Nhân Văn Giai Phẩm phần VI:
Trí thức và dân chủ tại Việt Nam trong thế kỷ XX, một truyền thống đấu tranh từ Phan Châu Trinh, Hoàng Đạo đến Nhân Văn Giai Phẩm. (Bài 1)
Trí thức và dân chủ tại Việt Nam trong thế kỷ XX, một truyền thống đấu tranh từ Phan Châu Trinh, Hoàng Đạo đến Nhân Văn Giai Phẩm. (Bài 1)
Từ trái sang phải và từ trên xuống dưới:
Phan Châu Trinh -
Hoàng Đạo - Phan Khôi
Nguyễn Mạnh Tường (Ảnh: DR)
Bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi là văn bản
"hỏi tội triều đình" trực tiếp và gay gắt nhất, mà cho đến nay chưa một
trí thức nào dám làm. Văn bản này sẽ mãi mãi trụ lại như một bài văn tiêu biểu
cho sự can trường của một nhà trí thức hiện đại trong thế kỷ XX, trước sự độc
tài của một thể chế, không khác gì các sớ dâng vua trảm tấu bọn gian thần thời
phong kiến
Những bài viết chủ yếu trong Nhân Văn Giai Phẩm gồm hai loại:
Loạt bài chính luận trực tiếp định hướng tư tưởng của
các nhà trí thức và loạt bài sáng tác dấn thân nói lên khát vọng tự
do của các văn nghệ sĩ. Hai thể loại này đan cài và bổ sung cho nhau, tạo
nên làn sóng đấu tranh toàn diện cho tự do dân chủ và tự do tư
tưởng.
Trí thức trong vị trí dẫn đường, được xếp vào loại A. Văn
nghệ sĩ, ít "nguy hiểm" hơn, loại B (nhật ký Trần Dần ghi, trang
245).
Vì trí thức và dân chủ là hai trục
chính: trí thức dẫn đường và dân chủ là mục đích đấu tranh, cho
nên trước khi phân tích nội dung tranh đấu của phong trào NVGP, chúng ta cần phải
tìm hiểu hai khái niệm chủ chốt: Thế nào là trí thức? Thế nào là dân chủ? Hai
khái niệm này giữa địa vị như thế nào ở Việt Nam trước và trong thời kỳ NVGP?
Trong điều kiện tư liệu hiện nay, Nguyễn Mạnh Tường là nhà
trí thức duy nhất đã để lại những trang viết mà ngày nay chúng ta có thể dựa
vào như một tư liệu chính trị, xã hội, phản ảnh vai trò của người trí thức
trong giai đoạn đấu tranh cho tự do dân chủ những năm 50 ở miền Bắc.
Phan Châu Trinh và dân trị chủ nghĩa
Khái niệm tự do dân chủ phát xuất từ Tây phương, nhưng trái với
một số lập luận cho tới ngày nay, vẫn còn cho rằng tự do dân chủ không phù hợp
với tinh thần phương Đông nói chung và không thể áp đặt cho Việt Nam nói riêng.
Sự thực khác hẳn, tự do dân chủ không xa lạ gì với người Việt,
bởi: "Khái niệm tự do dân chủ đã theo chiến hạm Pháp nhập vào nước ta
từ cuối thế kỷ XIX" (Hoàng Đạo).
Phan Châu Trinh (Ảnh: DR)
Phan Châu Trinh là người đầu tiên chủ trương chống Pháp bất bạo
động, nâng cao dân trí và xây dựng một thể chế dân chủ pháp trị.
Từ Pháp trở về Việt Nam năm 1925, cuối năm 1925, Phan
Châu Trinh đọc hai bài diễn văn tại Hội Thanh niên Sài Gòn: Quân trị chủ
nghiã và dân trị chủ nghiã và Đạo đức và luân lý Đông Tây. Bài Quân
trị chủ nghiã và dân trị chủ nghĩa, là luận văn cơ bản giải thích thế nào là
quân chủ và thế nào là dân chủ, chia làm ba phần.
Phần đầu, Phan Châu Trinh xét bốn nước Á Đông Tàu, Nhật, Cao
Ly [Triều Tiên] và Việt Nam, có cùng một nền văn hóa gốc, ông viết:
"Lạ là trong cái xứ Á Đông này có bốn nước đồng
văn, mà đồng sùng cái quân chủ chánh thể, mà đồng tự xưng là sùng thượng nho
giáo, vậy mà làm sao từ hồi cái văn minh bên Âu Châu tràn sang cõi Á Đông đến
nay, thì chỉ có người Nhật Bản bỏ ngay cái học cũ mà làm theo lối mới
(...) thì sự giàu mạnh ngó thấy liền trước mắt, chừng trong bốn mươi năm thì đã
sánh vai với liệt cường (...)
Còn chỉ chừa có ba nước là Tàu, nước Cao ly và An nam ta, dân
thì nghèo, nước thì yếu, cái phần người dốt nát trong nước thì chiếm 80 phần
trong một trăm. Còn gọi là người thượng lưu, trung lưu, chẳng qua là bọn bát cổ [khoa
bảng] đã chiếm hai phần ba, thiệt chẳng biết cái nho học là gì, mà cũng nhắm
mắt lại chê càn cái văn minh mới là mọi rợ!
Nhưng mà nay cái phong trào [dân chủ] trong thế giới
nó mãnh liệt lắm: ai thuận theo nó mà đi thì thuận buồm xuôi gió, ai không thuận
theo nó thì cũng bị xô đẩy mà đổ lướt đi như rác cỏ" (Pháp Việt liên
hiệp hậu tri tân Việt Nam (Nước Việt Nam mới sau khi Pháp Việt liên hiệp) trích
tuyển tập Phan Châu Trinh do Nguyễn Văn Dương biên soạn (nxb Đà Nẵng 1995,
trang 793-794).
Phan Châu Trinh đã thấy rõ hiệu quả dân chủ của nước Nhật.
Trong phần thứ nhì, ông nhìn lại chủ nghiã quân trị (chế
độ quân chủ) từ thời tiên Tần đến thế kỷ XX: Quân trị tàn ác đốt sách đời Tần,
quân chủ chuyên chế khôn khéo ở Á đông, và ông định nghĩa: quân trị là
nhân trị (cai trị bởi một người), là một nước có luật pháp nhưng do một
ông vua làm nên, dân chẳng biết gì.
Và trong phần thứ ba, Phan Châu Trinh bàn đến chủ nghiã
dân trị (chế độ dân chủ): Theo ông, điều đáng lo ngại nhất ở nước ta là
dân trí kém, ở các nước khác trên thế giới, chỉ cần có một ít ảnh hưởng văn
minh Âu Châu là người ta hiểu ngay được thế nào là tự do tư tưởng, tự do ngôn
luận, vấn đề dân chủ, dân trị.
Đối với người Việt Nam đầu thế kỷ XX, vì trình độ dân trí còn
kém, Phan Châu Trinh cắt nghiã ngắn gọn cho mọi người hiểu: dân trị là cứ bảy
năm người dân bàu lại ông Giám quốc (Tổng thống) một lần, còn quân chủ, vua là
cha truyền con nối. Dân trị có nghị viện do dân bàu lên, giữ quyền lập pháp.
Quyền hành pháp giao cho quan tòa, thuộc ngành tư pháp, ở trong chính quyền
nhưng có vị trí độc lập. Phan Chu Trinh kết luận: "Nói tóm lại, dân
trị tức là pháp trị. Quyền hạn và bổn phận của mỗi người trong nước, bất kỳ người
làm việc nhà nước hay là người thường, đều có pháp luật chỉ định rõ ràng, không
khác gì là đã có đường gạch sẵn, cứ trong đường ấy mà đi, tự do muốn bước tới
bao nhiêu cũng được, không ai ngăn trở cả. Chỉ trừ khi nào xâm lấn đến quyền hạn
của người khác thì không được mà thôi".
Như vậy ngay từ 1925, Phan Châu Trinh đã cắt nghiã rõ ràng và
ngắn gọn, những điều căn bản A, B, C, về vấn đề dân chủ. Và ông mắng thẳng
"bọn bát cổ [khoa bảng], thiệt chẳng biết cái nho học là gì, mà cũng
nhắm mắt lại chê càn cái văn minh mới là mọi rợ!"
Đáng buồn là gần một thế kỷ đã trôi qua, ngày nay vẫn còn có
những "trí thức bát cổ" nói: "dân chủ là ý niệm của Tây
phương", "tự do là muốn làm gì thì làm", "các đảng đối lập
là phản động", may mà cụ Phan mất đã hơn 90 năm, nếu cụ còn sống, không biết
cụ sẽ nói sao với những "giáo sư", những "trí thức" này!
Con đường giáo dục dân chủ quần chúng được Phan
Châu Trinh đề ra từ năm 1925, hơn mười năm sau, Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long, tiếp
tục kêu gọi việc giáo dục quyền công dân, quyền làm người, và ông đứng
trên bình diện một nhà luật học, sử dụng quyền tự do dân chủ, để tranh đấu bằng
ngòi bút với người Pháp.
Hoàng Đạo và dân chủ
Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long, em Nhất Linh Nguyễn Tường Tam và
cũng là một trong những người lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng, là nhà văn đầu
tiên đã xử dụng quyền tự do dân chủ một cách có hệ thống để chống lại
chế độ thuộc địa Pháp.
Hoàng Đạo là người đứng ở hàng sau,
vị trí thứ ba tính từ
trái sang phải. (Nguồn: damau.org)
Một trong những ngòi bút chính của Tự Lực Văn Đoàn, xuất thân
luật gia, ông đỗ vào trường Luật Đông Dương, Hà Nội, năm 1924 và tốt nghiệp năm
1927. Ngay từ 1933, trên Phong Hoá, dưới bút hiệu Tứ Ly, ông đã viết những bài
châm biếm đả kích toàn bộ hệ thống quan lại của chính quyền thuộc địa và bài trừ
hủ tục trong xã hội Việt Nam. Trên báo Ngày Nay, từ 1937 đến 1939, Hoàng Đạo
hoàn tất những hồ sơ lớn về Vấn đề thuộc địa, Vấn đề cần lao, Công dân giáo
dục, nội dung phê phán chính quyền thuộc địa, chỉ trích sự vi phạm nhân
quyền trong chính sách đánh chiếm thuộc địa của người da trắng, chỉ trích sự vi
phạm luật lao động trong chính sách mộ phu và cổ động việc giáo dục công dân về
dân quyền và nhân quyền. Tất cả loạt bài này căn bản đều dựa trên tự do
dân chủ, quyền làm người, luật lao động, quyền công dân, thoát thai từ
tinh thần cách mạng 1789 của Pháp.
Trước thực tại Việt Nam đầu thế kỷ XX, một nước bị mất chủ
quyền, một dân tộc bị Pháp đô hộ, vậy vấn đề đầu tiên cần nói với người Pháp là
gì? Hoàng Đạo trả lời: Là vấn đề thuộc địa.
Sau khi nhắc lại lời Montesquieu: “lập ra thuộc địa, cốt là để
có nơi buôn bán có lợi hơn là buôn bán với các nước láng giềng”, Hoàng Đạo
đánh thẳng vào sự phân biệt kỳ thị giữa mẫu quốc và người bị trị: "Những
dân bản xứ, vì khác loài, khác giống, da đỏ, da đen, mũi tẹt, môi dầy, đều bị
coi là một hạng nửa người nửa thú, không đáng đứng ngang hàng với dân mẫu quốc
về hết thẩy phương diện". Rồi ông nhấn mạnh: "Họ chịu làm
thuộc địa chỉ là một sự bất đắc dĩ, sau một cuộc tàn sát khốc hại. Họ phải lùi,
bó tay hàng trước sức mạnh.” (Vấn đề thuộc địa, Thuộc địa Ký ước, Ngày Nay
số 74, 29/8/1937).
Với những người Pháp yêu chuộng tự do dân chủ, Hoàng Đạo gửi
tới họ những khát vọng của dân Việt: “Người Nam chỉ ao ước một điều: là được những sự
tự do của nền dân chủ và được dần dà coi ngó, đảm đang lấy việc công trong
nước của họ. Ngày nào dân Annam có quyền, trong sự tự do, tự kén chọn lấy
những người cầm quyền cai trị họ, ngày ấy nguyện vọng của người Nam đã đạt được
nhiều rồi vậy” (Vấn đề thuộc địa, Thuộc địa Pháp - Chính sách, Ngày Nay số
80, 10/10/1937).
Kết tội chính sách thuộc địa dã man của Anh, Tây Ban Nha,
Hoàng Đạo nhắc người Pháp rằng chính sách thuộc địa của họ là bất hợp pháp và
nếu họ không thay đổi chính sách cai trị thì người Việt sẽ nổi lên chống lại.
Loạt bài Vấn đề thuộc địa, tổng hợp những lý luận chặt
chẽ, kiến thức uyên bác, tầm nhìn rộng về thế giới bên ngoài, về lịch sử chinh
phục thuộc địa, về sự tiến hóa của luật pháp.
Trong bức thư ngỏ gửi cựu toàn quyền Varenne, về chỉ dụ báo
chí 4/10/1927, Hoàng Đạo viết:
"Tôi không cần phải nhắc lại rằng đạo chỉ dụ ấy đã bắt
các báo chí ở đây [tức ở là Trung và Bắc, Nam kỳ được hưởng quyền tự do
báo chí như ở các nước thuộc địa cũ] phải xin phép mới được xuất bản và
phép cho xuất bản chính phủ muốn thu về lúc nào cũng được. Tôi không cần phải
nói đến tệ hại của chế độ ấy, tôi đã nói nhiều rồi (...)
Muốn rửa sạch cái tiếng không hay đã đem tên ông đặt vào cái
chỉ dụ 1927, ông chỉ còn có một phương pháp, là đem hết tài lực của ông mà xin
hủy bỏ cái chế độ không hợp với trình độ của dân tộc Việt Nam ấy đi,
để chúng tôi được hưởng một chút tự do, một chút quyền lợi về chính trị mà
ông bảo phải đi đôi với công việc giáo hóa" (Thư ngỏ cho ông cựu toàn
quyền Varenne, Ngày Nay, số 130, 1/10/38).
Hoàng Đạo không chỉ đòi tự do dân chủ cho người Việt, mà ông
đòi hỏi tự do, dân chủ, nhân quyền cho toàn bộ những dân tộc bị trị trên thế giới.
Khi đối đầu với người Pháp, Hoàng Đạo, luôn giữ thái độ bình đẳng của người
đòi hỏi người, của một dân tộc đòi hỏi một dân tộc khác: Ông khẩn thiết
yêu cầu nước Pháp, một nước tự nhận là quê hương, là nguồn cội của Nhân
quyền, hãy áp dụng cái Nhân quyềnấy ở Việt Nam.
Về vấn đề cần lao, phản đối tình trạng người lao động bị bóc
lột ở Việt Nam nói riêng và người bóc lột người ở thời đại kỹ nghệ
phát triển nói chung, Hoàng Đạo viết: "Người ta đem phủ một lượt tro lên sự
đốn mạt người bóc lột người. Người ta đem những danh hiệu mới, như tờ cam đoan,
tờ giao kèo, lao công cưỡng bách, để che đậy sự thực” (Vấn đề cần lao, Nô
lệ trá hình, Ngày nay, số 133, 22/10/38).
Ông phân tích và đứng trên bình diện luật pháp để
phê phán những bất cập, phạm pháp trong các chế độ: Lao công cưỡng bách (mộ
phu đi rừng cao-su), luật xã hội, luật lao động, vấn đề thanh tra và nghiệp
đoàn...
Loạt bài Công dân giáo dục (viết năm 1939), nhắm
vào sự giáo dục dân chủ, Hoàng Đạo giải thích cho người Việt hiểu quyền
lợi và trách nhiệm của người công dân trong một nước dân chủ, khác với
bổn phận một thần dân dưới thời phong kiến: Muốn được tự do, muốn có
dân chủ, thì người dân trước hết phải tự ý thức được cái giá phải trả cho tự
do, dân chủ, tức là phải ý thức được sự trưởng thành, độc lập của mình, phải hiểu quyền
công dân và trách nhiệm của người công dân. Hoàng Đạo viết: “Ý tưởng
công dân là một ý tưởng mới. Cùng với những ý tưởng khác, có sức mạnh vô cùng,
ý tưởng tự do bình đẳng, nhân đạo, công lý, ý tưởng công dân vì một tình cờ
trong lịch sử đã theo chiến hạm Pháp nhập vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ
trước” (Công dân giáo dục, Ngày Nay số 160, 6/5/39).
Trong loạt bài này, Hoàng Đạo giải thích rõ ràng các khái niệm
mấu chốt: Hiến pháp, Nhân quyền, Tự do, Ý nghiã cuộc cách mệnh Pháp, Tự
do cá nhân, Tự do tư tưởng, Tự do ngôn luận, Tự do hội họp, Tự do lập hội,
Tự do chính trị.
Như vậy, khái niệm tự do dân chủ đã truyền vào Việt Nam từ cuối
thế kỷ XIX, với đoàn quân viễn chinh Pháp, và được mở rộng, dưới thời Pháp thuộc,
qua ngả học đường, tạo thành một lớp trí thức tân học, đấu tranh cho dân chủ bằng
ngòi bút, một lớp văn nghệ sĩ mới, xây dựng nên nền văn học quốc ngữ.
Tình hình Việt Nam khác với tình hình Trung Hoa: Người Hoa
không bị Tây Phương đô hộ, họ không tiếp nhận tinh thần tự do dân chủ ở học đường
như người Việt. Cho nên không thể máy móc chép lại lập luận của người Tàu
"Dân chủ là một khái niệm của Tây phương không phù hợp với tinh thần Đông
phương" để áp dụng cho người Việt. Lập luận đó, vừa hạ thấp trình độ của
người dân Việt và trí thức Việt trước các dân tộc khác, lại vừa sai lầm, không
đúng với thực tế vì nếu chúng ta nhìn lại quá trình đấu tranh cho tự do
dân chủ của người trí thức Việt Nam qua lý luận pháp luật,từ
Hoàng Đạo, thời Pháp thuộc, Nguyễn Mạnh Tường thời NVGP, đến các luật gia trẻ
thời nay như Lê Thị Công Nhân, Lê Công Định... Việc đấu tranh do dân chủ ở
Việt Nam là một truyền thống có từ đầu thế kỷ XX, từ Phan Châu Trinh đến ngày
nay, qua những giai đoạn lịch sử khác nhau.
Nguyễn Mạnh Tường
Sau Hoàng Đạo, Nguyễn Mạnh Tường là người dùng lý lẽ luật
pháp để phê bình những sai lầm về mọi mặt trong chính sách cai trị thiếu
dân chủ của đảng Lao Động, đặc biệt trong bài tham luận "Qua những
sai lầm trong cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo" đọc
trước Mặt trận tổ quốc ngày 30/10/1956 trong thời kỳ NVGP.
Hai giáo sư Nguyễn Mạnh Tường (T)
và Hoàng Xuân Hãn (P) tại
Paris năm 1989
(Ảnh: DR)
Sau này, Nguyễn Mạnh Tường để lại hai tác phẩm quan trọng, viết
bằng tiếng Pháp, cuốn Un Excommunié (Kẻ bị khai trừ), viết về ba
"đấu trường" mà ông phải trải qua sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm, và cuốn
tiểu thuyết Une voix dans la nuit, roman sur le Viet nam 1950-1990-1993, (Tiếng
vọng trong đêm, tiểu thuyết về Việt Nam những năm 1950-1990-1993), tóm tắt lịch
sử cận đại, xuyên qua ba chặng khốc liệt nhất: Cải cách ruộng đất ở
thôn quê, Cải cách bất động sản ở Hà Nội, và Chính sách đối với
trí thức. Nội dung những tác phẩm này sẽ được đề cập đến sau, ở đây chúng
tôi chỉ giới thiệu đoạn ông viết về khái niệm tự do dân chủ trong
lòng trí thức Việt Nam thế kỷ XX trong chương Le problème des
intellectuels (Vấn đề người trí thức):
Trước hết, Nguyễn Mạnh Tường định nghiã thế nào là trí
thức?
Dùng lời một cán bộ cao cấp, thân cận với giới trí thức, báo
cáo lên Tổng Bí Thư, (có thể hiểu như lời Trường Chinh nói với Hồ Chí Minh),
Nguyễn Mạnh Tường viết:
"Tôi muốn nói những nhà trí thức đích thực, đối cực của
thứ trí thực giả hiệu ngực phồng những phẩm hàm, những bằng cấp thật giả không
sao biết được. (...)
Ở những nhà trí thức đích thực, nhân cách đi đôi với
văn hoá. Văn hóa ở đây không có nghiã là kiến thức. Có những người đầy kiến thức,
là chuyên viên hàng đầu trong địa hạt hoạt động của mình, nhưng họ vẫn vô văn
hoá, bởi lối nhìn về con người, về vạn vật của họ ấu trĩ vô cùng. Sự nhận thức
thực tế xã hội và con người của họ ngây ngô lạ lùng!
Họ thiếu cái gì? Thiếu sự phán đoán được rèn luyện qua sách vở,
thiếu sự giao tiếp với con người, thiếu tiếp cận những vấn đề của cuộc sống,
thiếu trao đổi tư tưởng với người khác, thiếu sự suy nghĩ sâu xa và đúng đắn về
những thành công và thất bại mà kinh nghiệm sống đem lại". (trích dịch
Nguyễn Mạnh Tường, Une voix dans la nuit, roman sur le Viet nam
1950-1990-1993, Tiếng vọng trong đêm, tiểu thuyết về Việt Nam những năm
1950-1990-1993), bản đánh máy, chưa in).
Đó là một định nghĩa trí thức của Nguyễn Mạnh Tường qua
lời một cán bộ cao cấp cộng sản. Và đây là vị trí của người trí thức đích thực
trong xã hội Việt nam từ xưa đến nay:
"Nhờ nhân cách và văn hoá mà người trí thức, trung quân
trong thời phong kiến, có uy tín đối với quần chúng và được vương quyền nể trọng.
Sau khi thi đỗ, ra làm quan cai trị dân là họ hoàn tất nhiệm vụ của mình.
Trong thời Pháp thuộc, giai cấp quan lại bị mất uy tín
vì sa vào vòng thối nát hối lộ, mất đi cái hào quang xưa, trở thành cái bia cho
báo chí và quần chúng chế giễu, phỉ báng.
Nhưng lớp trí thức mới được đào tạo từ những trường hay đại học
Pháp, lại được hưởng niềm tin và kính trọng của quần chúng mà lớp trí thức xưa
để lại. Thêm một sự kiện mới nữa: Những nhà trí thức tân học đích thực này
đã tiếp nhận tinh thần dân chủ Pháp thoát thai từ cách mạng 1789. Họ không xa lạ
gì với vấn đề nhân quyền.
Thưa đồng chí Tổng bí thư, cái nguy hiểm là ở chỗ
đó: Con trùng dân chủ và nhân quyền đã thấm vào máu, nhất là tầng lớp quan
lại xuất thân từ đại học Luật mới mở những năm gần đây. Dĩ nhiên có người vẫn
còn chịu ảnh hưởng truyền thống cũ, có người là nạn nhân những di tật người trước
để lại, nhưng trong đáy lòng họ, vẫn le lói ngọn lửa dân chủ". (Trích
dịch Nguyễn Mạnh Tường, Une voix dans la nuit - Tiếng vọng trong đêm)
Mượn lời một cán bộ cao cấp báo cáo tính hình trí thức lên vị
Tổng bí thư về mối hiểm nguy của tinh thần dân chủ trong người trí thức
tân học, tinh thần đó đã đi vào máu, đã ở trong tim họ, để vị tổng bí
thư tìm cách đối phó, Nguyễn Mạnh Tường muốn phản ảnh hai thực tại:
- Những người lãnh đạo cộng sản hiểu rõ vấn đề trí thức và
dân chủ hơn ai hết. Họ phân biệt hai loại: trí thức thật và trí thức giả.
Trí thức giả là bọn bồi bút, để chính quyền sai bảo, và trí thức thật, có uy
tín với quần chúng, mới là những người mà Đảng cần phải thanh trừng, bởi
đó là mối hiểm nguy: họ mang trong người tinh thần dân chủ, họ chống lại
chính sách độc tài đảng trị và họ chuyên chở ý thức tự do cá nhân, chống lại chủ
nghiã tập thể, đó là những điểm mà những nhà lãnh đạo cộng sản không
thể chấp nhận được.
Nhờ sự giải thích của Nguyễn Mạnh Tường trong tiểu thuyết Tiếng
vọng trong đêm, mà chúng ta có thể hiểu rõ hơn phương pháp và mục đích đấu
tranh của phong trào NVGP, hiểu được mức hậu thuẫn sâu xa của quần chúng đối với
phong trào và hiểu sự đàn áp của chính quyền cộng sản đối với trí thức văn nghệ
sĩ tham gia NVGP.
Dập tắt được phong trào Nhân Văn Giai Phẩm tức
là dẹp tan tinh thần tự do dân chủ và nghiền nát tầng lớp trí thức
đích thực, chỉ để lại những "trí thức" lo "sống sót đến
ngày nay là vì biết sợ" như lời Nguyễn Tuân. Tinh thần dân chủ
đã bị "đánh tận gốc, trốc tận rễ" từ năm 1958, cùng với sự
trù dập những thành viên của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm và ngày nay không dễ
gì xây dựng lại được.
Sự đấu tranh cho tự do dân chủ trên Nhân Văn và Giai Phẩm
Nguyễn Hữu Đang đặt trọng tâm chính trên vấn đề tự do dân chủ
trên báo Nhân Văn. Trong ba số đầu, ông thực hiện cuộc phỏng vấn ba nhà trí thức
danh tiếng, không thuộc nhóm Nhân Văn: Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh và Đặng
Văn Ngữ về vấn đề mở rộng tự do dân chủ.
Bìa tập Giai Phẩm Mùa Thu tập I có đăng bài
"Phê bình
lãnh đạo văn nghệ" của Phan Khôi
Nhìn lại nội dung hai số báo Nhân Văn và Giai
Phẩm đầu tiên, chúng ta có thể thấy một sự phân chia nội dung rất hợp lý:
Bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ, của Phan Khôi đi tiên
phong trên Giai Phẩm mùa thu tập I, như ngọn đuốc dẫn đường.
Trên Giai phẩm mùa thu tập 1 (30/8/56) còn có truyện
ngắn Tiếng sáo tiền kiếp của Trần Duy, một trong những truyện ngắn
hay nhất thời NVGP, nói lên sự bất lực của chính sách tẩy não: không ai có thể
tịch thu quá khứ con người. Bức thư gửi một người bạn cũ của Trần Lê
Văn mô tả một chân dung bồi bút. Bài thơ Tỉnh giấc chiêm bao của Nguyễn
Bính thuật lại sự thức tỉnh của một nghệ sĩ sau 9 năm theo cách mạng.
Trên Nhân Văn số 1 (30/9/56), bài Nhân câu chuyện mấy
người tự tử của Lê Đạt là một bài xã luận bằng thơ đả phá chế độ công an
trị. Bài Con người Trần Dần của Hoàng Cầm kể lại bi kịch của một nhà
thơ trẻ, chỉ in có một bài thơ trên báo với nội dung yêu nước, mà bị bắt đi
trong một bối cảnh tăm tối, không biết bị giam giữ ở đâu, có thể bị thủ tiêu,
đó là một bản cáo trạng thống thiết về tình trạng bắt bớ giam người trái phép,
vô luật pháp. Tranh Nguyễn Sáng khắc lại hậu quả của sự khủng bố trên con người
Trần Dần.
30/9/1956, cùng ngày phát hành Nhân Văn số 1, Giai phẩm
mùa thu, tập II xuất hiện với những bài: Bệnh sùng bái cá nhân trong
giới lãnh đạo văn nghệ của Trương Tửu, Ông Bình Vôi của Phan
Khôi, Những người khổng lồ của Trần Duy, Thơ cái chổi - Chống
tham ô lãng phí của Phùng Quán, Cũng những thằng nịnh hót của Hữu
Loan, Em bé lên sáu tuổi của Hoàng Cầm, Cuốn sổ tay của Lê
Đại Thanh,... Đây là số báo mạnh mẽ nhất từ trước đến giờ về mặt chống đối chế
độ.
Trần Đức Thảo, trên Nhân Văn số 3 (15/10/1956) trong
bài Nỗ lực phát triển dân chủ, nhấn mạnh đến sự tự do của người trí thức: "Người
trí thức hoạt động văn hoá, cần tự do như khí trời để thở. Có tự do mới đẩy mạnh
được sáng tác văn nghệ, nghiên cứu khoa học, cải tiến kỹ thuật. Phát triển tự
do là nhu cầu thiết thân đồng thời cũng là nhiệm vụ số 1 của người trí thức
cũng như của toàn dân".
Học giả Đào Duy Anh, trong bài Muốn phát triển học thuật,
trên Giai phẩm mùa thu tập III (30/10/56), nêu lên hai căn bệnh nặng
nhất trong học thuật là bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân: "... người
ta, vô luận bàn về vấn đề gì, cũng đều phải bắt đầu dẫn những đề án của
Mác-Ăng-ghen và Lê-nin, hoặc những ý kiến của Sta-lin hay các lãnh tụ khác, để,
hoặc phát triển thêm những ý kiến ấy, hoặc gò bó tài liệu, xoay sở thế nào để
gán vào khuôn khổ của những công thức rút ra tự những ý kiến ấy."
"Bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân lại dẫn thẳng đến
cái tệ tư tưởng độc tôn: hễ thấy ai có ý kiến gì vượt ra ngoài những công thức
cũ, những khuôn khổ sẵn có thì người ta chụp ngay cho những cái mũ dễ sợ như
cái danh hiệu cải biến chủ nghĩa chẳng hạn, những mũ như thế rất dễ bịt mồm bịt
miệng người ta".
"Tư tưởng không tự do thì không thể tự do thảo luận được.
Mặc dầu không ai cấm tranh luận- các nhà lãnh đạo vẫn thường nói nên mở rộng
tranh luận nhưng trong thực tế thì sự thảo luận đã bị thủ tiêu từ gốc rồi."
"Phải trừ bỏ những bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân để
trả lại tự do cho học thuật".
Trên Nhân Văn số 4 (5/11/1956), Nguyễn Hữu Đang viết
bài Cần phải chính quy hơn nữa, đặt vần đề xây dựng một nhà nước pháp trị.
Phùng Cung trong Con ngựa già của chúa Trịnh dùng hình ảnh con ngựa
già để chỉ những văn nghệ sĩ phục vụ đảng cũng giống như con ngựa của nhà Chúa,
quen thói tôi đòi, vinh thân phì gia, mất hết mọi khả năng sáng tạo. Văn Cao
trong Những ngày báo hiệu mùa xuân, lại một lần nữa chỉ bọn nịnh thần mà mắng.
20/11/1956 Nhân Văn số 5, trong bài Hiến pháp Việt nam
1946 và Hiến pháp Trung hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? Nguyễn Hữu Đang
nhắc lại điều 10 (của Hiến pháp 1946): Công dân Việt nam có quyền: Tự
do ngôn luận. Tự do xuất bản. Tự do tổ chức hội họp. Tự do cư trú, đi lại trong
nước và ngoài nước và điều 11: Tư pháp chưa quyết định thì không được
bắt bớ và giam cầm người công dân Việt nam. Nhà ở và thư từ của công dân Việt
nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật. Trong Bàihọc Ba-lan và
Hun-ga-ri ký tên Người Quan Sát, Lê Đạt cảnh báo: Nếu muốn tránh một biến
cố như biến động Ba Lan thì Đảng phải: "cương quyết và mạnh bạo sửa
chữa những sai lầm kịp thời và đúng mức, cụ thể là nâng cao đời sống của nhân
dân, mở rộng tự do dân chủ".
Ngày 30/10/56, luật sư Nguyễn Mạnh Tường nổ quả
"bom" ngoài luồng Nhân Văn, với bài Qua những sai lầm trong cải
cách ruộng đất xây dựng quan điểm lãnh đạo, đọc trước Mặt Trận tổ quốc.
Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu những bài quan trọng nhất
trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm.
Ảnh chụp Phan Khôi tại cuộc
Hội thảo về Lỗ Tấn năm 1956 (Ảnh: DR)
Lê Đạt tuyên bố: "Mặc dầu Phan Khôi không lãnh đạo
trực tiếp tờ Nhân Văn, nhưng trong thâm tâm tôi, bao giờ tôi cũng coi ông là
người lãnh đạo tờ Nhân Văn". (Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI). Lời nói
của Lê Đạt biểu dương ý kiến chung của những ai đã đọc các bài Phan Khôi viết
trong thời kỳ NVGP, đã thấy sự can trường của một người đứng ra lãnh trọng
trách chủ nhiệm một tờ báo đòi tự do dân chủ, đối lập với chính quyền cộng
sản.
Trong thời kỳ NVGP, Phan Khôi có hai bài viết chính:
bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ (Giai Phẩm Mùa Thu tập I, 29/8/1956) và
truyện ngắn Ông Bình Vôi (Giai phẩm mùa thutập II, 30/9/1956).
Phê bình lãnh đạo văn nghệ, là một trong những tác phẩm
chủ chốt của phong trào NVGP, nhắm vào ba vấn đề thời sự văn học đương thời,
nhưng vẫn còn là thời sự văn học hôm nay:
- Vấn đề tự do văn nghệ sĩ
- Vụ đàn áp Giai phẩm mùa xuân
- Và vụ giải thưởng văn học 1954-1955.
Với ngòi bút sắc sảo, với tác phong "ngự sử văn
đàn", Phan Khôi vạch trần những tác hại của đám quan trường nhất phẩm triều
đình: Ông chỉ trích Trường Chinh ăn nói bừa bãi, chất vấn gắt gao Tố Hữu, Hoài
Thanh, Nguyễn Đình Thi, những người tổ chức và thi hành việc đánh Trần Dần. Trước
Phan Khôi, chưa có nhà văn nào dám mạnh mẽ quyết liệt phê bình lãnh đạo đến thế.
Phan Khôi tách bạch hai giai cấp: Lãnh đạo văn nghệ và Quần
chúng văn nghệ và ông triệt để phê phán ba vấn đề thực tiễn:
1- Vấn đề tự do của văn nghệ sĩ: Sau khi đưa ra những dẫn
chứng cụ thể về việc lãnh đạo nghiệt ngã bắt bẻ nhà văn phải viết theo đúng đường
lối chính sách của Đảng, Phan Khôi hỏi thẳng lãnh đạo: chính trị muốn đạt
đến cái mục đích của nó thì cứ việc dùng khẩu hiệu, biểu ngữ, thông tri, chỉ thị,
không được hay sao mà phải dùng đến văn nghệ sĩ? Rồi ông buộc tội: "Lãnh
đạo đã xâm phạm mỗi ngày một hơn vào quyền riêng nghệ thuật của văn nghệ
sĩ."
2- Về vụ Giai phẩm mùa xuân: Chất vấn ban chủ tọa Hội
Văn nghệ về việc tổ chức hội họp đánh Trần Dần, Phan Khôi viết: "...Hội
Văn nghệ khai hội từ 7 giờ tới đến 1 giờ sáng để phê bình bài thơ Trần Dần, mà
kỳ thực là hỏi tội Trần Dần, một mầm non văn nghệ. Hỏi độc tội một Trần Dần
thôi là cái ngón chính trị tài tình lắm đấy, để cô lập Trần Dần và phân hóa lũ
người trong Giai Phẩm, cái ngón ấy đã thành công".
"Tôi nhớ có một vị bắt lỗi trong bài thơ Trần Dần có chữ
"Người" viết hoa. Lấy lẽ rằng chữ Người viết hoa lâu nay chỉ để xưng
Hồ chủ tịch, thế mà Trần Dần lại viết hoa chữ Người không phải để xưng Hồ chủ tịch.
Tôi ngồi nghe mà tưởng như ở trong chiêm bao, chiêm bao thấy mình đứng ở một
sân rồng nọ, ông Lê Mỗ tố cáo ông Nguyễn Mỗ trước ngai vàng, rằng trong phép viết,
chỉ có chữ nào thuộc về hoàng thượng mới phải đài [tôn xưng], thế mà
tên Nguyễn Mỗ viết thư cho bạn, dám đài chữ không phải thuộc về hoàng thượng.
Nhưng may cho tôi, tôi tỉnh ngay ra là mình đang ngồi trong phòng họp Hội Văn
nghệ".
Những lời trên đây, tưởng Phan Khôi nói với đám nhất phẩm,
nhưng không phải, đó là những lời nhắn tới bệ rồng. Ông không thèm hỏi tội
bày tôi nữa, mà ông đi ngược lên trên, điều tra đến manh mối sau cùng, tới lãnh
đạo tối cao, qua những chữ: Người, sân rồng, Hoàng thượng, ngai vàng, để
xác định: Sự sùng bài lãnh tụ phải đến từ chính vị lãnh tụ. Nếu lãnh tụ
không muốn được tôn sùng, nếu lãnh tụ ưa sự bình đẳng, dân chủ, thì kẻ dưới quyền
không thể xu nịnh tâng bốc được.
3- Về giải thưởng văn học năm 54-55: ba tác phẩm Mưa sao của
Xuân Diệu, Truyện anh Lục của Nguyễn Huy Tưởng và Nam Bộ mến
yêu của Hoài Thanh đều chiếm giải. Phan Khôi phê bình: "Cả ba
ông Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh đều có tác phẩm dự thi mà đều ở
trong ban Chung khảo. Nếu ở trong ban Chung khảo mà thôi còn khá, thử điều tra
lại hồ sơ, thì ba ông còn ở ban Sơ khảo nữa, sao lại có thể như thế? Trường thi
phong kiến xưa, tuy có ám muội gì bên trong, chứ bên ngoài họ vẫn sạch tiếng: Một
người nào có con em đi thi, thì người ấy có được cắt cử cũng phải "hồi tỵ",
không được chấm trường. Bây giờ đến cả chính mình đi thi mà cũng không "hồi
tỵ": một lẽ là ở thời đại Hồ Chí Minh, con người đã đổi mới, đã "liêm
chính" cả rồi; một lẽ trắng trợn vì thấy mọi cái "miệng" đã bị
"vú lấp"."
Qua việc trao giải thưởng văn nghệ hàng năm, Phan Khôi mỉa
mai sự gian dối, ám muội trong các địa hạt khác ở "thời đại Hồ Chí
Minh", đã đổi mới rồi, mà sao con người lại "thanh liêm" kiểu
ấy, bởi "mọi cái miệng đã bị vú lấp mất rồi".
Về việc Hồ Chí Minh viết "truyện mẫu" cho nhà văn
viết theo, Phan Khôi bảo: "Nhược bằng bắt mọi người viết phải viết theo
một lối với mình, thì rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở
ra cúc vạn thọ hết".
Về việc Đảng dạy dỗ các nhà thơ nhà văn sáng tác theo chỉ thị,
Phan Khôi bảo: "Đảng giáo dục Xuân Diệu làm cách mạng chứ có giáo dục
Xuân Diệu làm thơ đâu!"
Những lời khẳng khái của Phan Khôi trong thời điểm NVGP đã trở
thành biểu tượng của tinh thần bất khuất phan khôitrước mọi áp lực tư tưởng.
Bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ là văn bản "hỏi
tội triều đình" trực tiếp và gay gắt nhất, mà cho đến nay chưa một trí thức
nào dám làm. Văn bản này sẽ mãi mãi trụ lại như một bài văn tiêu biểu cho sự
can trường của một nhà trí thức hiện đại trong thế kỷ XX, đứng trước sự độc tài
của một thể chế, không khác gì các sớ dâng vua trảm tấu bọn gian thần thời
phong kiến.
Chính văn bản này đã khiến giới cầm bút nhìn thấy ở Phan Khôi
một nhà lãnh đạo văn nghệ đích thực, và những trí thức khác như
Trương Tửu, theo gương Phan Khôi dứt khoát bước vào diễn đàn NVGP.
Nhân Văn Giai Phẩm phần VI: Trí thức và dân chủ tại Việt Nam
trong thế kỷ XX, một truyền thống đấu tranh từ Phan Châu Trinh, Hoàng Đạo đến
Nhân Văn Giai Phẩm. (bài 2)
Các cột mốc quan trọng của
phong trào Nhân Văn Giai Phẩm
"Khi đưa ra khẩu hiệu "thà chết 10 người oan còn
hơn để sót một địch" thì khẩu hiệu này không những quá tả một cách vô lý
mà phản lại cách mạng là đằng khác nữa (...) Khẩu hiệu của pháp lý thì khác hẳn: "Thà 10 địch sót còn hơn một người bị kết án oan" (Nguyễn Mạnh Tường).
Trương Tửu: Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo
văn nghệ
Trương Tửu bước vào diễn đàn với lập luận chặt chẽ và đanh
thép của nhà phê bình, ông viết hai bài quan trọng trong chủ đề tự do tư tưởng: Bệnh
sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ (Giai phẩm mùa thu tập
II, 30/9/56) và Văn nghệ và chính trị (Giai phẩm mùa thu tập III,
30/10/56) với phần hai là Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ và sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Bôn sê vích. (Giai phẩm mùa đông tập I, 28/11/56). Hai bài
viết này xác định Trương Tửu như một trong những người lãnh đạo tư tưởng của
phong trào NVGP.
Trong bài Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn
nghệ, ông trực tiếp đưa ngay vấn đề: "Tôi viết bài này, nối gót nhà
văn lão thành dũng cảm Phan Khôi, góp ý kiến phê bình lãnh đạo văn nghệ, đặc biệt
sự sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ".
Nhà phê bình Trương Tửu và hình bìa
Giai phẩm mùa thu tập II
(30/9/1956) có bài
"Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ".
(Ảnh: DR)
Trước tiên, ông xác định bệnh sùng bái cá nhân là bệnh của
lãnh đạo văn nghệ:
"Sùng bái cá nhân là một bệnh phổ biến trong giới lãnh đạo
văn nghệ (...) Tôi không nói đó là bệnh của văn nghệ sĩ; vì rằng, hôm qua cũng
như hôm nay, người văn nghệ sĩ tự trọng không bao giờ thừa nhận sự sùng
bái cá nhân. Nghệ thuật là sáng tạo, là tự do. Sùng bái cá nhân là phục tùng mù
quáng, là nô lệ. Hai thứ đó như nước với lửa; có cái này thì không có cái kia
được".
Rồi ông dẫn chứng những trường hợp cụ thể không chịu
sùng bài cá nhân của Tô Ngọc Vân, Sĩ Ngọc đối với Trường Chinh:
"Ai cũng còn nhớ, năm 1948, cố họa sĩ Tô Ngọc Vân
đã tranh luận khá gay gắt với ông Trường Chinh về vấn đề: quần chúng phê bình
nghệ thuật. Ngòi bút tranh luận của Tô Ngọc Vân chứng tỏ một khối óc độc lập, một
tâm hồn có cá tính không vì uy quyền của lãnh tụ này hay lãnh tụ khác mà thủ
tiêu ý kiến riêng của mình".
Cùng năm 1948, trong một buổi nói chuyện khác ở Thanh Hóa
"có đoạn ông Trường Chinh lớn tiếng mạt sát hoạ phái lập thể chủ nghĩa (của
Picasso). Ông cho họa phái ấy, cũng như các phái nghệ thuật Đa đa, Dã thú v.v…,
chỉ là những cái nấm độc mọc trên trạng thái thối tha của chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Âu châu đầu thế kỷ 20".
"Sau buổi nói chuyện này, hoạ sĩ Sỹ Ngọc đã viết một
bài nói về chủ nghĩa lập thể trong tạp chí Sáng tạo số 4" "để gián tiếp
bác ý kiến của ông Trường Chinh".
Trương Tửu xác định nhiệm vụ của văn nghệ sĩ trong cách mạng
kháng chiến:
"Người văn nghệ sĩ kháng chiến đi tìm chân lý, đi tìm
chính nghĩa, đi tìm tự do chứ không đi tìm cuộc đời nô lệ dưới hình thức này
hay hình thức khác. Lấy sáng tạo nghệ thuật để phục vụ cách mạng làm lẽ sống chủ
yếu, họ không thể sùng bái bất cứ cá nhân nào, không thể thừa nhận bất cứ
uy quyền độc đoán nào, chống lại bất cứ sức áp chế tư tưởng nào.
Với những văn nghệ sĩ yêu chuộng tự do như thế, hễ lãnh đạo độc
tài, bè phái thì tất yếu sự phản kháng nẩy ra ngay. Đó là tình trạng văn nghệ của
ta từ sau 1949."
Trong khi ấy thì lãnh đạo văn nghệ:
"Giống như bọn thầy bùa phong kiến, các nhà lãnh đạo văn
nghệ của chúng ta muốn “yểm” tất cả các tâm hồn cứng rắn và tự do cho đến trở
thành những hòn đất thó “tròn méo mặc dầu tay kẻ nặn”. Những lá bùa của họ chế
tạo ra kể cũng đã khá nhiều: mất lập trường, phạm chính sách, phá đoàn kết, phá
tổ chức, vô kỷ luật, chống Đảng, địch lợi dụng, có vấn đề, bất mãn cá nhân, óc
địa vị, v.v… còn gì nữa?"
Sự đe nẹt của lãnh đạo văn nghệ cũng đã ảnh hưởng đến một số
người:
"Và phải nói ngay rằng ngần ấy lá bùa yểm cũng đã linh
nghiệm ít nhiều. Một số văn nghệ sĩ non gan (...) biến thành những tên thư lại
văn nghệ xu nịnh trục lợi. Một số khác trốn vào thái độ tiêu cực, chán nản công
tác, tâm tư nặng trĩu hờn oán và uất ức. Một số khác nữa “cất kín” cá tính và
nghệ thuật xuống “đáy ba lô”, yên lặng làm bổn phận một người công dân kháng
chiến bằng bút, bằng màu sắc, bằng dây đàn, bằng sân khấu - “đánh giặc đã!”.
Còn một số không khuất phục, kịch liệt phê phán tác phong và đường lối lãnh đạo
của thường vụ Hội thì bị chụp mũ, bị chèn ép, bị “trù”, bị hành hạ, bị gạt sang
một bên…"
Tình trạng trù dập, chụp mũ này dẫn đến hậu quả là: "Cho
đến hôm nay: sự phải xẩy ra đã xẩy ra. Nhân đã đẻ ra quả. Cuộc đấu tranh âm ỷ
dai dẳng chống lãnh đạo độc đoán, quan liêu, bè phái, trong những năm cuối
kháng chiến, khi hòa bình trở lại, đã bùng nổ. Khởi điểm là ở trong Phòng Văn
nghệ Quân đội. Trần Dần, Phùng Quán, Trần Công, Tử Phác, Hoàng Cầm v.v… đề đạt
nguyện vọng lên ban lãnh đạo yêu cầu một chế độ công tác hợp với tính chất đặc
biệt của sự sáng tạo văn nghệ, yêu cầu trao trả quyền điều khiển văn nghệ cho
văn nghệ sĩ, yêu cầu tự do trong sáng tác và sinh hoạt văn nghệ. Các nhà lãnh đạo
văn nghệ quân đội, chủ quan và độc đoán, cương quyết đàn áp phong trào đấu
tranh chính đáng ấy. Kết quả là cuộc đấu tranh càng ngày càng lan rộng. Điểm cuối
cùng của nó là lớp học tập lý luận văn nghệ tháng Tám vừa qua ở trụ sở Hội Văn
nghệ. Suốt mười tám ngày, anh em văn nghệ sĩ trong Đảng cũng như ngoài Đảng đã
đứng dậy đồng thanh tố cáo những hành động và thái độ độc tài, bè phái của ban
lãnh đạo văn nghệ. Học tập văn kiện của Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô (đặc
biệt bản tham luận của Cholokov), học tập văn kiện “Bách khoa tề phóng, bách
gia tranh minh” của ông Lục Đỉnh Nhất, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Trung Quốc, anh em văn nghệ sĩ càng phấn khởi và mạnh bạo nêu cao khẩu hiệu
tự do tư tưởng, trăm hoa đua nở, lấy đó làm mục tiêu đấu tranh chủ yếu.
Hôm tổng kết học tập, ông Nguyễn Hữu Đang, đại diện giới văn nghệ sĩ, đã đọc một bản tham luận lên án đường lối lãnh đạo độc tài bè phái của thường vụ Hội, sự việc thật là cụ thể, lời lẽ thật là tha thiết. Ông Tố Hữu, người có trách nhiệm chính về phong trào văn nghệ từ thời kháng chiến đến giờ, đã đứng lên sơ bộ tự kiểm thảo về tác phong quan liêu trong lãnh đạo văn nghệ. Anh em văn nghệ sĩ chưa thoả mãn về những lời tự kiểm thảo của ông Tố Hữu và có yêu cầu được gặp Trung ương Đảng để trình bày nguyện vọng. Cuộc đấu tranh còn tiếp tục…"
Hôm tổng kết học tập, ông Nguyễn Hữu Đang, đại diện giới văn nghệ sĩ, đã đọc một bản tham luận lên án đường lối lãnh đạo độc tài bè phái của thường vụ Hội, sự việc thật là cụ thể, lời lẽ thật là tha thiết. Ông Tố Hữu, người có trách nhiệm chính về phong trào văn nghệ từ thời kháng chiến đến giờ, đã đứng lên sơ bộ tự kiểm thảo về tác phong quan liêu trong lãnh đạo văn nghệ. Anh em văn nghệ sĩ chưa thoả mãn về những lời tự kiểm thảo của ông Tố Hữu và có yêu cầu được gặp Trung ương Đảng để trình bày nguyện vọng. Cuộc đấu tranh còn tiếp tục…"
Nguyên nhân nào đã đưa đến tình trạng này: Bệnh sùng bái
cá nhân. Sau khi dẫn chứng chứng những cử chỉ, thái độ sùng bái cá nhân của các
lãnh đạo văn nghệ, từ Lưu Trọng Lư đến Tố Hữu, mà theo ông đó là những kẻ có
tâm lý "bảo hoàng hơn vua", "ở cửa miệng họ, bao giờ
ta cũng bắt gặp cái điệp khúc bất di bất dịch này: Đảng không bao giờ sai lầm.
Rồi từ chỗ nói: Đảng không bao giờ sai lầm, họ tiến đến chỗ nói: các cá nhân
lãnh đạo Đảng không bao giờ sai lầm".
Họ sùng bái cá nhân để làm gì? Trương Tửu trả lời:
"Họ sùng bái một người (cấp trên) để vạn người (cấp dưới)
sợ cá nhân họ. Nhờ phương châm ấy, họ bám vào gót giầy cấp ủy ban này, cấp ủy
ban khác, leo dần lên thang danh lợi, oai quyền hống hách, đàn áp cấp dưới,
khinh miệt quần chúng, báo cáo lên trên thì xuyên tạc sự thực có dụng ý, lãnh đạo
anh em thì mệnh lệnh độc tài. Họ sùng bái cá nhân là để trục lợi. Họ chỉ có thể
tiến thân bằng đường lối ấy (...)
"Thêm vào tư cách lãnh đạo ấy sự hiểu biết nông cạn
và lệch lạc về văn nghệ, sự áp dụng máy móc phương châm phục vụ kịp thời, sự bắt
buộc lồng một cách công thức chủ trương chính sách vào tác phẩm nghệ thuật, sự
độc quyền và bè phái trong việc xuất bản báo, sự áp chế có tính cách hành chính
hoặc quân sự đối với những văn nghệ sĩ dám nói thực, nói thẳng, nói hết… là ta
có tất cả cái tình trạng văn nghệ ngột ngạt năm sáu năm nay. Bao nhiêu năng lực
sáng tạo văn nghệ vì thế mà quằn quại không phát triển mạnh được."
Sau khi tóm tắt tình hình toàn bộ đời sống văn nghệ trong
kháng chiến, Trương Tửu kêu gọi:
"Đã đến lúc phải sa thải những “nhà lãnh đạo” thiếu
tư cáchmà quần chúng tuyệt đối không tin tưởng nữa để quần chúng văn nghệ tự
tay mình điều khiển công việc chuyên môn của mình một cách thực sự dân chủ".
"Đã đến lúc phải thanh toán lối đàn áp tự do tư tưởng,
khinh miệt quần chúng, mệnh lệnh, độc đoán, bè phái chủ nghĩa do bệnh sùng bái
cá nhân đẻ ra, để mở đường cho trăm hoa đua nở, trăm nhà đua nói".
Về nguyện vọng của văn nghệ sĩ, Trương Tửu viết:
"Họ muốn tiêu diệt bệnh sùng bái cá nhân trong việc
lãnh đạo văn nghệ đã cản trở sức phát triển nghệ thuật"
"Họ muốn chấm dứt lề lối mệnh lệnh, độc đoán, quan liêu,
bè phái, chụp mũ, trong sự lãnh đạo văn nghệ, giành lại quyền tự do tư tưởng bị
chà đạp bấy lâu nay; vì thiếu tự do tư tưởng thì nghệ thuật sẽ co quắp, mòn mỏi
như cụm hoa thiếu ánh sáng mặt trời.
"Họ muốn công việc lãnh đạo văn nghệ phải trả lại cho những
văn nghệ sĩ - bất kể trong Đảng hay ngoài Đảng - được quần chúng văn nghệ tự ý
lựa chọn và tín nhiệm"
Bài viết đầu tiên của Trương Tửu tố cáo toàn diện bộ mặt lãnh
đạo văn nghệ, qua đó ông phê phán bộ mặt lãnh đạo nói chung. Trong bài viết thứ
nhì, ông đi sâu vào vấn đề tự do sáng tạo.
Trương Tửu: Văn nghệ và chính trị
Đối diện với Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, là những người có
tư tưởng quốc gia, triệt để chống lại quan niệm đấu tranh giai cấp của cộng sản,
Trương Tửu là người cộng sản đệ tứ, đứng trên quan niệm đấu tranh giai cấp
để đòi hỏi tự do dân chủ.
Trước tiên, ông xác định quan hệ mật thiết giữa chính trị và
văn nghệ:
"Văn nghệ, tự thân nó, tất yếu phải mang chính trị tính
và có tác dụng chính trị" vì "Văn nghệ, căn bản, là một thể
cách nhận thức và tái tạo thế giới thực tại, một thể cách biến cải xã hội, biến
cải con người bằng đường lối thẩm mỹ".
Cho nên, người nghệ sĩ khi sáng tác bắt buộc phải "dấn
thân", nhưng sự dấn thân ở đây có tính cách "đấu tranh giai cấp",
ông viết: "Sáng tác văn nghệ là tự xác định một thái độ, một lập trường
đối với cuộc đấu tranh giai cấp đương thời".
Đồng ý hay không đồng ý với quan niệm đấu tranh giai cấp này
của Trưong Tửu, nhưng không ai có thể phủ nhận quan niệm tự do của văn nghệ sĩ
mà ông trình bày trong bài viết. Vẫn đứng trên quan niệm đấu tranh giai cấp, chống
lại các chế độ người bóc lột người, ông viết về thời cổ điển:
"Lịch sử văn nghệ căn bản là lịch sử chiến đấu của những
văn nghệ sĩ nhân đạo chủ nghĩa đối kháng với chế độ áp bức con người, bảo vệ
quyền tự do tư tưởng, tự do nói sự thực trong tác phẩm". Mà sự thực lại
là điều mà các chế độ độc tài ghê sợ nhất. "Bao nhiêu chính sách, biện
pháp, công cụ đàn áp khủng bố của bọn thống trị đều chỉ nhằm mục đích: che giấu
sự thực, cấm nói sự thực – vì sự thực lên án chúng". Nhưng: "Các
văn nghệ sĩ cổ điển đã nói sự thực, bất chấp mọi đe doạ. Đại thi hào Pouchkine
có câu: “Nhà văn không nên hèn nhát kêu ca oán thán vì phải bất thần chịu đựng
những viên đạn đầu tiên trên mặt trận, vì phải nếm trải những nỗi khổ cực nguy
hiểm do sự viết văn gây ra”.
"Đó cũng là thái độ của tất cả những văn nghệ sĩ cổ
điển Đông và Tây - của những Đỗ Phủ, Nguyễn Du, Molière, Heine, Rousseau,
Diderot v.v… Họ dũng cảm bảo vệ tự do tư tưởng, tự do nói thực đến kỳ cùng trước
sức tấn công hiểm độc của các giai cấp bóc lột – như người lính cách mạng bảo vệ
khẩu súng, như người nông dân cách mạng bảo vệ làng xóm, như người công nhân
cách mạng bảo vệ nhà máy, trước sức xâm lược khốc liệt của quân thù dân tộc và
giai cấp. Đó là điều kiện cơ bản của sự thành công nghệ thuật. Sự thực về con
người, chân lý cuộc sống là huyết mạch của nghệ thuật. “Thiếu chân lý đó, không
thể có tác phẩm nghệ thuật thực sự quan trọng được”.
Trương Tửu đã viết những lời kêu gọi và biện hộ tha thiết cho
sự tự do của văn nghệ sĩ:
"Muốn sáng tạo ra một thế giới độc đáo, văn nghệ sĩ phải
có một cái nhìn độc đáo, một nhận thức độc đáo về thực tại, một trí tưởng tượng
độc đáo, một lối nói độc đáo. Phải duy trì, bảo vệ, phát triển tính độc đáo ấy
không để một sức mạnh bên ngoài nào xâm phạm đến hay làm cho mất đi. Phải tự do
nhìn sự thực, tự do xúc cảm, tự do suy nghĩ, tự do tưởng tượng, tự do vận dụng
ngôn ngữ nghệ thuật - để có thể phản ánh hiện thực một cách trung thành. Tự do
đây có nghĩa là: chống lại mọi áp bức tư tưởng, mọi mệnh lệnh, mọi công thức,
mọi quyền uy bắt mình nói điều mình không muốn nói, nghĩ điều mình không muốn
nghĩ, nhận là đúng điều mình cho là sai, yêu những cái mà mình ghét, ca tụng những
cái mà mình phản đối. Không có tự do ấy, sự sáng tác của văn nghệ sĩ sẽ giả tạo.
Giả tạo là kẻ thù của nghệ thuật. Giả tạo là tiêu diệt nghệ thuật. Một tác phẩm
văn nghệ không tiết ra từ những cảm nghĩ thành thực và sâu sắc của chính tâm hồn
tác giả sẽ là một phản ảnh nhạt nhẽo của thực tại. Nó khô khẳng vì thiếu chất sống.
Nó bất thành nghệ thuật, và do đó, chẳng xúc động được ai cả."
Ông kêu gọi người nghệ sĩ phải "có can đảm “là
mình” trong những điều kiện xã hội bắt họ “không được là mình”. Họ
phải "tự do nhìn, cảm, nghĩ, nói theo chủ định cá nhân mình trong
những điều kiện xã hội buộc họ phải nhìn, cảm, nghĩ, nói theo những công
thức thống trị".
Và ông kết luận: "Người văn nghệ sĩ sống bằng tự do tư tưởng. Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ là bất khả xâm đoạt". "Không có tự do tư tưởng thì không thể có nghệ thuật chân chính được. Đó là một chân lý bất di bất dịch."
Và ông kết luận: "Người văn nghệ sĩ sống bằng tự do tư tưởng. Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ là bất khả xâm đoạt". "Không có tự do tư tưởng thì không thể có nghệ thuật chân chính được. Đó là một chân lý bất di bất dịch."
Văn nghệ và chính trị là bài viết đấu tranh cho tự do tư
tưởng hay nhất và mạnh mẽ nhất trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm.
Nhà thơ Lê Đạt và bài thơ nổi tiếng
đăng trên báo Nhân Văn số
1 ngày 20/09/1956.
(Ảnh: DR)
Lê Đạt, trên Nhân Văn số 1 (20/9/56), mượn một câu chuyện thời
sự trên báo: một đôi tình nhân tự tử để gợi lại chuyện riêng của mình (Lê Đạt
yêu Thúy Thúy - Nguyễn Thị Thúy - một nghệ sĩ sân khấu, ly dị vợ, bị cấp trên khiển
trách). Nhưng bài thơ đã vượt trên bi kịch cá nhân, để tố cáo sự độc tài đảng
trị, kiểm soát cả trái tim con người:
Chế độ ta không cấm họ yêu nhau
Mà sao họ chết?
Người công an đứng ngã tư đường phố
Chỉ huy
bên trái
bên phải
xe chạy
xe dừng
Rất cần cho việc giao thông.
Nhưng đem bục công an
máy móc
đặt giữa tim người
Bắt tình cảm ngược xuôi
theo đúng luật đi đường nhà nước
Có thể gây rất nhiều chua xót
ngoài đời
Từ bi kịch của đôi tình nhân, nhà thơ nhìn lại chính mình, từ
bấy lâu nay đã ngủ quên trong chế độ:
Thơ tôi bị cuộc đời ruồng bỏ
Vì tôi đã ngủ quên trong chế độ
Vẽ phấn bôi son, tô toàn màu đỏ
La liệt đầy đường hoa nở
chim
kêu (...)
Giữa năm Cộng hoà lớn khôn mười một tuổi
Vẫn còn lọt lưới
nhiều
thói "an nam"
Dán nhãn hiệu
"Made in Cách mạng"
Ngang nhiên xúc phạm con người
Đẩy họ đi tự tử
Nay bừng tỉnh, nhà thơ kêu gọi mọi người, hãy "Quét
sạch mây đen", "Chặt hết gông xiềng":
Phải quét sạch mây đen
cho chân trời rộng mở
Chặt hết gông xiềng
cho những cánh tung lên
Ngày và đêm
mộng bay đầy cuộc sống
Khát vọng theo khát vọng
Không gì ngăn cản con người
Tác phẩm chiếm trọn trang ba của tờ báo, có vị trí một bài xã
luận, xác định lập trường chính trị của Lê Đạt và của báo Nhân Văn. Những
câu: Đem bục công an máy móc đặt giữa tim người. Bắt tình cảm
ngược xuôi theo đúng luật đi đường nhà nước đã vượt thời gian, đi vào tim
người như bức hình rõ nhất chụp lại chế độ công an trị trên đất nước Việt Nam.
Nguyễn Mạnh Tường: Qua những sai lầm trong cải cách ruộng
đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo
Ngày 30/10/1956, luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc bài diễn
văn "Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm
lãnh đạo" trước Mặt Trận Tổ Quốc Hà Nội.
Đây là một bài chính luận sâu sắc, nội dung phân tích những
sai lầm của chế độ, đi từ sai lầm cải cách ruộng đất ở thôn quê, sang sai lầm
trong chế độ mậu dịch ở thị thành, tất cả nằm trong bản chất thiếu dân chủ của
chế độ. Ông truy nguyên nguồn gốc những sai lầm và trình bày những nguyên tắc mới
để sửa sang lại guồng máy luật pháp, chính trị của đất nước.
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã viết lại bài
"Qua những sai
lầm trong cải cách ruộng đất" để đăng trên
báo Tự Do Diễn Đàn, ra tháng 12
năm 1956 nhưng bị cấm.
(Ảnh: DR)
Với giọng văn vừa mỉa mai, vừa chua xót, Nguyễn Mạnh Tường
nói thẳng với Trường Chinh:
"Tôi phấn khởi được nghe bản phê bình của Đảng Lao động
do ông Trường Chinh đọc trước Hội nghị. Nhưng tôi cũng phải thú rằng lòng
phấn khởi của tôi một phần bị giảm đi, vì tôi nhớ lại kết quả tai hại của các
sai lầm đã phạm trong công cuộc Cải cách Ruộng đất. Tôi xin phép các vị được
kính cẩn nghiêng mình trước kỷ niệm những người vô tội đã chết oan, không phải
vì bàn tay của địch mà chính của ta. (...) Trái lại, các người chết
oan vì các sai lầm trong cuộc Cải cách Ruộng đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau
xót vì chết với một ô danh"
Với tài hùng biện, Nguyễn Mạnh Tường đã "nói" bài
này trước Mặt trận tổ quốc, sau khi nghe Trường Chinh đọc bản tự phê bình của Đảng
Lao Động về chính sách cải cách ruộng đất. [Ông ứng khẩu, sau người ta yêu cầu
ông viết lại (đăng trên báo Tự do diễn đàn, ra tháng 12/56, bị cấm)].
Trong cuộc đối thoại trực tiếp với Trường Chinh, Nguyễn Mạnh
Tường buộc tội:
Những người lãnh đạo, có trách nhiệm vụ Cải cách ruộng đất
làm cho bao nhiêu người chết oan, không thể chỉ đứng ra xin lỗi, hoặc nhận
là Đảng đã sai lầm, mà xong đâu. Xin lỗi không phải là hành động luật pháp. Giết
người rồi, không thể chỉ xin lỗi mà xí xoá được. Trong một nước dân chủ thực sự,
thì Quốc hội phải lập một ủy ban điều tra, phải đưa họ ra toà, và toà sẽ phân xử,
kết án, tùy theo trách nhiệm nặng nhẹ của mỗi người, từ lãnh đạo cao
nhất xuống dưới.
Trước tiên, ông phân tích tình hình chính trị xã hội Việt
Nam, bằng những chất vấn:
"Tình hình nước ta hiện thời ra sao? Tình hình ấy có bi
quan không?"
"Về Mậu dịch nửa năm nay, đồng bào ca thán như thế nào,
ta đã biết. Nào chèn ép các nhà kinh doanh tư nhân, nào lãng phí bao nghìn triệu
trong khi thực hiện chính sách, nào tàn nhẫn với các người bán sức lao động cho
mình, nào đưa ra thị trường sữa hư mà không bao giờ nghĩ đến tính mệnh của người
ốm, của trẻ sơ sinh, nào tung ra bơ hỏng, thuốc lá mốc, phạm đến sức khỏe của
nhân dân,nào bất lực trước hiện tượng vật giá ngày càng lên trong khi nhiệm vụ
của mình là phải bình ổn nó. Có thể nói được, suốt ngày đêm không đâu là không có
lời oán trách Mậu dịch".
Sau khi tổng kết tình trạng bi quan về kinh tế, xã hội,
Nguyễn Mạnh Tường trở lại vấn đề Cải cách ruộng đất, ông hỏi: chúng ta đã sai lầm
nghiêm trọng trong cải cách ruộng đất, nhưng bây giờ phải tìm hiểu xem sai ở
đâu? Vì sao mà sai?
Đường lối cách mạng đề ra là người cày phải có ruộng,
trên nguyên tắc điều ấy là đúng, không ai chối cãi. Nhưng khi thi hành chính
sách này người ta đã coi thường sinh mạng con người, và vi phạm luật pháp:
"Khi đưa ra khẩu hiệu "thà chết 10 người oan
còn hơn để sót một địch" thì khẩu hiệu này không những quá tả một
cách vô lý mà phản lại cách mạng là đằng khác nữa (...) Khẩu hiệu của pháp lý
thì khác hẳn: "Thà 10 địch sót còn hơn một người bị kết án oan".
Nguyễn Mạnh Tường nhắc lại những nguyên tắc cơ bản của pháp
lý:
- không phạt các tội đã phạm quá lâu rồi mà bây giờ mới khám
phá ra.
- Chỉ một mình phạm nhân chịu trách nhiệm việc mình làm,
không có trách nhiệm chung của vợ con, gia đình.
- Muốn kết án một người phải có bằng chứng xác đáng.
- Thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị tố
nhân. Bị tố nhân có quyền nhờ luật sư bào chữa cho mình.
Sở dĩ có sai lầm như vậy vì ba nguyên do:
- Quan điểm ta-địch, thù-bạn mơ hồ
- Bất chấp pháp luật
- Bất chấp chuyên môn.
Vì quan điểm ta-địch, thù-bạn mơ hồ, cho nên bao nhiêu bi kịch
đẫm máu xẩy ra [các hiện tượng thanh trừng trong các nước cộng sản], có "những
người suốt đời hi sinh cho sự nghiệp cách mạng, rồi bỗng nhiên phải truất quyền,
khai trừ ra khỏi Đảng, tống giam, thậm chí có khi bị giết nữa". Trong
cuộc cải cách ruộng đất, bao nhiêu "chiến sĩ cách mạng thành tích lộng
lẫy" cũng "bị kết án là phản động, cường hào gian ác và,
sau khi nhận tội, bị tống giam hay bị hành hình". Những cán bộ hành xử như
vậy, nếu vì "chủ mưu phá hoại" thì phải đưa ra tòa, còn nếu vì điên
cuồng thì phải đem đi chữa bệnh thần kinh.
Vì chính trị bất chấp pháp luật cho nên, muốn xử tử
ai cũng được: "Quyền xử tử người một cách đơn giản như vậy trái với
luật pháp".
Vì bất chấp chuyên môn cho nên "Trong 10
năm vừa qua, ta thấy một tình trạng quái gở. Chính trị ám ảnh đầu óc chúng ta đến
nỗi hai chữ “lập trường” làm ta mất ăn mất ngủ (...) Khi chọn một người vặn lái
ô tô, ta không hỏi người ấy có bằng vặn lái và đã vặn lái bao năm, ta chỉ hỏi:
“Có lập trường không?” Kết quả là từ hai năm nay, riêng trong thủ đô Hà Nội,
hàng trăm tai nạn xảy ra do các người vặn lái ô tô có lập trường mà không nắm
chuyên môn. Khi đưa tới bệnh viện một bệnh nhân cấp cứu, vấn đề mang ra thảo luận
trước tiên là: Bệnh nhân thuộc thành phần giai cấp nào? Chữa cho địa chủ thì “mất
lập trường”. Để nó chết mới chứng minh mình có “lập trường giai cấp” (hiện tượng
do B.S. Nguyễn Xuân Nguyên đưa ra) (...) Tại sao có những hiện tượng quái gở
như vậy? Là vì chính trị chiếm đóng tất cả các khu vực trong nhận thức của
chúng ta làm chúng ta mất cả cái nhân đạo tối thiểu của con người, làm
chúng ta khước từ các chân lý".
Thiếu dân chủ
Quốc hội thành lập đã mười năm [từ 1946 đến 1956]. "Nhưng
quyền lập pháp của Quốc hội ở đâu?" "Dư luận quần chúng quan niệm
rằng Quốc hội chỉ có quyền thông qua các chính sách mà thôi".
"Trong bản Tuyên ngôn độc lập, trong Hiến pháp cũng như
trong các sắc lệnh, đạo luật, nguyên tắc dân chủ đã được ban bố". Nhưng
trong thực tế: "người dân không có quyền, không có phương tiện nói
lên ý kiến của mình,tham gia xây dựng các chính sách của Chính phủ".
Đề nghị hướng sửa chữa sai lầm: một chế độ pháp trị chân
chính, một chế độ dân chủ thực sự."
Nguyễn Mạnh Tường nói:
"Hạnh phúc của loài người xây dựng trên cơ sở dân
sinh và dân quyền. Tôi muốn nhấn mạnh ở đây về vấn đề dân quyền. Ta được biết từ
hai thế kỷ nay chủ yếu trong vấn đề dân quyền là vấn đề dân chủ, nghĩa là quyền
của người dân làm chủ trên đất nước, đồng thời là quyền của con người được sống
theo các nhu cầu thiết yếu và chính đáng của nhân bản".
"Tuy rằng trong nước ta có một Bộ Tư pháp, có các tòa án, có luật lệ, nhưng chế độ pháp trị hầu như không có". Vì không có một chế độ pháp trị chân chính cho nên mới xẩy ra vụ cải cách ruộng đất.
"Tuy rằng trong nước ta có một Bộ Tư pháp, có các tòa án, có luật lệ, nhưng chế độ pháp trị hầu như không có". Vì không có một chế độ pháp trị chân chính cho nên mới xẩy ra vụ cải cách ruộng đất.
Và sau khi xẩy ra rồi, thì: "phải lập một ủy ban điều
tra gồm các vị đại biểu Quốc hội, Mặt trận, Đảng Lao động với sự cộng tác của
các vị thẩm phán cao cấp, giàu kinh nghiệm để lập một hồ sơ theo phương pháp
pháp lý đã nhận định, trên quá trình đi từ lãnh đạo qua chỉ
đạo đến chỗ thực hiệnchính sách, trách nhiệm ở chỗ nào và do những ai
phải chịu. Sau khi kết thúc cuộc điều tra, ủy ban ấy sẽ phân tách trách nhiệm
chính trị và trách nhiệm pháp lý. Ai chịu trách nhiệm chính trị sẽ trả lời trước
Quốc hội biến thành Toà án tối cao. Ai chịu trách nhiệm pháp lý sẽ trả lời trước
các tòa án tư pháp. Dưới con mắt của quần chúng theo dõi xây dựng cuộc điều tra
và xét xử, công lý phát huy, không còn ai thắc mắc nữa".
Làm như thế mới đúng quy tắc của một chế độ dân chủ. Một
chế độ thực sự dân chủ trong đó người dân được làm chủ trên đất nước không
những trong hiến pháp, mà cả trong thực tế nữa.
Và ông nhấn mạnh: "Lịch sử các phong trào cách mạng
trong hơn một thế kỷ nay, chưa bao giờ, chưa ai có thể ngăn cản được một phong
trào quần chúng tranh đấu đòi các tự do dân chủ".
Cùng với bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan
Khôi, bài Văn nghệ và chính trị của Trương Tửu, đây là một trong ba
văn bản quan trọng nhất thời kỳ NVGP. Theo Hoàng Văn Chí, bài diễn văn của Nguyễn
Mạnh Tường lọt ra ngoại quốc, không biết bằng cách nào, đã đến Rangoon, rồi
truyền sang Paris và có tiếng vang trong dư luận quốc tế.
Cách bàn về dân chủ của các tác giả trong NVGP là nói với một
quần chúng đã quen biết với dân chủ, có ý thức, có trình độ cao về dân chủ,
khác hẳn với lối viết giản dị và giáo khoa của Phan Châu Trinh đầu thế kỷ XX,
nói với một quần chúng còn phôi thai vế vấn đề dân chủ. Và cũng khác cách viết
tự tin và tự hào dân tộc của Hoàng Đạo đối đầu với thực dân Pháp. Như vậy đủ thấy
rằng từ đầu đến giữa thế kỷ XX, trong đầu óc người Việt nam, tự do dân chủ đã
có những biến chuyển lớn lao, chứ không hề dậm chân tại chỗ.
Chỉ từ khi đảng Cộng sản dập tắt phong trào NVGP, dẹp tan tư
tưởng tự do dân chủ, giữ địa vị độc tôn cai trị, coi tất cả những đảng phái đối
lập là thù nghịch, là phản động, và nhất là không còn giáo dục học sinh về
quyền công dân, quyền con người nữa, thì người Việt mới lại rơi vào vòng chậm
tiến, không ý thức được vấn đề tự do dân chủ, và chúng ta mới phải nghe những lời
tuyên bố thoái hóa của những "trí thức", lãnh đạo, về vấn đề tự do
dân chủ như ngày nay.
Nhà thơ Trần Dần (DR)
"Sớm mai tòa xử Thụy An gián điệp và Nguyễn Hữu Đang phá
hoại, cả hai: hiện hành. Tôi không có giấy gọi cho dự. Người có một cái gì văng
vắng. Tôi đã có đứng với nhóm Đang cầm đầu. Tôi đã ly khai với "lý tưởng"
đó. Cả khi đứng ở đó, cả khi ly khai, cả bây giờ, tôi vẫn cứ rớm máu. Chao ơi!
Con đường để đi đến chỗ "Đúng" mới nhiều máu làm sao?" (Trần Dần)
Tình hình từ tháng 12/1956 đến tháng 2/1958
Nhân Văn Giai Phẩm hoạt động từ tháng 8/1956 đến tháng
12/1956. Cuối tháng 12/1956, các tờ Nhân Văn, Giai Phẩm, Đất Mới... bị đình bản.
Từ 20 đến 28/2/1957, Đại hội văn nghệ lần thứ hai họp tại Hà Nội, với gần 500 đại
biểu, Trường Chinh kêu gọi đấu tranh "đập nát" phong trào NVGP.
Tuy nhiên Trung Quốc vẫn tiếp tục phong trào "Trăm
hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng", cho nên Đảng Lao Động chưa có chính sách
dứt khoát đối với trí thức văn nghệ sĩ: đến đầu tháng 4/1957, Hội Nhà Văn
(trước đây là Hội Văn Nghệ) được chính thức thành lập, với Tô Hoài làm Tổng thư
ký kiêm giám đốc nhà xuất bản Hội Nhà Văn, và một số thành viên cũ của NVGP như
Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh vẫn còn được bầu vào ban chấp hành.
Ngày 10/5/1957, Hội Nhà Văn xuất bản tuần báo Văn, với
Nguyễn Công Hoan chủ bút, Nguyễn Tuân, phó chủ bút, Nguyên Hồng, tổng thư ký.
Ban đầu báo Văn theo đường lối chính thống. Nhưng khi trên báo Học
Tập của Đảng, Thế Toàn lên tiếng chê báo Văn "nghèo nàn",
"xa rời thực tế cách mạng", Nguyên Hồng viết bài trả lời (trên
báo Văn số 15, 16/8/1957) phê bình Thế Toàn "quan liêu",
"trịch thượng". Sự bút chiến giữa báo Văn và báo Học Tập gây chú ý
trong Bộ chính trị. Rồi báo Văn dần dần thay đổi thái độ, ít lâu sau
một số cây bút cũ trong NVGP lại thấy xuất hiện trên báo Văn. Văn số
2 (27/9/1957) đăng bài thơ Lời mẹ dặn của Phùng Quán. Số
24 (18/10/57), đăng kịch thơ Tiếng hát của Hoàng Cầm. Số 28 (15/11/1957),
đăng bài thơ Hãy đi mãi của Trần Dần. Số 30 (29/11/1957) in
hý hoạ của Trần Duy chế giễu chế độ văn nghệ của Đảng.
Cuối năm 1957, Mao Trạch Đông hạ lệnh đánh phái hữu. Huy Cận
và Hà Xuân Trường được cử đi học tập chính sách mới của Trung Quốc. Khi họ trở
về, Đảng mới thực thụ áp dụng chính sách đàn áp của Bắc Kinh.
Ngày 6/1/1958, Bộ Chính Trị ra nghị quyết về văn nghệ. Tinh
thần nghị quyết này dựa trên hai điểm chính:
1- Trình bày các hiện tượng chống lại đường lối văn nghệ của
Đảng:
"Về văn học nghệ thuật, ranh giới giữa tư tưởng văn nghệ
của Đảng và tư tưởng văn nghệ tư sản bị xóa nhòa. Trên tuần báo Văn và
trong một số sách xuất bản hoặc tái bản, đã biểu hiện khuynh hướng xa rời thực
tế đời sống của nhân dân lao động ở nông thôn và thành thị, thoát ly chính trị
và không nhằm đúng những nhiệm vụ trung tâm của cách mạng trong giai đoạn mới.
Những tình cảm cá nhân chủ nghĩa đang có chiều hướng phát triển, những chủ đề lớn
do đời sống thực tại đề ra không được chủ ý. Hình ảnh công nông binh phấn đấu
dũng cảm trong hòa bình mờ nhạt trong văn thơ và trong các tác phẩm nghệ thuật
khác. Nhiều quan điểm văn nghệ của giai cấp tư sản lại được nêu lên.
Cuộc tranh luận giữa tạp chí Học tập và báo Văn gần đây lại
là một biểu hiện cụ thể của cuộc đấu tranh giữa đường lối văn nghệ của Đảng với
khuynh hướng chống lại hoặc xa rời đường lối đó. Tư tưởng chủ đạo biểu hiện
trên báo Văn chính là tư tưởng tách rời đường lối văn nghệ phục vụ công nông
binh, tách rời những nhiệm vụ trung tâm của cách mạng trong giai đoạn hiện tại,
tách rời sự lãnh đạo của Đảng.”
2- Phải tìm cách giải quyết ngay:
"Rõ ràng những phần tử chống chủ nghĩa xã hội, chống Đảng
đã nhân chỗ sơ hở của ta mà tiếp tục tiến công ta về mặt tư tưởng dưới hình thức
văn nghệ. Sự hoạt động của những phần tử phá hoại trong giới văn nghệ là một hiện
tượng hết sức nguy hiểm, một vấn đề cấp bách cần giải quyết (...) Chúng truyền
bá những tài liệu và những báo chí phản động. Dưới chiêu bài “chống giáo
điều, máy móc”, chúng gieo rắc những nọc độc của chủ nghĩa xét lại trong văn
nghệ, nhằm lôi kéo văn nghệ sĩ đi vào con đường nghệ thuật tư sản suy đồi. Trước
những hoạt động có hại đó, số đông văn nghệ sĩ, kể cả một số văn nghệ sĩ đảng
viên, đã mất cảnh giác hoặc bị động, không kiên quyết đấu tranh, thậm chí một số
còn hùa theo chúng".
Tờ Văn bị đình bản ở số 36 (10/1/1958) có đăng
bài Ông Năm Chuột của Phan Khôi.
Biện pháp thanh trừng đối với văn nghệ sĩ: "Hội nghị"
Thái Hà
Thi hành tinh thần nghị quyết 6/1/58, Đảng tổ chức hai lớp học
tập đấu tranh chống "bọn Nhân Văn Giai Phẩm" ở Thái Hà ấp, chính thức
gọi là hai "hội nghị nghiên cứu nghị quyết của Bộ Chính Trị Ban Chấp
Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt nam, kết hợp với hai bản Tuyên Ngôn và Tuyên
Bố của hội nghị các Đảng Cộng Sản và các Đảng Công Nhân họp ở Mạc Tư Khoa cuối
năm 1957". Duy chỉ có Hồng Cương, gọi thẳng tên là hai lớp chỉnh huấn
chính trị.
"Hội nghị" đầu, tổ chức tháng 2/58, dành riêng
cho 172 đảng viên, theo Lê Đạt là để học tập cách "phát hiện" và
"tố giác", chuẩn bị cho hội nghị sau, tháng 3-4/58, 304 người, gồm
các đảng viên, quần chúng và những người ngoài đảng đã tham gia NVGP, dốc toàn
lực đấu tranh chống NVGP.
Trong nhóm NVGP, chỉ có Văn Cao, Đặng Đình Hưng ... "được"
dự hội nghị đầu, vì là đảng viên. Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần, Tử Phác... chỉ
"được" gọi đi hội nghị sau, vì Lê Đạt đã bị khai trừ từ tháng 5/57,
sau khi in bài thơ dài Cửa hàng Lê Đạt, bị cấm. Hoàng Cầm, không ở trong đảng.
Trần Dần, Tử Phác, đã xin ra khỏi đảng từ trước. Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Trần
Duy, là những "phần tử xấu", không được dự cả hai "hội nghị".
Ở "hội nghị" thứ hai, mọi người phải viết bài
"thú nhận", sau đăng báo.
Thành quả hai "hội nghị", được chính thức ghi lại như
sau:
Cái ổ chuột "Nhân Văn Giai Phẩm" bị vạch trần trước
ánh sáng của dư luận.
"Đầu năm 1958, có hai cuộc hội nghị của anh chị em công
tác văn nghệ, nghiên cứu nghị quyết của Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng
Cộng Sản Việt nam, kết hợp với hai bản Tuyên Ngôn và Tuyên Bố của hội nghị các
Đảng Cộng Sản và các Đảng Công Nhân họp ở Mạc Tư Khoa cuối năm 1957. Hội nghị đầu,
tháng 2 năm 1958, gồm 172 người dự. Hội nghị sau, tháng 3 năm 1958, gồm 304 người
dự.
Qua hai cuộc hội nghị ấy, tất cả những "nhân vật" bỉ
ổi đã được phát hiện, tất cả nhũng âm mưu, luận điệu, thủ đoạn đều bị vạch trần.
Những con chuột đã phải bò ra khỏi cống. Những người tự giác hay không tự giác
gần gũi với những con chuột ấy cũng đã tự giác tự phê bình. Đây là bước cuối
cùng của trận chiến đấu chống «Nhân văn Giai phẩm» trong thời kỳ 1956-1958.
Tài liệu sưu tầm "Bọn NVGP trước tòa án dư luận"
Qua sự phát hiện của hai cuộc hội nghị nói trên, chúng ta được
biết nhóm phá hoại "Nhân văn Giai phẩm" bao gồm những tên "đầu sỏ",
những "cây bút" đã viết "hoặc nhiều hoặc ít" cho "Nhân
văn Giai phẩm" như: Thụy An, Nguyễn hữu Đang, Trần thiếu Bảo, Trương Tửu,
Trần đức Thảo, Phan Khôi, Trần Duy, Trần Dần, Lê Đạt, Tử Phác, Đặng đình Hưng,
Hoàng Cầm, Sĩ Ngọc, Chu Ngọc, Văn Cao, Nguyễn văn Tý, Phùng Quán, Hoàng tích
Linh, Trần Công, Trần Thịnh, Phan Vũ, Hoàng Huế, Huy Phương, Vĩnh Mai, Như Mai
tức Châm văn Biếm, Hữu Thung, Nguyễn khắc Dực, Hoàng tố Nguyên, Hoàng Yến,
Thanh Bình, Yến Lan, Nguyễn thành Long, Trần lê Văn, Lê đại Thanh v.v...
Nhưng đó không phải là tất cả (còn những tên chưa ra mặt). Và
cũng không phải tất cả những "cây bút" trên đây đều có những hành động
phá hoại giống nhau, hoặc phá hoại với những mức độ giống nhau. Có bọn đầu sỏ,
có bọn phụ họa, có người bị lôi cuốn vì ngây thơ chính trị...
(Bọn Nhân Văn Giai Phẩm Trước Toà Án Dư Luận (BNVGPTTADL),
Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1959, trang 309-310).
Những dòng đây trên đưa đến hai nhận xét:
1- Những tên tuổi liệt kê trong danh sách, đã được xếp đặt
theo trật tự "tội" nặng, nhẹ: trí thức đứng đầu, rồi đến văn nghệ sĩ.
2- Tuy đã gửi Huy Cận và Hà Xuân Trường đi học tập chính sách
đàn áp ở Trung Quốc, nhưng khi thi hành, đảng tránh nói đến Bắc Kinh, mà
lại nêu cao việc "nghiên cứu nghị quyết của Bộ Chính Trị" và "hai
bản Tuyên Ngôn và Tuyên Bố của Đảng Cộng Sản và Đảng Công Nhân Mạc Tư Khoa cuối
năm 1957".
Những lời buộc tội
Tố Hữu trong bài "Ý nghĩa một cuộc đấu tranh trong
văn nghệ", dựa vào tinh thần nghị quyết 6/1/58, lên án quyết liệt:
"Dưới ánh sáng mới ấy [ánh sáng xã hội chủ nghĩa], đã
bật rõ ranh giới giữa cách mạng và phản cách mạng, giữa cái mới và cái cũ; mỗi
người yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội đều đã có thể nhìn thấy, phân biệt rõ
ràng những con người và những con quỷ, những hoa thơm và những cỏ độc trong văn
nghệ." (Những chữ in đậm, trong các trích đoạn là theo đúng nguyên
văn)
Sau khi ca tụng "Hai văn kiện có ý nghĩa quốc tế lớn
lao của Mạc Tư Khoa" đã giúp cho "Trung ương Đảng
ta" chuyển biến, "có con mắt sáng để nhìn đúng tình hình",
Tố Hữu xác định:
"Không thể nào khác, muốn là “kỹ sư tâm hồn” xã hội
chủ nghĩa, không thể nào không tự cải tạo bản thân văn nghệ sĩ thành những tâm
hồn xã hội chủ nghĩa thật sự. (...) Càng không thể để lén lút vào
trong hàng ngũ văn nghệ, những con rắn độc thù địch phun nọc giết người."(...)
Đó là tiêu chuẩn chính trị để phân rõ ranh giới: ai là
thù, ai là bạn. Không thể mập mờ".
Rồi ông đe dọa:
"Mỗi văn nghệ sĩ lại phải tự trả lời dứt khoát: ủng hộ
hay phản đối đường lối văn nghệ của chủ nghĩa Mác Lênin, đường lối văn nghệ phục
vụ công nông binh, phục tùng chính trị, theo yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng và
phục tùng sự lãnh đạo của Đảng?"
"Đã đến lúc cách mạng đòi hỏi mỗi văn nghệ sĩ và mỗi
cán bộ văn hóa “duyệt lại” những tư tưởng, tình cảm của mình, những sáng tác và
công tác trong ba năm qua, và dưới ánh sáng của tư tưởng xã hộ chủ nghĩa, làm một
cuộc phê phán thật nghiêm trang, không khoan nhượng đối với mình, đối với bạn,
đối với địch". (...)
"Thông qua cuộc đấu tranh lần này mà lột trần bộ mặt
gian ác của những phần tử phản cách mạng, chống chế độ, chống nhân dân, phá hoại
sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh thống nhất
nước nhà. Phải lôi chúng ra ánh sáng, xé toạc mặt nạ của chúng mà ném xuống đất."
Ông "vạch mặt" những "tên phản động":
"Chúng là những tên phản trắc, có kẻ như Phan Khôi
một đời đã năm lần phản bội Tổ quốc, kẻ đã từng phục mạ “người An nam là chó,
và đã là chó thì phải ăn cứt” để “thuyết phục” người khác đầu hàng địch, mà vẫn
dương dương tự cho mình là “học giả tiết tháo”, và được kẻ đồng bọn phong cho
là “anh hùng của ba trăm nô lệ” (!)
Chúng là những con buôn "mác-xít", "cách mạng"
đầu lưỡi như Trương Tửu, Trần Đức Thảo mà thực chất là những tên tơ rôt skit vô
tổ quốc đã từng nấp dưới nách của địch chống lại cách mạng, suốt đời thù
ghét những người cộng sản và tất cả những ai tin yêu (...) Chúng là những kẻ đầu
cơ cách mạng, như Nguyễn Hữu Đang (...) Gặp nhau trong một mục đích
chung, chống Tổ quốc, chống nhân dân, chống chế độ, chống phe xã hội chủ nghĩa,
chống Đảng lãnh đạo, tất cả bọn chúng đã liên minh thành một khối, phối hợp hoạt
động phá hoại trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, trong các hội văn học nghệ thuật,
một số cơ quan văn hóa, trong giới đại học, v.v… (...) Trên thực tế, rõ
ràng chúng đã làm như những tay sai của địch thực hành kế hoạch phá hoại của Mỹ Diệm
ở miền Bắc là “chống cộng trong lòng cộng"."
Cuối cùng, ông nhấn mạnh đến sự kiện:
"Cuối năm 1956, nói đến báo Nhân văn và các tập Giai phẩm,
Hồ Chủ tịch đã chỉ rõ: "Đó là những hạt giống xấu gieo trên miếng đất của
những tư tưởng sai lầm". Bởi vậy, vấn đề không phải chỉ là vứt bỏ những hạt
giống xấu, mà còn là dọn lại đất cho tốt" (trích Tố Hữu, Ý nghĩa một
cuộc đấu tranh trong văn nghệ", Học Tập, số tháng 4/1958).
Nguyễn Đình Thi tổng kết chủ trương của NVGP, trên 6 điểm:
1. Bôi nhọ chủ nghĩa cộng sản là không "nhân văn", là
"chà đạp con người", bôi nhọ những đảng viên cộng sản là "khổng
lồ không tim", không phải là "cộng sản chân chính", xuyên tạc sự
giáo dục của Đảng là "rập khuôn đầu óc và tâm hồn", văn học nghệ thuật
xã hội chủ nghĩa là "công thức, giả tạo", đẻ ra những "thi sĩ
máy". Dưới chiêu bài "đề cao con người", "chống công thức",
báo Nhân văn, Giai phẩm đã đề cao chủ nghĩa cá nhân, "tự do" cá nhân,
đòi quyền, "tự do" cho những lối sống và tình cảm ích kỷ trụy lạc.
2. Phản đối chuyên chính, đòi "dân chủ", "tự
do" theo lối tư sản trên mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa. Đả kích từ Mậu
dịch, quản lý hộ khẩu, Bưu điện, cơ quan báo chí, bệnh viện, cho tới Quốc hội,
nói chung là đả kích vào bộ máy Nhà nước của ta, đòi tự do đối lập với Chính phủ,
trong lúc bọn phản động đang âm mưu phá hoại và một vài giới tư sản đang tiến
công ta.
3. Đưa ra chiêu bài "chống sùng bái cá nhân" để xuyên
tạc sự lãnh đạo của Đảng là "đảng trị" (...) Đem đối lập quần chúng với
lãnh đạo, khích quần chúng chống lãnh đạo (...)
4. Phỉnh nịnh đầu óc quốc gia chủ nghĩa tư sản, đả kích Liên xô,
cho sự giáo dục con người ở Liên-xô là "rập khuôn", văn học nghệ thuật
Liên xô là "công thức", không có giá trị. Vin vào khẩu hiệu
"trăm hoa đua nở" để xuyên tạc đường lối văn học nghệ thuật của Trung
quốc, (...)
5. Phủ nhận những thành tích to lớn của nhân dân ta, của Đảng ta
trong công cuộc xây dựng miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà, phủ nhận những
kết quả to lớn của cải cách ruộng đất (...)
6. Riêng về văn nghệ, thì trong Nhân văn, Giai phẩm đã đề xướng
"trăm hoa đua nở" theo lối tự phát vô chính phủ, "hoa lành, hoa
độc, hoa thối, hoa thơm" đều có quyền nở tự do như nhau. Thực chất là nó
đòi hủy bỏ sự lãnh đạo của Đảng, nêu khẩu hiệu "trả văn nghệ về cho văn
nghệ", "văn nghệ và chính trị vỗ vai nhau hai bên cùng có lợi"
v.v...
(trích Nguyễn Đình Thi, Chống chủ nghĩa xét lại trong
văn nghệ, Học Tập, số 3, tháng 3/58).
Hồng Cương, cục phó cục Tuyên huấn, trong bài tổng kết "Cuộc
đấu tranh giai cấp trên mật trận văn nghệ hiện nay" (Văn Nghệ quân đội,
số 6, tháng 6/58), tóm tắt toàn bộ hành trình đấu tranh của NVGP, chỉ ra
"chân tướng phản động chính trị của những tên cầm đầu": Nguyễn Hữu
Đang, Phan Khôi, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Thụy An, Minh Đức, coi phong trào
NVGP là cuộc đấu tranh giai cấp giữa chủ nghiã xã hội và chủ nghĩa tư bản trên
ba khái niệm chính:
1- Đấu tranh giữa hai đường lối chính trị khác nhau.
2- Đấu tranh giữa hai đường lối văn nghệ khác nhau.
3- Đấu tranh giữa hai thế giới quan và nhân sinh quan khác
nhau.
Hồng Cương còn nhấn mạnh đến những nguy cơ "xụp đổ chế độ":
"Hạ được tập thơ Việt Bắc và hạ được Tố Hữu xuống là hạ
được cả giá trị văn nghệ kháng chiến xuống và hạ được sự lãnh đạo văn nghệ của
Đảng và Chính phủ xuống. (...)
Chúng nói Trung Ương Đảng ta, thậm chí nói các lãnh tụ ta là
"dốt văn nghệ". Chúng rêu rao rằng Đảng và Chính phủ ta là "bọn ngu
khờ cầm quyền" (l'ignorance au pouvoir) không thể lãnh đạo được văn nghệ
(...).
Chúng vu khống chế độ ta là cộng sản thời trung cổ
(communisme du moyen âge), là cộng sản phong kiến (communisme féodal), chế độ
ta là cộng sản suy đồi (dégénérescence du communisme), chúng xuyên tạc và nguyền
rủa chỉnh huấn của ta là đồi trụy tinh thần (avilissement de l'esprit), là nô dịch
hoá tư tưởng (esclavage de la pensée). Chúng chế giễu chính sách đãi ngộ của ta
là "bổng lộc" vua ban, huân chương của ta là "mề đay" của đế
quốc. Không khác gì Phan Khôi đã ví chế độ ta với một triều đại phong kiến nào
đó." (trích Hồng Cương, Bọn phản bội Trần Dần-Hoàng Cầm-Tử
Phác, Quân đội nhân dân số 437 (11/4/1958)
Những lời buộc tội của Hồng Cương, khác lối nhìn đao phủ của
Tố Hữu, dường như có ngụ ý biện hộ và đồng tình.
Các biện pháp kỷ luật
"Trận chiến đấu chống bọn phá hoại NVGP" đã kết
thúc bằng hội nghị thứ ba của ban chấp hành hội Liên Hiệp Văn Học Nghệ Thuật Việt
Nam, họp tại Hà Nội ngày 4/6/1958 với bài báo cáo tổng kết của Tố Hữu, và Nghị
quyết của của ban chấp hành hội Liên Hiệp Văn học Nghệ thuật Việt nam lên án
"bọn NVGP".
Ngày 5/6/1958, tại Hà nội, hơn 800 văn nghệ sĩ thảo
bàn nghị quyết gọi là "Nghị quyết của 800 văn nghệ sĩ" phụ họa với
nghị quyết của Hội Liên Hiệp.
Sau đó trong tuần lễ từ 21/6 đến 3/7/1958, các ban chấp hành
Hội Nhạc Sĩ, Hội Mỹ Thuật, Hội Nhà Văn, lần lượt thi hành các biện pháp kỷ luật
đối với các thành viên của Hội đã tham gia NVGP:
Hội Nhà Văn khai trừ Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh ra khỏi ban
chấp hành.
Hội Mỹ Thuật, cảnh cáo Sĩ Ngọc, "chấp nhận cho Sĩ
Ngọc và Nguyễn Sáng rút khỏi ban chấp hành".
Hội Nhạc Sĩ "chấp nhận cho Văn Cao, Nguyễn Văn Tý rút khỏi
ban chấp hành".
Cả ba hội quyết định:
- Khai trừ Phan Khôi, Trương Tửu, Thụy An ra khỏi Hội
Nhà Văn, Trần Duy ra khỏi Hội Mỹ Thuật.
- Khai trừ trong thời hạn một năm Hoàng Cầm
và Phùng Quán ra khỏi hội nhà văn. Khai trừ ba năm Trần Dần, Lê Đạt
ra khỏi Hội Nhà văn, ba năm Tử Phác và Đặng Đình Hưng ra khỏi Hội Nhạc
sĩ. Và cảnh cáo một số hội viên khác đã tích cực hoạt động trong nhóm NVGP.
Tháng 7/58: Văn Cao đi thực tế Điện Biên cùng với Nguyễn Tuân
và Nguyễn Huy Tưởng, ông bị chảy máu ruột và được trở về. Ngày 22/8/58, Trần Dần,
Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Tử Phác... đi lao động cải tạo ở Chí Linh, đến Tết
mới được về Hà Nội nghỉ, đợi đợt sau. Trong thời kỳ lao động cải tạo này Tử
Phác bị ho lao (25/11/58 Tử Phác đi khám ruột, lại thấy bị lao phổi, nhật
ký Trần Dần ghi). Phùng Quán mới đầu "bất trị" đi rồi lại bỏ về,
đến tháng 8/58 mới chịu đi thực tế Thái Bình với Hoàng Cầm (Trần Dần ghi).
Ông Nguyễn Hữu Đang
Những người tội nặng, bị đưa ra tòa ngày 19/1/1960. Qua những
bản tin về phiên tòa này, đăng trên các báo tại Hà nội tháng giêng năm 1960, do
Lại Nguyên Ân sưu tầm và công bố mới đây trên Talawas, luận điệu các bài viết
khá giống nhau:
"Ngày 19/1/1960, Toà án Nhân Dân Hà Nội đã xử vụ gián
điệp có tổ chức do bọn Nguyễn Hữu Đang và Thụy An cầm đầu. Nhiều đại biểu
các tầng lớp nhân dân Hà Nội đã tới dự phiên tòa này.
Bọn gián điệp bị đưa ra xử gồm năm tên: Nguyễn Hữu Đang, Lưu
Thị Yến tức Thụy An, Trần Thiếu Bảo tức Minh Đức, Phan Tại và Lê Nguyên
Chí" (trích báo Nhân Dân, Hà Nội, ngày 21/01/1960, tài liệu Lại
Nguyên Ân).
Chánh án là Nguyễn Xuân Dương. Hội thẩm là Nguyễn Tử Các và
Phùng Bảo Thạch.
Vẫn theo bài báo trên: "Thụy An là một tên gián điệp
lợi hại quốc tế (...) Năm 1956, Thụy An, Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi nhập thành
một nhóm (...) tháng 9/1956 xuất bản tờ Nhân Văn" (...) Nguyễn Hữu Đang và
Thụy An lấy nhà Phan Tại làm một "câu lạc bộ" bí mật, tụ tập một số
phần tử phản cách mạng (...) "Đến khi chúng thấy âm mưu và hoạt động của
chúng bị bại lộ, chúng định trốn vào Nam để tiếp tục làm tay sai cho Mỹ Diệm.
Lê Nguyên Chí thú nhận: "Đang nói với tôi, Đang vào theo Mỹ Diệm sẽ được
chúng tin dùng và sẽ làm được những việc lớn". Đang cùng Lê Nguyên Chí chuẩn
bị trốn vào Nam".
Tòa đã tuyên án:
Nguyễn Hữu Đang, 15 năm phạt giam, 5 năm mất quyền công dân;
Lưu Thị Yến tức Thụy An, 15 năm phạt giam, 5 năm mất quyền công dân; Trần Thiếu
Bảo tức Minh Đức, 10 năm phạt giam, 5 năm mất quyền công dân; Phan Tại, 6 năm
phạt giam, 3 năm mất quyền công dân; Lê Nguyên Chí, 5 năm phạt giam, 3 năm mất
quyền công dân.
(trích báo Nhân Dân, bài đã dẫn)
Phùng Cung bị bắt tháng 5/61. Bị giam 12 năm tù. Không có án.
Trường hợp Phùng Cung sẽ được tìm hiểu thêm trong phần viết về Phùng Cung.
Các giáo sư đại học như Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Đào Duy
Anh,... bị cách chức và bị quản thúc. Cách đối xử với họ như thế nào, tư liệu
chính thức không nhắc đến. Trong bài báo cáo tổng kết, có một đoạn Tố Hữu viết:
"Cho đến khi, dưới ánh sáng của nghị quyết Bộ Chính trị,
mở ra hai lớp học tập cho ngót 500 anh chị em văn nghệ sĩ, qua một cuộc đấu
tranh kiên quyết thì mặt nạ của nhóm phá hoại "Nhân văn- Giai phẩm" mới
hoàn toàn rơi xuống đất; và đồng thời, những sai lầm lệch lạc nghiêm trọng, nhất
là tình trạng mất cảnh giác giai cấp trong văn nghệ sĩ, trong các đảng viên và
cơ quan của Đảng cũng được vạch chỉ rõ ràng.
Cùng một lúc, qua cuộc học tập đấu tranh trong các trường Đại
học, chủ yếu ở khoa Văn, khoa Sử, bọn tơ rốt kít Trương Tửu, Trần đức Thảo
khoác áo giáo sư cũng phơi trần chân tướng" (Tố Hữu,"Nhìn lại 3
năm phá hoại của nhóm "Nhân Văn Giai Phẩm", BNVGPTTADL, trang
34-35).
Câu: "Cùng một lúc, qua cuộc học tập đấu
tranh trong các trường Đại học..." rất quan trọng, nó xác định sự
kiện cùng lúc với hai lớp Thái Hà, dành cho văn nghệ sĩ, thì trong Đại học có
các "lớp" khác, dành cho các giáo sư đại học như Trương Tửu, Trần
Đức Thảo, Đào Duy Anh, Nguyễn Mạnh Tường...
Nhưng hiện nay, chúng ta có rất ít tư liệu viết của các nhà
trí thức đã tham dự NVGP về vấn đề này, nên không thể biết những gì đã xẩy ra
cho họ, chỉ có cuốn Un Excommunié (Kẻ bị khai trừ), do nhà xuất bản
Quê Mẹ, in tại Paris năm 1992, trong đó giáo sư Nguyễn Mạnh Tường thuật lại ông
đã bị đưa ra corrida (đấu trường) ba lần: đấu trường Mặt trận tổ quốc,
đấu trường Đại học và đấu trường Đảng. Sau đó, ông hoàn toàn bị ly khai, không
được tiếp xúc với người ngoài, không được dạy học, không cả dạy tư, rơi vào cảnh
đói rét, bệnh tật.
Về những biện pháp trừng phạt đối với toàn bộ văn nghệ sĩ,
trí thức, sinh viên và quần chúng đã ít nhiều tham gia, đã đọc, đã mua báo, hoặc
đã giúp đỡ, ủng hộ phong trào NVGP bằng cách này hay cách khác, hiện nay chưa
có một ước lượng nào gần với sự thật. Số phận Bùi Quang Đoài, người cầm đầu
phong trào sinh viên, chủ bút tờ Đất Mới, sau đó, không rõ ra
sao.
Trong nhóm ba người Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, ban đầu Trần
Dần có vẻ rất cứng cỏi, nhưng trong lớp Thái Hà, dường như ông lại là người nao
núng nhất. Sự nao núng này sống lại trong những lời nhật ký. Nhật ký, chủ đích
là viết riêng cho mình, không cần giấu diếm, che đậy, nhưng trái lại, ở đây đã
có màu sắc "hối cải", giống như lời tự thú để đăng báo, viết cho
"người khác" đọc, phản ảnh một Trần Dần đã thấm đòn, biết sợ, ông viết:
"Nhân Văn Giai Phẩm thế là đã đứng về phe tư bản chủ
nghiã, phản đối xã hội chủ nghĩa; hơn thế, lớp học trình bày sự thực, làm cho tất
thẩy đều thấy rõ chân tướng bọn cầm đầu NVGP, đó là một công ty phá hoại bao gồm
những kẻ phản cách mạng, đứa là phần tử Quốc Dân Đảng cũ (Phan Khôi), đứa là mật
thám trước (TDuy), đứa là tên bất mãn chống Đảng có lịch sử, đi đến chủ nghiã
trotskisme (Nguyễn Hữu Đang),... chúng ngoặc với bọn trotkistes Trương Tửu, Trần Đình Thảo,
và với bọn gián điệp vẫn liên lạc với Sainteny, là Thụy An" (nhật
ký Trần Dần ghi, Phạm Thị Hoài biên soạn, trang 239-240).
Đó là những "nhận định" về người đồng hành, còn đây
là "nhận định" về "tôi":
"Tôi là cái gì?
Trước Cách Mạng, tôi là một thứ hổ lốn phản động của những tư
tưởng tư sản địa chủ: hưởng lạc đến đồi trụy, hám danh to đến bệnh "vĩ đại
cuồng", vô chính phủ đến phá phách mọi trật tự, thoát ly đến rơi vào sinh
hoạt sa đọa, và đi vào các trường phái nghệ thuật vị nghệ thuật, tượng trưng, lập
thể, siêu thực... và vào triết học ru ngủ tối phản động của Bergson (...)
Tôi đã tự lừa dối (...)
Tôi đã tự lừa dối (...)
Tôi đã tự lừa dối (....)"
(Trần Dần ghi trang 240-241).
Trong điều kiện tư liệu hiện nay, Trần Dần là người duy nhất
để lại ba trang nhật ký về giai đoạn Thái Hà, nhưng ông không dám viết gì về nội
dung học tập, mà chỉ ghi lại những "kết quả" học tập và sự tự hối của
mình sau "lớp nghiên cứu 2 văn kiện".
Khi Lê Đạt trả lời phỏng vấn năm 1999 ở Paris, phát trên sóng
RFI năm 2004, chúng ta biết rõ hơn vế thực chất hai "hội nghị" Thái
Hà.
Về lớp đầu tổ chức tháng 2/56, với 172 đảng viên, Lê Đạt giải
thích tại sao lại có hai lớp học khác nhau:
"Lớp đầu tiên tổ chức cho các đảng viên (...) tức
là người ta vận động các đảng viên khác phát hiện tất cả những tội của những
đảng viên tham gia Nhân Văn Giai Phẩm đã đành rồi, nhưng còn để phát hiện
cả những tội của những người chưa tham gia Nhân Văn, của quần chúng, vì vậy người
ta phải làm trong buổi trước".
Hình thức "học tập trước" các cách "phát hiện
tội" này, đã được dùng trong Cải cách ruộng đất và Nguyễn Mạnh Tường đã mô
tả khá rõ trong tiểu thuyết Une voix dans la nuit (Tiếng vọng trong
đêm), sẽ nói đến sau. Ở đây xin tiếp tục lời thuật của Lê Đạt.
Và đây là diễn biến của lớp thứ nhì, với 304 người, trong
tháng 3 và 4/56.
Trước tiên, về không khí của "lớp học", Lê Đạt kể:
"Không khí rất căng thẳng, tôi nói thế này để chị biết
nó căng thẳng như thế nào: Văn Cao đã đi lớp trước rồi, lớp cho đảng viên hồi
tháng 2, thì sau đó, họ cũng kéo tất cả trở lại lớp sau để đánh tiếp. Tôi xin
nhắc lại: tức là trong lớp trước, họ học tập đảng viên phát hiện quần chúng, để
họ đánh; nhưng bây giờ, ở lớp thứ hai này: quần chúng lại phát hiện trở lại, để
nếu đảng viên có gì, họ lôi ra đánh tiếp luôn, chị có rõ ý tôi không? Thế thì
tôi thấy Văn Cao - hôm ấy trời nóng - Văn Cao mặc áo sơ mi to phồng thế mà sau
khi nó tố những khuyết điểm của Văn Cao, tôi thấy cái áo sơ mi cứ dính dần,
dính dần, dính dần... toát hết cả mồ hôi, nó dính như một cái áo lót cơ mà... Ðấy,
chị thấy không khí căng thẳng như thế nào".
Về thực chất của "lớp học", Lê Đạt cho biết:
"Ðây không phải là một cuộc học tập mà là một cuộc đấu
tranh, nó khác hẳn các cuộc học tập khác. Trong những ngày đầu, người ta vạch tất
cả "những tội" của những người trong Nhân Văn Giai Phẩm, ai nhớ được
gì thì nói ra..., nó là một cái tụi... tố cáo nhau (...)
Trong khi "học" như thế thì công an đi ra đi vào rất
nhiều, mà đi một cách rõ ràng cho mình trông thấy chứ không phải người ta kín
đáo gì!
Sau khi tất cả mọi người đều đã "phát hiện các tội"
của Nhân Văn xong rồi, thì mới đến lượt Nhân Văn, từng người một, nhận tội"
Cuộc "đấu tranh" kéo dài hơn một tháng, và theo lời
Lê Đạt:
"... trong suốt một tháng ấy là cứ ngày nào, ngày nào
cũng... lên phát hiện tội. Cứ phát hiện tội, tức là mình có gì thì mình báo
cáo; còn người ta, người ta phát hiện tội của mình. Nó là một thứ đấu tranh đấy
mà. Ðấu tranh rất gay gắt. Và lẽ dĩ nhiên, nói là cả lớp, nhưng người ta chỉ tập
trung vào một vài người thôi, trong số đó có tôi cho nên vất vả lắm".
Cách "phát hiện tội" như thế nào? Bằng miệng hay là
ghi trên giấy? "Bị can" có quyền cãi khi lời "phát hiện" là
bịa đặt hay không?
Lê Đạt trả lời: "Không! Không! Tất cả mọi người đều
đứng lên phát hiện chứ. Phát hiện thì có thư ký ghi hết và bản thân mình cũng
phải ghi. Rồi sau căn cứ trên cái phát hiện của người ta, mình về tổ, mình phát
hiện cái khuyết điểm của mình, cái tội của mình và sau đó mình phải làm bài kiểm
điểm rất dài về toàn bộ thời gian mà mình tham gia Nhân Văn. Người ta phát hiện,
còn mình không được nói nữa. Ðông Tây người ta phát hiện ầm ầm, ầm ầm, làm sao
mà mình có quyền, nhất là không được cãi gì".
Nhà thơ Lê Đạt (DR)
Về các văn bản "thú tội", Lê Đạt cho biết đã được
viết trong hoàn cảnh thế nào:
"Tức là như thế này: Bây giờ anh làm trong tổ, tổ thông
qua bài khai của anh. Bài của anh lại phải đưa ra hội trường, hội trường thông
qua thì anh mới được xong. Nếu không thì anh cứ việc tiếp tục lại. Viết xong,
nhưng chưa thành khẩn, thì lại phải viết tiếp. Mình cứ phải viết tiếp, viết tiếp...
mãi, mà mình chỉ có từng ấy ý thì làm sao viết thêm được mãi!"
Về việc bắt Nguyễn Hữu Đang:
"Trong lúc kiểm thảo như thế, thì người ta loan tin, người
ta nói rằng: "Công an đã bắt Nguyễn Hữu Ðang!" Cái anh Ðang này cũng
là người hoạt động mà sao dại dột thế! Ông ấy lại nhờ người mang một lá thư về
Hải Phòng để bố trí cho ông ấy vào Nam. Thế là nó bắt được cái thư ấy. Vì chính
người đưa thư ấy là người của công an. Thế là họ đồn ầm lên: "Sự liên hệ
giữa Nhân Văn và bọn Mỹ Diệm là đã rõ ràng rồi. Nguyễn Hữu Ðang trong lúc không
còn đường thoát nữa, liên lạc với trong ấy và chúng ta đã bắt được Nguyễn Hữu
Ðang rồi, bắt vào ngày bao nhiêu, bao nhiêu"... Tất cả mọi người vỗ tay:
Hoan hô! Hoan hô!... Tức là một sức ép rất ghê gớm."
Về việc lao động cải tạo, Lê Đạt cho biết:
"Lúc đầu mới đi thì mình cũng lao động, cũng hăm hở.
Mình hăm hở vì chắc là hai năm thì xong. Thế nhưng mà hai năm rồi cũng không thấy
ai nói gì về vấn đề đó cả và lại tiếp tục hai năm nữa... rồi dần dần nó phai nhạt
đi không ai nhắc đến chuyện đó nữa. Thì thời gian disponibilité - thời gian mà
phải đi, lúc nào người ta gọi đi lao động cũng được - thời gian đó kéo dài 10
năm. Lẽ dĩ nhiên là trong 10 năm ấy, không phải lúc nào cũng đi. Người ta gọi
đi, rồi người ta lại cho mình về; về rồi, họ lại kéo mình đi, nghĩa là trong 10
năm là thời gian mình phải dành cho việc đi lao động cải tạo. Thế còn sau này hết
10 năm thì ở nhà. Nhưng mà ở nhà thì... Tôi không ngờ nó kéo dài đến thế: cả thời
kỳ đi lao động lẫn thời kỳ "cấm" là gần 40 năm chị ạ. Mình thấy
nó đằng đẵng mà mình coi như là số mệnh thôi".
"Lúc bấy giờ, nếu tôi không có sự cưỡng lại thì tôi là một
người vứt đi, thành một cái rẻ rách. Tôi cho cái việc rẻ rách hóa con người
đó, chính quyền phải chịu trách nhiệm."
Ngày 10/12/1959, Trần Dần ghi: "Sớm mai toà xử Thụy
An gián điệp và Nguyễn Hữu Đang phá hoại, cả hai: hiện hành. Tôi không có giấy
gọi cho dự (...) Người có một cái gì văng vắng. Tôi đã có đứng với nhóm Đang cầm
đầu. Tôi đã ly khai với "lý tưởng" đó. Cả khi đứng ở đó, cả khi ly
khai, cả bây giờ, tôi vẫn cứ rớm máu. Chao ơi! Con đường để đi đến chỗ
"Đúng" mới nhiều máu làm sao? Tương lai có để dành cho tôi nhát dao
nào nữa không? Đang đã thấy cái sai lớn của Đang chưa? (...)
Ngoài trời mưa bụi. Rét xoàng. Không có gió. Đôi lúc
vài tiếng chuông xe đạp. Năm nay rét muộn. Đang ra tòa cuối năm. Tôi cũng không
thể nào nhởn nhơ với sự kiện này. Chao ơi! Con đường để đi tới chỗ
"Đúng" mới nhiều máu làm sao?"
Biện pháp thanh trừng đối với trí thức: Các đấu trường khác
Un excommunié (Kẻ bị khai trừ) của Nguyễn Mạnh Tường thuật
lại những nổi trôi của một người trí thức có lòng với đất nước, trong buổi đổi
đời. Tác phẩm phản ảnh phong cách và tư tưởng của một kẻ sĩ bất phục tòng, mô tả
sự hèn mạt và tráo trở của những phường mũ mão cân đai và chứng minh thế nào là
lòng yêu nước đích thực. Qua biện pháp kỷ luật mà nhà cầm quyền dành cho ông,
chúng ta có thể đoán được chính sách đối xử với những nhà trí thức khác như
Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh...
Sau Nhân Văn, Nguyễn Mạnh Tường đã trải qua ba "đấu trường"
(corrida): Mặt trận Tổ quốc, Đại học và Đảng. Tại mỗi đấu trường, ông phải trả
lời về tội trạng của mình.
Đấu trường đầu tiên là phòng họp của Mặt trận Tổ quốc ở phố
Tràng Thi, được ông mô tả như sau:
"Tôi đã có nhiều dịp tới đây dự các cuộc họp, hồi tôi
còn ở trong nhóm những người được sủng ái được ngồi bên cánh phải của Người
(Seigneur). Tôi biết rõ tất cả những vị "đồng liêu" ("mes
pairs") sẽ quyết định số phận của tôi hôm nay!
Lần này, tôi vào phòng họp như con bò mộng bị thả vào đấu trường
(corrida). Đúng là một đấu trường bởi vì tất cả bàn ghế đã được xếp dẫy dọc tường,
chừa một chỗ trống giữa phòng. Sau dẫy bàn, là đám đông nhiều hạng người. Những
người ngồi là thành viên của Mặt trận, đứng là những kẻ hiếu kỳ, phần đông là
nhà báo, hoặc các cơ quan hội đoàn. Đó là thứ quần chúng đấu trường, thèm cảm
giác mạnh và sôi sục ham muốn thấy quang cảnh lạ lùng khó tả sắp diễn ra!
Như con bò mộng thả trong đấu trường, tôi đưa mắt nhìn một lượt
cử tọa. Nếu những người đứng, trố mắt nhìn và lắng tai nghe, thì những vị
"đồng liêu" của tôi ngồi sau dãy bàn, có vẻ ngượng nghịu với nhiệm vụ
mà họ chưa quen lắm. Tuy những câu hỏi đã được các vị "có thẩm quyền"
soạn sẵn, nhưng trong cách diễn tả, giọng họ có chút bối rối. Tôi không khỏi
thương cho họ bị rơi vào hoàn cảnh trái khoáy này" (trích dịch Un
Excommunié, trang 151-152).
Biết rõ bản lĩnh của mình, luật sư Nguyễn Mạnh Tường cảm thấy
hoàn toàn thoải mái trong việc tự biện hộ, ông nắm chắc phần "thắng"
trước những đối thủ tầm thường, đuối lý, không đáp lại được những lời hùng biện
của người luật sư đầy kinh nghiệm.
Ông Nguyễn Mạnh Tường (DR)
Ngày hôm sau, đấu trường Đại học diễn ra trong
không khí công cộng, mọi hạng người đều có thể tham dự. Hàng ngàn sinh viên,
nhân viên trong đại học, nhà báo, những kẻ hiếu kỳ, bọn lang bang, đến kín chật
hành lang, giảng đường, muốn dự kiến buổi "xử tử một trí thức nổi tiếng
ở Hà Nội". Lần này quan tòa không ngồi bàn, mà thay phiên nhau bước lên giảng
đàn.
Nếu bên Mặt trận Tổ quốc còn có chút nể mặt ông,
chưa làm quá lộ liễu, thì ở đây, ông thấy rõ:
"Người ta muốn kéo tên tôi xuống bùn đen, họ muốn chỉ rõ
tội ác của tôi để biện minh trước cho sự trừng phạt mà họ sẽ dành cho tôi. Và đồng
thời, để răn đe tầng lớp trí thức, để cải tạo họ, bắt họ tuân thủ vô điều kiện
những mệnh lệnh và quyết định của đảng, theo đúng đường lối chính thống cộng sản.
Tất cả mọi vi phạm vào nguyên tắc thần thánh này sẽ bị trừng phạt nghiêm ngặt,
dù cho thủ phạm đã có công lớn như thế nào đối với tổ quốc và cách mạng.
Dưới chân giảng đàn mà tôi đã trải qua những giây phút đẹp nhất
đời tôi, tôi được thấy những điều tồi tệ nhất. Tôi thấy, không những người ta
muốn trừng phạt tôi - xin lỗi - cải tạo tôi, mà còn hơn nữa: họ muốn dìm tôi xuống
địa vị một phạm nhân dưới chân cái bục mà thời vàng son tôi đã đứng, bắt tôi
nghe những lời thoá mạ mỉa mai cay độc của những kẻ không phải là đồng song với
tôi như ở Mặt trận mà là những đứa nhãi ranh không biết lượm được ở đâu, một
vài kẻ hình như đã học tôi." (trang 173-174).
Những lời đấu tố thô bỉ người thày, không được Nguyễn Mạnh
Tường nhắc lại, ông chỉ ghi lại cuộc tranh luận của ông với một sinh viên học trò
cũ và một nhà giáo trung học nhờ chạy chọt, được lên dạy đại học, vì những vấn
đề họ đưa ra, có chỗ đáng bàn. Và ông vẫn vận dụng kiến thức của mình để thuyết
giảng. Ông thấy mình như đã chiếm được cảm tình của số đông cử tọa, qua ánh mắt
của họ.
Đấu trường Đảng xảy ra trong không gian kín, không có quần
chúng tham dự. Có lẽ người ta thấy bất lợi khi đưa ông ra trước công chúng:
không những ông không bị bôi nhọ mà dường như ông còn được quần chúng ủng hộ.
Trong đấu trường thứ ba này, Nguyễn Mạnh Tường phải trả lời ba vị quan tòa về Thái
độ của người trí thức trong thế giới cộng sản. Câu hỏi chính đặt ra trong buổi
thẩm vấn là: Sau chín năm theo cách mạng, đồng chí đã gặt hái được những thành
quả không nhỏ và được sự trọng đãi của Đảng và nhà nước, thay vì hưởng thụ những
đặc quyền mà Đảng đã dành cho, tại sao đồng chí lại đứng lên chống Đảng?
Và đây là lời vấn đáp cuối cùng giữa người hỏi cung và Nguyễn
Mạnh Tường, trong buổi đối chất trước toà án Đảng
Người chất vấn:
" - Đồng chí không thể không biết những gì đang chờ đợi.
Nhà nước chỉ chấp nhận một thái độ duy nhất của trí thức. Đó là thái độ theo
đúng đường lối chính thống, tin vào Đảng, trung thành với Đảng, suy nghĩ, cảm
nhận, hành động, theo chiều hướng và cung cách mà các cấp lãnh đạo đã quy định.
Bất luận kẻ nào đi ra ngoài con đường này là bị rơi vào tà thuyết và sẽ bị trừng
trị như những kẻ phản động bán nước. Đây là cơ hội cuối cùng để đồng chí hối cải
về sự cả gan và bất cẩn của đồng chí. Hãy nắm lấy!"
Nguyễn Mạnh Tường trả lời:
"- Mỗi người chịu trách nhiệm về hành động của mình. Nếu
xã hội, tức là nhân dân, đạt tới một trình độ văn hóa cao, có mức nhận thức
trong sáng, thì những cả gan của một tư tưởng khác với đường lối chung sẽ không
bị trừng phạt, mà ngược lại sẽ được khuyến khích, bởi sự tiến bộ của dân tộc
tùy thuộc vào những cả gan này. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng không bao
giờ số đông quần chúng có thể khai quang được một lối đi trong rừng rậm của dốt
nát, thành kiến, hèn hạ, để tiến lên một bước về phía ánh sáng mặt trời. Trong
thành Athènes, kinh đô của hiền triết, Socrate đã phải uống cạn cốc độc cần, để
lại bài học cho những trí thức trên thế giới suy nghiệm và noi theo: người trí
thức phải giữ vai trò tiên phong, hướng đạo trên con đường khó khăn và nhọc nhằn,
để dẫn dân tộc đến niềm vui và hạnh phúc.
Nước ta đã phải chứng kiến sự thâm nhập của một chủ nghĩa ngoại
bang hoàn toàn không bắt rễ từ quá khứ dân tộc. Bao nhiêu nhà ái quốc lớn mà mọi
người đều kính phục đã bảo vệ, đã bênh vực, đã bảo trợ cho chủ nghiã này, họ đã
đưa nó ra rồi bắt dân chúng phải thừa nhận, bằng cách hứa hẹn nó là chìa khóa mở
cửa vào thiên đàng trần thế. Quần chúng tin vào lời nói của lãnh đạo và chờ đợi
sự thực hiện những lời hứa. Chính nhờ vào sự đồng tình, vào những cố gắng, những
hy sinh của của toàn dân mà đất nước đã giành được độc lập và tự do. Những cánh
tay làm việc và những cái đầu suy nghĩ đã là rường cột cho đảng cầm quyền.
Bất hạnh thay, con đường chúng ta đi không bọc nhung. Hợm
mình trước những chiến công hiển hách mà họ tưởng đã đạt được nhờ chủ nghiã
mác xít, những người lãnh đạo đã xây dựng nền móng và áp dụng sâu rộng hơn chủ
nghiã này trong tất cả các ngành, không cần đếm xỉa đến khoa học và thực tế,
tuy vẫn hô hào kính trọng giáo dục. Cuộc cải cách ruộng đất đưa đến những sai lầm
nghiêm trọng mà những người cầm quyền phải chịu trách nhiệm. Sự đói khổ của
nhân dân đã đến mức khốc liệt, vậy mà những kẻ trách nhiệm vẫn khoác lác rêu
rao những điều ngược lại.
Trước bi kịch này, thái độ của trí thức phải thế nào? Có kẻ bịt
mắt đút nút lỗ tai để đồng thanh phụ họa với bọn cơ hội và phỉnh nịnh, luôn miệng
kêu gào: "Cộng sản thắng lợi. Đảng Cộng sản muôn năm". Những kẻ này
hy vọng được ân sủng đến ba đời. Công chúng biết rõ và khinh họ. Nhưng những khối
óc biết nghĩ và và những trái tim yêu tổ quốc và dân tộc không thể nhẫn nhục chịu
đựng - trong im lặng và thụ động - những cay đắng của khát vọng không thành và những
giấc mơ bị chà đạp. Họ lên tiếng tố cáo những sai lầm và đề nghị những biện
pháp sửa đổi. Họ được cám ơn bằng những cú roi quất, bằng tù tội suốt đời, họ bị
kết tội phản đảng, phản cách mạng, là kẻ thù của nhân dân! Sự an ủi duy nhất của
họ là được quần chúng hiểu, ái ngại, nhưng không làm gì cho họ được. Họ phải đợi
sự phán đoán của Lịch sử".
Và ông viết tiếp:
"Không một lời tuyên án. Những người cộng sản ưa bí mật.
Lệnh được quyết định và thi hành trong yên lặng chết chóc. Công chúng không biết
gì cả: bí mật được giữ trọn để khỏi khơi lên những tình cảm vô ích, những xao động
đáng tiếc! Họ đã tiên đoán tất cả và hành động kịp thời!" (Un
excommunié, trang 226- 229).
Quyển "Un Excommunié"
của tác giả Nguyễn Mạnh Tường
Ba đấu trường. Không có án. Nguyễn Mạnh Tường đã phải xuyên
qua hơn ba mươi năm sa mạc từ 1958 đến 1990. Bị khai trừ khỏi đại học. Chiếc xe
đạp đi dạy bị lấy lại. Không được mở lớp dạy tư để kiếm tiền. Phải bán dần đồ đạc
trong nhà. Sống trong đói khát. Bệnh tật. Bạn bè xa lánh. Người quen đổi vỉa
hè.
Nhưng trong đêm khuya tăm tối vẫn có những đốm lửa lóe
lên: "Thỉnh thoảng, sáng thức dậy mở cửa tôi thấy ai đã nhét vào kẽ cửa
một phong bì đầy tiền. Chúng tôi cảm động rơi nước mắt, tuyệt vọng vì không thể
cám ơn ân nhân được bởi có biết họ là ai. Hay có những hôm tôi đi dạo lúc trời
nhá nhem. Luôn luôn vẫn có cớm theo dõi đằng xa. Bỗng một chiếc xe đạp đạp rất
nhanh, sát bên tôi, nhét vào tay tôi một phong bì hay một gói nhỏ rồi biến mất.
Tất cả chỉ trong nháy mắt". (Un excommunié, trang 335).
Những đốm lửa hy vọng đó đã nuôi sống nhà trí thức trong suốt
cuộc đời còn lại.
Chân dung nữ văn sĩ Thụy An (Ảnh: DR)
"Mặc bao cuộc hưng tàn phế đổi
Vẫn đăm đăm một đợi, một chờ
Mẹ con hóa đá trơ trơ
Mẹ là tin tưởng, con là tương lai.
Đó là tâm trạng Tô Thị hóa đá, mà cũng là tâm trạng của tôi
suốt 15 năm cho đến mãi mãi." (Thụy An)
Thụy An là khuôn mặt nổi trội, bị kết án nặng nề nhất. Trường
hợp của bà giống như một bi kịch Hy Lạp, và cho đến nay, chưa mấy ai hiểu được
những khúc mắc ở bên trong.
Thụy An là ai?
Là phụ nữ duy nhất, không viết bài cho NVGP, nhưng tên bà bị
nêu lên hàng đầu trong "hàng ngũ phản động", bà bị quy kết là
"gián điệp quốc tế", lãnh án 15 năm tù cùng với Nguyễn Hữu Đang. Những
lời thoá mạ nhơ bẩn nhất dành cho bà "Con phù thủy xảo quyệt" cùng
những lời lẽ độc địa nhất: "Như vắt ngửi thấy máu, Thụy An như rắn bò
tới các câu lạc bộ Hội Nhà văn phun nọc độc mạt sát chế độ ta bần cùng hóa nhân
dân" (Bàng Sĩ Nguyên, BNVGPTTADL, trang 120).
Tại sao lại có sự căm thù ghê gớm đối với nhà thơ, nhà văn,
nhà báo phụ nữ tiên phong của Việt Nam? Người đầu tiên thực hiện nữ quyền bằng
ngòi bút và hành động. Người chủ trương giải phóng phụ nữ không bằng lý thuyết
mà bằng việc làm. Người xác định vị trí phụ nữ như một công dân tự do, thấm nhuần
tinh thần dân chủ.
Một trang báo trích lời văn sĩ Thụy An (Ảnh: DR
Đáng lẽ bà phải có chỗ đứng xứng đáng trên văn đàn, bởi bà là
nhà báo đầu tiên chủ trương các tờ Đàn bà mới, tại Sài Gòn, từ 1934,
và Đàn bà, Hà Nội, 1937. Bà là nhà văn nữ tiên phong với tiểu thuyết Một
linh hồn, 1942. Nhưng cho đến nay, chính quyền chưa hề trả lại cho bà phần danh
dự bị bôi nhọ trong hơn nửa thế kỷ, với những lời nhục mạ tàn nhẫn, một
cái án 15 năm phi lý, và cho đến chết bà vẫn chưa hề được phục hồi danh dự.
Để tìm hiểu về Thụy An con người và tác phẩm, chúng tôi đã
liên lạc với hai con bà, ông Bùi Thụy Băng, nguyên chủ nhiệm kiêm chủ bút nguyệt
san Atlanta Việt Báo, tại Hoa Kỳ; bà Bùi Thư Linh, tại Paris; và sử dụng bản tiểu
sử Thụy An do Trinh Tiên (bạn thân của Thụy An) viết ngay sau khi Thụy An qua đời
năm 1987, nhưng đến 1998, gia đình mới nhận được, đăng trên Atlanta Việt Báo
Xuân Ất Dậu, 2005.
Thụy An (bút hiệu khác: Thụy An Hoàng Dân), tên thật là Lưu
Thị Yến, sinh năm 1916 tại Hà Nội, là con ông bà Lưu Tiến Ích và Phùng Thị Tôn,
quê gốc làng Hoà Xá, quận Vân Đình, tỉnh Hà Đông. Thuở nhỏ học trường Hàng Cót,
Hà nội. Năm 1929, 13 tuổi, Yến đã có thơ đăng trên Nam Phong. 1932,
16 tuổi, được giải thưởng văn chương của Triều đình Huế. Năm 1934, 18 tuổi, Thụy
An kết hôn với Bùi Nhung, nhà văn kiêm nhà giáo, bút hiệu Băng Dương, là em ruột
học giả Bùi Kỷ và bà Trần Trọng Kim, sinh 7 con, một người mất sớm: An Dương
(1934), Thụy Băng (1937), Thư Linh (1938), Dương Chi (1939), Ngọc Trinh (1943)
và Châu Công (1945). Ông Bùi Nhung hai lần làm giám đốc đài phát thanh Hà Nội từ
1948-49, và 1951-52, rồi giám đốc đài phát thanh Hải Phòng năm 1954 (trong thời
gian 180 ngày trước khi vĩ tuyến 17 khép lại).
Cũng năm 1934, 18 tuổi, Thụy An bắt đầu nghề báo, cùng chồng
lập tuần báo Đàn bà mới ở Sàigòn. 1937, ra Hà Nội, chủ trương tờ Đàn
Bà. Theo Trinh Tiên, năm 1939, bà làm chủ nhiệm báo Phụ Nữ Tân Văn ở
Sài gòn. Trong chiến tranh Việt Pháp, Thụy An là phóng viên chiến tranh, tham
dự nhiều cuộc nhảy dù ra mặt trận để cung cấp tài liệu cho báo chí. 1954, bà giữ
chức quyền giám đốc Việt Tấn Xã.
Thụy An - Băng Dương sống ly thân từ 1949, nhưng không ly dị
vì cả hai đều theo đạo công giáo. Bà có quan hệ mật thiết với ông Đỗ Đình
Đạo, một nhân vật quan trọng của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nhưng Thụy An và Đỗ
Đình Đạo không bao giờ chung sống cùng nhau.
Thụy An và Đỗ Đình Đạo chia tay năm 1952. Nhưng đến 1954, khi
Đỗ Đình Đạo bị đầu độc chết, dư luận buộc tội bà giết chồng, và chính những lời
vu cáo này, sẽ được thổi phồng và sử dụng chống bà sau 1954.
Ảnh chụp nhà văn Thụy An năm 1942 (T)
và năm 1954 (P). (Ảnh: DR)
Về biệt hiệu Thụy An Hoàng Dân, Bùi Thụy Băng, giải thích:
Phan Khôi và Thụy An là hai người bạn vong niên từ lâu (Thụy An kém Phan Khôi
29 tuổi). Biệt hiệu Chương Dân của Phan Khôi và Hoàng Dân của Thụy An, là cùng
để tưởng niệm đến một người anh hùng, có tên là Chương Hoàng Dân hay Hoàng
Chương Dân.
Tác phẩm
Thụy An là tiểu thuyết gia phụ nữ duy nhất được Vũ Ngọc Phan
lựa chọn trong bộ Nhà văn hiện đại, với tác phẩm Một linh hồn (xuất
bản 1943). Trong bài phê bình dài dành cho tác phẩm Một linh hồn, Vũ
Ngọc Phan nhận định: "Là một nhà thơ, nhưng bà là người đi tiên phong
trong địa hạt tiểu thuyết với cuốn Một linh hồn" và ông kết luận
"Một linh hồn cũng đáng kể là cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất của phụ nữ Việt
nam từ trước đến nay, tác giả đã giàu tưởng tượng, truyện lại xây dựng một cách
vững vàng, chắc chắn".
Về cuốn tiểu thuyết thứ nhì, Bốn mớ tóc (1952),
Trinh Tiên nhận xét: "Đây là tập truyện gồm nhiều đoản tác: "Một
thương", "Bà mẹ", "Cô con", "Mớ tóc"... Tác
giả cố ý nêu cuộc sống dân tộc trong buổi giao thời, mọi sinh hoạt đan che nhau
giữa mới và cũ. Điển hình như một mái tóc phụ nữ. Cổ thì để dài vấn trần hoặc vấn
khăn búi tó; mới thì cắt ngắn hoặc uốn quăn..." (Tiểu sử Thụy An,
Trinh Tiên, Atlanta Việt Báo Xuân Ất Dậu, 2005).
Truyện ngắn của Thụy An in rải rác trên các báo tại Hà Nội.
Phần lớn, chưa tìm lại được như: Chiếc cầu chân chó, Les vingt cinq
meilleures histoires du monde bằng tiếng Pháp, do Hội Văn Bút Quốc Tế xuất
bản năm 1954 hoặc 55. Một cuốn sách bà viết về gia đình, gửi một tờ báo ở San
José in năm 1985. Tác phẩm Vợ chồng...
Một vài truyện được ghi lại như: Giết chó (in lại
trên Khởi Hành, Hoa Kỳ, số 77, tháng 3/2003; in lần đầu trên Tạp chí Phổ thông
của hội cựu sinh viên trường Luật Hà Nội, số 19-20 tháng 6-7/1953). Tác phẩm viết
về hiện tượng cách mạng ra lệnh cho dân chúng đồng loạt giết hết chó để có thể
đột nhập vào làng ban đêm mà không bị tiếng chó sủa phát giác, nhưng đồng thời
cũng kết án hành động đen tối này như một cuộc thủ tiêu đàn chó vô tội.
Lại Nguyên Ân sưu tầm được một số tác phẩm của Thụy An trong
thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, đã công bố trên Talawas, gồm những bài: "Nhân
xem phim "Anh gắng nuôi con, đặt lại vấn đề Tân hiện thực", tiểu
luận phê bình điện ảnh (Văn Nghệ, số 142, 11/10/1956) Chuyện bố, mẹ, bé và
con búp bê, truyện ngắn (Trăm Hoa, 25/11/56), Chiếc lược, thơ (Trăm
Hoa, 2/12/56). Trong thời kỳ Nhân Văn, bà có in một tập truyện ngắn, theo bài
buộc tội của Vũ Đức Phúc, có những truyện như: Trường hợp tòng quân của
thiếu úy Lâm, Bích-xu-ra...
Bài tiểu luận phê bình phim Anh gắng nuôi con của
Nhật Bản, chứng tỏ không những Thụy An thông thạo tình hình điện ảnh thế giới
sau đại chiến, đặc biệt hai nền điện ảnh Tân hiện thực của Ý và Nhật Bản, mà
còn có những phân tích sắc bén, sâu xa về sự phục vụ của điện ảnh trong đời sống
con người.
Thơ văn sáng tác trong tù
Trong bài "Thụy An, mẹ chúng tôi" viết cuối
năm 1988, sáu tháng trước khi mất, dùng giọng các con để viết về mình, bà có
nói đến việc sáng tác trong tù:
"Bên cạnh cái án đó là nỗi đau khổ của một người mẹ lìa
xa con cái 30 năm trời, chưa hề biết mặt 17 đứa cháu nội, ngoại, cũng chưa được
ẵm đứa chắt đầu tiên vừa mới ra đời. (...) Lại cũng cần phải nói ngay, không vì
bị 15 năm mất tự do và treo bút vô thời hạn mà Mẹ chúng tôi phải "tìm tự
do", tìm "đất sống" cho những thứ mình viết ra hầu hết trong thời
gian bị tù. [Ý bà muốn nói việc in sách tại hải ngoại]
Khởi sự bị giam cầm, Mẹ chúng tôi trong một thời gian ngắn có
bị khủng hoảng tinh thần trước tai biến bất ngờ quá ư to lớn đối với một
người đàn bà. Song Mẹ chúng tôi đã kịp thời trấn tĩnh lại, nhận tai biến như một
cái Nghiệp (...) Mẹ chúng tôi coi tai biến như một cái giá phải trả cho cho sự
may mắn được làm người, mà lại làm người Việt Nam có một thứ ngôn ngữ "đẹp
nhất trần đời", dễ học nhất thế giới, có sức diễn đạt truyền cảm, thẩm thấu
suốt tâm hồn dân tộc đến nỗi:
Một người mẹ không biết một chữ A,
Cũng biết hát những lời thơ hay nhất" (thơ Thụy An
trong Trường Ca Tiếng Mẹ)
(...) Từ ngày anh em chúng tôi biết đọc, Mẹ chúng
tôi vẫn tự hẹn sẽ kể cho các con nghe những chuyện cổ tích Việt Nam để khối óc
trinh tuyền của con cái được thâm nhập ngay tính nhân hậu, hiền hoà, thơ và mộng,
trí và dũng của dân tộc... Thời kỳ mẹ chúng tôi có ý định này, vào thập niên
30-40, chính là thời kỳ văn học Việt Nam đang tiến lên hiện đại hoá cả hình thức
lẫn nội dung, một sự tất yếu phải nhiệt liệt đón chào. Chỉ tiếc một điều, trên
con đường hiện đại hoá, những vốn cổ dân tộc: Trê Cóc, Lục Súc Tranh Công, Vợ
Cóc, Vợ Tranh, Châu Long, Tô Thị, v.v... bị lãng quên...
Thế rồi suốt 20 năm sau, cuốn vào thời cuộc thế giới, của đất
nước và nghề báo chí, Mẹ chúng tôi chưa thực hiện được ý định. Phải đợi vào nhà
tù Cộng sản, Mẹ chúng tôi mới khởi công làm cái việc tha thiết nhất một đời..." (Atlanta
Việt Báo, 15/12/2004)
Như vậy, những sáng tác trong tù của bà có thể rất phong phú,
ngoài 16 truyện cổ tích Việt Nam viết bằng thơ, bà vừa nhắc đến, nói lên chí
khí và tâm sự của mình mà bà coi như tập "Nhật ký trong
tù", còn có tiểu thuyết và biên khảo. Thơ của bà cũng trong tình trạng
tứ tán thất lạc. Theo Trinh Tiên: "Thụy An sáng tác thơ cũng rất nhiều,
phần đăng rải rác trên các báo, phần vẫn còn trong bản thảo. Bài thơ trường
thiên tựa đề "Sao lại mùa thu". Rồi như bài "Ân thiên nhất đẳng"
tặng Thái Bằng có giọng ca thiên phú độc đáo...". Về các sách chưa xuất
bản, Trinh Tiên nhắc đến 2 cuốn tiểu thuyết: Người lãnh tụ, Phiên chợ trời
Đanh Xuyên, và 2 cuốn biên khảo: Bùi Thị Xuân và Vợ chàng
Trương, có lẽ đó những sách bà đã viết trong tù, không biết bây giờ thất lạc
ở đâu.
Những lời buộc tội
Trong những lời buộc tội, có hai loại: loại "gián điệp
quốc tế" -mà không hề đưa ra bất cứ một bằng chứng cụ thể nào về việc
này- quá dễ dàng, có thể gán cho ai cũng được, chúng ta không cần bàn đến. Loại
thứ nhì dựa trên một vài sự kiện có thực rồi khuếch trương lên, chính loại này
đã tác hại lên danh dự của Thụy An. Loại này xoay quanh ba dữ kiện:
- Bà quen nhiều người Pháp.
- Bà di chuyển thường xuyên trên trục Nam Bắc.
- Người ta đồn bà giết ông Đỗ Đình Đạo, một yếu nhân của
VNQĐD, để tỏ "lòng trung thành" với cách mạng.
Xuân Dung viết:
"Hồi Hà Nội tạm chiếm, nó bỏ Băng Dương, hiện nay là tay
chân "đắc lực" của Mỹ Diệm, và lấy Đỗ Đình Đạo (một tên Quốc dân đảng
đã từng chống lại chính quyền dân chủ nhân dân và tàn sát đồng bào ta ở Vĩnh
Yên, Phúc Yên hồi Cách mạng tháng Tám). Lúc này tên phản quốc Đạo đang chỉ huy
những đội "quân thứ hành chính lưu động" của Pháp chuyên đi càn quét
các vùng. Và nó được Đạo nâng đỡ, cất nhắc lên chức quyền Giám đốc Việt tấn xã
của ngụy quyền.
Một tờ báo xuất bản thời ngụy quyền, ra ngày 8/8/1954 có viết:
"thường thường bà Thụy An đi lại trên đường hàng không Hà Nội - Sài Gòn nhiều
lần và hành tung bí mật như đời sống riêng của bà..."
Hàng tung của con mẹ phù thủy ấy là đi máy bay dự các cuộc nhảy
dù và ra khắp các mặt trận để cung cấp tin tức cho nhiều đài và báo địch; còn đời
sống riêng là luôn luôn ra vào buồng những thằng Tát xi nhi, Cô nhi... Cuối
1953, nó liên lạc chặt chẽ với tụi tơ rốt kít Hồ Hữu Tường và cổ động tích cực
cho báo Đông phương với nội dung tuyên truyền thuyết "trung lập chế"
(trung lập hay chính là tay sai cho đế quốc?).
Trước hòa bình lập lại ít ngày, đùng một cái, người ta nghe
tin Thụy An giết Đỗ Đình Đạo; mà lúc đó có tờ báo trong Hà Nội đã nêu lên với một
đầu đề lớn "Tiền, tình hay chính trị". Vì gì thì vì, có điều nhất định
không vì chế độ dân chủ nhân dân của chúng ta rồi! Đỗ Đính Đạo tên trùm GAMO
(quân thứ hành chính lưu động) vừa bị giết được hai ngày, có người (hiện đương ở
Hà Nội) lại trông thấy Thụy An ngồi chung xe với tên tướng giặc Cô Nhi, ấy
là chưa kể còn có tin nó vào Sài Gòn rồi lại trở ra Hà Nội, 1 tháng trước khi
tiếp quản.
Giải phóng thủ đô, nhiều người lạ lùng vì sự có mặt của
con này. Riêng cái việc xuống Hải Phòng khi ta chưa tiếp quản, rồi lại về Hà Nội một cách đàng hoàng cũng đủ cho chúng ta suy nghĩ (...) Việc đầu tiên là
luôn luôn lấy việc giết Đạo để tỏ lòng "trung thành" với cách mạng" (Xuân
Dung, Con phù thủy xảo quyệt: Thụy An, báo Thủ Đô 23/4/58; Bọn Nhân Văn
Giai Phẩm Trước Tòa Án Dư Luận, trang 42-43).
Cách viết trên đây rất thâm độc: tác giả dựa vào một vài sự
kiện có thật như việc Thụy An hay ra vào Nam Bắc, và cái chết bí mật của Đỗ
Đình Đạo, được báo chí loan tin, để tạo cho người đọc cái cảm tưởng là mọi việc
có thật; nhưng lại chêm vào những chữ: nghe tin, có người trông thấy, ấy
là chưa kể... để chứng tỏ mình (người viết) vô can. Không kể những điểm vô lý
như: Nếu ông Đạo là trùm GAMO của Pháp thì sao Thụy An lại không bị Pháp bắt,
vì giết Đỗ Đình Đạo, mà lại đàng hoàng đi xe với tướng Cogny? Việc bà "luôn
luôn lấy việc giết Đạo để tỏ lòng trung thành với cách mạng" thật
đáng ngờ, vì trong những phát biểu của Thụy An, cho đến lúc chết, chưa bao giờ
bà "tỏ lòng trung thành với cách mạng".
Tất cả những lời đồn đại ác ý làm cho bà bị mang tiếng
"giết chồng", sau này trong bài tự thú, Phùng Quán viết "tôi có
biết Thụy An trước đây đã giết chồng" và cả Lê Đạt cũng viết "lúc
đầu rất ghê tởm Thụy An". Tiếng oan "giết chồng" là bi kịch
đầu tiên của Thụy An.
Gia cảnh Thụy An và cái chết của Đỗ Đình Đạo
Bùi Thụy Băng cho biết về hoàn cảnh gia đình và tình trạng sức
khỏe của người mẹ: "Là đứa con trai thứ nhì, tôi là người gần mẹ tôi
nhất vì từ năm 1943 trở đi mẹ tôi bệnh tật luôn luôn. Mới 6 tuổi tôi đã trông
nom mẹ tôi. Anh cả tôi là Bùi An Dương bị bệnh hen suyễn từ khi mới sinh ra nên
rất yếu đuối và mẹ tôi đã cho anh An Dương khi chưa đầy một tuổi, làm con nuôi
ông bà Trần Trọng Kim (cụ Bùi Kỷ và bà Trần Trọng Kim là anh, chị ruột của ba
chúng tôi)". (Điện thư ngày 15/12/2004)
Thụy An và Băng Dương ly thân từ năm 1949. Tại sao?
- Vì cha tôi không trung thành, ông có nhiều bà khác. (Bùi Thư
Linh, điện thoại, 17/10/2009)
Sau khi ly thân, ai nuôi các con?
- Mẹ nuôi các con, nhờ bà ngoại giúp đỡ, bác (gái) Trần Trọng
Kim cho vay tiền, nhưng mẹ vất vả lắm. (Bùi Thư Linh, nt)
Khi nào thì gia đình vào Nam?
- Năm 1952, đi bằng tàu thủy. Mẹ thường đi về Sài Gòn - Hà Nội
bằng máy bay, nhưng vé máy bay cho cả nhà đắt lắm, Mẹ mua vé tàu thủy cho các
con, nhờ người cậu dẫn vào Sài Gòn. (Bùi Thư Linh, nt)
Đến năm 1954, Bùi Thư Linh (16 tuổi) đi Pháp, tại sao?
- Tôi bị bệnh lao xương, Mẹ gửi tôi đi Pháp chữa bệnh ngày
20/5/1954.
Nhưng gia đình túng thiếu, lấy tiền đâu ra?
- Đi theo diện Pupille de la Nation (Nghiã tử Quốc
gia), chính phủ Pháp lo hết.(Bùi Thư Linh, nt)
- Tại sao Thụy An đem gia đình vào Sài Gòn năm 1952?
Bùi Thụy Băng: Vì ông Đỗ Đình Đạo. [Có thể hiểu là năm
1952 Thụy An đã chia tay với Đỗ Đình Đạo, và muốn tránh, bà đem các con
vào sống tại Sài Gòn].
- Tại sao Thụy An đã vào Sài gòn năm 1952, lại còn trở ra Hà Nội,
trước ngày tiếp quản? [Hội nghị Genève ký: 20/7/1954. Việt Minh tiếp quản Hà nội:
10/10/1954, tiếp quản Hải Phòng: 13/5/1955]
- Bùi Thụy Băng: "Từ năm 1952, Thụy An đã vào Nam, tại
vì ông Đỗ Đình Đạo. Ông Đỗ Đình Đạo là Giám Đốc Quân Thứ Lưu Động của Việt Nam
Quốc Dân Đảng từ 1950 đến 1954. Ông Đỗ Đình Đạo còn là bạn thân của ông cụ tôi,
trước khi mất, ông vẫn còn liên lạc với ông cụ tôi. Sau trận Điện Biên Phủ, ông
Đỗ Đình Đạo có lệnh của VNQĐD, phải ở lại Hà Nội để chống Việt Minh. Nhưng mẹ
tôi không biết chuyện đó.Nửa tháng trước khi Việt Minh tiếp thu Hà Nội, tôi
(lúc đó 17 tuổi) đưa bà cụ ra phi trường Sài Gòn để đi Hà Nội. Bà cụ tôi ra Hà
Nội vì tưởng rằng ông Đỗ Đình Đạo đã đi rồi. Bà cụ tôi nghĩ rằng ông ĐĐĐ không
còn ở Hà Nội". (Điện thoại, 16/12/2004)
- Thụy An ra Hà Nội với mục đích gì?
- Bùi Thụy Băng: Bà cụ tôi ra Bắc, với hai mục đích:
- Về quê mình để thu thập tất cả những gì quý báu nhất trong
nhà ông ngoại tôi.
- Thứ nhì, bà cụ tôi muốn đặt cái bản doanh chống lại chính
quyền ở Hòa Xá. (Điện thoại, 16/12/2004).
Nhờ những chi tiết trên đây, cuộc đời của Thụy An sáng tỏ
hơn: người phụ nữ ấy làm nghề báo để nuôi 6 con; là phóng viên chiến tranh, ở
cương vị quyền giám đốc Việt Tấn Xã, bà vào Nam ra Bắc thường xuyên; bà quen biết
những người như Sainteny (đại sứ), các tướng Tassigny, Cogny... và cũng nhờ họ,
bà xin được cho con gái sang Pháp chữa bệnh lao xương. Nhưng cũng chính vì việc
con gái sang Pháp với diện Pupille da la Nation mà sau này trong vụ
án NVGP, bà lại càng bị quy kết làm "gián điệp" cho Pháp.
Như vậy, khi ra Bắc, Thụy An đã có chủ đích chính trị: đặt bản
doanh chống chính quyền cộng sản ở Hòa Xá là quê hương bà, nơi có những người
tin cẩn nhất, và Hoà Xá cũng là một trong những làng có truyền thống chống cộng.
Với hành động này, Thụy An trở thành nhà văn đầu tiên tổ chức chống
lại chính quyền cộng sản, trong lòng chế độ.
Bà không ở trong tổ chức của Việt Nam Quốc Dân Đảng, vì bà
không biết Đỗ Đình Đạo đã có nhiệm vụ ở lại chống Việt Minh. Vậy bà ra Bắc, là
theo chỉ thị của chính mình: "Tình nhà, tình nước bời bời/ Mẹ năn nỉ
giữa, nước đòi thiết tha". Và như lời Bùi Thư Linh: "Mẹ thương
các con lắm nhưng mẹ vẫn có cái lý tưởng của mẹ, không bỏ được".
Ở thời điểm 1954, hầu hết mọi người Việt Nam đều
nghĩ việc chia đôi đất nước sẽ chỉ trong một vài năm. Vì vậy, Thụy An đã nhờ mẹ
trông nom các con để ra Bắc hoạt động. Bà không ngờ đến cái chết của Đỗ Đình Đạo;
cũng không ngờ Nam Bắc chia đôi 20 năm; và lại càng không ngờ chính mình bị rơi
vào 15 năm tù tội.
Về cái chết của Đỗ Đình Đạo, Bùi Thụy Băng cho biết:
"Lúc đó, tôi từ Sài Gòn, ép bố tôi, còn đang là Giám Đốc
Đài Phát Thanh Hải Phòng, phải ký sự vụ lệnh cho tôi đáp máy bay ra Hải Phòng rồi
lấy xe lửa ra Hà Nội gặp mẹ tôi, vì cái chết của nhà cách mệnh VNQĐD Đỗ Đình Đạo. Nếu
bà cụ tôi đầu độc ĐĐĐ, thì chính quyền Pháp điều tra biết, họ cũng bắt ngay.
Khi truyện xẩy ra, ông ĐĐĐ ở nhà bà cụ tôi [ở Hà Nội] mà bà cụ tôi cũng không
biết. Nhà hai chị em mẹ tôi ở chung. Có thể bà dì tôi đã cho ông Đỗ Đình Đạo
trú ngụ (để trốn tránh) mà mẹ tôi không biết. Khi ông Đỗ Đình Đạo bị đầu độc
thì mẹ tôi đương ở Hòa Xá với một người bạn là bác Phụng, ở Ngõ Nhà Do (Impasse
d' Identité)". Mẹ tôi còn nói: "Bác chết nhưng mà xác bác chết còn
thơm hơn người sống". Mặc dù không bị bắt, nhưng Thụy An vẫn bị mang
tiếng "đầu độc chồng": "Đến anh tôi còn giận, không để hình
mẹ tôi trong nhà". (Điện thoại, 16/12/2004).
Chân dung nữ sĩ Thụy An đăng trên Atlanta Việt Báo
(Nguồn: atlantavietbao.com)
Tuổi trẻ thơ mộng
Trong bài tiểu sử Thụy An, Trinh Tiên viết:
"Hè 1932, cô Yến được cha mẹ cho học tư thêm. Thầày giáo
là một hàn sĩ người Quảng Bình, dáng dấp mảnh khảnh đầy vẻ cương nghị.(...)
Ông thầy giáo trẻ ấy đã bị trò Yến cùng các bạn trêu chọc gọi là "Anh đồ
Nghệ". Hơn thế, Yến còn làm thơ nhạo báng dí dỏm:
Khéo ghét anh đồ xứ Nghệ
Hơn mình mấy tí tuổi đầu?" (trích bài "Sao lại
mùa thu" của Thụy An)
(...). Nhưng chàng trai xứ Quảng này không chỉ là một hàn sĩ
hay một nhà mô phạm đơn thuần, mà còn là một người yêu nước thiết tha, một nhà
cách mạng chân chính. Cho nên trong những bài giảng đã gieo ảnh hưởng không ít
đến lớp học trò (...). Hơn thế nữa, chính người thầy giáo trẻ ấy lại là một chiến
sĩ hoạt động trong bóng tối. Chúng ta hãy lắng nghe lời thơ giới thiệu của Thụy
An về người anh hùng đó:
Hung hãn vọng vào tiếng bể
Hờn căm rít ngọn gió Lào
Anh mang trùng dương giận dữ
Anh mang hoang dại khô khan.
Và như:
Mắt anh hừng trí bốn phương
Tay run nắm hồn dân tộc
Tóc xòa vương hận núi sông
Môi bậm tai nghe rên xiết
Áo cơm dọa dưới cùm gông!
Thật sự, Thụy An đã hấp thụ tư tưởng cách mạng qua Thầy đồ
Nghệ:
... Rồi anh bắt đầu dẫn dắt
Dạy em khui lửa bất bình
Oán hận réo sôi lòng đất
Công lý tù đầy uất uất
Miếng cơm nghẹn họng nhân sinh... (Trích: Sao lại mùa
thu).
Thoảng chốc, lớp hè vài tháng trôi qua. Thày trò bịn rịn chia
tay. Riêng thiếu nữ Thụy An còn nghe lòng vương chút bâng khuâng, diệu vợi...
Nhưng lại là chút bâng khuâng rất nhẹ nhàng lờ lững... nó đã thoảng qua ngay
trong lứa tuổi 16 thơ ngây ấy... Và cũng bởi rằng: "làm thinh... anh vẫn thản
nhiên..." Còn chăng chút lưu luyến ở tâm hồn Thụy An là niềm cảm phục
trang thanh nhiên chí khí, cô đã kết ý thơ thành chuỗi nguyện cầu:
Nguyện mình hóa vải hóa bông
Thấm lau giòng máu anh hùng thơm tho
Máu anh đã rửa quốc thù
Máu anh viết trước bài ca khải hoàn (thơ Thụy An)"
(Trích tiểu sử Thụy An của Trinh Tiên, bđd)
Bùi Thụy Băng cho biết thêm:
"Người thầy giáo đề cập ở đây là Tướng Võ Nguyên Giáp.
Khoảng 1930, ông ngoại của tôi đã mướn người thầy giáo sử địa Võ Nguyên Giáp về
nhà kèm má tôi học. Năm 1933, má tôi theo thầy vô Nam - Ông Võ Nguyên Giáp muốn
đưa bà cụ tôi sang Trung Hoa. Nhưng má tôi lại gặp ba tôi ở Sài gòn và hai người
lấy nhau, sanh ra anh cả tôi là Bùi An Dương, năm 1934. Lúc đó ba má tôi đã xuất
bản tuần báo Đàn Bà Mới, nên má tôi trở về Hà Nội cho Anh tôi làm con nuôi ông
bà Trần Trọng Kim, để vô Nam tiếp tục lo tờ tuần báo. Năm 1937, ba má tôi trở
ra Hà Nội sanh ra tôi là Bùi Thụy Băng" (Điện thư 15/9/2004)
Theo tiểu sử chính thức, Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25/8/1911
(hơn Thụy An 5 tuổi). Năm 1931 ông ra Hà Nội học trường Albert Sarraut, sau đó
học Luật. Ông kết hôn với bà Nguyễn Thị Quang Thái, năm 1934 (bà Thái chết
trong hỏa lò Hà Nội năm 1943). Năm 1934, Thụy An cũng lấy chồng.
Như vậy, khoảng 1931-32, Võ Nguyên Giáp có thể đã dạy kèm Lưu
Thị Yến, tại nhà. Và đến hè 1932, nếu những lời ghi của Trinh Tiên là
đúng, thì cô Yến và các bạn còn học thêm Võ Nguyên Giáp trong một lớp hè. Bài
thơ dài Sao lại mùa thu của Thụy An, được Trinh Tiên trích dẫn, nói
rõ không khí lớp hè năm đó và sự "quyến luyến" mà trò Yến dành cho
người thày, đã gieo rắc vào tâm hồn cô gái 16, lý tưởng "cứu nước".
Lưu Thị Yến, lúc đó 16-17 tuổi, cũng đã nổi tiếng vì có thơ đăng trên Nam Phong
và được "giải thưởng văn học của triều đình".
Sự việc này hư thật ra sao, chưa có tài liệu chứng minh rõ ràng, nhưng trong bài phỏng vấn, Lê Đạt nói một câu khá nhiều ý nghĩa: "Chị Thụy An còn nói kín hở cho tôi biết rằng chị ấy đã từng tham gia kháng chiến! Việc liên lạc với kháng chiến trong thời ấy thì mình mất mối là chuyện bình thường, mà mất mối thì mình không thể chứng minh được." Điều chắc chắn là qua những câu thơ trong bài Sao lại mùa thu, Thụy An đã nói lên lòng ái quốc của chính mình với những lời thơ bất khuất: Tay run nắm hồn dân tộc/ Tóc xòa vương hận núi sông/ Môi bậm tai nghe rên xiết/ Áo cơm dọa dưới cùm gông!
Sự việc này hư thật ra sao, chưa có tài liệu chứng minh rõ ràng, nhưng trong bài phỏng vấn, Lê Đạt nói một câu khá nhiều ý nghĩa: "Chị Thụy An còn nói kín hở cho tôi biết rằng chị ấy đã từng tham gia kháng chiến! Việc liên lạc với kháng chiến trong thời ấy thì mình mất mối là chuyện bình thường, mà mất mối thì mình không thể chứng minh được." Điều chắc chắn là qua những câu thơ trong bài Sao lại mùa thu, Thụy An đã nói lên lòng ái quốc của chính mình với những lời thơ bất khuất: Tay run nắm hồn dân tộc/ Tóc xòa vương hận núi sông/ Môi bậm tai nghe rên xiết/ Áo cơm dọa dưới cùm gông!
Chí khí Thụy An
Bài Tôi về quên mất cả xuân sang, ký ngày 5
tháng 11 âm lịch 1951, viết tặng vợ chồng Trinh Tiên, là một bài trường ca, nói
lên chí khí của Thụy An. Bài thơ dài kể chuyện một đêm xuân ở Sài Gòn, nhớ Hà Nội,
nhà thơ bước vào vũ trường, gặp người vũ nữ ngày xưa là em gái bạn. Người vũ nữ
kể lại bi kịch của gia đình mình: Mẹ nàng có ba người con, sống trong êm ấm. Bỗng
đâu, phong ba xảy đến:
"Năm đi cho tháng theo lần,
Mà trong êm đã ngấm ngầm phong ba.
Gió cuốn lật úp sơn hà,
Màn che trướng rủ bỗng ra dãi dàu,
Gió đưa khăn gói về đâu?
Con đường vô định trước sau còn dài
- Tình nhà, tình nước bời bời
Mẹ năn nỉ giữa, nước đòi thiết tha.
Đã đành nghiã nặng mẹ cha
Nỡ vô tình lúc nước nhà ngửa nghiêng?
Chịu sinh làm gái vô quyên,
Nỡ mang cái tiếng yếu mềm, bó tay?
Ầm tiếng súng Sơn Tây vẳng lại,
Sôi má hồng, quăng thói nữ nhi,
Chị em phận sự hai chia
Em nuôi mẹ, chị ra đi chiến trường.
Lần thứ nhất mở đường ly tán,
Cũng từ đây, hoạn nạn gieo neo:
Nhìn nhau lặn suối, trèo đèo
Mẹ già em nhỏ đến điều gian truân.
Rồi người chị cả hy sinh trên chiến địa:
Tin đâu sét đánh thình lình
Chị yêu thôi đã bỏ mình phương xa,
Nơi chiến địa xác hoa phơi giãi,
Bài điếu văn cú gọi hồn ma
Một đi lìa cửa lìa nhà
Một đi thế cũng kể là trăm năm.
Người mẹ và hai con còn lại, cuốn trong gió lốc:
Thân vong gia giật dờ cánh gió...
Đoạn thảm thương lần giở thêm trang:
Một đêm đang lúc mơ màng,
Thức ra giặc đã khắp làng bao vây.
Mẹ con chúi bụi cây ẩn nấp
Đạn nổ tung, trời sập đất nhào...
Tỉnh ra tủi nhục làm sao!
Tấm thân thôi đã lọt vào tanh hôi!
Bên mình, mẹ vẫn ngồi mà chết
Đầu văng xa, máu thịt bét be
Xác em nguyên vẹn nằm kề
Tay níu mẹ, sợ đường về lạc chăng?
Chưa kịp khóc thì quân lang sói
Đã lôi em về mãi đồn xa...
Nhục thay là phận đàn bà
Trong cơn binh lửa mà sa tay thù!!
Thôi gập sách! Để cho kết liễu
Đoạn về sau thừa hiểu là đây"
Dứt lời, chỉ khẽ nhíu mày,
Bài ca hùng tráng, bi thương, ít có trong thời kháng chiến,
nói lên tất cả những khía cạnh con người của Thụy An. Giọng thơ mạnh mẽ, quyết
liệt: "Gió cuốn lật úp sơn hà". Hai chữ lật úp thật
là vũ bão. Rồi sự phân chia tình nước, tình nhà trong suốt cuộc đời bà: vừa
nuôi 6 con, vừa có chí lớn: "Tình nhà, tình nước bời bời/ Mẹ năn nỉ
giữa, nước đòi thiết tha". Sự lựa chọn của người phụ nữ trước tình thế đất
nước: "Nỡ vô tình lúc nước nhà ngửa nghiêng? Nỡ mang cái tiếng yếu mềm, bó
tay? Sự căm phẫn của người nữ anh hùng: Sôi má hồng, quăng thói
nữ nhi. Cái chết khốc liệt và của người nữ chiến sĩ: Nơi chiến địa
xác hoa phơi giãi/ Bài điếu văn cú gọi hồn ma. Quang cảnh kinh hoàng chết
chóc của người dân mất nước: Bên mình, mẹ vẫn ngồi mà chết/ Đầu văng xa,
máu thịt bét be/ Xác em nguyên vẹn nằm kề/ Tay níu mẹ, sợ đường về lạc chăng?
Thơ Thụy An nói lên chí khí của bà, nói lên sự quyết liệt khi
cần phải quyết liệt, nói lên cái hận mất nước, sự không chịu bó tay của người
phụ nữ. Sáng tác của bà từ truyện cổ tích đến truyện ngắn, tiểu luận, và nhất
là thơ, đã quét sạch những dòng nhơ bẩn viết về bà, giải thích tại sao Thụy An
không chịu lùi bước trước cường quyền và bạo lực.
Thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm
Những nhà văn, nhà trí thức được mời vào nhóm NVGP, là những
người đi theo kháng chiến từ đầu, kể cả những người không cộng sản như Phan
Khôi, Nguyễn Mạnh Tường. Thụy An vì ở trong thành, nên không được mời vào NVGP,
như Lê Đạt đã xác nhận.
Nhưng trong thời kỳ NVGP, bà thường xuyên ra vào các hội văn
nghệ, và có ảnh hưởng không nhỏ đối với những văn nghệ sĩ trẻ tham gia NVGP. Bà
liên lạc, nâng đỡ tinh thần, tích cực giúp đỡ anh em Nhân Văn, đặc biệt gia đình
Lê Đạt.
Lê Đạt viết trong lời "tự thú":
"Âm mưu của Đang sau này là biến thành nhà xuất bản Minh
Đức thành nhà in đối lập với Hội Nhà văn và tập họp nhóm Nhân văn quanh nhà
Minh Đức. Cũng giai đoạn này nổi bật vai trò Thụy An. Nhà Thụy An, Phan Tại như
một câu lạc bộ.
Về Hà nội tôi rất ghê tởm Thụy An. Nhưng sau khi bài thơ
“Nhân câu chuyện mấy người tự tử” Thụy An tìm gặp tôi rất niềm nở và mời đến
nhà bảo có nhiều sách mới.
Một thời gian dài tôi không đến. Nhưng từ sau khi “Cửa hàng Lê Đạt”,
tôi bị khai trừ khỏi Đảng, tôi bắt đầu lui tới đó. (...)
Thụy An đưa vợ tôi đi may áo, đi mua vải, may áo cho con tôi
và đi lấy cả một chiếc giường cũi cho con tôi. Thụy An nghiễm nhiên trở thành
thân thuộc với cả gia đình tôi. Mỗi lần tôi gặp Thụy An sau khi nói chuyện về
tư sản, tiểu thương bất mãn, chuẩn bị đi Nam, các tin BBC về hiệp thương, lại kể
chuyện Tassigny, chuyện các phóng viên chiến tranh, các tiểu thuyết tư sản, và
sau hết đả kích vào sự lãnh đạo của Đảng cho là hạn chế sự phát triển của tài
năng. Mỗi lần ở nhà Thụy An ra là mỗi lần tôi thấy mình tài giỏi thêm, oán Đảng
thêm và chán nản thêm". (Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958, Số đặc biệt thứ
hai chống Nhân Văn Giai Phẩm)
Thụy An dạy Phùng Quán học tiếng Pháp và tiếng Anh. Ảnh
hưởng của Thụy An đối với các nhà văn trẻ rất lớn, nhờ kiến thức và tài thuyết
phục, bà mở cửa cho họ vào với tác phẩm văn học Tây phương, vào kịch trường và
điện ảnh. Thời kỳ ấy, Thụy An ở chung nhà với Phan Tại. Theo Nguyễn Hữu Đang,
bà thuê những phim như Hamlet về chiếu. Bà cùng Phan Tại, dựng kịch Topaze của
Marcel Pagnol...
Phùng Quán viết trong lời "tự thú":
"Còn học Pháp và Anh văn thì tôi học với con mụ Thụy An,
và do đó tôi bắt đầu thân với mụ từ đấy. Khi được tin tôi đã ra bộ đội thì hắn
tỏ vẻ rất săn sóc đến việc học của tôi. Tháng đầu tôi còn bận viết thì mỗi lần
gặp tôi hắn đều thúc dục sao không đi học đi, tôi sẽ dậy cho Quán một tuần bốn
tiếng đồng hồ. Tháng thứ hai tôi đến học với hắn, cùng với một người bạn của
tôi là sinh viên. Trước khi đến học, tôi có biết Thụy An trước đây đã giết chồng,
làm phóng viên chiến tranh cho Pháp, đã đi máy bay lên Điện biên phủ. Nhưng đến
lúc này thì bản chất cách mạng của tôi đã không còn gì nữa, nên tôi thấy những
việc làm của mụ ta là việc thường. Đến học với hắn, tôi tỏ ý phục, và mỗi ngày
một cảm tình hơn. Tôi gọi hắn là chị với tất cả nghĩa của nó." (Văn
Nghệ số 12, tháng 5/1958)
Những lời Lê Đạt tuyên bố trên RFI 2004, tỏ rõ sự kính trọng
và lòng tri ân của Lê Đạt đối với Thụy An:
"Chị Thụy An chưa bao giờ ở trong Nhân Văn Giai Phẩm cả,
đó là dứt khoát. Nhưng chị Thụy An rất thân với anh em trong Nhân Văn Giai Phẩm
và đặc biệt là thân với tôi".
"Tôi có thể bảo đảm 100% chị ấy không phải là gián điệp.
Tại vì thế này: Nếu là gián điệp thì phải có chứng cớ chứ! Chị nhận tiền của
ai? Nhận tiền ở đâu? Liên lạc với ai? Cho đến bây giờ tôi vẫn thấy đó là một
câu hỏi mà nhà nước chưa trả lời tôi được".
"Tôi vẫn khao khát và thiết tha có một dịp nào đó, người
ta phục hồi chị Thụy An một cách chính thức. Không có thì riêng tôi, đối với chị
Thụy An, tôi vẫn cho là món nợ. (...) Riêng tôi không bao giờ tôi
quên công của chị Thụy An đối với tôi cả."
Bị bắt, Thụy An tự chọc mù một mắt.
Thụy An bị bắt ở đâu? Bùi Thụy Băng, cho biết:
"Tôi nghe nói bà cụ tôi bị bắt ở Hòa Xá. Nhưng theo lời
ông cụ tôi thì bị bắt ở Phủ Lý. Tại sao lại như vậy? Bởi vì khi thấy lâm nguy,
biết mình bị theo dõi, Thụy An thường di chuyển giữa Hà Nam - Phủ Lý (quê chồng)
và Hòa Xá - Vân Đình (quê mình) để trốn tránh". (Điện thoại,
16/12/2004).
Về việc bà chọc mù mắt, dư luận chính thức loan rằng bà
bị tai nạn ở mắt, khi đi lao động cải tạo.
Chúng tôi hỏi nhà thơ Lê Đạt, người rất thân với bà trong suốt
hành trình Nhân Văn Giai Phẩm: có phải trong Hỏa Lò chị Thụy An tự chọc mù mắt? Lê Đạt lặng lẽ gật đầu, không thêm một lời nào cả.
Bùi Thụy Băng cho biết: "Trong số những bài viết về
bà cụ tôi, có bài của Trần Minh, ở Bên Úc, tựa đề "Nhân văn giai phẩm, một
tư trào, một tội ác" đăng trong Giai phẩm (Việt Báo) xuân Tân Tỵ 2001, là
chính xác nhất. Với những chi tiết mà chính tôi trước đây cũng không biết: Vào
Hỏa Lò chưa được 3 tháng thì bà cụ tôi chọc mắt. Lý do là bởi phải ra hỏi cung,
đứng trước lá cờ đỏ sao vàng, người ta bắt bà cụ tôi phải cúi xuống, nhưng bà cụ
không cúi. Vào nhà giam, không có bút viết, bà cụ tôi lấy cái đinh guốc, viết
lên tường lời phản kháng:" Chọc mù mắt để không phải nhìn thấy cái chế độ
này nữa". Sau này có một người cũng bị giam tại căn phòng đó, đọc được và
ghi lại, một vài nhà văn có chép lại câu này trên sách báo". (Điện
thoại, 16/12/2004).
Thụy An bị giam tại Hoả Lò Hà Nội từ tháng 3/1957. Đến
19/1/1960, bà bị đưa ra tòa cùng với Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Phan Tại
và Lê Nguyên Chí.
Phiên tòa tại Hà Nội (19/01/1960) xét xử vụ
Nhân Văn Giai Phẩm.
Từ trái sang phải:
Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Thụy An,
Phan Tại và Lê
Nguyên Chí. (Ảnh tư liệu: DR)
Tại Tòa Án Nhân Dân Hà Nội, bà bị chính thức gọi là "Con
gián điệp nguy hiểm", "Cùng với Nguyễn Hữu Đang, Thụy An trở thành bộ
phận đầu não của bọn gián điệp phản cách mạng"
"Ngày 19-1-1960, Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội đã xử
bọn gián điệp phản cách mạng phá hoại hiện hành: Nguyễn Hữu Đang và Thụy An: 15
năm phạt giam và 5 năm mất quyền công dân sau khi ra; Minh Đức: 10 năm phạt
giam và 5 năm mất quyền công dân sau khi ra; Phan Tại: 6 năm phạt giam và 3 năm
mất quyền công dân sau khi ra; Lê Nguyên Chí: 5 năm phạt giam và 3 năm mất quyền
công dân sau khi ra.". (Quân đội nhân dân, Hà Nội, 21/1/1960,
tài liệu do Lại Nguyên Ân sưu tầm, đăng trên Talawas)
Theo Nguyễn Hữu Đang, sau Hỏa Lò chuyển lên Yên Bái.
Thụy An viết: "Vào thời điểm mẹ thụ án từ 1958 đến
1973, suốt 15 năm (chỉ trừ hai năm giam cứu ở Hỏa Lò, Hà Nội, mẹ bị thẩm cung gắt
gao, một cuộc đấu trí - không có trọng tài - giữa pháp luật do các ông chấp pháp
đại diện và mẹ, người bị can)" (Thụy An viết cho các con, Atlanta Việt
Báo, 15/12/2004).
Những năm tháng cuối
Tháng 10/1974 Thụy An được thả theo diện "Đại xá
chính trị phạm trong hiệp định Paris", cùng với Nguyễn Hữu Đang. Bà bị
trả về quản thúc ở Hòa Xá. Trên đường giải về làng, khi bị đẩy xuống xe
tù, bà bị ném đá.
Năm 1976, nhờ em trai là Lưu Duy Trác xin cho vào Nam đoàn tụ
với gia đình, bà được vào sống với mẹ tại Gia định. Các con bà đã rời nước từ
trước, chỉ có Bùi Thụy Băng ở lại đến 28/4/75. Năm 1987, Thụy An theo người bạn
gái Trinh Tiên đến chùa Quảng Hương Già Lam xin thọ lễ quy y. Được hòa thượng
Thích Trí Thủ ban cho pháp danh Nguyên Quy.
Bùi Thụy Băng tìm mọi cách vận động cho mẹ sang Mỹ đoàn tụ
gia đình, qua văn phòng ông Trần Sĩ Lương, đại diện Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc,
và các tòa Đại Sứ Việt Nam, đều không có hiệu quả. Thư ông Lương phúc đáp có
câu: "Trường hợp mẹ của ông chưa được giải quyết. Tôi mong ông cứ yên
tâm chờ đợi".
Đầu năm 1987, Thụy An đã yếu lắm, Bùi Thụy Băng chụp lá thư
ông Trần Sĩ Lương gửi về cho mẹ. Bà trả lời con: Mẹ không muốn con liên lạc với
các Tòa Đại Sứ như thế, và bà thêm: "Con đừng chửi mẹ!". Kèm theo là
bức thư dài, bà trả lời ông Trần Sĩ Lương, mở đầu bằng những hàng:
"Tôi rất xúc động được đọc thư ông viết cho Bùi Thụy
Băng, con trai tôi, về việc T.A mẹ hắn, muốn nhờ cậy ông.
Ông đã trả lời không một hứa hẹn dứt khoát (tôi hiểu rõ tất
phải như thế, càng tất phải như thế, khi là chuyện văn chương), nhưng dầu sao
cũng đã là một lời đáp lại tiếng kêu gọi, kêu oan... của tôi... muốn thêm
hình dung từ nào cũng đều có nghiã cả.
Cám ơm, cám ơn. Tôi đón nhận với tâm trạng một tù nhân bị kẹp
lâu ngày, một mình giữa bốn bức tường hẹp, thèm được nghe tiếng người. Chợt có
tiếng lịch kịch ở phòng bên cạnh (có lẽ chỉ là một con chuột chạy)."
Và bà kết luận lá thư như sau:
"Ở Tô Thị, tâm trạng của người mẹ cõng con trên lưng đi
giữa rừng khuya, hãi hùng đến nỗi ngất sỉu, nhưng sực nhớ chồng trên đỉnh núi:
Nhớ con thơ đang gối trên lưng
Biển xanh đang ngóng đang trông
Giơ tay vung ngọn đuốc hồng cháy to.
Tôi cũng vậy, tôi còn cha mẹ già, đàn con nhỏ trên vai, tôi
không được chết, phải cố mà sống, đợi cái ngày Tô Thị:
Mặc gió rụng tóc xanh từng sợi
Tung ra xa bay với mây trời
Mặc cho nắng dãi mưa phơi
Mặc cho muối đã mặn mòi lòng sương
Mặc bao cuộc hưng tàn phế đổi
Vẫn đăm đăm một đợi, một chờ
Mẹ con hoá đá trơ trơ
Mẹ là tin tưởng, con là tương lai.
Đó là tâm trạng Tô Thị hoá đá, mà cũng là tâm trạng của tôi
suốt 15 năm cho đến mãi mãi. Ông cứ đọc tất cả 16 bản của tôi, đều gặp những
câu như thế, nó gần như một tập Nhật Ký Trong Tù... "
Bà mất ngày 10/6/1989, tại nhà riêng ở đường Lê Văn Sĩ, Sài
gòn.
Nguyễn Hữu Đang và hình bìa
tập san Giai Phẩm số 1 (Ảnh: DR)
Là người cộng sản, nhưng Nguyễn Hữu Đang luôn luôn tự do
trong hành động và tư tưởng của mình. Ông đã đứng lên lãnh đạo phong trào Nhân
Văn Giai Phẩm, đã tạo được một thời kỳ sôi nổi, trong vòng bốn tháng, trí thức
và văn nghệ sĩ, dám nói, dám viết, những điều mình nghĩ, dám chủ trương cải tiến
xã hội Việt Nam thành một nước dân chủ theo đà tiến của thế giới bên ngoài.
Nguyễn Hữu Đang là một trong những khuôn mặt trí thức dấn
thân tranh đấu cho tự do dân chủ can trường nhất trong thế kỷ XX. Là cột trụ của
phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, Nguyễn Hữu Đang đã bị bắt, bị cầm tù, bị quản
thúc và mất quyền tự do phát biểu trong 59 năm, từ tháng 4/ 1958 đến tháng
2/2007, khi ông mất. Nhiều sự kiện về cuộc đời Nguyễn Hữu Đang đã sáng tỏ hơn,
sau khi ông qua đời, một số tư liệu về con người ông đã được phơi bày ra ánh
sáng và do đó chúng ta có thể tạm dựng một tiểu sử đầy đủ hơn về người lãnh đạo
phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.
Nguyễn Hữu Đang sinh ngày 15/8/1913 tại làng Trà Vy, huyện Vũ
Tiên, tỉnh Thái Bình. Ông mất ngày 8/2/2007 tại Hà Nội. Theo bản "Tóm
tắt quá trình hoạt động xã hội của Nguyễn Hữu Đang" do chính tay ông
viết (tài liệu của diendan.org), lúc mười sáu tuổi, Nguyễn Hữu Đang đã tham gia
Học Sinh Hội (tổ chức thuộc Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, rồi
Đông dương Cộng sản đảng), làm tổ trưởng và đã là đối tượng được kết nạp
vào đảng, đó là năm 1929.
Thủ bút của ông Nguyễn Hữu Đang
(Nguồn: diendan.org)
Cuối năm 1930, ông bị bắt, bị tra tấn và bị giam 2 tháng rưỡi
tại nhà lao thị xã Thái Bình. Mùa hè năm 1931, bị đưa ra toà, nhưng vì tuổi vị
thành niên (trên giấy tờ, rút tuổi, khai sinh năm 1916), cho nên chỉ bị quản
thúc tại quê nhà. Từ 1932 đến 1936, Nguyễn Hữu Đang theo học trường sư phạm Hà
Nội.
1937-1939: tham gia Mặt trận dân chủ Đông dương. Biên tập các
báo của Mặt trận như Thời báo (cùng Trần Huy Liệu, Nguyễn Đức
Kính), Ngày mới (cùng Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Đức Kính) và các báo của
Đảng Cộng sản như Tin tức (cùng Trần Huy Liệu, Phan Bôi), Đời
nay (cùng Đặng Xuân Khu tức Trường Chinh, Trần Huy Liệu).
Từ 1938 đến 1945, Nguyễn Hữu Đang hoạt động trong Hội truyền
bá quốc ngữ, ở các vị trí: Ủy viên ban trị sự trung ương, huấn luyện viên trung
ương, trưởng ban dạy học, trưởng ban cổ động, phó trưởng ban liên lạc các chi
nhánh tỉnh.
1943: Gia nhập đảng Cộng sản Đông dương, bắt đầu liên lạc mật
thiết với Tổng bí thư Trường Chinh và thành ủy Hà Nội, nhưng vẫn chưa được
chính thức kết nạp vào đảng.
1943-46: Tham gia sáng lập và lãnh đạo Hội Văn hoá cứu quốc, tiếp
tục hoạt động chống nạn mù chữ. Mùa thu năm 1944 bị Pháp bắt ở Hà Nội và bị
giam một tháng tại Nam Định. Được ra, lại tiếp tục hoạt động cách mạng.
Tháng 8/1945 dự đại hội Tân Trào, được bầu vào Ủy ban giải
phóng dân tộc. Tham gia Chính phủ lâm thời mở rộng, cấp bậc thứ trưởng (Bộ
truyên truyền). Được cử làm trưởng ban tổ chức ngày lễ tuyên bố độc lập
2/9/1945.
Từ tháng 10/1945 đến tháng 12/1946 giữ các chức vụ: Thứ trưởng
bộ Thanh niên, Chủ tịch ủy ban vận động mặt trận văn hóa. Tổ chức Hội nghị văn
hóa toàn quốc lần thứ nhất tại Hà Nội.
Tháng 12/1946 đến tháng 3/1948: Làm trưởng ban tuyên truyền
xung phong trung ương.
Năm 1947, được chính thức kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông
Dương.
Từ tháng 4/1948, đến tháng 4/49, phụ trách báo Toàn dân
kháng chiến, cơ quan trung ương của Mặt Trận Liên Việt.
7/1949 - 10/54: Trưởng ban thanh tra Nha bình dân học vụ.
11/1954 - 4/58: Tổ chức và biên tập báo Văn Nghệ.
Cuối năm 56 đầu năm 57: Tổ chức, lãnh đạo và biên tập báo
Nhân Văn. Giúp đỡ tập san Giai Phẩm.
Những dòng trên đây trích theo tài liệu viết tay của Nguyễn Hữu
Đang, đã dẫn ở trên. Về hoạt động Nhân Văn Giai phẩm, ông còn chua thêm hàng chữ: "Những
hoạt động này là tự ý làm ngoài công tác, vô tổ chức".
Chính thức hoạt động Nhân Văn Giai Phẩm từ tháng 9/1956, với
Nhân Văn số 1 (20/9/56), và chấm dứt với Nhân Văn số 6 (chưa ra, đã bị đình bản,
tháng 12/56).
Tháng 4/1958 Nguyễn Hữu Đang bị bắt trên đường tìm cách vào
Nam. Ngày 19/1/1960, ông bị đưa ra tòa cùng với Thụy An, Trần Thiếu Bảo, Phan Tại,
và Lê Nguyên Chí.
Phiên tòa tại Hà Nội (19/01/1960) xét xử vụ Nhân Văn Giai Phẩm.
Từ trái sang phải: Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Thụy An, Phan Tại và Lê
Nguyên Chí.
(Ảnh tư liệu: DR)
Ông bị kết án 15 năm tù, 5 năm mất quyền công dân, vì tội "phá
hoại chính trị". Từ Hỏa Lò chuyển lên Yên Bái, rồi đưa lên giam ở Hà
Giang. Năm 1973, ông được trả về cùng với Thụy An, theo diện "Ðại xá
chính trị phạm trong hiệp định Paris" và bị quản chế ở Thái Bình.
1989, được "phục hồi". 1990 được trả lương hưu và từ
1993, được về sống ở Nghĩa Đô, ngoại ô Hà Nội cho đến lúc mất.
Nguyễn Hữu Đang là ai?
Để trả lời câu hỏi này, dĩ nhiên chúng ta không thể bằng lòng
với những gì ông đã ghi trong tiểu sử viết tay vừa lược trình trên đây. Bởi những
điều được ghi lại, hoặc chính thức công nhận, chưa hẳn đã phản ảnh đầy đủ những
gì diễn ra trên thực tế. Ví dụ:
- Hoạt động cách mạng từ năm 16 tuổi, tức là năm 1929, Nguyễn
Hữu Đang đã là đối tượng sẽ được kết nạp vào đảng nhưng mãi đến năm 1947, mới
được chính thức kết nạp vào đảng. Tại sao?
- Quãng đời 6 năm, từ 1948 đến 1954, về mặt chính thức, ông
giữ chức Trưởng ban thanh tra Bình dân học vụ (từ 7/1949 đến 10/1954). Nhưng
Nguyễn Huy Tưởng, là bạn thân và hay viết về ông, không ghi dòng nào
trong nhật ký về Nguyễn Hữu Đang từ 48 đến 54. Tại sao?
Chúng ta sẽ tìm hiểu và phân tích những vấn đề này, sau, qua
lời chứng của Nguyễn Huy Tưởng, Hoàng Cầm và bài buộc tội của Hồng Vân tựa đề "Tên
quân sư quạt mo: Nguyễn Hữu Đang" đăng trên Văn Nghệ số 12 tháng
5/58. Bài viết này có nhiều chi tiết về Nguyễn Hữu Đang mà chỉ những người nắm
vững hồ sơ mới biết được.
Không được phục hồi quyền phát biểu!
Sau thời kỳ quản thúc ở Thái Bình, được về sống tại Cầu Giấy,
ngoại ô Hà Nội, ông vẫn bị "chăm sóc" kỹ càng. Điện thoại của ông,
cũng như của các thành viên cựu Nhân Văn đều bị kiểm soát, nhưng riêng ông, ông
không được phục hồi quyền phát biểu, tức là không được quyền trả lời phỏng vấn
công khai như những người khác.
Sở dĩ có buổi trả lời trên RFI tháng 9/1995 là nhờ sự tổ chức
của Lê Đạt: nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Tuyên ngôn Độc Lập 2/9/1945, chúng tôi
nhờ nhà thơ Lê Đạt liên lạc để gặp Nguyễn Hữu Đang, qua điện thoại nhà Lê Đạt,
để hỏi ông về việc tổ chức ngày lễ Độc Lập, rồi nhân đó, hỏi thêm ông vài câu về
chuyện Nhân Văn. Buổi thu thanh duy nhất này, được phát làm hai lần trên RFI,
tháng 9/1995 (có thể nghe lại trên http://thuykhue.free.fr). Đó là lần phỏng vấn
đầu tiên và cuối cùng. Về sau, không thể liên lạc được với Nguyễn Hữu Đang, mặc
dù ông đã có điện thoại riêng, nhưng đường dây luôn luôn bị kiểm soát, chỉ nói
được vài câu, là bị cắt ngay.
Vậy sự "phục hồi" ghi trong tiểu sử chỉ là hình thức,
vì trên thực tế, Nguyễn Hữu Đang chưa bao giờ được phục hồi quyền phát biểu tự
do như một công dân.
Kỷ luật áp dụng cho ông nghiệt ngã hơn tất cả các bạn đồng
hành. Lần cuối cùng chúng tôi về Hà Nội mùa thu năm 1997, được ông đến thăm 2 lần,
nhưng lần nào cũng do ông Vũ Toàn, người của bộ nội vụ, chở. Ông Vũ Toàn nay
cũng đã mất. Trò chuyện với ông, vì có sự hiện diện người của bộ nội vụ, nên
không nói được gì. Những điều không thể hỏi ông qua điện thoại, đến khi gặp mặt
cũng không sao hỏi được. Bao nhiêu chi tiết muốn ông soi tỏ về những hoạt động,
những khúc mắc ngày xưa, về quãng đời tranh đấu truân truyên, vẫn còn nguyên
trong bóng tối.
Ông dặn: "Anh em mình sẽ cố gắng làm chung với nhau
một số chương trình văn hoá văn nghệ. Chỉ văn nghệ thôi." Ôngnói như
để trấn an người của chính quyền, nhưng cũng không kết quả. Bởi khi trở lại
Paris, chúng tôi đã cố gắng điện thoại nhiều lần để "thực hiện chương
trình", nhưng chỉ sau vài câu thăm hỏi là đường dây lại bị cắt, mặc dù đề
tài nói chuyện, như đã định trước, chỉ chuyên về văn hóa. Có lần bực quá, ông
đã quát lên trong điện thoại: "Chúng ta chỉ nói với nhau những chuyện
văn hóa văn nghệ, chứ có làm gì phản dân, hại nước đâu mà chúng nó
cũng..." Ông chưa dứt lời, tiếng điện thoại đã lại u u...
Câu nói dở dang ấy của Nguyễn Hữu Đang, đã gây chấn động
trong tôi nhiều năm tháng. Và từ đó đến khi ông mất, tôi không bao giờ điện thoại
cho ông, một phần vì không muốn ông bị phiền phức thêm trong cuộc đời quá nhiều
thử thách, đớn đau, nhưng còn một lý do nữa là sau này ông bị nặng tai, càng
ngày càng nghe không rõ, những người đến thăm ông thường phải bút đàm.
Các cột mốc quan trọng của
phong trào Nhân Văn Giai Phẩm
Cùng trong Nhân Văn, nhưng về cách đối xử, ông được "biệt
đãi" hơn cả, biệt đãi đến phút cuối. Đám tang Văn Cao, Phùng Quán, Trần Dần,
Trần Đức Thảo... đều đã được cử hành tương đối trọng thể, dù chỉ để che mắt thế
gian. Hoàng Cầm, Lê Đạt còn được đọc điếu văn khóc bạn trước linh cữu Trần Dần.
Đến Nguyễn Hữu Đang mọi chuyện khác hẳn:
Tang lễ Nguyễn Hữu Đang cũng được nhà nước cử hành, nhưng mọi
sự dường như đều đã toan tính sao cho vừa đủ lệ bộ, trong lặng lẽ, khiến người
thân không biết để đến dự. Trước linh cữu ông, hành động Nhân Văn vẫn còn bị
chính thức tuyên bố là một "sai lầm".
Chỉ vài giờ sau khi ông mất, chúng tôi đã được tin, cho nên
đã kịp thời liên lạc với hai nhà thơ Lê Đạt và Hoàng Cầm để ghi âm những lời tiễn
bạn qua điện thoại Paris - Hà Nội.
Riêng nhà thơ Hoàng Cầm hôm ấy, mặc dù tuổi cao, và sau khi bị
ngã, chỉ nằm không còn đi lại được nữa, đã muốn nói thật dài về con người Nguyễn
Hữu Đang. Hoàng Cầm nói không ngừng, nhưng sau khi thu thanh được gần một tiếng,
vì sợ ông mệt, chúng tôi đề nghị tạm ngừng để hôm sau thu tiếp. Nhưng cả ngày
hôm sau và hôm sau nữa, không thể liên lạc lại được với Hoàng Cầm, vì đường dây
điện thoại Hoàng Cầm - Paris cũng đã bị chặn. Như vậy, tiếng nói của những
thành viên Nhân Văn Giai Phẩm, cho đến ngày Nguyễn Hữu Đang mất, 8/2/2007, vẫn
còn bị kiểm soát chặt chẽ.
Hoạt động trong hội truyền bá quốc ngữ
Nguyễn Hữu Đang là một trong những người hoạt động rất sớm
cho hội Truyền Bá quốc ngữ, nhưng ông không phải là người đầu tiên.
Về cách hoạt động của Nguyễn Hữu Đang trong hội Truyền bá quốc
ngữ, Nguyễn Huy Tưởng ghi trong nhật ký ngày 16/6/1942: "Anh Nguyễn Hữu
Đang xuống làm việc cho Truyền bá quốc ngữ từ hơn hai tháng nay. Anh xin nghỉ ở
sở Tài chính (Hà Nội) xuống đây làm việc nghĩa. Đức hy sinh của anh thực không
thể nào tả được. Nhờ anh mà phong trào quốc ngữ ở Hải phòng chết đi nay sống lại.
Anh như một ông tướng khuyến khích được cả một đạo quân chiến bại. Muốn làm một
bài thơ tặng anh ấy".
Nguyễn Hữu Đang có nhiều bút hiệu khác nhau, hiện nay chưa biết
rõ ông đã dùng bao nhiêu bút hiệu trong cuộc đời tranh đấu cách mạng, trong thời
kỳ Nhân Văn Giai phẩm, vì vậy, việc tìm lại những bài viết của ông không dễ
dàng. Ngay cả khi ông viết bài "Người thuyền trưởng" về
Nguyễn Văn Tố, khoảng 1988, cũng dưới hai bút hiệu khác nhau: phần đầu ký tên
Phạm Đình Thái, phần sau Dương Quang Hiệt, nhiều năm sau mới thu thập lại làm một
dưới tên Nguyễn Hữu Đang. (Bài Người thuyền trưởng viết nhân dịp
kỷ niệm 50 năm Hội Truyền bá quốc ngữ (1938-1988), đăng trong tập kỷ yếu của Hội,
do nhà xuất bản Bộ giáo dục ấn hành, sau này đăng lại trên Diễn Đàn số 78,
tháng 10/1998, và diendan.org).
Nhờ những thông tin trong bài Người thuyền trưởng, chúng
ta có thể xác định lại nguồn cội của hội Truyền Bá Quốc Ngữ, khác với những gì
vẫn được chính thức ghi lại.
Nguyễn Hữu Đang viết: "Mùa hè năm 1938, vào cuối
tháng năm, một hôm đọc báo hàng ngày ở một trạm Bưu điện, cách Hà Nội hơn trăm
cây số, tôi thấy bài tường thuật buổi cổ động đồng thời cũng là lễ ra mắt của Hội
truyền bá quốc ngữ Bắc kỳ ở sân quần vợt Câu lạc bộ thể thao An Nam (CSA), mấy
nghìn người tới dự, có cả đại diện Thống sứ Bắc kỳ, tổng đốc Hà Đông, đốc lý Hà
Nội, chủ tịch Chi nhánh Hội nhân quyền Pháp, bí thư Chi nhánh đảng Xã hội Pháp
(SFIO), nhiều nhân sĩ Pháp, Nam nổi tiếng, tôi chăm chú đọc." (Trích Người
thuyền trưởng, bđd)
Qua nhân chứng của Nguyễn Hữu Đang, một số vấn đề sáng tỏ
hơn:
- Hội truyền bá quốc ngữ được chính quyền thuộc địa
chính thức công nhận từ đầu (năm 1938).
- Nguyễn Hữu Đang không phải là một trong những người sáng lập
Hội như một vài tài liệu đã ghi. Hôm khai mạc hội, ông đang dạy học ở nông
thôn, nhưng ít lâu sau, về Hà Nội nghỉ hè tình cờ gặp Đào Duy Kỳ (em trai Đào
Duy Anh). Đào Duy Kỳ khuyên ông nên đến Hội Trí Tri, phố Hàng Quạt để nhận việc
dạy học giúp Hội.
- Việt Minh tham dự Hội truyền bá quốc ngữ, nhưng Việt
Minh không khai sinh ra Hội Truyền bá quốc ngữ, như các khẩu hiệu: "Diệt
giặc ngoại xâm ta có chiến dịch Điện Biên Phủ, diệt giặc dốt, ta có chiến dịch
Truyền bá quốc ngữ".
- Hội truyền bá quốc ngữ thuộc Hội Trí Tri, do Nguyễn
Văn Tố làm hội trưởng. Trong số những thành viên xây dựng Hội, có các trí thức
như Hoàng Xuân Hãn, tác giả bài vè: i tờ có móc cả hai...
- Trong những tài liệu chính thức, và cả trong bài viết
của Nguyễn Hữu Đang, không thấy nhắc đến vai trò chủ chốt của Hoàng Xuân Hãn
trong Hội truyền bá quốc ngữ, điều này cần được nhắc lại ở đây: Hoàng Xuân
Hãn là một trong những người đầu tiên chủ trương việc truyền bá quốc ngữ (ngay
khi chưa thành hội). Từ năm 1936, khi ông ở Pháp về, ông đã nghĩ ra phương pháp
học chữ quốc ngữ, đặt những câu vè để người bình dân dễ thuộc vần quốc ngữ
như: o tròn như quả trứng gà, ô thì đội mũ, ơ thì thêm râu...
- Nguyễn Văn Tố làm hội trưởng từ 1938 đến 1945. Nguyễn Hữu
Đang cho biết: trong "Bảy năm liền, thuyền trưởng Nguyễn Văn Tố, về căn bản,
đã làm tròn nhiệm vụ". Chỉ sau khi Việt Minh lên nắm chính quyền
(1945), chính phủ cách mạng lâm thời quyết định thành lập Nha Bình dân học
vụ để thay thế Hội truyền bá quốc ngữ; từ đó, vai trò thuyền trưởng của
Nguyễn Văn Tố mới chấm dứt.
Xác định lập trường văn hóa
Những bài viết của Nguyễn Hữu Đang, trên ba số đầu của báo
Tiên Phong (báo của Hội Văn Hóa Cứu Quốc, ra năm 45-46, được 24 số, do Lại
Nguyên Ân và Hữu Nhận sưu tầm, nxb Hội Nhà Văn, 1996), gồm có:
- Định nghĩa hai chữ văn hóa (viết chung với Đặng
Thai Mai), Trở lực của văn hóa dưới ách đế quốc (Tiên Phong số 1, ra
ngày 10/11/45)
- Hội nghị văn hóa toàn quốc và nền độc lập Việt
Nam (Tiên Phong số 2; 1/12/45)
- Nhận rõ thêm về ý nghĩa hai chữ văn hóa: văn hóa tức
là... và Hội nghị văn hóa toàn quốc sẽ tổ chức như thế nào (Tiên
Phong số 3; 16/12/45).
Đó là những bài viết ngắn xác định lập trường văn hóa của
Nguyễn Hữu Đang: Từ 1945, lập trường này đã khác biệt với lập trường của Trường
Chinh, trong bài Đề Cương Văn Hóa Việt Nam (được coi là văn bản lịch
sử của đảng Cộng Sản từ năm 1943, in lại trên Tiên Phong số 1).
Trường Chinh chủ trương: "Nền văn hóa mà cuộc cách
mạng văn hoá Đông Dương phải thực hiện sẽ là văn hóa xã hội chủ nghĩa"
Nguyễn Hữu Đang, trong những bài viết trên đây, đã xác định
đường lối hoạt động và lập trường văn hóa của Hội Văn Hóa Cứu Quốc, nhưng không
hề đả động gì đến xã hội chủ nghĩa, và ông coi việc xây dựng văn hóa là
xây dựng đời sống tinh thần của con người, đi đôi với công cuộc đấu tranh chống
áp bức, nô lệ.
Vị thế chính trị, văn hóa và tư tưởng độc lập của Nguyễn Hữu
Đang
Nguyễn Huy Tưởng bộc lộ sự thán phục Nguyễn Hữu Đang trong nhật
ký, như sau: "Nghe Đang nói chuyện, tự thẹn. Anh đã biểu lộ ngay từ
bé một tính cách đặc biệt, hùng hổ và ngang tàng. Không sợ, khinh quyền thế, biến
báo giỏi, biết thân phận mình, tin ở tài mình, đó là những tính cách của một
người giỏi". (Nhật ký ngày 30/7/1942)
Năm 1945, là năm Nguyễn Hữu Đang hoạt động mạnh, về mặt chính
trị, ông được chủ tịch Hồ Chí Minh trao cho trọng trách tổ chức ngày lễ Độc Lập
ở Ba Đình; về mặt văn hóa, ông chủ trương tạp chí Tiên Phong cùng Đặng
Thai Mai.
Vị thế chính trị và văn hóa của Nguyễn Hữu Đang, từ 1945 đến
1947 lên rất cao, và điều này được Nguyễn Huy Tưởng xác định trong
nhật ký: "Chuyện Tham Ý. Phục các cán bộ Việt Minh (...) Phục Đang. Hỏi
thầm một người: Có phải là cánh tay phải của cụ Hồ không? Băn khoăn không biết
bây giờ Đang về khu này thì phải vào chức gì cho xứng? Theo ý anh tham biện ấy,
thì ở đây không có một chức gì cao hơn để Đang làm cả, vì Đang trên cả uỷ ban
kháng chiến" (ngày 15/11/1947)
Bài Định nghĩa hai chữ văn hóa cho thấy những nhận
thức của Nguyễn Hữu Đang về văn hóa, thấy mối tương giao của ông với những nhà
văn hóa đương thời như Nguyễn Đức Quỳnh (trốt-kít), Đào Duy Anh. Sự giao thiệp
với các trí thức trong nhóm Hàn Thuyên đã gây khó khăn cho ông, nhưng có lẽ
cũng nhờ những mối tương giao này, mà khi ra cầm đầu NVGP, ông đã được sự ủng hộ
nhiệt thành của những nhà trí thức như Đào Duy Anh, Trương Tửu.
Báo Văn Nghệ số 12 với những lời "thú nhận" của
Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần và Phùng Quán
Qua lời buộc tội của Hồng Vân trong bài "Tên quân
sư quạt mo: Nguyễn Hữu Đang", chúng ta có thể hiểu rõ nguyên nhân tại
sao ngay từ năm 1929 (16 tuổi), ông đã được coi là "đối tượng kết nạp"
mà mãi đến năm 1947, ông mới được kết nạp vào đảng, rồi ông bỏ đảng khoảng một
năm sau khi được kết nạp, Hồng Vân viết:
"Khi phân công Nguyễn Hữu Đang đi vận động nhóm Hàn
Thuyên, thì hắn trở về mang theo cái chủ trương cần dựa vào Nhật của bè lũ tờ rốt kít".
"Bất mãn với đoàn thể Văn Hóa Cứu quốc và nhân cơ hội Đảng
chủ trương mở Đại hội văn hóa toàn quốc, Nguyễn Hữu Đang xin ra lập ban vận động
Đại hội văn hóa toàn quốc".
"Nguyễn Hữu Đang tự động làm mọi việc không thảo luận gì
với anh em, không xin chỉ thị của Đảng. Nguyễn Hữu Đang liên hệ với người này
người khác, không cần biết thái độ chính trị ra sao. Công việc đương tiến hành
thì kháng chiến bùng nổ."
"Đang tổ chức thanh niên xung phong rất quy mô và tiêu tốn
rất nhiều tiền (...) không quỹ nào cung cấp cho đủ. Tổ chức thanh niên xung
phong của Đang phải giải tán. Nguyễn Hữu Đang lại được Đảng điều động về làm
Thanh tra Bình dân học vụ".
"Đang tham gia phong trào đã lâu, nhưng vì đầu óc vô
chính phủ và tư tưởng cơ hội nặng nề như vậy cho nên đến năm 1947 mới được kết
nạp vào Đảng. Nhưng rồi công không thành danh không toại, Đang sinh ra chán nản.
Cơ quan Bình Dân học vụ dọn lên Việt Bắc. Đang ở lại Thanh Hóa làm "quân
sư" cho nhà xuất bản Minh Đức (...) Từ ngày đó, Nguyễn Hữu Đang đã tự ý bỏ
cơ quan và cũng từ ngày đó Đang đã xa rời hàng ngũ của Đảng. Khoảng năm 1951
thì Đảng cắt đứt sinh hoạt của Đang. Từ đó, khi Cầu Bố, khi Hậu Hiền, Đang luôn
luôn chửi Đảng, chửi cách mạng". (Hồng Vân, bđd)
Năm 1947 Nguyễn Hữu Đang được kết nạp vào đảng, và theo Nguyễn
Huy Tưởng, thì năm 1947, ông vẫn còn được coi là nhân vật quan trọng nhất nhì
bên cạnh chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhưng trong suốt thời gian từ 1929 đến 1947,
Nguyễn Hữu Đang không được kết nạp vào đảng, vì sao? Hồng Vân đã trả lời: "Vì
đầu óc vô chính phủ".
Ảnh chụp ông Nguyễn Hữu Đang
vào tháng 9 năm 1997. (Ảnh: DR)
Sự thực, Nguyễn Hữu Đang không phải là người chịu tuân thủ một
đường lối, một chính sách vạch sẵn, nghĩ hộ, ông có đường lối riêng: Tuy theo
cách mạng, nhưng ông luôn luôn độc lập, không tuân chỉ thị, không nhận đường lối
văn hóa xã hội chủ nghiã, ông tự do giao tiếp với những nhà trí thức trong các
nhóm chính trị và tư tưởng ngoài đảng, hoặc chống đảng.
Bất đồng ý kiến với Trường Chinh
Vào đảng năm 1947, Nguyễn Hữu Đang đã bỏ đảng từ năm nào? Trong
bài phỏng vấn trên RFI, ông cho biết là từ lớp chỉnh huấn [lớp đầu tiên năm
1948], ông biết mình bị liệt vào thành phần trí thức tiểu tư sản, và từ đấy ông
có ý tưởng xin ra đảng.
Theo bài của Hồng Vân, thì Nguyễn Hữu Đang bỏ hoạt động
từ khi cơ quan Bình dân học vụ dọn lên Việt Bắc. Như vậy, cần xem lại: Cơ quan
Bình dân học vụ dọn lên Việt Bắc năm nào? Nhưng có lẽ đây cũng chỉ là cái cớ
Nguyễn Hữu Đang đưa ra để ngừng hoạt động.
Bởi vì theo lời Hoàng Cầm thuật lại thì: "Vào khoảng
tháng 7 năm 48, có Đại hội văn hóa toàn quốc do ông Trường Chinh đề xướng và
làm chủ tịch. Hội nghị văn hóa toàn quốc được tổ chức để động viên và hướng dẫn
trí thức và văn nghệ sĩ chuẩn bị đi sâu vào cuộc kháng chiến (...) Tức là lúc bấy
giờ hội nghị mới đề ra văn nghệ kháng chiến. (...) Sau hội nghị đó, không hiểu
vì lý do gì anh Đang không làm công tác kháng chiến nữa, anh về Thanh Hóa, ở
nhà người bạn là anh Trần Thiếu Bảo, giám đốc nhà xuất bản Minh Đức (...) Mãi
sau này, hòa bình rồi, về Hà Nội tôi cũng chỉ nghe phong phanh anh em bàn tán
thôi chứ hỏi anh Đang thì anh cũng không nói, là hình như trong hội nghị văn
hóa toàn quốc, anh Đang có mâu thuẫn về đường lối văn nghệ, văn hóa với ông Trường
Chinh. Do mâu thuẫn không giải quyết được, cho nên anh Đang không làm việc nữa,
anh nghỉ. Anh về Thanh Hóa" (Hoàng Cầm trả lời phỏng vấn RFI).
Nhưng theo bản tường trình của Xuân Diệu về Hội nghị văn nghệ
toàn quốc, thì Nguyễn Hữu Đang không đi dự hội nghị này. Như vậy, mối bất đồng
giữa Trường Chinh và Nguyễn Hữu Đang mà Hoàng Cầm nhắc đến, đã xẩy ra trước
hội nghị văn nghệ toàn quốc cho nên Nguyễn Hữu Đang mới không đi dự.
Sự bất đồng ý kiến về lập trường văn hoá, như chúng ta đã thấy trên báo Tiên
Phong, năm 1945-46, và đã kéo dài trong suốt thời kỳ kháng chiến, của một người
làm chính trị, sử dụng văn hóa để phục vụ tuyên truyền như Trường Chinh và một
người làm chính trị nhưng tôn trọng văn hóa như một sản phẩm tinh thần, cần tự
do để có thể phát triển, như Nguyễn Hữu Đang.
Dù sao chăng nữa, nhiều tư liệu đều đồng quy ở một điểm: từ
năm 1948, Nguyễn Hữu Đang không còn theo cách mạng nữa.
Hoạt động trở lại
Vẫn theo lời Hoàng Cầm, sau khi hòa bình lập lại, Trường
Chinh bàn với Tố Hữu rằng anh Đang đã lâu lắm không làm gì, vậy nên mời anh ấy
ra hoạt động lại. Điều này phù hợp với việc Nguyễn Huy Tưởng mời Nguyễn Hữu
Đang về báo Văn Nghệ (như lời chứng của Lê Đạt trên RFI và như Nguyễn Huy Tưởng
ghi trong nhật ký).
Như vậy, trái với những gì ghi trong tiểu sử chính thức, trong
6 năm, từ 48 đến 54, Nguyễn Hữu Đang đã ngừng mọi hoạt động với chính quyền
cách mạng. Ông giúp Trần Thiếu Bảo điều hành nhà xuất bản Minh Đức, tổ chức
in lại những sách giá trị thời tiền chiến, đã bị cách mạng lên án, hoặc cấm lưu
hành, của Vũ Trọng Phụng, Khái Hưng, v.v...
Năm 1954, khi Tố Hữu chính thức mời ông về hoạt động trở lại,
vẫn theo lời Hoàng Cầm, Nguyễn Hữu Đang đã từ chối chức Giám Đốc Sở Văn Hóa Thông Tin Hà Nội, và yêu cầu được làm biên tập viên báo Văn Nghệ (cùng với Lê Đạt).
Về thời kỳ này, Nguyễn Huy Tưởng ghi trong nhật ký:
"Nguyễn Hữu Đang tiêu cực. Ở đâu cũng thấy không vừa ý.
Người có caractère, ở đâu cũng có ảnh hưởng đến anh em. Anh em toà soạn [báoVăn
Nghệ] khen là chí công, vô tư, nhưng tư tưởng rất là nguy hiểm. Một điển
hình của một chiến sĩ làm cách mạng bất mãn" [Nhật ký ngày 21/4/55].
"Học tập tình hình và nhiệm vụ. Đang không học tập. Đúng
hôm góp ý kiến cho Tiểu ban thì đến. Đặc biệt đả kích mình [Nguyễn Huy Tưởng]: (đã)
in Gốc đa, Gặp Bác, v.v..." [Nhật ký ngày 23/6/1955].
Sự trở lại của Nguyễn Hữu Đang gây khó khăn cho những người
lãnh đạo văn nghệ, kể cả những người bạn thân.
Tổ chức lớp học 18 ngày
Trong thời gian này, Nguyễn Hữu Đang tổ chức lớp học tập dân
chủ 18 ngày (từ 8/8 đến 26/8/56) và trong ngày cuối, ông đã đọc một bài tham luận
"nảy lửa" chỉ trích những sai lầm của đảng và của lãnh đạo văn nghệ.
Trương Tửu đánh giá bài tham luận của Nguyễn Hữu Đang: "sự việc thực
là cụ thể, lời lẽ thực là tha thiết". Hoàng Cầm cho rằng tinh thần nêu những thắc
mắc, có từ kháng chiến, tích tụ lại và bùng nổ lên trong lớp học này.
Lê Đạt kể lại: "Trong cuộc học tập này, anh em phê
phán văn nghệ rất nhiều, trong đó nổi bật lên vai trò của anh Nguyễn Hữu Ðang
(...) Trong buổi học tập văn nghệ đó, anh Ðang có đọc một bài tham luận rất
hùng hồn về những sai lầm của lãnh đạo văn nghệ. Lúc đó Ðang có nói một câu với
Nguyễn Ðình Thi -Nguyễn Ðình Thi lúc ấy là một trong những người chịu trách nhiệm
tờ Văn Nghệ- Ðang nói rằng: "Thế nào tao cũng ra một tờ báo, tờ báo
chưa biết tên là gì, tao thì không làm được nhưng để cho bọn Giai Phẩm Mùa Xuân
nó làm".(...) tờ báo này chính là tờ Nhân Văn". (Lê Đạt trả lời
phỏng vấn RFI).
Nguyễn Huy Tưởng ghi lại không khí lớp học 18 ngày, trong nhật
ký, như sau:
"Nguyễn Hữu Đang nổi lên. Tiếc rằng kéo anh ta về văn
nghệ để làm rầy rà mình. Chính người chửi mình nhất là Nguyễn Hữu
Đang" [ngày 21/8/56].
Những bực mình và dằn vặt của Nguyễn Huy Tưởng, càng làm rõ tấm
lòng và nhân cách của ông: Mặc dù không đồng ý với Nguyễn Hữu Đang, bị Đang chỉ
trích nặng nề, nhưng sau này, ông là người duy nhất trong ban lãnh đạo văn nghệ
đã đứng ra bênh vực Nhân Văn, như Lê Đạt thuật lại và ông cũng ghi trong nhật
ký: đã phản ảnh lên Trường Chinh về vụ Nhân Văn, nhưng vô hiệu.
Nhân Văn Giai Phẩm
Vai trò chủ động của Nguyễn Hữu Đang trong phong trào NVGP đã
được xác nhận từ nhiều phía:
Những người trong ban biên tập báo Nhân Văn như Lê Đạt, Hoàng
Cầm, Trần Duy đều xác nhận vai trò chủ chốt của Nguyễn Hữu Đang. Trần Dần ghi
trong bài "thú nhận": "Nếu không có Đang, không ai có thể tập
hợp anh em được. Sẽ không có tham luận với những đề nghị: gặp Trung ương, ra
báo... mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn".
Trang bìa tập sách phê phán
phong trào Nhân Văn Giai Phẩm (Ảnh: DR)
Về phía buộc tội, Nguyễn Hữu Đang được coi là lãnh tụ,
"đầu sỏ". Mạnh Phú Tư viết:
"Hắn lẩn mình và... rút lui vào bí mật. Suốt bốn số
báo đầu, người ta không thấy một bài nào ký tên Nguyễn Hữu Đang! (...)
Người ta không thấy tên tuổi Nguyễn Hữu Đang trên những số đầu
báo Nhân Văn, nhưng chính hắn là linh hồn của tờ báo. Hắn tìm tiền, kiếm giấy,
thu xếp việc ấn loát và viết bài nhưng lại ký tên người khác. Hắn che lấp những
nguồn tài chính, những kẻ cung cấp phương tiện bằng hình thức dối trá là nêu
danh những người góp tiền in báo có một nhân lên gấp mười! Hắn họp hành bí mật
với một số nhà văn chống Đảng, với những người tư sản và trí thức cũng đang muốn
lợi dụng thời cơ để phất lên lá cờ chính trị. Hắn luôn luôn bàn mưu, lập kế với
bọn Trương Tửu v.v... Hắn có tay chân trong một hai đoàn kịch tư nhân, ở một
vài cơ quan văn hóa của Nhà nước. Thông qua tờ báo Nhân Văn, hắn đã trở thành một
thứ lãnh tụ của một bọn người cơ hội, có âm mưu chính trị... ".
(Mạnh Phú Tư, Báo Độc Lập, số 356, ngày 24/4/1958, in lại trong BNVGPTTADL, trang 49-50).
(Mạnh Phú Tư, Báo Độc Lập, số 356, ngày 24/4/1958, in lại trong BNVGPTTADL, trang 49-50).
Là người làm chính trị, Nguyễn Hữu Đang đã tìm đúng thời cơ:
Trong nước, vị thế của Trường Chinh và đảng Cộng sản yếu đi sau những sai lầm
quan trọng trong Cải cách ruộng đất; ngoài nước, việc hạ bệ Staline ở đại hội
XX của đảng cộng sản Liên Xô, là những lực đẩy khuynh hướng tranh đấu cho
tự do dân chủ có cơ hội hành động. Nguyễn Hữu Đang, với tài tổ chức và hùng biện
trong lớp học 18 ngày, đã chiếm được lòng tin của giới trí thức và văn nghệ sĩ
cấp tiến. Ông nắm lấy cơ hội, đứng ra tổ chức Nhân Văn Giai Phẩm với những người
bạn cùng chí hướng từ trong kháng chiến như Trương Tửu và Trần Thiều Bảo; và Lê
Đạt, Hoàng Cầm, chủ trương tạp chí Giai phẩm mùa xuân.
Tuy không có nhiều bài ký tên thật, nhưng dấu ấn của ông
không thiếu trên báo Nhân Văn:
- Những bài phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trần Đức
Thảo, Đặng Văn Ngữ về vấn đề dân chủ, có thể hoàn toàn do Nguyễn Hữu Đang thực
hiện (Nguyễn Mạnh Tường xác nhận là chính Nguyễn Hữu Đang mời ông trả lời phỏng
vấn).
- Trong Nhân Văn số 1, có bài tựa đề: "Thuốc đắng
dã tật, nói thật mất lòng" ký tên XYZ. Rất ít người biết XYZ là một
trong những bút hiệu của Hồ Chí Minh. Chúng ta có thể đoán chắc bài này do Nguyễn
Hữu Đang viết (Lê Đạt chưa tham dự việc biên tập NV số 1). Trong bài này, tác
giả dùng giọng của ông Hồ để "giáo huấn" cán bộ. Vừa vinh thăng vừa
giễu cợt vị chủ tịch, có lẽ chỉ một mình Nguyễn Hữu Đang là dám làm trong thời
điểm ấy.
- Bài "Chúng tôi cực lực phản đối luận điệu vu cáo
chính trị - Trả lời bạn Nguyễn Chương và báo Nhân Dân", trên Nhân Văn
số 2, ký tên Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Duy, do Nguyễn Hữu Đang viết (theo Trần
Duy). Bài này xác định biệt tài bút chiến của Nguyễn Hữu Đang. Ông trả lời từng
điểm sự buộc tội Nhân Văn của báo Đảng, với một lập luận châm biếm, sắc bén,
không nhân nhượng. Chứng tỏ trong thời kỳ Nhân Văn, đã có những bài viết trực
tiếp đương đầu với những luận điểm chính quy của đảng cộng sản.
- Bài Cần phải chính quy hơn nữa, trên Nhân Văn số 4, là
bài xã luận đầu tiên Nguyễn Hữu Đang ký tên thật. Trong bài này, ông xác định lập
trường chính trị của nhóm Nhân Văn và công khai đòi tự do dân chủ, đòi thiết lập
một nhà nước pháp trị.
- Bài "Hiến pháp Việt nam năm 1946 và hiến pháp
Trung hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? trên Nhân văn số 5, ký tên thật,
mạnh hơn nữa, ông đòi tự do dân chủ phải được thể hiện trên hiến pháp và trên
thực tế, đòi quyền sống tự do của con người trong một chính thể dân chủ, một
nhà nước pháp quyền.
Nguyễn Hữu Đang là một khuôn mặt chính trị, văn hoá và đấu
tranh, hiếm có trên chính trường Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Một người theo
đảng từ lúc 16 tuổi, hiểu rõ hơn ai hết quy luật tuân thủ của một cán bộ cộng sản.
Nhưng ông đã đi ra ngoài trật tự ấy. Nguyễn Hữu Đang luôn luôn giữ vị trí tự do
trong hành động cũng như tư tưởng của mình. Chính trong tư thế tự do ấy, ông đã
đứng lên lãnh đạo phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, đã tạo được một thời kỳ sôi nổi,
trong vòng bốn tháng, trí thức và văn nghệ sĩ, dám nói, dám viết những điều
mình nghĩ, dám chủ trương cải tiến xã hội Việt Nam thành một nước dân chủ theo
đà tiến của thế giới bên ngoài.
Nhưng Nguyễn Hữu Đang đã thất bại. Sự thất bại của Nguyễn Hữu
Đang cũng là sự thất bại chung của một dân tộc. Và hậu quả kéo dài đến ngày
nay: nước Việt là một trong những nước cuối cùng, ở thế kỷ XXI, vẫn còn chưa biết
nhận diện, để đòi hỏi những quyền cơ bản và tất yếu nhất của con người, đầu
tiên là quyền tự do tư tưởng.
Nhà thơ Lê Đạt, từ Nhân Văn
Giai Phẩm đến ''Đường chữ''
Đời chữ của Lê Đạt chia hai thời kỳ, dưới hai ngòi bút: Nhà
thơ cách tân, theo truyền thống Mallarmé, mở một kỷ nguyên mới cho đường chữ.
Nhà thơ thời thế, theo truyền thống Đỗ Phủ, ghi lại bộ mặt của xã hội toàn trị
trên đất nước Việt Nam, xác định tính chất cơ bản của lịch sử: "Lịch sử
muôn đời duyệt lại/ Không ai lừa được cuộc đời".
Trong ba người bạn thân cùng hoạt động NVGP, Trần Dần viết nhật
ký, Hoàng Cầm thuật lại dĩ vãng trong các bài ký, hồi ký. Duy có Lê Đạt là
không có tiểu sử rõ ràng. Tại sao? Một phần, dường như ông không coi tiểu sử
nhà văn là vấn đề quan trọng, nhưng có lẽ còn một lý do nữa, vì tiểu sử của
ông, nếu viết rõ ra, chỉ "có hại" cho gia đình. Ông không muốn các
con biết về hoạt động của cha để đỡ bị liên lụy. Đào Phương Liên, con gái ông,
hỏi: Bố là ai? Các con không biết cha đã từng làm thơ, vì trong nhà "không
có một quyển truyện một quyển thơ nào".
Lê Đạt tên thật là Đào Công Đạt, sinh ngày 10/09/1929 tại xã
Âu Lâu, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái, mất ngày 21/4/2008 tại Hà Nội. Cha là Đào
Công Đệ (mất năm 1975), quê phường Á Lữ, xã Mỹ lộc, Phủ Lạng Giang (Bắc Giang),
làm việc trong sở hoả xa Vân Nam tại Yên Bái, gặp mẹ ông là Nguyễn Thị Sen (mất
năm 1982), người làng Đình Bảng, Bắc Ninh, theo gia đình lên Yên Bái buôn bán.
Lê Đạt học tiểu học ở Yên Bái, năm 1941, 12 tuổi lên Hà Nội, học trường Bưởi.
Kháng chiến bùng nổ, trở về quê cha, tiếp tục trung học tại Á Lữ. Rồi đi theo
kháng chiến. Về thời kỳ này, Lê Đạt chỉ ghi vài hàng sơ lược:
"Năm 45 khi cách mạng tháng 8 bùng nổ, tôi theo
cách mạng, rồi đi kháng chiến, chủ yếu hoạt động trong ngành tuyên huấn. Năm
49, tôi về công tác tại ban tuyên huấn của TU đảng Cộng Sản Việt Nam. Năm 1952,
tôi chuyển hẳn về Hội văn nghệ TU và bắt đầu cuộc đời sáng tác của nhà văn
chuyên nghiệp" (trích tiểu sử viết tay, Đường Chữ, nxb Hội Nhà Văn, 2009).
Trong Từ điển văn học, Nguyễn Huệ Chi ghi: "Đầu
kháng chiến, học tiếp trung học ở vùng kháng chiến rồi về công tác tại Ban
tuyên huấn tỉnh Vĩnh phúc và tiếp tục theo học trường đại học Pháp lý cho đến
khi trường giải thể. 1949, chuyển lên ban Tuyên Huấn trung ương đảng lao động
Việt Nam. 1952 về Hội văn nghệ. Sau 1954, về Hà Nội, tiếp tục công tác ở Hội văn nghệ".
Lê Đạt trên chiến khu Việt Bắc năm 1948.
Ba người ngồi từ phải
sang trái: Nguyễn Lương Bằng,
Hồ Chí Minh, Lê Đạt. (Ảnh tư liệu)
Nhưng Hoàng Cầm cho biết: Năm 1948, [mười chín tuổi] Lê Đạt
đã là bí thư văn nghệ của Trường Chinh. Điều này dường như Lê Đạt không muốn nhắc
đến.
Hoàng Cầm viết: "Đầu năm 1949, anh Lê Đạt, phái
viên của Tổng bí thư Trường Chinh từ ban tuyên huấn được cử sang Hội Văn nghệ
làm trợ lý cho ông Tố Hữu." (Hoàng Cầm, Nguyễn Đình Thi trong tôi -
Nguyễn Đình Thi ngoài tôi, Hồi kí, Talawas).
Nhưng trong bản "thú tội" của Lê Đạt, lại có
câu: "Đảng đối với tôi có rất nhiều ân huệ, kéo tôi ra khỏi bàn tay
phản động của bọn Quốc Dân Đảng, cho tôi công tác gần các đồng chí lãnh tụ" (Văn
Nghệ số 12, tháng 5/58, trang 80).
Như vậy, chúng ta có thể tạm sắp xếp lại tiểu sử của Lê Đạt,
giai đoạn kháng chiến như sau:
Năm 1945, 16 tuổi, học trường Bưởi, Lê Đạt chưa theo Việt
Minh, lúc đó ông đang chịu ảnh hưởng Tự Lực văn đoàn, như phần đông các thanh
niên "tiểu tư sản" thời ấy, mẫu người cách mạng lý tưởng đương nhiên
là Dũng (trong Đoạn tuyệt và Đôi bạn) của Nhất Linh, dù ở Hà Nội
hay Yên Bái, tâm cảm của họ còn rất lãng mạn:
Yên Bái/ dăm cô gái/ lỡ thì/ thổn thức/ Nhất Linh/ tay/
Loan Dũng/ lên ô kính bụi
Sau này, Lê Đạt hết sức chống lại cái lãng mạn của Tự Lực văn
đoàn, có lẽ cũng chỉ là một cách sống lại những "lỗi lầm của tuổi trẻ".
Lê Đạt theo Quốc dân đảng trong bao lâu? Có thể từ
1945 đến 1948 (16 đến 19 tuổi), rồi được "giác ngộ" theo Việt Minh.
Nhờ tài năng, người thanh niên này được đưa vào Tuyên Huấn Trung Ương, làm bí
thư của Trường Chinh. Tiểu sử chính thức của Lê Đạt bắt đầu từ 1948.
Vẫn theo Hoàng Cầm, năm 1949, khi Tố Hữu phụ trách toàn bộ
văn nghệ kháng chiến, Trường Chinh cử Lê Đạt làm trợ lý cho Tố Hữu. Sự bổ nhiệm
này cho thấy: lãnh đạo đã nhìn thấy ở Lê Đạt khả năng chiến lược và chính trị
cao hơn Tố Hữu.
Ngoài ra, những dữ kiện trên đây còn giải thích:
- Tại sao Lê Đạt thấy mình "vững" hơn Nguyễn Hữu
Đang trong việc tổ chức báo Nhân Văn.
- Việc ông thân thiết, kính trọng Thụy An và Phan Khôi, bởi cả
ba đều đã từng hoạt động cho Việt Nam Quốc Dân Đảng.
- Và sự tranh đấu của Lê Đạt, khác với các bạn văn nghệ
sĩ, thể hiện trên hai mặt: Về chính trị, chống chính sách đảng trị, đòi hỏi
tự do dân chủ và về văn nghệ, chủ trương đổi mới thơ ca.
Sự nghiệp đổi mới thi ca
Lê Đạt thất bại trong đấu tranh chính trị, nhưng
ông đã thành công trong việc đổi mới thi ca. Sau hơn 30 năm cấm in, Lê Đạt
được "phục hồi" năm 1988. Tập Bóng chữ (nxb Hội nhà văn,
1994), tác phẩm đầu tiên xác định ông như một nhà thơ lớn, cùng với Thanh Tâm
Tuyền, Đặng Đình Hưng, Trần Dần, đã xây dựng nên nền thơ Việt Nam hiện đại.
Tiếp đến những tập Hèn đại nhân, (truyện ngắn, nxb
Phụ nữ, 1994), Ngó lời (thơ, nxb Văn Học, 1997), Từ tình Epphen (Tạp
chí thơ, Cali, 1998). Mi là người bình thường, (truyện ngắn, nxb Phụ nữ,
2007), U75 từ tình (thơ và đoản ngôn, nxb Phụ nữ, 2007); và sau khi
ông mất, Đường chữ (tuyển tập, nxb Hội Nhà Văn, Bách Việt 2009).
Chỉ sau khi tác giả được "phục hồi" vào năm 1988,
một
số tác phẩm của Lê Đạt mới được ra mắt độc giả
Chủ trương đổi mới thi ca của Lê Đạt bắt đầu từ năm nào?
Nguyễn Huệ Chi viết trong Từ điển văn học "Bài thơ đầu tiên in trên
Văn Nghệ năm 1951", nhưng đó chỉ là bài thơ đầu tiên được in ra, còn
thực sự Lê Đạt đã làm thơ từ trước, từ nhiều năm trước và tập Tình mẹ (Đường
chữ, phần di cảo) đã chứng minh điều đó.
Trong một đoạn hồi ký, Hoàng Cầm viết:
"Đầu năm 1949, anh Lê Đạt, phái viên của Tổng bí thư Trường
Chinh từ ban tuyên huấn được cử sang Hội Văn nghệ làm trợ lý cho ông Tố Hữu. Vốn
là một anh sinh viên rất trẻ, rất sôi nổi, vừa đặt chân đến Hội, Lê Đạt đã làm
thân với các bậc cha chú như Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Thế Lữ, Nguyễn Xuân
Khoát. (...) Lê Đạt khởi xướng ra cuộc tranh luận về một đề tài mới
mẻ và có vẻ hấp dẫn lắm: Vấn đề thơ không vần của Nguyễn Đình Thi (...)
Anh Nhị Ca sôi nổi cho tôi biết về cuộc tranh luận thơ không vần từ tháng trước,
giọng Nhị Ca rất vui, anh nói:
- Tiếc quá! Cậu không dự hôm ấy, giá có cậu thì có lẽ cũng
góp được nhiều ý kiến bênh vực cho cái gọi là thơ không vần. Đằng này chỉ có tớ
với Lê Đạt thêm một thằng Lưu Quang Thuận. Và anh Bửu Tiến. Cũng may có thêm
bác Phan Khôi. Ông già này lại bênh rất hùng hồn, mày ạ. Còn một tá những ông
già khác không chịu nói gì, hoặc có nói lại về hùa với ông Lành. Anh Thi đâm ra
yếu thế, sau cứ đành giơ sườn ra cho các ông ấy thụi. Thành thử, cái loại thơ tự
do không vần bị ăn một trận đòn đếch cãi vào đâu được." (Hoàng Cầm,
Nguyễn Đình Thi trong tôi - Nguyễn Đình Thi ngoài tôi, Hồi ký, Talawas)
Như vậy, theo Hoàng Cầm, Lê Đạt đã xướng lên cuộc tranh luận
về thơ không vần từ năm 1949 và Lê Đạt cùng với Lưu Quang Thuận, Bửu Tiến, Phan
Khôi, ủng hộ thơ Nguyễn Đình Thi. Người đánh Nguyễn Đình Thi là Tố Hữu (ông
Lành).
Lê Đạt cũng nói: "Thời kháng chiến, tôi và Nguyễn
Đình Thi mới đầu chịu ảnh hưởng Eluard và tôi cũng làm thơ không vần như
anh Thi. Tôi trọ ở nhà Eluard không lâu. Một thời gian dài tôi và Trần Dần chịu
ảnh hưởng của Maïakovski rất đậm" (Nghe Lê Đạt kể chuyện mình, Phạm
Tường Vân phỏng vấn tháng 1/2003, đăng trên BBC Việt Ngữ 6/5/2008).
Như vậy chúng ta có thể xác nhận: Lê Đạt làm thơ không vần,
ít nhất từ 1948, và tập Tình mẹ, có thể là những sáng tác đầu tiên của
Lê Đạt.
Gia cảnh Nhân Văn
Bài thơ Nhân câu chuyện mấy người tự tử, gây sóng
gió suốt thời kỳ Nhân Văn, và ghi lại trong ký ức người đọc sự phản kháng sâu sắc
của nhà thơ đối với một thể chế độc tài, khống chế tự do tình cảm, tự do luyến
ái, can thiệp vào đời tư của con người, khởi đi từ những sự kiện có thật trong
đời Lê Đạt.
Lê Đạt kết duyên với cô Nguyện, cán bộ cốt cán, nhưng không hợp,
chỉ sống chung một thời gian ngắn, rồi chia tay (khoảng 1955).
Nhà thơ Lê Đạt cùng với vợ là nghệ sĩ Thúy Thúy (DR)
Một thời gian sau, Lê Đạt yêu Thúy Thúy (Nguyễn Thị Thúy),
nghệ sĩ đang lên của đoàn Kịch Trung Ương. Năm 1956, hai người sống chung. Việc
"bỏ người vợ cốt cán", để lấy vợ nghệ sĩ, đã gây cho Lê Đạt và Thúy
Thúy, không ít khó khăn, cả hai đều bị kiểm thảo, Trần Dần ghi lại sự việc này
trong nhật ký những ngày từ 23 đến 27/9/1955 như sau:
"Phê phán Lê Đạt:
Đồng chí định bỏ vợ lấy Thúy là bỏ cục vàng lấy cục đất.Còn
gì qúy hơn là người làm việc cho Đảng? Đi CCRĐ [cải cách ruộng đất] bao nhiêu đợt
rồi. Thành phần nông dân cốt cán. Đồng chí còn muốn gì? Không yêu nhân dân thì
yêu ai? Chỉ có kẻ thù mới không yêu nhân dân thôi chứ!
Kể xấu Thúy. Con lính đế quốc. Nhăng nhít nọ kia bao nhiêu vụ
rồi.
Tôi không thể đồng ý đề nghị của đồng chí. Không bao giờ Đảng
đồng ý những cái sai.
Đồng chí lắm lý luận lắm, đao to búa lớn, vợ đồng chí hiền
lành, đồng chí có đem lý luận đàn áp, dù vợ đồng chí có bằng lòng ly dị, Đảng
cũng không đồng ý vì biết chắc chắn rằng đó chỉ là vì bị đồng chí đàn áp, bằng
lòng mồm chứ không bằng lòng thực" (trích Trần Dần ghi, Phạm Thị Hoài
biên soạn, td mémoire, Văn Nghệ, 2001, trang 87).
Những hàng nhật ký trên đây của Trần Dần cung cấp một số
thông tin chính xác:
- Cô Nguyện bằng lòng ly dị (trên thực tế cô Nguyện đứng
đơn xin ly dị).
- Nhưng Đảng răn đe: "dù vợ đồng chí có bằng lòng
ly dị, Đảng cũng không đồng ý"
- Tình cảnh này đã được Lê Đạt thuật lại trong bài "Nhân
câu chuyện mấy người tự tử" với hai câu thơ "để dời":
Đem bục công an máy móc đặt giữa tim người.
Bắt tình cảm ngược xuôi theo đúng luật đi đường nhà nước
Lời thơ phát xuất từ chuyện cá nhân, nhưng đã nói lên bi kịch
của tất cả những người muốn sống tự do trong tình yêu, nhưng bị đảng trực tiếp
ngăn cản.
Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt đều chung cảnh ngộ bị đảng can
thiệp vào đời sống tình cảm riêng tư, và mỗi người vợ Nhân Văn đều phải gánh chịu
hậu quả hoạt động của chồng trong suốt cuộc đời còn lại.
Lê Đạt kể lại: "Khi ấy, Thúy mới 18 tuổi. Ngày
nào cũng có những cán bộ tốt bụng đến vạch rõ "bộ mặt phản động của Lê Đạt
và khuyên cô cắt đứt với tôi (...) Cô không được làm diễn viên nữa, bị đẩy xuống
làm phục trang và bị đối xử như một con chiên ghẻ. Có một điều chắc chắn là
không có vợ tôi, thì tôi đã thân tàn ma dại rồi. Tôi đã làm lỡ cuộc đời nghệ
thuật của cô và cô vì tôi mà mắc bệnh suy nhược thần kinh cho đến bây giờ.
(...) Được phục hồi, tôi còn nhúc nhắc sáng tác được, nhưng Thúy thì được
gì ngoài chứng bệnh suy nhược thần kinh, tê buốt khắp mặt đến mức nhiều khi
không thể hé miệng được" (Nghe Lê Đạt kể chuyện mình, Phạm Tường Vân,
bài dã dẫn).
Bi kịch gia đình Nhân Văn, được Lê Đạt ghi lại thành thơ, như
một lời tạ lỗi vợ con, như một ân hận, suốt đời, nhưng bài thơ cũng lại vượt khỏi
khuôn khổ gia đình để nói lên nghịch cảnh chung của tất cả những người vợ Nhân
Văn, Lê Đạt đã khắc chân dung họ vào văn học sử:
Lịch sử quýt làm cam chịu
Xin lỗi em/ những đêm Nguyễn Bỉnh Khiêm (1) trằn trọc
Anh Thái Hà (2) chưa về/ và em khóc
Xin lỗi em/ những lời khuyên "cắt đứt"
Vạ gì đeo hai tiếng "liên quan"
Những buổi sớm/ muốn chui đầu xuống đất
Mặt trời soi ngày kiểm thảo bắt đầu
Xin lỗi em/ tiếng oan vợ thằng phản động
Lý lịch ba đời mấy đứa con thơ
Xin lỗi em/ tuổi ước mơ không được sống
Những giấc ngủ/ chưa một lần tròn mộng
Chung thân tâm thần/ trọng tội đa mang
Đời sau ơi!/ May còn đoái đến tôi
Hãy trả dùm tôi món nợ
Người vợ nhỏ/ vừa thoát tuổi khăn quàng đỏ
Đã chụp mũ chồng/ lưng thập tự Sói ăn
Và Đức Phật/ duyệt xuất biên vào Tĩnh thổ
Xin độ trì/ những Thị Kính - vợ - Nhân Văn.
Chú thích (của tác giả):
1- Vợ tác giả là diễn viên Kịch nói ở nhà tập thể đoàn Kịch
phố Nguyễn Bỉnh Khiêm
2- Thái Hà ấp: nơi tổ chức cuộc đấu tranh chống Nhân Văn Giai
Phẩm
Con Nhân Văn
Đào Phương Liên, con gái Lê Đạt, đã ghi lại bối cảnh gia
đình, nhân ngày giỗ đầu của cha. Bài văn khơi động một cảnh sống mà người ngoại
cuộc không thể hình dung nổi, chúng tôi xin trích lại ở đây:
"... Suốt tuổi thơ, con luôn trăn trở mãi trong lòng câu
hỏi Bố là ai? (...)
Nhưng con không dám hỏi Bố vì sao sau những buổi vui vẻ ấy, Mẹ lại
lo lắng nhắc Bố: “Ông đừng có nói to, cười lớn như thế!”. Bố thế nào cũng nổi
cáu, quặc lại: “Tôi có làm gì khuất tất đâu mà không được cười to, nói to?” Con
đã bênh Bố vì nghĩ đó không phải là một tội nhưng lại thầm thắc mắc: “Vì sao nhỉ?
Hay cười nói to thế là không lịch sự?”
Rồi một hôm Mẹ đi làm về, nhỏ to thì thầm: “Bà vợ ông Văn Cao
dặn tôi nhắc ông vẫn có người theo dõi đấy. Ông phải cẩn thận. Đừng có cười to,
nói to. Người ta để ý đấy!’’Con đã quá quen với lời nhắc nhở đó, giờ chỉ còn mỗi
bận tâm: “Văn Cao nào nhỉ? Làm sao mà Bố quen được với tác giả TIẾN QUÂN CA cơ
chứ?”
Trên chiếc thùng gỗ tạp mà bề mặt xù xì dăm gỗ, chỉ rộng bằng
tờ báo, kê dưới chiếc cửa sổ có chấn song nhỏ xíu của căn gác 3 như chuồng chim
cu nhà ta, bố úp đáy làm bàn ngổn ngang giấy tờ, sách báo, Bố ngồi bệt dưới
sàn, hý hoáy viết rồi gạch xóa. Bố là nhà thơ, nhà văn ư? Con thoáng nghĩ đến
cái nghề cao siêu đó. Con lén tìm đọc. Con chỉ thấy vài chữ nguệch ngoạc bên lề
những mẩu báo, bên lề những bài kiểm tra của con hay ở mặt sau những tờ giấy
đen xì nổi gai: "chi chi… chành chành, rồng rắn lên mây, cái đanh thổi lửa"… (Mà mỗi khi con hỏi bố tìm gì vì thấy bố hoảng hốt, cáu gắt loạn lên thì bố chỉ
im im rồi thở dài. Bố đâu biết mẹ con con khi lau dọn tưởng là rác vứt đi rồi!).
Con vội gạt đi ngay vì nhà mình không có một quyển truyện, một quyển thơ
nào. (...)
Và con lại trăn trở với câu hỏi: Bố là ai? Làm nghề gì? (...)
Cho đến tận năm 1975, năm lớp 10 cuối cấp, một cậu bạn cùng
phố, học từ thời vỡ lòng với con, con một cán bộ miền Nam tập kết cấp cỡ, đến lớp
bô bô: “Bố cái Liên là phản động chúng mày ạ”. Con nghe máu nóng bốc rát mặt
nhưng cúi mặt vờ không nghe thấy. Một cậu bạn kế bên đế thêm: “Bố nó sỏ nhầm giầy
à?” Lúc đó, con chỉ muốn độn thổ vì sợ.
Về nhà, con len lén để ý xem Bố có đúng là “phản động” không?
Con không dám hỏi vì sợ… đúng???. Vì sợ… đụng phải nỗi đau cần phải che
dấu của Bố dù con không hề tin!
Con đã tự trấn an mình bằng những kiến thức thu nạp được qua
biết bao chuyện công an bắt gián điệp những tối thứ bảy, qua những câu chuyện
trong các tạp chí QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN, qua những nhân vật phản diện xấu xa trong
các tác phẩm văn học. Con vừa là công an theo dõi Bố, vừa là luật sư phản biện,
bảo vệ Bố. Con chịu khó lục tìm mọi chứng cớ có lợi cho Bố. (...) Con tự lý giải: Nếu Bố là “phản động” thì Bố đã không khóc ngày Bác Hồ mất! Nếu Bố “phản động”
thì đã không có thẻ thương binh! (Lúc đó con không biết đó là thẻ Bố được tặng?)
(...)
Rồi con không được xét vào Đoàn dù lần kết nạp nào con cũng
được giới thiệu, (....) Rồi con làm hồ sơ thi đại học, anh con bác hàng xóm cười
khẩy: “Rồi em cũng như tụi anh thôi. Có giỏi mấy cũng chẳng vào được đại học.
Cùng lắm là Sư phạm. Mà mày chưa Đoàn viên thì đừng mơ!” Đem thắc mắc đó về hỏi,
Bố cười gạt đi: “Làm gì có chuyện đó. Con cứ thi đi. Mà Bố thấy Sư phạm cũng tốt”.
Bố chợt trầm ngâm: “Chắc không có chuyện gì đâu. Bút danh của Bố là Lê Đạt cơ
mà. Có phải Đào Công Đạt đâu mà lo?”. Rồi Bố lo lắng hỏi lại: “Thế có thật
không phải Đoàn viên thì không được vào Sư phạm không con?”. Và bố lại tất tả dắt
xe đi…
Cho đến lúc ấy con mới được nghe từ Bố cái bút danh Lê Đạt
nhưng quả thật không gây ấn tượng gì với con vì con chưa bao giờ nghe tới phong
trào NVGP.
Và Bố không biết đâu, ngay những ngày đầu của năm thứ nhất Sư
phạm ngoại ngữ, trong một giờ văn học sử Pháp, thầy giáo không biết sao lại nhắc
đến “bọn Nhân văn Trần Dần, Lê Đạt” với những câu “bôi xấu chế độ”.
"Ta đi không thấy phố thấy phường
Chỉ thấy mưa sa trên nền cờ đỏ"
Của bác Trần Dần
Và của Bố:
"Đặt bục công an giữa trái tim người
Bắt tình cảm ngược xuôi theo chế độ".
Con đã cúi gằm mặt, người nổi gai vì ngỡ cả hội trường dồn mắt
nhìn mình. Dẫu trong lòng con vang lên “nếu thế thì sai quá còn gì” dù con
không biết những câu sau.
Cho tới ngày Bố đi xa, cô chủ nhiệm của con mới móm mém: “tao
đến khổ vì chuyện vào Đoàn của mày”. Con thật thà: “vì em chưa xứng đáng”. Cô vỗ
vai: “vì cái lý lịch”
(trích Bố ơi, những câu chuyện của con... của Đào Phương
Liên, in trên Tuổi trẻ cuối tuần, 12/4/2009)
Và đây là câu trả lời của Đào Công Uẩn trước linh cữu Lê Đạt,
có đại diện của chính quyền: cha chúng tôi là một người luôn sống và trả
giá "cho một đất nước độc lập, tự do, một nền văn học nghệ thuật độc lập,
tự do".
Lê Đạt và Hồ Chí Minh
Trái với Nguyễn Hữu Đang, dứt khoát xác định trách nhiệm của
Hồ Chí Minh trong việc đàn áp NVGP, Lê Đạt có một thái độ gần như băn khoăn,
khó hiểu.
Ngày 13/4/1999 tại Paris, nhà thơ Lê Đạt đã
nói chuyện với
RFI về Nhân Văn Giai Phẩm
Trong buổi nói chuyện với ông (ghi âm ngày 13-04-1999), ở đoạn
cuối, tôi có hỏi ông về Hồ Chí Minh. Khi phát thanh trên RFI, năm 2004, Lê Đạt
đồng ý là nên cắt bỏ. Nay đã có khoảng cách thời gian, xin ghi lại hai câu đã bị
cắt bỏ này, như một tư liệu, giải thích thái độ của Lê Đạt đối với vị lãnh tụ
đương thời.
T. K: Chính ở trong mouvement của các anh cũng có điều
khó hiểu: Ngay từ ban đầu, các anh đã phê bình tập thơ Tố Hữu, chỉ trích tập
thơ đó là thần tượng hóa cụ Hồ, và toàn bộ tinh thần NVGP đều chống lại sự thần
tượng lãnh tụ. Nhưng trong thâm tâm các anh, ít nhất ba người Lê Đạt, Trần Dần,
Hoàng Cầm, đều thấm nhuần Tây học, mà vẫn có sự thần tượng hóa cụ Hồ, có phải
như thế không? Điều này làm cho người ta khó hiểu.
L. Đ: Dĩ nhiên chị ạ. Mình có thể phê phán người khác [nhưng
mình vẫn phạm sự] thần tượng hóa, là tất nhiên. Nhưng khi tôi viết tôi
không thần tượng hóa nữa. Tôi rất chú ý đến việc ấy, nhưng chắc là trong ngóc
ngách tâm hồn tôi, chắc còn có nhiều chỗ vẫn thần tượng hóa.
T. K.: Trong thâm tâm các anh vẫn coi cụ Hồ là "thần
tượng". Nhưng cụ Hồ lại chủ trương điều mà các anh chống lại, đó là
sự toàn trị, và cấm đoán cái mà các anh đòi hỏi, đó là tự do tư tưởng. Mình
không thể nào tranh đấu với một thần tượng mà mình tôn thờ và đòi lật đổ sự độc
tôn thần tượng đó. Đấy là cái điểm mâu thuẫn, không thể giải thích được trong lập
luận của các anh?
L. Đ.: "Tôi không bao giờ coi cụ Hồ là đại diện tự
do và dân chủ cho đất nước Việt Nam. Tôi thần tượng là thần tượng ở những
khía cạnh khác. Chị nên thông cảm với tôi. Thần tượng trên mọi phương diện thì
tôi không bao giờ có, không bao giờ tôi nghĩ cụ Hồ là thần tượng của tự do dân
chủ trên đất nước Việt Nam. Không có. Trong khi tôi đấu tranh thì có nghĩa
là tôi đấu tranh cả với cụ Hồ. Nhưng một góc của tâm hồn tôi... Đó là bi kịch
của tôi. Điều đó chị thông cảm cho tôi".
Ngoài micro, tôi nói đùa: "Cụ Hồ đã làm các anh
điêu đứng suốt đời mà anh vẫn còn bênh được thì lạ quá!". Lê Đạt cười: "Thì
mình cũng phải tin là còn có một người tử tế, chứ nếu cả nước đều một bọn vứt
đi thì làm sao sống nổi!"
Lê Đạt có viết một bài trường ca Bác (một phần
trích in trong Văn học VN sau cách mạng tháng Tám, nxb Văn Học Hà Nội 1992).
Đây là bài thơ ca tụng, với những tình cảm chung chung, không bộc lộ được
cái cảm xúc chân thực (nếu có) phát xuất tự đáy lòng:
"Trong lặng im trắng/ mênh mông/ mỗi tấc lòng
Ta càng nghe rất rõ/ cái thủa Ba Đình
Di chúc/ bác mở tay/ mở bay/ trang rộng" (sđd,
trang 132)
Thơ ca tụng bác Hồ, thời kỳ đầu kháng chiến, hầu như ai cũng
làm, kể cả Vũ Hoàng Chương. Nhưng không hiểu sao, Lê Đạt lại làm bài Bác ở
thời điểm khá trễ này? Đào Phương Liên cho biết, khi "Ông" mất, bố mẹ
để tang "Ông". Phong Lê trong bài "Có một trường ca về Hồ
Chí Minh..." cho biết trường ca này viết năm 1970 để kỷ niệm ngày giỗ
đầu của HCM, nhưng cũng phải 20 năm sau, mới được in (Nhà xuất bản Thanh Niên,
1990) nhân ngày kỷ niệm 100 năm sinh HCM.
Như vậy bài thơ Bác có thể đã làm sau khi Hồ Chí
Minh mất, như một lời tạ ơn chăng?
Kết thúc lớp Thái Hà, Tố Hữu đã có lời đe Lê Đạt: "Tội
của anh cũng nặng như tội Nguyễn Hữu Ðang. Lẽ ra anh cũng bị đi tù. Nhưng mà Ðảng
vì nghĩ đến anh, chiếu cố đến anh còn trẻ, có khả năng và còn có thể giúp ích
được cho đời nữa nên Ðảng khoan hồng với anh thôi chứ anh đừng nên nghĩ rằng anh tội nhẹ!" Ðó
là lời dặn dò của Tố Hữu với tôi trước khi tôi về". (Lê Đạt trả lời phỏng vấn
RFI)
Đảng, trong lời Tố Hữu, là Bác? "Tội" của Lê
Đạt nếu truy kỹ, nặng hơn "tội" Nguyễn Hữu Đang, vì những câu thơ của
Lê Đạt viết về chế độ cộng sản sẽ không bao giờ xóa được trong lòng ký ức dân tộc.
Nhưng Lê Đạt không bị đi tù. Phải chăng Lê Đạt đã cảm nhận được sự "khoan
hồng" ở bác, đối với một nhà thơ có tài? Và đó chính là bi kịch của ông? Tạm
hiểu bài thơ Bác và tình cảm "khoan hồng" của Lê Đạt đối với
bác, nằm trong bối cảnh như thế.
Hoặc cũng có thể, ở những nghệ sĩ như Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê
Đạt, Phùng Quán, luôn luôn có một con người ngây thơ, lãng mạn, trữ tình, khi
nhìn vị lãnh tụ. Trong khi ở những nhà trí thức như Phan Khôi, Trương Tửu, Nguyễn
Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Đang... Sự phán xét lãnh tụ sáng suốt, rạch ròi hơn, vì
họ không lãng mạn mà nghiêng về lý trí, tinh thần.
Trong bản bản "thú tội" của Lê Đạt, có một câu quan
trọng: "Đảng đối với tôi có rất nhiều ân huệ, kéo tôi ra khỏi bàn tay
phản động của bọn Quốc Dân Đảng, cho tôi công tác gần các đồng chí lãnh tụ, cho
tôi đi thực tế để cải tạo, nâng đỡ những sáng tác của tôi, đến khi va chạm vào
quyền lợi cá nhân, tôi trở mặt tấn công vào Đảng, nhẩy sang trận địa của giai cấp
tư sản phản động và làm người phát ngôn của chúng" (Văn Nghệ số 12,
tháng 5/58, trang 80).
Và khi trả lời phỏng vấn của Phạm Tường Vân, Lê Đạt cho biết:
"Nhà mẹ vợ tôi là cơ sở cách mạng, hai anh của Thúy một
người là bí thư chi bộ xã, một người đi bộ dội. Hồi cải cách mẹ vợ tôi bị quy
là gián điệp và anh cả bị quy là Quốc Dân Đảng chờ đem ra xử bắn. Thúy đương được
ở đoàn kịch trung ương, lúc nào cũng nơm nớp sợ bị đưa về xã đấu tố.
Thì vừa lúc sửa sai bắt đầu, cả nhà may mắn thoát nạn" (Lê Đạt trả lời
Phạm Tường Vân, bđd)
"Trong truyện ngắn "Thế là… chị ơi!" (Talawas, tháng
6/2007) của Vũ Ngọc Tiến, có nhiều chi tiết gần gụi với đời sống của bà Bùi Thị
Ngọc Khuê, vợ nhà thơ Trần Dần, đặc biệt có một đoạn viết về cái chết của ông
Phán Hậu (ân nhân của bà K) như sau:
"Cuối cùng thì thơ anh cũng được tôn vinh. Sau
ngày anh mất, tập trường ca cuối cùng của anh được trao giải và hôm nay tôi lại
nhìn thấy chị trên màn ảnh nhỏ, trong lễ trao Giải thưởng Nhà nước cho anh và
những người bạn của anh. Song cái án oan kết tội ông Phán Hậu, nhà chí sĩ yêu
nước giầu có, danh giá bậc nhất tỉnh Nam Định bị bôi nhọ là tên phản động Quốc
dân Đảng, tay sai đế quốc Pháp ai rửa cho ông? Đêm trước ngày bị các Ông Đội
sai cán bộ chuỗi, rễ đến nhà bắt trói ông đem đi đấu tố, ông lập bàn thờ giữa
sân nhà, có bài vị Nguyễn Thái Học bằng chữ Nho, rồi ông đội khăn xếp, mặc áo
the đen, lầm rầm khấn vái: “Tiên sinh năm nào lên máy chém vẫn để lại lời bất hủ
rằng “không thành công cũng thành nhân”. Giờ độc lập thành công rồi, mai tôi
lên đoạn đầu đài sẽ thành gì đây? Tiên sinh hỡi, tiên sinh!...” Cái án oan ấy
khiến anh đang đi công tác cải cách ruộng đất ở Thái Bình bị triệu hồi về giam
lỏng ở đơn vị. Ngày ấy, nếu lần anh tự tử bằng dao lam trót lọt thì còn đâu những
tác phẩm sau này anh viết cho người đời chiêm ngưỡng, hậu thế tôn vinh?"
Hai câu chuyện trên đây về người thân của hai bà vợ Nhân Văn,
cho ta thấy rõ không khí thời đó đối với những người có "quan hệ" với
Quốc Dân Đảng và hiểu tại sao Lê Đạt đã phải cất giấu quá khứ của mình.
Trong những người chủ chốt của phong trào, ba người có
"liên hệ" với Quốc dân đảng: Phan Khôi, Thụy An, Lê Đạt. Do đó, một mối
thâm tình liên kết họ với nhau:
- Trả lời phỏng vấn RFI, Lê Đạt nhắc đến Thụy An và Phan
Khôi, với những lời đầy ý nghiã: - "Phan Khôi với tôi vốn có những
quan hệ đặc biệt"."Trong thâm tâm tôi, bao giờ tôi cũng coi ông là
người lãnh đạo tờ Nhân Văn".
Việc công nhận Phan Khôi là người lãnh đạo tờ Nhân Văn, chứng
tỏ Lê Đạt chỉ coi Nguyễn Hữu Đang như người bạn đồng hành, Phan Khôi mới là người
thủ lãnh. Ngoài uy tín của Phan Khôi trong văn học, còn có lý do nào khác, nếu
không phải vì Phan Khôi là người theo Quốc dân đảng, lý tưởng đầu đời của
Lê Đạt?
- "Tôi có thể bảo đảm 100% chị Thụy An không phải gián
điệp", "Chị Thụy An rất thân với anh em trong NVGP và đặc biệt
là thân với tôi". "Riêng tôi thì không bao giờ tôi quên công của
chị Thụy An đối với tôi".
Tại sao Lê Đạt dám bảo đảm 100% là Thụy An không phải gián điệp,
nếu ông không biết rõ hành động của Thụy An? Nếu không cùng một lý tưởng?
Câu "Tôi không bao giờ quên công của chị Thụy An đối
với tôi", có nhiều ý nghiã. Công gì? Thụy An có công với nhiều người,
công dạy Phùng Quán tiếng Pháp tiếng Anh, công giúp đỡ vợ con Lê Đạt... Nhưng từ
khi Thụy An bị nạn cho đến bây giờ, những bạn đồng hành không ai nói một lời biện
hộ công khai cho bà, trừ Lê Đạt. Vậy có thể hiểu chữ "công" này là một
công lớn: Ngoài sự kính phục người chị văn nghệ can trường, còn có sự hàm ơn Thụy
An, đã không "khai" những điều bà biết về Lê Đạt, như một thành viên
cũ của VNQĐ.
Khu lăng mộ Nguyễn Thái Học tại Yên Bái với câu nói nổi tiếng
''Không thành công cũng thành nhân" (Ảnh: DR)
Câu châm ngôn mà Lê Đạt cho ghi lại trong bộ Nhà Văn Việt Nam
Hiện Đại (nxb Hội Nhà Văn, 2007), là: "Một nhà văn tự trọng nên bận
tâm đến việc thành nhân hơn là thành danh" có gì rất gần với lời Nguyễn
Thái Học: "Không thành công thì thành nhân".
Tinh thần yêu nước phát sinh từ Yên Bái
Đất Yên Thế và đất Yên Bái đối với Lê Đạt có những gắn bó sâu
xa: Yên thế, quê nội là đất của Đề Thám, thuộc phân Phủ lạng giang, triều Nguyễn
(nay thuộc tỉnh Bắc giang), có 2 mảnh đất lịch sử: Nhã nam và Yên thế:
-Tổng Nhã Nam, là nơi Hoàng Hoa Thám làm lễ tế cờ khởi nghiã
(1889), và cũng là nơi Lương Tam Kỳ đem thủ cấp Đề Thám nộp cho Pháp lãnh
thưởng (1913).
- Tổng Yên Thế, là nơi Đề Thám đặt đại bản doanh chiến đấu
trong hơn 20 năm, vị trí hiểm trở, "rừng thiêng nước độc", nằm giữa rặng
Cai Kinh (Lạng Sơn) và núi đồi Thái Nguyên.
Yên Thế, như một địa hình, một bối cảnh đất nước lâm nguy, một
can trường chống Pháp nhưng thất bại.
Đất quê cha tôi/ đất quê Đề Thám
Rừng rậm sông sâu
Con gái cũng theo đòi nghề võ
Ngày nhỏ/ cha tôi dẫn đầu/ lũ trẻ chăn trâu
Phát ngọn cờ lau/ vào rừng Na Lương đánh trận
Mơ làm Đề Thám... (Cha tôi)
Nhưng vì miếng cơm manh áo, người cha đã buông tay, bỏ cuộc,
người con tiếp tục lên đường:
Cuộc sống hàng ngày/ nhỏ nhen/ tàn bạo
Rác rưởi gia đình/ miếng cơm/ manh áo/ tàn phá con người
Những mơ ước thời xưa/ như con chim gẫy cánh
Rũ đầu chết ngạt trong bùn
Năm tháng mài mòn/ bao nhiêu khát vọng.
Cha đã dạy con một bài học lớn
Đau thương/ kiên quyết làm người. (Cha tôi)
Bài Cha tôi làm tháng 7/56, giữa Giai phẩm mùa
xuân và Nhân văn, như một tuyên ngôn, xác định con đường tranh đấu,
lấy đất Đề Thám làm khởi điểm.
Nếu Yên Thế được Lê Đạt xác nhận, thì Yên Bái, đã không thể
công khai trình làng, bởi Yên Bái là quê hương của Quốc Dân Đảng.
Yên Bái là pháp trường xử lòng ái quốc. Khi Nguyễn Thái Học
và 12 bạn đồng hành lên đoạn đầu đài (1930), Lê Đạt mới một tuổi, nhưng Yên
Bái, hơn một nơi chôn rau cắt rốn, đã trụ lại như cái mốc đầu đời, một khởi điểm
của cõi viết và nẩy mầm ý chí cách mạng vùng lên chống Pháp.
Tập thơ Tỉnh mẹ, tạm coi như tập thơ đầu đời của
Lê Đạt, đã dành cho Yên Bái chỗ đứng thiêng liêng, nói lên tâm sự người thanh
niên sinh ở Yên Bái. Tỉnh mẹ là tỉnh mình sinh ra, là đất mẹ, là
Yên Bái. Tỉnh mẹ có thật sự bị thất lạc? Hay đã bị "tịch
thu" và sau này được trả lại?
Tỉnh mẹ, in trong phần Di cảo (Đường Chữ, nxb Hội nhà văn,
2009)
Tác giả mơ hồ cho biết đây là tập thơ bị thất lạc đã 40 năm.
Không một bài thơ nào ghi ngày tháng ở dưới. Lê Đạt cũng không hề nhắc đến
"giai đoạn thơ này" khi còn sống. Có phải vì Yên Bái là một "liên
quan" thầm kín mà tác giả phải giấu đi? Cũng như trong một thời
gian dài, về nơi sinh, ông chỉ ghi Âu Lâu, trên bờ sông Hồng (không nhắc đến
tên Yên Bái).
Tập thơ nói lên tinh thần chống Pháp của một thanh niên. Thơ
làm theo lối leo thang, không vần, đã là giọng thơ Lê Đạt, đã có những hình ảnh
mới lạ, táo bạo hơn thơ người khác. Điểm đặc biệt là sự gắn bó với Yên Bái, như
cái nôi của hành động và tư tưởng, như một tiền trạm của lòng yêu nước, như một
ý chí cách mạng, một sự đổi thay, một sự lập thân con người, khởi đi từ Yên
Bái.
Từ Yên Bái, cậu bé đã thấy một "người hàng xóm",
"người chị", và cũng là "người yêu", bị con trai quan phủ
làm nhục, xóm làng hắt hủi:
Đêm ấy/ chị ra sông tự tử
Theo những chiếc lá dâu ngày xưa
Áo trắng/ như buồm mộng/ về một chân trời nào/ cao rộng/
thăm thẳm/ xa (Thơ ngây, trang 298)
Từ Yên Bái, cậu bé nhìn thấy người ăn mày chết trước cửa giáo
đường, hỏi Chúa có thấy không?
Chúa về tự bao giờ
Có phải thật Người không?
Tiếng chuông/ lu loa/ hối hả/ giục/ người bõ già
Quét/ chiếc xác/ nằm co quắp
Chết/ giữa ngày Phục sinh (Người ăn mày già, trang 319)
Từ Yên Bái, tác giả thấy một người anh, ban đầu có "chí
lớn", rồi chí ấy lụi tàn trong bổng lộc quan trường, cuối cùng nhìn lại sổ
đời. Bản cáo trạng chứng tỏ người anh không sống trong thời Pháp thuộc mà dường
như ở thời cách mạng:
Sởn tóc gáy/ như kẻ sát nhân/ đột nhiên/ thấy/ người mình
thủ tiêu/ lững thững/ hiện theo về/ đối chất
"Anh có thể lừa/ cha mẹ/ vợ con/ lừa cả nước
Nhưng thế nào/ cũng có lần/ anh phải lôi ra/ trước/ vành
móng ngựa bản thân anh" (Một cuộc đời, trang 309)
Yên Bái, một xã hội Việt nam thoi thóp, tê liệt, đợi chờ:
Yên Bái/ dăm cô gái/ lỡ thì/ thổn thức/ Nhất Linh/ tay/ Loan
Dũng/ lên ô kính bụi
Chơ chỏng/ mấy con búp bê/ gẫy cẳng/ bạc màu
Yên Bái/ một phố chiều/ thượng du nắng lụi
Một con đường/ rơm rớm/ máu rơi
Đôi vợ chồng già/ không con/ nhìn bóng tối
Ôm con mèo gầy/ nhức nhối/ chuyện ngày xưa
Yên Bái/ hôm nào/ cũng ra ga
Hôm nào/ cũng nhỡ tàu/ ở lại
Với những tiếng còi/ rứt ruột/ gọi đi
Và một chân trời/ nhêu nhếch/ khói (...)
Yên Bái/ những ngày trích lục nhau/ sao thành nhiều bản
(...)
Yên Bái/ một quê hương vỡ nợ (...)
Một ngã ba thành năm sáu ngã ba (Phác họa màu xám, trang
333)
Và người thanh niên ấy đã gửi những lời tạ tội về Yên Bái, tạ
tội đã đốt quê hương. Tiêu thổ là bài thơ duy nhất trong thời
kháng chiến đặt lại vấn đề tiêu thổ kháng chiến như một tội đồ đối với quê
hương, dân tộc:
Yên Bái/ chỉ để lại/ trong tôi/ những kỷ niệm/ nhạt/ như
nước ốc
Sao hôm nay/ khi tiêu thổ quê hương/ tôi bỗng khóc (...)
Yên Bái ơi!/ Cố sống/ lấy thêm/ dăm ngày nữa (...)
Hôm nay/ ta đánh vỡ/ quê hương
Đánh vỡ/ từng viên gạch/ tổ tiên ta/ cóp nhặt (...)
Quê hương ơi!/ Ta không phải/ kẻ ăn tàn phá hại
Vén tay áo xô/ đốt gia tài/ ông cha để lại... (Tiêu thổ,
345)
Yên Bái chính là khởi điểm của cuộc lên đường, cũng là cuộc
đi vào tan nát, khổ đau:
"Ôi! Những ngày đầu/ quê hương/ tan nát lửa
Như đàn cò/ vỡ tổ/ bế nhau đi
Đằng trước một chân trời sẹo đạn
Đằng sau/ thông thống một đường về
Ta đã/ chọn/ đường/ đi về phía trước
Chân chảy máu/ nạng vào nhau ta bước
Điểm chỉ/ trên khắp mọi ngả đường
Trong bản giao kèo/ ta ký/ với tương lai (Quê hương du
ca, trang 353)
Yên Bái còn là mẹ của cả những người lính viễn chinh:
Bà mẹ Âu Lâu/ ngồi/ như gốc mai nở trắng/ giữa đàn con/ đủ/ các giống người
Thằng cả/ Xa lum/ người Xê nê gan/ làm mỏ than Ma rốc
Vào hầm than/ đen/ như thấy dân tộc mình/ mấy ngàn đời/
vùi dập/ chết/ ở đây
Tan tầm về/ ra bờ sông nước trong/ rửa mặt
Rửa xong/ nhìn/ mặt vẫn nhọ than
Thằng hai/ Ma Hô Mét
Công nhân bốc vác/ An Giê
Gù gù/ lưng cánh phản
Ngày ngày/ khuân tổ quốc/ xuống tàu buôn... (Mẹ, trang
363)
Đối diện với những hô hào chém giết, máu, thù, trong thi ca
đương thời, đây là bài thơ phản chiến và nhân bản nhất trong văn chương Việt
Nam thời kháng chiến chống Pháp. Nhà thơ không phân biệt chiến tuyến,
"dám" coi "quân thù" cũng là con của mẹ Âu Lâu. Vì vậy
"tội" của Lê Đạt phải là rất nặng, ngay từ trước thời kỳ NVGP.
Thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm
Xuân Diệu buộc tội: "Đã rõ rệt như ban ngày, tập
Giai phẩm mùa xuân 1956 phất lá cờ đầu tiên chống Đảng, chống chế độ, và Lê Đạt
là nhà lý luận trong đó. Lê Đạt mở đầu Giai phẩm với cái tuyên ngôn:
"Trích thơ gửi người yêu" (...) và bài thơ tuyên ngôn thứ hai "Mới"
đăng trong Giai phẩm (...) Lê Đạt là một người chủ chốt của báo Nhân Văn, tham
mưu cho cả tờ báo, tự tay sửa chữa nhiều bài đả kích chế độ ta rất cay độc
(...) Cùng với Nguyễn Hữu Đang làm bộ óc của báo Nhân Văn, đứng làm
"nhà lý luận" của bọn chống Chế độ (...) Sau khi báo Nhân Văn bị cấm,
Lê Đạt liên lạc cấu kết với Thụy An, Lê Đạt đóng vai trò quan trọng trong việc
lũng đoạn Hội Nhà Văn, Lê Đạt tích cực dùng ngòi bút viết lối văn hai mặt; Lê Đạt
luôn luôn giữ một cương vị đứng chủ trường phái; mãi đến trong lớp học văn nghệ
lần thứ hai (tháng 3 và 4/1958) vẫn còn tìm cách quay quắt. Cho nên, xét Lê Đạt,
ta phải nhìn thấy cho hết, rằng Lê Đạt chống đối ta, phá hoại ta từ trong bản
chất giai cấp thù địch" (trích bài "Những biến hoá của chủ
nghĩa cá nhân tư sản trong thơ Lê Đạt", (Văn Nghệ số 13 tháng 6/58,
in lại trong tập Dao có mài mới sắccủa Xuân Diệu, 1963, các trang 86, 87,
89 và 95).
Nhà thơ Lê Đạt và bài thơ nổi tiếng đăng
trên báo Nhân Văn số
1 ngày 20/09/1956.
(Ảnh: DR)
Lê Đạt cũng xác nhận vai trò chủ chốt của mình trong bài tự
kiểm thảo: "Tôi tham gia Nhân Văn với ý thức là người lãnh đạo lý luận
của tờ báo vì tôi cho tôi vững vàng hơn Nguyễn Hữu Đang. Ban biên tập lúc đó gồm
có 4 người: Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Hoàng Cầm và tôi. Để tấn công quan điểm
vô sản chuyên chính của Đảng, tôi vận động Thanh Châu viết bài Mậu Dịch, tôi
góp ý, vẽ tranh một người đẽo chân cho vừa giày mậu dịch. (...) Nhân
Văn bị đóng cửa nhưng tư tưởng Nhân Văn, tư tưởng chống đối vẫn chưa hết. Sau một
thời gian các báo ngớt đánh, tình hình trở lại bình thường, chúng tôi lại vẫn gặp
nhau đả kích Đảng, cho là độc đoán". (trích lời "tự thú" của Lê
Đạt, Văn Ngệ số 12, tháng 5/1958).
Trong thời kỳ NVGP, ngoài những bài xã luận chính trị ký tên
Người Quan Sát cùng với Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt là nhà thơ sáng tác nhiều nhất
và chống đối mạnh mẽ nhất. Ngoài những bài thơ in trên báo, còn có:
Thế giới này là của chúng ta, (phát hành tháng 12/1955), có
thể phần lớn làm theo lối tuyên truyền, thời mà Lê Đạt cho là "biết
bao lần tôi đã không thực là tôi", cho nên sau này ông không nhắc đến
tập thơ ấy nữa.
Bài thơ trên ghế đá (nxb Hội Nhà Văn, 1957).
Cửa hàng Lê Đạt, (đang in, bị đình chỉ, Lê Đạt bị khai trừ khỏi
đảng, tháng 7/1957)
Đụng long mạch (in trên Tự do diễn đàn, tháng12/56,
báo bị cấm)
Lê Đạt còn nói đến bút ký "Vào 21", viết
về thời kỳ bị kỷ luật. Hiện nay không biết văn bản này thất lạc ở đâu.
Trong tinh thần Đỗ Phủ, thơ Lê Đạt phản ảnh xã hội thời ông sống.
Không ít bài bị cấm, bị tịch thu, hoặc bị thất lạc. Sau này, những ai muốn tìm
hiểu thực chất của xã hội Việt Nam dưới chế độ cộng sản cần phải tìm lại những
tác phẩm này, không chỉ của Lê Đạt, mà của toàn thể các tác giả trong NVGP đã bị
chôn vùi hoặc thất lạc. Những tác phẩm viết trong tù, của Thụy An, có lẽ ở Sài
Gòn, phía gia đình các em, hoặc bạn bà là Trinh Tiên (tên thật là Trinh Nữ, chồng
là Bửu Đảo) còn giữ.
Nhờ hai bài đánh Lê Đạt của Xuân Diệu và Xuân Hoàng mà chúng
ta có thể biết được nội dung một số bài thơ của Lê Đạt, trong thời kỳ
NVGP
Tập Bài thơ trên ghế đá, theo Xuân Diệu"dưới sự
lũng đoạn của Hoàng Cầm" nhà xuất bản Hội Nhà Văn đã in tập thơ này
năm 57, sau khi Nhân Văn bị đóng cửa.
Vẫn theo Xuân Diệu, thì tác phẩm này "là cả một hệ
thống có ý thức phá hoại tinh thần từ đầu chí cuối", "anh ta [Lê
Đạt] vẫn cứ "đầu thai nhầm chế độ", bài "Đu" là "một
sự khiêu khích". Bài "Gia đình", với những câu
như: "Nhiều dự định sa lầy trong đống tã", "tình yêu bị những
cái hàng ngày bóp cổ", "Lê Đạt đưa những xót xa đau đớn ra
và cho nó thắng trận". Bài thơ trên ghế đá "đầy một
điệu hưởng lạc, chết lịm trong tình yêu", và vẫn theo Xuân Diệu,
trong bản đánh máy đưa cho nhà xuất bản còn có bài "Trong hầm bí mật",
nhưng không in, bài này rất tiêu biểu cho cái triết lý "máu, sướng và
chết" của Lê Đạt". Xuân Diệu viết tiếp: "Bài thơ trên
ghế đá "còn có dã tâm đả kích Đảng. Cho Đảng là phao phí nhân tài
(Con búp bê, Tình người), ví Đảng như một anh thợ cầu già chưa vợ, bác rất nhiều
cầu, xây dựng kinh tế được nhiều đấy, nhưng chưa bắc qua được một lòng người".
"Hàng triệu lòng người đã nhờ Đảng mà tái sinh, yêu Đảng
sâu sắc, nhưng cố nhiên lòng của bọn Nhân văn - Giai Phẩm thì chỉ có bọn tư sản
phản động mới bắc được cầu".
(Xuân Diệu, Những biến hoá của chủ nghĩa cá nhân trong
thơ Lê Đạt, Văn Nghệ số 13, tháng 6/58).
Nhờ bài đả kích của Xuân Hoàng, chúng ta biết thêm nội dung
bài Đụng long mạch, in trên Tự do diễn đàn, tháng 12/56, báo bị cấm:
"Trong bài thơ "Đụng long mạch" (...) Lê Đạt dựng
lên khung cảnh một địa phương đang bị hạn hán, có cán bộ về khuyên đào giếng
nhưng vì sợ bị "đụng long mạch" nên các cụ nhất định không nghe. Sau
có vợ chồng anh Ân đêm về bí mật bàn với nhau nên lén lút đem cuốc ra vườn đào
giếng, đến sáng hôm sau bà con thức dậy thấy "mạch nước đùn lên nước phun
loang loáng", và từ đấy cả làng noi gương vợ chồng anh đào giếng chống hạn
khắp nơi.
(...) Lê Đạt hết lời khen ngợi vợ chồng Ân - những "anh
hùng" trong câu chuyện qua cái nhìn của Lê Đạt đã "dám cả gan đánh bốc
với những già nua cũ kỹ của cuộc đời". Lê Đạt đã kêu ầm lên một cách hậm hực
rằng:
"Những con người ụ
Ềng ra cản đường"
Và Lê Đạt hô hào:
" Cần biết bao nhiêu
Những cái đầu táo bạo
Dám nghĩ, dám làm
Không nô lệ chung quanh"
(...) Còn đây là cái nhìn của Lê Đạt về Đảng. Đó là:
..."lưng con rồng,
Ai đào giếng đụng vào long mạch
Thì phải tội mù hai con mắt
Cả nhà hộc máu chết tươi"
Và nhay đi nhay lại cái ý đó một cách dọa dẫm:
"Long mạch này mà đứt
Cả nhà không thoát một người"
hoặc:
"Long mạch hôm nay rung chuyển
Phen này rồi chết cả nhà"
(Thực chất tư tưởng chống đảng trong thơ Lê Đạt, Xuân Hoàng,
Văn nghệ số 11, tháng 4/1958, trang 71-72)
Bài thơ dài Cửa hàng Lê Đạt, in trong phần phụ lục dưới
đây, làm theo thể trào phúng, là một trong những bức tranh thơ sống động nhất về
thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm.
Đời chữ của Lê Đạt chia làm hai thời kỳ, dưới hai ngòi bút:
Nhà thơ thời thế, theo truyền thống Đỗ Phủ, ghi lại bộ mặt của
xã hội toàn trị trên đất nước ta. Nhà thơ cách tân, theo truyền thống
Mallarmé, mở một kỷ nguyên mới cho đường chữ.
Lê Đạt, nhà thơ thời thế, xác định tính chất cơ bản của lịch
sử:
Lịch sử muôn đời duyệt lại
Không ai lừa được cuộc đời.
Lê Đạt, nhà thơ cách tân, gửi lại hậu thế những lời trăn trối
cho tương lai:
Vũ trụ ơi/ tha cho tôi
Tất cả những gì/ thơ tôi chưa làm được
Khi tắt thở/ mắt tôi đừng ai vuốt
Còn gì buồn hơn/ màn đóng lại mục đời
Phụ lục
CỬA HÀNG LÊ ĐẠT
Cảo
thơm lần giở trước đèn
Nguyễn Du
Quý khách qua phố Trần Hưng Đạo
Hãy dừng chân/ mấy phút/ tham quan
Cửa hàng Lê Đạt.
1.
Lê Đạt nào?
Có phải Lê Đạt/ của Những người tự tử/ của Những
cái bình vôi
Chán thơ thẩn rồi sao/ mà lại về mở hiệu
Hay vợ đau, con yếu/ Làm thơ không đủ tiền
Hay bị phê bình/ kiểm thảo
Giờ như chim phải tên/ Động thấy cây cong/ là sợ
Hay thơ tồi không người tiêu thụ
Phải bán Ki lô
2.
Làm thơ đã đành là khó sống
Một bài thơ Văn nghệ trả/ năm nghìn
Mua soẳn vừa hai hộp sữa
Nhưng kinh tế dân ta còn khổ/ làm thế nào
Cả nước nghèo tần tảo nuôi nhau
Đủ sống làm thơ/ thế là tốt lắm
Nếu không có mấy ông phê bình
Mác xít thiên binh/ Duy vật chi hồ giả giã
Nhai chữ mòn răng/ chưa vỡ sự đời
Mấy chữ i tờ lòng người/ không biết
Ngắt ngọn bao nhiêu suy nghĩ/ tìm tòi
Ra chữ nghĩa/ nhiều khi/ cũng giết người
Có những ngày chán nản/ Tôi muốn đi thật xa
Không muốn nhìn/ không muốn nghe/ không muốn viết
Có những ngày/ tôi chỉ còn muốn chết
Nhưng thương vợ/ thương con/ yêu tiếng Việt
Tôi không đành đi
Quê lạnh thân cò lặn lội
3.
Trần Dần đi phao tin
“Lê Đạt mở cửa hàng phở chó”
Anh em ôm bụng cười
Ô hay, sao lại cười
Tôi không định mở cửa hàng phở chó
Nhưng sáng tác cho đời thêm vài thứ phở
Chẳng là nên hay sao
Chẳng hơn ngồi nhai đi nhai lại
Mấy vần thơ thịt rừ
Bã nát từ thời cà cộ.
Một tý anh/ một tý em
Tý ty nhiệm vụ/ tý ty căm thù
Tý ty diễm huyền/ tý ty mông vú
Đổ làm mấy chục thùng thơ
Bùi Thị Xuân (1)/ nếu không còn hàng phở
Đời sẽ buồn biết đến bao nhiêu
Như Hồ Gươm không người làm xiếc
Như Hồ Tây vắng bánh tôm
Ta sẽ mất rất nhiều Hà Nội
Nước béo/ mỡ gầu/ tôm tươi/ thơ mới
Áo nắng tuổi cờ thu chín tới Thủ đô
4.
Anh em tôi đẻ sau đến muộn
Mở cửa hàng/ sinh sống/ khó khăn
Bao nhiêu chỗ thơm/ người ta “xí” trước
Hiệu 20 năm/ Hiệu 30 năm/ Hiệu “nhất Thủ đô”
Hiệu “gia truyền chính cống”
Phong lưu sống nhờ độc một cái tên
Anh em tôi đành ra góc phố
Đăng ký mở hàng
Chưa có tiếng tăm/ rồi sẽ có tiếng tăm
Miễn chịu khó làm ăn/ cần cù/ lương thiện
Bà con/ cho mấy tấm ni lông
Lợp lên làm mái
Mấy tấm dù Điện biên/ quây lại làm tường
Mới ra ở riêng/ bạn bè thương giúp đỡ
Ôm lấy bóng đèn/ Văn Cao vẽ một con mắt đỏ
Giải thích/ "ngày đêm mất ngủ/ đăm đắm sự đời"
Ngoài cửa hàng/ Trần Dần treo/ quả tim đồ sộ
Khắc mấy câu thơ Mai - A “Yêu/ ghét/ khổng lồ”
Hôm khai trương/ Hoàng Cầm giọng oanh vàng đất Bắc/ Sẽ đến
ngâm thơ
Nguyễn Sáng vẽ chân dung người đến dự
Tử Phác mắt Rômêô mơ buồn thả điệu “Quay tơ”
Phùng Quán “vượt Đảo” về múa micrô độc tấu…
5.
Cuộc sống thật vui/ nhưng thật là vất vả
Méo mặt/ lo cơm/ lo gạo/ lo ốm/ lo đau
Lo hàng trăm thứ
Vật chất đã đành là hạ tầng cơ sở
Nhưng người ta đâu chỉ có dạ dày
Còn tim đòi rung/ còn đầu đòi nghĩ
Hằng hà sa số nhu cầu
Anh thích đi câu
Anh thích đi píc-níc
Chị thích đầu xúc xích
Chị thích Uxi
Như sách nói:
Bách nhân bách thích
Anh hôm nay đi chơi/ Trời cao thu mát
Gặp một tà áo bay phơ phất bên hồ
Con ruồi đậu mép ngẩn ngơ
Đêm khép cửa/ lòng còn ngỏ gió
Còn anh/ hai thứ tóc trên đầu/ chưa vợ
Mưa dầm bến Nứa lỡ xe
Đầu gối ba lô xẹp mộng
Buồn như một sự hiểu lầm
Còn anh/ con sài/ vợ chửa
Sòn sòn/ hai năm đôi
Quanh quẩn tã con/ thuốc vợ
Còn anh/ mơ ước trong đầu tấy mủ
Bao nhiêu dự định quay cuồng
Bức bối, tay chân/ đói thèm cửa sổ
Tàu mơ neo nặng nợ rãnh đời.
6.
Xin các anh hãy đến hàng tôi
Nếu cần vui/ tôi sẽ đi làm xiếc
Trồng cây chuối ngược/ đánh trống thổi kèn
Tôi sẽ làm thằng hề/ “ới a”/ bông phèng nghịch ngợm
Giành giật mảnh vui/ từ tiếng thở dài
Những người ít cười/ thường hay chết sớm
Tôi sẽ xào thêm xanh thêm mộng
Tôi sẽ làm thầy tướng/ Chấp mấy tử vi/ mấy bói bài xì
Người làm thơ nào chẳng chút ít tiên tri
Nếu những cái hàng ngày ỉ eo đê tiện
Mốc nồm ăn meo khắp cả thân hình
Tim tro nguội đến mèo không thèm ngủ
Tôi sẽ chụm thơ tôi thành ngọn lửa
Sấy lại tâm hồn mưa phùn
Trên đường mưu sinh trường kỳ mệt mỏi
Tôi sẽ tiếp máu thơ nóng hổi
Lên dây cót lại trái tim
Bước túc tắc/ phố xanh mùa tíc tắc
7.
Để tạo dựng một cửa hàng nho nhỏ
Tôi đã đổi những ngày hớn hở/ mười tám đôi mươi
Những má gọi/ những vườn cười chín tới
Tôi đã sống những ngày lầm lũi
Quên ngủ quên ăn
Tôi đã chịu đau thương bất công hắt hủi
Tuổi thơ làm hại tuổi trời (2)….
Tôi vẫn đi/ như cung mệnh/ sao Đà la đầy dọa
Cho đến lúc/ trí trá/ cường quyền/ đểu giả
Không còn hành hạ con người
Sao ta chưa khai thác cung trăng/ thành chỗ ở
Sao mới sáu bảy mươi/ đời đã vội về già
Đến bao giờ mới có những thiếu nhi trăm tuổi
Ngậm ngùi thương ông Bành tổ chết non
Những bà mẹ vừa sinh con vừa hát
Chữ tự do mùa thật hạt bát cười
1958.
HẬU TỪ
Đầu phố Lãn Ông/ có cửa hàng tạp vặt
Đăng ký số 4210/ đứng tên Lê Đạt
Nhớ xưa ba mươi năm
Cửa hàng quan niêm phong (3)
Bút độc quân ông Lành tẩy uế
Tuổi sạch phục hồi/ bán giấy vệ sinh
1989.
+ Đề từ này mới thêm vào năm 1989
(1) Hàng phở Tý nổi tiếng phố
Huyền Trân Công Chúa sau đổi thành phố Bùi Thị Xuân
(2) Mất một trường đoạn
(3) Bài thơ "Cửa hàng Lê Đạt" được sáng tác năm
1957, thời điểm Hà Nội gay gắt cải tạo tư sản.
Bài thơ đương ấn loát thì thợ nhà in Xuân Thu đình công ngừng
máy, cho rằng bài thơ đi ngược lại quyền lợi giai cấp công nhân và bản thảo
cũng bị mất luôn.
Sau khi tác giả được phục hồi, tháng 3-1989, Bộ Nội vụ có nhã
ý trả lại một bản đánh máy (mất một số trang).
Những đoạn thất lạc được tác giả ghi lại theo trí nhớ, hoặc cực
chẳng đã viết mấy dòng bổ sung cố gắng duy trì mạch thơ.
Và thêm đoạn Hậu từ
Ông Lành là một trong nhiều biệt danh của nhà thơ Tố Hữu, phụ
trách tư tưởng thời bấy giờ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét