩm
|
Tổng số dòng thất trên
|
Thanh bằng tiếng thứ 3
|
Vần ở thứ 3
|
||
Số dòng
|
Tỷ lệ %
|
Số dòng
|
Tỷ lệ %
|
||
Chinh phụ ngâm
|
102
|
30
|
29,4
|
22
|
21,6
|
Cung oán ngâm
|
89
|
3
|
3,4
|
1
|
1,1
|
Bần nữ thán
|
54
|
8
|
14,8
|
1
|
1,8
|
Ai tư vãn
|
41
|
6
|
14,6
|
6
|
14,6
|
Thu dạ lữ hoài ngâm, Nôm
|
35
|
2
|
5,7
|
0
|
100
|
Tự tình khúc
|
152
|
1
|
0,6
|
0
|
100
|
Tì bà hành
|
22
|
2
|
9%
|
0
|
100
|
Vần và âm luật ở dòng thất dưới:
Tác phẩm
|
Số dòng thất dưới
|
Số dòng có tiếng thứ 7 là thanh huyền
|
|
Chinh phụ ngâm
|
102
|
2
|
1,9 %
|
Cung oán ngâm
|
89
|
19
|
21,3 %
|
Bần nữ thán
|
54
|
9
|
16,7 %
|
Ai tư vãn
|
41
|
1
|
2,4 %
|
Thu dạ lữ hoài ngâm, Nôm
|
35
|
17
|
48,6 %
|
Tự tình khúc
|
152
|
50
|
32,9 %
|
Tỳ bà hành
|
22
|
0
|
0%
|
Vần và âm luật ở hai dòng lục bát
Tác phẩm
|
TS dòng lục
|
TS dòng bát
|
Tiếng thứ 2 dòng lục là thanh trắc
|
Tiếng thứ 4 dòng lục là thanh bằng
|
Tiếng thứ 2 dòng bát là thanh trắc
|
Vần ở tiếng thứ sáu của dòng bát
|
||||
CPN
|
102
|
102
|
2
|
1,9%
|
0
|
100%
|
0
|
100%
|
102
|
100%
|
CON
|
89
|
89
|
2
|
2,2%
|
0
|
100%
|
0
|
100%
|
89
|
100%
|
BNT
|
54
|
54
|
1
|
1,8%
|
0
|
100%
|
0
|
100%
|
54
|
100%
|
ATV
|
41
|
41
|
0
|
100%
|
0
|
100%
|
0
|
100%
|
41
|
100%
|
TTK
|
152
|
152
|
0
|
100%
|
0
|
100%
|
0
|
100%
|
152
|
100%
|
Tỳ bà hành
|
22
|
22
|
1
|
4,54%
|
0
|
100%
|
0
|
100%
|
22
|
100%
|
Qua thống kê, chúng tôi đi đến mấy kết
luận:
Thứ nhất, vần giữa hai khổ của thể STLB:
nếu như ở Chinh phụ ngâm khúc còn hiện tượng gieo vần giữa chữ
thứ 8 của câu bát (khổ trên) với tiếng 3 của câu thất trên (khổ tiếp theo) khá
phổ biến chiếm 21,6% (với 22 lần xuất hiện) thì đến Cung oán ngâm khúc con
số này là 1,1%, (Ai tư vãn lại tăng lên 14,6%,) Bần nữ thán là
1,8%. Đến các bản dịch Tỳ bà hành đã cùng các tác phẩm
cuối thế kỷ XIX (Tự tình
khúc và Thu dạ lữ hoài ngâm (cả Hán lẫn Nôm), mà
chúng tôi cho là ra đời đồng thời (sau vụ án Cao Bá Quát chống triều Nguyễn)
việc gieo vần ở tiếng thứ ba câu thất trên không còn. Như vậy, chính bản
dịch Tỳ bà hành đánh dấu sự hoàn chỉnh của việc gieo vần giữa
hai khổ thơ STLB.
Thứ hai, vần của cặp lục bát ổn định ở vị
trí tiếng 6 của dòng lục và tiếng 6 của dòng bát là 100%. Nó ổn định (không có
hiện tiếng gieo vần giữa tiếng thứ 6 dòng lục với tiếng thứ 4 dòng bát) hơn hẳn
các truyện thơ Nôm khuyết danh hình thức lục bát cùng thời.
Thứ ba, về luật phối thanh bằng - trắc:
Đối với hai dòng thất:
Căn cứ vào tiếng thứ ba của dòng thất trên
phải là thanh trắc, thì số lần “vi phạm” của Chinh phụ ngâm khúc lớn
hơn cả (có 30 lần chữ thứ 3 là thanh bằng/ 102 câu), và Tỳ bà hành có
tỷ lệ thấp 1 lần/ 22 câu.
Căn cứ vào tiếng thứ 7 của câu thất dưới
là thanh ngang (tức thanh bằng - bổng), thì số lần các tác phẩm có chữ này mang
thanh huyền (thanh bằng - trầm) thì bản dịch Tỳ bà hành cũng
không một lần nào xuất hiện, trong khi các tác phẩm bằng hình thức STLB dùng để
đối sánh đều không nhiều thì ít đều có “vi phạm”
Đối với hai dòng lục - bát:
Tiếng thứ 2 của dòng lục theo luật phổ
biến là bằng, thì số lần vi phạm (tức chuyển tiếng này sang trắc) của Cung
oán ngâm là cao nhất (tuy cùng hai lần xuất hiện như Chinh phụ
ngâm), nhưng tỷ lệ cao hơn. Tỳ bà hành xuất hiện 1 lần với
tỷ lệ 4,5%.
Tiếng thứ 4 của dòng lục là thanh trắc và
tiếng thứ 2 dòng bát là thanh bằng thì không có tác phẩm nào của tác phẩm STLB
nào vi phạm (nó ổn định hơn hẳn truyện thơ Nôm cùng thời - đối
sánh với bảng thống kê sau đây):
STT
|
Tác phẩm
|
Tiếng 2 (dòng lục) từ B à T
|
Tiếng 4 (dòng lục) từ T à B
|
Tiếng 2 (dòng bát) từ B à T
|
1
|
Sơ kính tân trang
|
5
|
0
|
5
|
2
|
Truyện Kiều
|
1
|
4
|
0
|
3
|
Lục Vân Tiên
|
3
|
2
|
3
|
4
|
Nhị độ mai
|
7
|
1
|
3
|
Và chúng tôi kết luận:
Thể loại STLB ổn định cả mặt luật và vần
từ Cung oán ngâm khúc trở đi, bản dịch Tý bà hành nằm
trong quy luật vận hành của thể loại ấy.
3.2.3.2. Nhịp trong bản dịch Tỳ bà
hành
Trong bài giảng dành cho học viên cao học,
Phan Huy Dũng cho rằng: “văn học nói chung và thơ trữ tình nói riêng bao giờ
cũng quan tâm tới vấn đề nhịp điệu. Nhờ nhịp điệu gắn liền với những chỗ ngừng,
ngắt được phân bố hợp lý căn cứ vào quy luật tổ chức nội dung ý nghĩa của ngôn
từ và khả năng chú ý, theo dõi cũng như nhịp thở tùy trạng thái cảm xúc của độc
giả mà chuỗi ngôn từ bất định kia được cấu trúc, trở thành tác phẩm nghệ thuật,
có khả năng gây xúc động và đưa lại những nhận thức mới về cuộc sống, nhịp điệu
trong thơ phải đảm trách nhiệm vụ vừa phân định lớp lang của dòng cảm xúc được
diễn tả bằng những âm thanh mang nghĩa, vừa đóng vai người thuyết minh tích
cực, tận tuỵ cho chính dòng cảm xúc ấy, khi lượng ngôn từ dùng để dẫn giải, rào
đón, mô tả đã được rút lại gần ở mức tối thiểu”.
Yếu tố tạo nên nhịp điệu quan trọng nhất ở
đây là những chỗ ngừng, chỗ ngắt trong sự phân bố mau, thưa đa dạng của chúng;
là độ dài, ngắn khác nhau của các quãng nghỉ hơi sau mỗi khổ thơ, đoạn thơ.
Tóm lại: có thể nói nhịp thơ là cái được nhận
thức thông qua toàn bộ sự lặp lại có tính chất chu kỳ, cách quãng hoặc luân
phiên theo thời gian của những chỗ ngừng, chỗ ngắt và của những đơn vị văn bản
như câu thơ (dòng thơ), khổ thơ, thậm chí là đoạn thơ.
Đối sánh nhịp trong nguyên tác và hai dòng
thất của bản dịch Tỳ bà hành, ta thấy:
Ở nguyên tác:
Khúc bãi tằng giao thiện tài phục
Trang thành mỗi bị Thu Nương đố
Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu
Nhất khúc hồng tiêu bất tri số
Ở bản dịch:
Gã thiện tài sợ phen dừng khúc,
Ả Thu Nương ghen lúc điểm tô.
Ngũ Lăng, chàng trẻ ganh đua,
Biết bao the tấm chuốc mua tiếng đàn.
Nhịp của thất ngôn trong nguyên tác là
nhịp 4/3, còn cặp thất ngôn trong bản dịch Nôm là 3/4. Điều này càng thêm củng
cố luận điểm đã được nhiều nhà khoa học tán thành, thể thơ STLB là thể thơ của
dân tộc Việt Nam.
Trong Tỳ bà hành, qua khảo sát
chúng tôi cũng nhận diện được một số biến thể cách ngắt nhịp, song tỷ lệ rất
ít.
Đêm khuya, sực nhớ dòng tuổi trẻ
Chợt mơ màng dòng lệ đỏ hoen
Hay:
Rằng: “Xưa vốn là người kẻ chợ
Cầu Hà Mô trú ở lân la
Chỉ có hai trường hợp biến thể nhịp ở dòng
thất trên, dòng thất dưới toàn bộ 22 câu đều ngắt nhịp 3/4 thuần túy.
Câu lục:
Nhịp câu lục là 3/3 thay vì thông lệ
thường là 2/2/2
Người xuống ngựa, khách dừng chèo
Cần đặc biệt chú ý, nếu luật thơ của dòng
này thay đổi: tiếng thứ hai thay vì thanh bằng mà nếu đổi ra thanh trắc thì
chắc chắn nhịp ngắt sẽ luôn là 3/3. Chúng tôi khảo sát qua hầu hết các tác phẩm
ngâm khúc hình thức lục bát đều theo cách biến luật và biến nhịp như vậy, song
đáng nói là trong bản dịch Tỳ bà hành có một trường hợp luật
không thay đổi nhưng nhịp lại đổi ở dòng lục:
Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn
Lần lần tay chuốc chén son ngập ngừng
Chúng tôi khẳng định đây là hiện tượng
hiếm có.
Ở câu bát, nhịp phổ biến là 2/2/2/2 hoặc
4/4, trong bản dịch Tỳ bà hành chỉ một lần duy nhất, dòng bát
biến nhịp:
Năm năm lần lữa vui cười
Mải trăng hoa chẳng đoái hoài xuân thu
Nhịp ở câu bát này là 3/5
Trong nhiều yếu tố, nhịp thơ vừa thể hiện
tính quy phạm đồng thời cũng phá vỡ tính quy phạm vốn là hai biểu hiện thường
xuyên diễn ra liên tục đối với những tác phẩm của văn học
Việt Nam trung đại. Tỳ bà hành bản dịch cũng vậy!
Nhịp 3/4 của cặp song thất trong thể STLB
có nguồn gốc từ thơ ca dân gian Việt Nam, nó khác hẳn nhịp 4/3 trong thơ
Đường luật, và đây cũng là tiêu chí quan trọng để phân biệt đâu là thơ ngoại
nhập và đâu là thể loại nội sinh của người Việt Nam.
3.2.4. Giọng điệu và ngôn ngữ
3.2.4.1. Giọng điệu
Giọng điệu nghệ thuật với tư cách là một
phạm trù thẩm mỹ, một yếu tố có vai trò hết sức quan trọng trong việc cấu thành
phong cách nhà văn là vấn đề đã được nhận ra từ lâu kể cả trong văn học Phương
Tây và văn học phương Đông. Nhiều bậc thầy về nghệ thuật ngôn từ, nhiều nhà
nghiên cứu đã chỉ ra và chứng minh vai trò quan trọng của giọng điệu (tone) hay
“văn khí”, “hơi văn”, “giọng văn” (cách gọi quen thuộc ở Trung Quốc và Việt
Nam) không chỉ trong sáng tác mà cả trong nghiên cứu, tiếp cận tác phẩm văn học
và phong cách cá nhân nhà văn.
Nhắc đến phong cách có nghĩa là chúng ta
thừa nhận mỗi nhà văn có một giọng điệu riêng, đồng thời cũng từ đó ta khẳng
định một thể loại được nhiều nhà văn chọn thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm
thì cũng sẽ có giọng điệu chung - giọng điệu thể loại.
Trong văn học M. Bakhtin chú ý tới giọng
điệu cảm thương bắt đầu từ thời Sếchxpia [13, 249], còn ở văn học
Việt Nam tới nay chưa có công trình nào nghiên cứu sâu sắc vấn đề
này. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy, nếu xét về lịch sử phát triển, giọng điệu
sầu thảm, cảm thương trở thành giọng điệu chủ đạo của thể loại thì chắc chắn nó
xuất hiện và hoàn thiện trong các tác phẩm ngâm khúc hình thức STLB. Như chương
hai chúng tôi đã phân tích chức năng và nội dung biểu hiện của thể loại này,
gắn với nỗi sầu dai dẳng trong tâm trạng nhân vật trữ tình tất yếu giọng điệu
chủ đạo sẽ là giọng điệu buồn thương. Trần Đình Sử khi nhắc đến giọng điệu “kêu
thương đau đớn da diết” trong truyện Kiều, còn cho biết giọng điệu ấy gắn liền
với “cảm hứng nhân đạo và hiện thực” [13, 250]. Chúng tôi dựa vào ý kiến đó và
qua khảo sát bản dịch Tỳ bà hành đi đến khẳng định: giọng điệu
sầu thảm, cảm thương của nó cũng gắn liền với giá trị hiện thực và tư
tưởng nhân đạo sâu sắc.
Sầu thảm, nghĩa là buồn
rầu thê thảm, cảm thương, cũng là từ Hán Việt nghĩa
là thương xót vì động lòng. Như ở phân chức năng chúng tôi đã đề
cập, hai đặc tính mà chúng tôi chọn để khái quát giọng điệu của thể thơ này chỉ
hai cảm xúc: sầu thương là bộc lộ nỗi niềm của chính
nhân vật trữ tình, còn cảm thương là lời của nhân
vật trữ tình nhập vai, đó vừa là nỗi đau của người trần thuật vừa là sự cảm
thông với nỗi bất hạnh của đối tượng được trần thuật. Giọng điệu này,
đầu tiên có thể thấy ngay bởi một loạt tính từ rầu, thương, xót, buồn,
rầu, sầu, thảm xuất hiện một cách hệ thống trong tác phẩm, đồng thời
nó cũng bộc lộ sắc thái tự thán rõ rệt. Tự thán là từ Hán Việt
nghĩa là than thở một mình, than lấy thân. Chúng tôi dẫn một
số minh hoạ:
- Buồn em trảy lại lo dì
thác
Sầu hôm mai đổi khác hình dung
- Nghe đàn ta đã chạnh buồn
Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời
- Ôm sầu mang giận ngẩn ngơ
Tiếng tơ lặng ngắt bây giờ càng hay
- Nghe não nuột mấy dây buồn bực
Dường than niềm tấm tức bấy lâu
Mày chau tay gãy khúc sầu
Giãi bày hết nỗi trước sau muôn vàn
Một biểu hiện nữa trong Tỳ bà hành là
giọng điệu tự thuật, trần tình. Từ Hán Việt tự thuậtnghĩa
là thuật lại chuyện mình, việc đã xảy ra cho mình. Trần
tình: là nói hết sự tình, kể rõ mọi tình tiết. Trong
các khúc ngâm mà chúng tôi khảo sát, có ít nhất 03 tác phẩm
nhân vật trữ tình là người trong cuộc. Và như vậy, đương nhiên giọng điệu tự
thuật, trần tình là không thể thiếu. Dưới đây là những câu thơ tiêu biểu cho
giọng điệu ấy.
- Học đàn từ thuở mười ba
Giáo phường đệ nhất chỉ là chép tên
- Cung đàn trọn khúc thanh tao
Tiếng buông xé lụa lựa vào bốn dây
- Mời mọc mãi, thấy người bỡ ngỡ
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa
Vặn đàn mấy tiếng dạo qua
Dẫu chưa nên khúc tình đà thoảng bay
Tóm lại, với hai biểu hiện cơ bản của giọng điệu
trên đây, Tỳ bà hành (bản dịch) đã thực hiện trọn vẹn và thành
công chức năng thể loại ngâm khúc hình thức STLB của mình: diễn tả nội
tâm với nhiệm vụ trải lòng đau xót, sầu thảm.
3.2.4.2. Ngôn ngữ nôm na mà quý phái
Hiện tượng song
ngữ của Tỳ bà hành, như đã nói nó tạo nên hiện tượng liên văn bản
thú vị. Bản chữ Hán của Bạch Cư Dị có 616 chữ với 88 dòng, mỗi dòng 7 tiếng.
Phan Huy Thực dịch ra cũng 616 chữ, trong 88 dòng, thể STLB. Cũng có bằng ấy số
chữ được thể hiện, từ ý đến tình đều được diễn đạt trọn vẹn.
Ví dụ:
Bản Hán:
Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân
Tương phùng hà tất tằng tương thức
Ngã tòng khứ niên từ đế kinh
Trích cư ngọa bệnh Tầm Dương thành
Bản dịch Nôm là:
Cùng một lứa bên trời lận đận
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau.
Từ xa kinh khuyết bấy lâu,
Tầm Dương đất trích, gối sầu hôm mai.
Trong bản dịch Tỳ bà hành từ
Hán Việt xuất hiện với tần số không cao. Quan niệm như thế nào về từ
Hán Việt? Biện Minh Điền trong Phong cách nghệ thuật Nguyễn
Khuyến đã dẫn ra nhiều ý kiến của Bùi Đức Tịnh, Nguyễn Thiện Giáp,
Nguyễn Như Ý,… “Theo cách nhận diện đơn giản mà đảm bảo độ tin cậy, Phan Ngọc
cho rằng: một âm tiết Hán Việt là một âm tiết người Việt thấy có nghĩa nhưng
không thể hoạt động thành từ đơn tiết mà chỉ đóng vai trò một bộ phận để tạo
nên những từ đa nghĩa. Và ngược lại, bất kỳ âm tiết nào có thể hoạt động thành
từ đơn tiết đều được xem là từ thuần Việt. Phan Ngọc, công thức hóa thành: từ
đơn tiết (hình thức) = thuần Việt (nội dung). Trên cơ sở này, Lã Nhâm Thìn xác
lập từ đa tiết (hình thức) = Hán Việt (nội dung). Có thể xem đây như, theo cách
nói của Phan Ngọc, là các “mẹo cần thiết để công thức hóa các thao tác”, các
hình thức hóa gọn để giảm bớt thời gian lao động cho người nghiên cứu, khảo sát
các hiện tượng ngôn ngữ cụ thể, nhất là các hiện tượng ngôn ngữ văn học”.
Với quan điểm ấy, chúng tôi khảo sát Tỳ bà hành và nhận diện được một số từ Hán Việt, các danh từ như Giang
Châu, Tầm Dương, Hà Mô, Ngũ Lăng, Tư mã, Nghê thường, Lục yêu, tỳ bà, thiện
tài, đông tây…; các tính từ như: trọng lợi, ly cách,…
hoặc danh từ chuyển nghĩa sang tính từ như: xuân thu,…
Về từ láy, cũng như khái niệm về từ Hán
Việt, ở khái niệm này, chúng tôi xin chuyển dẫn ý kiến tống hợp và xác định
loại từ này qua công trình Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến của
Biện Minh Điền, trang 341, ông viết: “nhìn chung, quan niệm từ láy như là “sự
hòa phối ngữ âm giữa các yếu tố tương ứng của các âm tiết và có tác dụng biểu
trưng hóa”, “chuyên biệt hóa về nghĩa” đã khái quát được bản chất đặc trưng của
nó”. Theo Từ điển từ láy tiếng Việt, “Mỗi từ láy chứa đựng
trong mình một sự kiện rất tinh tế và sinh động về cảm thụ chủ quan, về cách
đánh giá và thái độ của người nói trước sự vật và hiện tượng của đời sống xã
hội”, nó là “phương tiện tạo hình đắc lực của văn học nghệ thuật, đặc biệt là
của thơ ca”.
Chúng tôi cho rằng hệ thống từ láy thể
hiện đậm đà tính dân tộc, nhờ thế mà tác phẩm gần hơn với dân gian hơn thể hiện
được tính cách và tâm trạng con người một cách vừa sâu sắc, vừa tự nhiên hơn.
Trên cơ sở đó, chúng tôi khảo sát các từ
láy trong bản dịch Tỳ bà hành, đối sánh với các tác phẩm hình thức
STLB khác qua bảng tổng hợp sau đây:
Dòng thơ
|
Số liệu thống kê
|
Tác phẩm
|
||||||
TDLHN - Hán
|
CPN
|
CON
|
TDLHN - Nôm
|
Bản dịch Tỳ bà hành
|
ATV
|
TTK
|
||
Câu thất trên
|
TS dòng
|
35
|
102
|
89
|
35
|
22
|
41
|
152
|
TS từ láy
|
5
|
13
|
31
|
12
|
5
|
21
|
35
|
|
Tỷ lệ %
|
4,1
|
3,6
|
9,9
|
9,8
|
6,5
|
14,6
|
6,6
|
|
Câu thất dưới
|
TS dòng
|
35
|
102
|
89
|
35
|
22
|
41
|
152
|
TS từ láy
|
4
|
25
|
24
|
6
|
10
|
10
|
31
|
|
Tỷ lệ %
|
3,3
|
7
|
7,7
|
4,9
|
13
|
7
|
5,8
|
|
Câu lục
|
TS dòng
|
35
|
102
|
89
|
35
|
22
|
41
|
152
|
TS từ láy
|
9
|
20
|
15
|
6
|
5
|
11
|
33
|
|
Tỷ lệ %
|
8,6
|
6,5
|
5,6
|
5,7
|
6,5
|
8,9
|
7,2
|
|
Câu bát
|
TS dòng
|
35
|
102
|
89
|
35
|
22
|
41
|
152
|
TS từ láy
|
4
|
26
|
20
|
7
|
10
|
16
|
37
|
|
Tỷ lệ %
|
2,9
|
6,4
|
5,6
|
5
|
13
|
9,8
|
6,1
|
Bảng tổng hợp:
Số liệu
thống kê
|
Tác phẩm
|
||||||
CPN
|
CON
|
TDLHN - Hán
|
TDLHN - Nôm
|
Tỳ bà hành
|
ATV
|
TTK
|
|
TS dòng thơ
|
408
|
356
|
140
|
140
|
88
|
164
|
608
|
TS từ láy
|
84
|
90
|
22
|
31
|
30
|
58
|
136
|
Tỷ lệ %
|
5,9
|
7,2
|
4,5
|
6,3
|
9,7
|
10,1
|
6,4
|
Qua bảng tổng hợp trên chúng tôi nhận thấy
ngoài Ai tư vãn chiếm tỷ lệ vượt trội về sự xuất hiện của từ
láy thì bản dịch Tỳ bà hành đứng liền ngay sau đó, nó vượt hơn
các tác phẩm hình thức STLB khác.
Nếu tính riêng, thì ở câu bát và câu thất
dưới, từ láy xuất hiện trong bản dịch Tỳ bà hành là cao hơn
cả.
Chức năng của từ láy trong Tỳ bà
hành được chúng tôi xác định ở ba cung bậc chủ yếu: từ láy miêu tả
không gian; từ láy miêu tả thời gian và từ láy miêu tả tâm trạng, sắc thái.
Chúng tôi nêu một số ví dụ.
Miêu tả không gian, gợi vẻ vắng ngắt đến
rợn người.
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu
Thời gian kéo dài ra:
Năm năm lần lữa vui cười
Mải trăng hoa chẳng đoái hoài xuân thu
Miêu tả tâm trạng:
Nghe não nuột mấy dây
buồn bực
Dường than niềm tấm tức bấy
lâu
Trong đó, từ láy diễn tả tâm trạng chiếm
số lượng áp đảo hơn từ láy miêu tả không gian và thời gian.
3.2.5. Nghệ thuật tổ chức câu thơ,
dòng thơ
Trước hết, đặc điểm của câu thơ Tỳ bà hành là câu thơ điệu ngâm. Phan Huy Dũng khẳng định thể loại ngâm
khúc hình thức STLB nói riêng và các thể loại thơ Việt Nam trung đại
nói riêng đều sử dụng câu thơ điệu ngâm, trên cơ sở đó, chúng tôi khẳng định,
câu thơ của bản dịch Tỳ bà hành cũng vậy. Hệ quả câu thơ điệu
ngâm mang đến những biểu hiện cơ bản sau đây:
Lời nói không nhấn mạnh chủ ngữ, không
đánh dấu lời nói, biểu hiện ít có dấu hiệu ngữ điệu, tất cả điều đó làm cho lời
thơ trừu tượng như không phải là lời của ai cả mà là lời của vũ trụ.
Nghe não nuột khác tay đàn trước
Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi
Lệ ai chan chứa hơn người
Giang Châu Tư mã đượm mùi áo xanh
Lời thơ không có tính liên tục và không có
ý vị của lời nói tự nhiên mà như đường nét màu sắc của bức tranh được sắp xếp
đặc biệt, từ ngữ trong bài được nối nhau theo các quy luật siêu ngôn ngữ, như
đối, niêm, vận, số chữ cố định, số câu hạn chế. Câu thơ hầu như bị tẩy sạch các
hư từ trỏ quan hệ lời nói, âm điệu thơ được tạo bằng sự phối hợp chặt chẽ các
thanh bằng, trắc trầm bỗng.
Say những luống ngại khi chia rẽ,
Nước mênh mông đượm vẻ gương trong
Đàn ai nghe vẳng bên sông
Chủ khuây khỏa lại, khách dùng dằng xuôi
Việc giảm bớt vai trò của lời nói đi đôi
với việc tăng cường vai trò của yếu tố hoạ trong thơ. Người đọc chủ yếu không
phải lắng nghe lời nói trong thơ mà là lắng nghe các ý vị của hình ảnh, tình
điệu, của sự vật, của hình ảnh.
Thuyền mấy lá đông
tây lặng ngắt
Một vầng trăng trong
vắt lòng sông
Ngậm ngùi đàn bát xếp
xong
Áo xiêm khép nép hầu
mông giãi lời
Thứ hai, là nghệ
thuật tổ chức câu thơ, dòng thơ: xét về nghệ thuật tổ chức
câu thơ, dòng thơ, chúng tôi lưu ý ở phương diện đối của nó.
Nghệ thuật đối kể cả lối bình đối (đối cách cú) và tiểu đối (đối vế trong dòng
câu) đều được vận dụng với tần số khá cao. Theo thống kê của Thuần
Phong [chuyển dẫn từ 13], trong Chinh phụ ngâm khúc nếu tính
các hình thức tiểu đối có 41 câu, bình đối 104 câu, đối
cách đoạn 48 câu, tổng cộng 193 câu trên 408 câu, chiếm tỷ lệ khoảng 20%.
Trong Cung oán ngâm cũng theo cách tính như vậy, có tổng cộng
63/356 câu chiếm tỷ lệ xấp xỉ 20%. Chúng tôi thống kê thêm ở Tự tình
khúc, bình đối 74 câu, tiểu đối 54 câu, tổng cộng có 128 /608 câu, tỷ
lệ gần 21%; ở Ai tư vãn có 1 bình đối và 9 tiểu đối, tổng cộng
10 /164 câu chiếm 6% và Thu dạ lữ hoài ngâm - Nôm là 4/140
câu, tỷ lệ 2 %. Và ở bản dịch Tỳ bà hành có 11 lần Phan Huy
Thực sử dụng cả bình đối lẫn tiểu đối/ 88 câu chiếm 12,5% một tỷ lệ vừa phải.
Chúng tôi chọn một số
câu minh họa:
- Vành lược bạc gãy tan nhịp gõ,
Bức quần hồng, hoen ố rượu rơi
- Ôm sầu mang giận ngẩn
ngơ
- Trước Nghê
thường, sau thoắt Lục yêu
- Khách trọng
lợi, khinh đường ly cách
- Bình bạc
vỡ tuôn đầy dòng nước
Ngựa sắt giong,
xô xát tiếng đao
- Người lên
ngựa, khách dừng chèo
- Chong đèn,
thêm rượu còn dành cuộc vui
- Mày chau
tay gãy khúc sầu
- Chủ khuây
khoả lại, khách dùng dằng xuôi
- Hoa xuân
nở, nguyệt thu tròn
- Lau vàng, trúc võ âm
thầm quanh hiên, v.v…
3.3. Một số kết luận
Cùng tham gia vào đời
sống văn học Việt Nam trung đại thơ dịch với tư cách là một hiện tượng đồng
sáng tạo, Phan Huy Thực đã chọn thể loại thuần Việt truyền thống, STLB để
chuyển thể bài thơ cổ phong Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị từ chữ
Hán sang chữ Nôm. Dấu ấn thành công về mặt thể loại của nó thể hiện rõ nét như
chúng tôi đã phân tích ở trên.
Hơn thế, chúng ta cần
khẳng lại với nhau rằng: Tỳ bà hành bản dịch với thể STLB mang
đầy đủ chức năng và thi pháp thể loại ngâm khúc hình thức STLB như những tác
phẩm cùng thời đã quen thuộc với nhiều người: Cung oán ngâm khúc (Nguyễn
Gia Thiều), Chinh phụ ngâm khúc (bản dịch của Đoàn Thị Điểm?),
Ai tư vãn (Lê Ngọc Hân?), hay Thu dạ lữ hoài
ngâm (Đinh Nhật Thận), Tự tình khúc (Cao Bá Nhạ),…
Vị trí của Tỳ bà hành bản dịch đã được khẳng định, sức sống của nó đã được thời gian
kiểm định. Đi vào tìm hiểu, nghiên cứu nó là vấn đề không phải dễ. Chúng tôi
đã cố gắng tìm hiểu, xác định đặc trưng chức năng, nội dung và thi pháp thể
loại bằng những khảo sát từ thực tế khách quan. Song, chúng tôi tự nhận thấy
những cố gắng trên đây mới chỉ là bước đầu. Vấn đề thú vị, nhiều ý nghĩa này,
đòi hỏi công sức của nhiều nhà nghiên cứu. Chúng tôi hy vọng tiếp tục tìm hiểu
sâu hơn trong các bài viết tiếp theo, ở một cấp độ cao hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Phan Huy Dũng, Bài giảng:
Ngôn ngữ thơ, Đại học Vinh, Nghệ An, 2007.
2. Biện Minh Điền, Phong
cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội,
2008.
3. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử -
Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 2007.
4. Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn
học sử yếu, Bộ Giáo dục Quốc gia, Sài Gòn. 1968
5. Đỗ Đức Hiểu - Nguyễn Huệ Chi -
Phùng Văn Tửu - Trần Hữu Tá (chủ biên), Từ điển văn học (Bộ
mới), Nxb Thế giới, Hà Nội, 2003.
6. Nguyễn Thái Hòa, Từ
điển tu từ - phong cách - thi pháp học, Nxb Giáo dục,
Hà Nội, 2003.
7. Phan Ngọc, Thử xét văn
hóa - văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb Thanh niên, Hà Nội,
2000.
8. Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn
học sử giản ước tân biên, tập 2: Văn học lịch triều Việt văn, Nxb
Đồng Tháp, Đồng Tháp, 1997.
9. Phan Diễm Phương (1998), Lục
bát và song thất lục bát (Lịch sử phát triển và đặc trưng thể loại), Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
10. Trần Lê Sáng - Phạm Kỳ Nam (biên
soạn), Hợp tuyển ngâm khúc Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội,
2005.
11. Trần Đình Sử (tổng chủ
biên), Ngữ văn 10 (Bộ nâng cao), tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
2006.
12. Trần Đình Sử, Mấy vấn
đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999.
13. Trần Đình Sử, Thi pháp
Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002.
14. Trần Minh Thương, Chất
dân gian trong ngôn từ của tác phẩm “Cung oán ngâm khúc”, Tạp chí Ngôn
ngữ và đời sống, số 4 (162), Hà Nội. 2009.
15. Trần Minh Thương, Điển
tích qua các tác phẩm ngâm khúc hình thức song thất lục bát trong văn học Việt
Nam trung đại, Tạp chí Ngôn ngữ, số 5 (240), Viện Khoa học Xã
hội Việt Nam, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội, 2009.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét