Một bài thơ mang nặng
tâm hồn thi sĩ của Chu Văn Sơn
Chu Văn Sơn ít làm thơ, nếu không muốn
nói rằng: hai bài thơ anh viết khi lãng du trên đỉnh Mẫu Sơn có thể là duy nhất.
Chất thơ và chất suy tưởng tràn ngập trong tâm hồn anh đã trang trải hết trong
các bài phê bình và tùy bút, như bài tùy bút viết về hoa lau - “Phận hoa bên lề” (1) mà
trong đó anh bảo: lau như phận hoa lưu đày, và con đường của phận người là đường
tới hoa lau…
Nhưng có lẽ, phải bằng thơ, Chu Văn Sơn mới tạm yên lòng trước
thân phận của một loài hoa khiến anh trăn trở xúc động tới độ chảy nước mắt.
Nhân một lần tới đỉnh Mẫu sơn vào dịp mà ngay giữa Thủ đô mọi
người phải mặc áo đại hàn, Chu Văn Sơn đã "gặt hái” được hai "bông
hoa thơ” về Tuyết và Hoa Layơn. Đều là cảm hứng về sự cô đơn, sự lãng quên,
song "Tuyết Mẫu Sơn" (2) mới chỉ là sự gợi mở, gợi hứng, còn
"Hoa Layơn đỉnh Mẫu Sơn" lại như một sự tổng kết, sự suy ngẫm của anh
về nhân tình thế thái… Chu Văn Sơn viết cho tôi trong một thư điện tử:
"Trên đỉnh Mẫu Sơn có một loài hoa do người Pháp mang sang trồng trong những
khuôn viên biệt thự từ đầu thế kỷ trước. Sau 1945, người Pháp đã đi khỏi xứ
này, hoa bị bỏ lại. Thành hoa hoang. Giờ vẫn mọc lẫn giữ hoa hoang cỏ dại. Giống
bị thoái hóa, gầy guộc nhợt nhạt. Rất thương. Đó là Layơn. Phận Hoa? Phận đàn
bà? Phận người? Thân phận cái đẹp?... Thấy lẫn lộn trong một kiếp Layơn ấy.”
Hoa Layơn đỉnh Mẫu Sơn
Những cành Layơn
cong queo
gầy rớt
ngập đời giữa đám cỏ hoang
từng bông lơ ngơ
từng bông nhàu ướt
từng bông tái nhợt
cố nhoi lên
cố kiễng lên
nhìn mây cuốn về xa
Bàn tay xưa giờ nâng niu chăm chút chốn nào
ánh mắt xưa giờ say ngắm nơi đâu
bỏ rơi hoa nơi lưng trời
chôn chân hoa nơi đất khách
giữa thinh không mình em đơn độc
mòn mỏi kiếp hoa hoang vu…
Biết chia sẻ làm sao trước dáng hoa trầm cảm
biết an ủi làm sao trước phận hoa lưu đày
khi giọt tuyết của mùa đông cũ
vẫn thầm hoen nhụy phấn mỗi ngày
Muốn nói với em lời vu vơ như gió
e rằng hoa đã sương gió một đời
muốn tỏ cùng hoa lời nồng nàn của nắng
e hoàng hôn phai trên cánh
lại thôi
Muốn nán lại bên hoa
mà ngại mình nông nổi
muốn đem hoa đi
mà đời mình rong ruổi
lại thôi
Tần ngần Layơn
dùng dằng đỉnh núi
còi xa cuồng lên réo gọi
đành lòng
phải đành lòng
thôi
Chào nhé
chao ôi lời chào nhé
lời cỏ hoang
lời đỉnh vắng
lời mặn sương
lời nhạt nắng
lời nào không cực lòng nhau
Sao từ khi
một mình xuống núi
trái núi nào
cũng mộng mị Mẫu Sơn
sắc hoa nào
cũng tái nhợt
Layơn...
Là người chuyên nghiên cứu về thơ đến độ
chìm đắm trong thơ, khi viết "Hoa Layơn đỉnh Mẫu Sơn" chắc hẳn Chu
Văn Sơn phải nghĩ ngay đến những nhà thơ lãng mạn Pháp thế kỷ XIX thường lấy
hoa làm thi liệu, thi hứng, thi cảm… Nhưng cũng thật may, thói quen luận lý,
khái quát của một nhà phê bình lý luận văn chương trong anh đã biến hẳn đi trước
những bông Layơn mỏng manh yếu ớt, để mình anh trơ trọi với xúc cảm thi sĩ… Mà
đã là thi sĩ đích thực, ai mà không thể không khóc cùng G. Apollinaire
"Giã biệt” hoa: Anh đã ngắt chùm hoa thạch thảo này/ Mùa thu đã chết,
em nhớ cho/ Chúng ta sẽ chẳng còn gặp nhau trên mặt đất/ Hương thời gian ở chùm
hoa thạch thảo/ Và em hãy nhớ: anh vẫn chờ đợi em (L’ Adieu - Hoàng Hưng dịch).
Xin nhớ lại cuốn tiểu thuyết kiệt tác "Vỡ mộng" (iIlusion perdu) của
H. Balzac, nhân vật chính ở giai đoạn trong sáng đẹp đẽ nhất đã có một tập bản
thảo thơ đầu tay mang tên hoa: "Những bông cúc”… Và những "bông cúc
tâm hồn” của chàng thanh niên thi sĩ Lucien Chardon tội nghiệp đã bị những quy
luật của đồng tiền giết dần giết mòn đến thê thảm!
Đến Mẫu Sơn, thi sĩ đã "Bất ngờ” chứng
kiến cảnh hoa Layơn, tuy chưa bị ngắt, bị giết, nhưng nếu như vậy còn đỡ đau
lòng hơn cảnh: Những cành Layơn/ cong queo/ gầy rớt/ ngập đời giữa đám cỏ
hoang/ từng bông lơ ngơ/ từng bông nhàu ướt/ từng bông tái nhợt/ cố nhoi lên/ cố
kiễng lên/ nhìn mây cuốn về xa
Thi sĩ buộc phải tự hỏi trong nỗi niềm se
sắt, có đượm oán giận, trách móc: Ai đã đem em tới Mẫu Sơn… Bởi anh mặc
nhiên coi hoa tựa một sinh mệnh đáng yêu, mỏng manh, yếu đuối, thơ ngây, mang
trong mình biểu tượng của Tình yêu, sự hài hoà nguyên sơ thánh thiện nhưng lại
có rất ít khả năng tự bảo vệ: Bàn tay xưa giờ nâng niu chăm chút chốn
nào/ánh mắt xưa giờ say ngắm nơi đâu/ bỏ rơi hoa nơi lưng trời/ chôn chân hoa
nơi đất khách/ giữa thinh không mình em đơn độc / mòn mỏi kiếp hoa hoang vu…
Đồng thời thi sĩ cũng cảm thấy rõ một sự
thật cay đắng - đó là sự bất lực của chính mình trước phận người, phận hoa
trong cơn lũ thực dụng của thế giới "Tấn trò đời”: Biết chia sẻ làm
sao trước dáng hoa trầm cảm/ biết an ủi làm sao trước phận hoa lưu đày/ khi giọt
tuyết của mùa đông cũ/ vẫn thầm hoen nhụy phấn mỗi ngày
Thế rồi, sự tần ngần, băn khoăn, lưỡng lự
với tâm lý đời thường nhưng cũng đầy nhân bản và tinh tế của thi sĩ trước những
bông hoa gầy yếu khiến nỗi đau lòng xa xót như càng khía sâu thêm vào lòng người
đọc: Muốn nói với em lời vu vơ như gió/ e rằng hoa đã sương gió một đời/
muốn tỏ cùng hoa lời nồng nàn của nắng/ e hoàng hôn phai trên cánh / lại thôi/
Muốn nán lại bên hoa/ mà ngại mình nông nổi/ muốn đem hoa đi/ mà đời mình rong
ruổi/ lại thôi/ Tần ngần Layơn/ dùng dằng đỉnh núi/ còi xa cuồng lên réo gọi/
đành lòng/ phải đành lòng/ thôi
Việc ngắt câu thất thường cũng góp phần diễn
tả nỗi lòng ngổn ngang, đứt gãy, khó xử, để tới đoạn sau, lời chào của thi sĩ
chợt giống một tiếng thở dài, sau đó là một tiếng khóc cố nén lại nhưng cuối
cùng cũng phải vỡ ra thành những lời nghẹn ngào: Chào nhé/ chao ôi lời
chào nhé/ lời cỏ hoang/ lời đỉnh vắng/ lời mặn sương/ lời nhạt nắng/ lời nào
không cực lòng nhau
Tĩnh tâm lại, chàng thi sĩ đa cảm đã ngẫm
nghĩ về cái cuộc đời vốn nặng trĩu Mẫu Sơn, Layơn, nhưng ở đây lại có sức khái
quát giàu khả năng liên tưởng và lay động: Sao từ khi/ một mình xuống núi/
trái núi nào/ cũng mộng mị Mẫu Sơn/ sắc hoa nào/ cũng tái nhợt/ Layơn
Và cũng chính nhờ sự khái quát này mà thi
sĩ đã vượt lên khỏi sự đa cảm thông thường của người đời, để lại một lần nữa mặc
nhiên bước vào "quỹ đạo” của những người lấy Cái Đẹp làm làm mục tiêu tối
thượng, làm phương tiện giúp con người hướng thiện- những người đã lấy Hoa làm
một trong những thứ quan trọng để có thể đặt hết cả niềm tin vào - nói như nhà
thơ Pháp A. Rimbaud: Xác thịt, cẩm thạch, hoa, Vệ nữ, ta đặt niềm tin nơi
các ngươi (Soleil et Chaire).
Nhà phê bình Văn Giá mới đây khi viết về tùy bút của Chu Văn
Sơn đã nhận định chí lý: “Bộ ba tác phẩm “Angkor - những đối cực của cái đẹp”,
“Sơn Đoòng”, “Kiếp tượng nhà mồ” đã vượt lên để đứng vào hàng tuyệt
bút” (vanviet.info). Còn riêng tôi thì cho rằng, bài thơ “Hoa Layơn đỉnh Mẫu
Sơn”, có thể coi là một tùy bút thơ, cũng chứa đựng toàn bộ hồn cốt của “người hệ
lụy Đẹp” (chữ của Văn Giá) - nhà phê bình Chu Văn Sơn.
2. PHẬN HOA BÊN LỀ
Tùy bút của Chu Văn Sơn
Đó là loài hoa nở vào cuối năm.
Đó là loài hoa mọc nơi cuối đất.
Đó là loài hoa đợi ở cuối đời.
1. Khi hầu hết các loài hoa trong năm đã khoe sắc phô hương cả rồi,
nó mới nở. Nếu xem mỗi niên hoa như một dãy dằng dặc, xếp hàng đợi đến
lượt nở, thì nó đứng ở cuối hàng. Kiên nhẫn, nhún nhường, hay biết phận biết
thân? Thật khó nói. Chỉ biết khi năm hầu tàn, mùa hầu cạn, chẳng còn
loài hoa nào tranh chòi nữa, nó mới dâng hoa. Nó nở trong gió bấc mưa phùn, dưới
màu mây xám bạc của ngày đông tận. Nhưng không ai đợi nó dịp tất niên.
Càng không ai chờ nó cho tân niên. Nó là loài hoa không được chào đón.
Nó là loài hoa không biết đến hội hè. Nó không có chỗ trong
các bình hoa bày trang trọng tại những chốn cao sang. Cũng không có chỗ
trong những vựa hoa, quầy hoa, sạp hoa bày trên phố xá. Không ai đầu tư,
không ai khuyến mại.
Nó không bao giờ có mặt trong danh sách những thứ hoa cần mua
sắm để trang hoàng khánh tiết cho bất cứ kỳ cuộc nào. Và nó cũng chẳng dám
mơ được nằm trên bàn tay tình nhân trao tặng nhau những dịp lễ lạc. Bàn
tay chăm thôi còn chả dám mong, nói gì đến bàn tay tình. Có phải bàn tay duy nhất
lau được biết đến trong đời là bàn tay cầm nắm nó khi triệt bỏ nó? Không có chỗ trong vườn nhà. Không bén mảng tới những hoa
viên.
Nó không có căn cước tại đấy. Có ai cấp thẻ xanh để cho nó quyền
cư trú tại đấy đâu. Thảng hoặc có bóng nó vươn hoa ở góc vườn nào, thì nó chỉ
được xem như dân lậu, dân liều. Nó thường bị trục xuất trước tiên khỏi những
hoa viên, hoa uyển.
Họa chăng, chỉ khi vườn đã bỏ hoang, nó mới có hi vọng.
Chủ nhân chả còn đoái hoài, các loài khác chả thèm giành giật đất nữa, thì
nó mới đến mọc. Nó rón rén mọc trên đất bỏ, đất thí. Dạng nhảy dù. Sống chui.
Nó là loài hoa vườn hoang.
Ta thường thấy nó ở bên đường. Đúng hơn, nó vẫn ở bên đường
mà ta thường không thấy. Nó không phải là địa chỉ cho những ánh mắt
thưởng ngoạn kiếm tìm. Từng đoàn xe cứ vút qua. Những ánh mắt vãng cảnh cứ
rướn xa.
Nhưng điểm nhìn của dòng người thường không đặt vào nó. Nó bị
lãng quên ngay trong tầm mắt người đời. Dù ngọn hoa có đâm ngang tầm
nhìn, xiên vào nhãn giới, thì cũng thế thôi. Cả khi du khách dừng lại để chụp
ảnh, ống kính zoom qua đầu nó là để chớp lấy những cảnh hớp hồn phía xa. Về
xem lại, thấy nó lỡ có mặt trong khuôn hình ngoài ý muốn, thì bực mình. Khi
in ra, người ta cẩn thận dùng photoshop xóa nó đi, cho hết vướng. Nó là loài
hoa bên đường.
Nhưng, vương quốc thực sự của nó là miền hoang, là núi đồi gò
bãi. Nó là cư dân của những miền đời quên lãng. Lãng quên, đó mới là
không gian cho nó, của nó. Một kiếp hoa chung thân chốn lãng quên. Có phải nỗi
hoang vu vón lại thành loài hoa ấy. Có phải nó là đứa con tự túc của nỗi hoang
vu. Sinh ra nó để tự khuây khỏa, khoảng trống của hoang vu có bớt đi được phần
nào không, mà giữa chốn hoang vắng, có bóng nó chập chờn, lại chỉ thấy lòng
thêm hoang dại. Nó là hoa lau.
2. Nó là loài cỏ. Mà nào có như cỏ mật được giấu vào túi áo, cỏ
gà được chọn chơi, cỏ gừng, cỏ nhung được chăm chút trong công viên.
Nó là loài cỏ bị bỏ rơi. Người ta vẫn trông mà đâu có thấy... Mặc, lau vẫn sống
đời lau. Lầm lụi thanh bần. Lau vẫn mọc, theo cách riêng. Không riêng từng
thân, mà thành từng bụi. Khi nở thì nhất loạt, cứ tua tủa vươn lên. Mỗi ngọn như
một tia phun mạnh vào không trung. Tất cả như một chùm pháo hoa bừng sáng. Lau
tự bắn pháo hoa, tự mình hội hè lễ lạc chăng?
Thực ra, lau là chị em của mía. Cùng một xuất thân mà hai
thân phận. Mía thành cây vườn, lau thành cỏ hoang. Chị em xa cách từ đó. Nhờ
có đường, mía thành loài có ích, được chăm chút, vồ vập. Chỉ có hoa thôi,
mà lại là thứ hoa bạc phận, lau cứ như kẻ vô ích, bị bạc đãi, thờ ơ, dù không ít đời
lau được trưng thu làm đệm. Nếu vườn mía xuất hiện cỏ lau, chủ vườn sẽ diệt lau
lập tức. Người ta gom lau thành đống, đợi khô, rồi đốt, ngay bên những luống
mía. Nào ai biết mía của phần xác, lau của phần hồn, kể cả khi đứng nhai mía
bên lau. Lau cũng nở theo cách riêng. Không bày từng cánh, không đơm từng phiến, mà vươn từng sợi. Từng sợi nương nhau mà thành lọn, tụ
lại mà thành bông. Như bông tuyết khô. Như núm bông lẻ. Như lọn mây thất lạc
thinh không, rơi rụng khỏi bầu trời, đậu hờ trên ngọn mảnh. Nhưng bao giờ
lau cũng vươn cao nhất, cố nghển cổ lên mà nở hoa. Có lẽ trong các loài,
đây là loài hoa cổ gầy
nhẳng mà vươn dài nhất. Dài đến ngất nghểu chon von. Khi toàn
thân đã hết hẳn tầm vươn, nó mới đành trổ hoa. Như để được diện kiến với trời,
như để được giao lưu với mây, díu dan với gió. Lau phải lòng mây, gió, phải
lòng khoảng không chăng? Nhiều khi ngắm nó, tôi cứ miên man với những giả
tưởng cổ tích.
Phải chăng, thuở xưa lau vốn là một cụm mây trắng út ít? Một
lần theo chúng theo bạn xuống nhởn nhơ trần giới, rồi mải quyến luyến cây cỏ,
đến lúc ngẩng lên thì ngày đã khép, nắng đã tắt, chẳng còn kịp theo bầy mà
về trời. Thế là cụm mây út rớt lại miền hoang. Nó lìa khỏi gió. Đậu vào đầu cỏ.
Mà thành hoa lau.
Từ đấy, mây út sống kiếp cỏ hoa để một đời luôn nhớ tiếc khoảng
không, ngóng vọng bầu trời. Suốt đời thèm về lại kiếp mây trắng. Mà không
thể. Phải vì thế mà những bông lau buồn nhất là lúc hoàng hôn? Khi mặt trời
khuất dần sau núi, thu hết nắng đem đi, trên đầu mỗi bông lau chỉ còn le lói vài
tia nán lại, dáng lau mới bồn chồn làm sao. Những ánh bạc cứ tím rực lên rồi thẫm lại.
Đầu bông cố rướn lên rồi lả xuống. Xốn xang mà u uất. Lau bơ phờ rủ bờm
trong hoàng hôn.
Rồi những ánh chiếu li ti cũng tắt dần trên từng sợi bạc của
hoa lau, bóng tối ngấm sâu vào cây cỏ. Đó là lúc ngày thực sự trút hơi thở tàn
cuối cùng để chết lịm vào lòng đêm. Cả chùm lau muôn sợi bạc mềm óng ánh thế,
tím rực thế, bỗng tím bầm, tím ngắt, như vẻ mặt thất thần của kẻ chợt nhận
ra mình khánh kiệt... Đón được gió mà đành buông gió. Muốn cất mình bay, mà
suốt đời chỉ đậu. Cuối cùng, lau chọn một cách bay riêng. Không toàn thể,
thì từng phần.
Chẳng tưng bừng, thì lặng lẽ. Không có một chuyến chung, thì
làm vô vàn chuyến riêng. Lau cứ âm thầm xé mình ra. Đời hoa là đời của ước
mơ lớn xé lẻ thành những sợi lau con. Mỗi sợi bạc một ước mơ bay. Cứ từng
sợi, từng sợi, gửi vào gió. Mà bay. Nhung tuyết một đời tan thành từng chuyến
bay như thế. Bợt bạc rồi xơ xướp. Hết nhung hết tuyết, cũng hết đời hoa.
3. Đã có khi tôi nghĩ lau như phận hoa lưu đày. Ấy là lần đi dọc
đèo Bông Lau trên đường số Bốn vắt từ Thất Khê sang Đông Khê mạn Cao Bằng.
Nhưng rõ nhất là lần trên đất Lào từ Luang Prabang về Viên Chăn.
Toàn đường núi là đường núi. Hành khách trên xe ai nấy kẻ gà người gật. Cũng gà
gà gật gật nhìn ra, tôi cứ thấy núi đồi hai bên chập chờn trắng, trập trùng
trắng. Nhìn quấy nhìn quá, nghĩ là mây bám tuyết phủ đó thôi.
Nhưng Lào thì làm gì
có tuyết nhỉ? Ừ, làm gì có. Thế là bừng tỉnh. Thì ra lau. Chao, có đến hàng mấy
chục cây số núi đồi bạt ngàn lau trắng. Mênh mang đồi này núi khác những bờm
lau trắng trùng phùng như bầy bầy đàn đàn những ngựa trắng là ngựa trắng.
Chúng tập kết ở chốn núi đồi này là do bị xua đuổi mà cụm lại? Hay đang tìm
đến nhau, hội quân tại đây để dàn hàng nghênh chiến trong một trận sinh tử
nào? Tôi đã ngất ngây đến hàng giờ với liên tưởng đó. Nhưng, khi kịp nhìn lau
trong toàn cảnh núi non rừng rú trải đến vô tận ấy, tôi mới nhận thấy dáng
lau kia đâu có kiêu hùng sát khí. Một nỗi buồn trắng xóa phủ khắp núi đồi hoang.
Lau trầm cảm thế kia mà. Bấy giờ, tôi mới thấy lau như một bộ lạc bị hất ra
rìa lãnh thổ. Lau như kẻ thất thổ, lưu vong, phải khăn gói theo nhau tìm đến những
chốn heo hút này để náu mình, để làm nơi trú xứ. Lau như bầy người di tản. Rừng
xanh núi đỏ kia là chốn tị nạn của lau. Lau của kiếp người phát vãng. Rừng
sâu rú thẳm kia là chốn chôn đời của những kiếp người vô tăm tích. Lau mang phận
lưu đày.
Nhưng lau lại là công dân toàn cầu. Ở đâu mà chẳng gặp lau.
Giữa cố đô Luang Prabang của Lào, tôi cũng gặp lau nép mình bên những nếp
chùa cổ, cạnh những pho tượng Phật được khắc tạc sơ giản đến sơ sài. Ở
Bhutan, vương quốc nhỏ xíu treo mình trên rặng Hymalaya, tôi cũng luôn gặp những
dáng lau. Lau bình thản đứng bên lề đường nhìn từng toán người hành hương
lên Tigernet, ngôi chùa thiêng mà như gá trên vách núi, dựng cheo leo bên
mép vực sâu. Ở Istanbul Thổ Nhĩ Kỳ, cái thủ đô độc đáo nửa phần thuộc Á, nửa
phần thuộc Âu, tôi cũng gặp lau. Những bông lau cứ điềm nhiên mà trắng hết
phận mình, chẳng cần biết mình là lau Âu hay lau Á. Lạ, vào Đà Lạt, gặp những
đồi lau nương mình trong các thung lũng khuất sau hồ Tuyền Lâm, sang
Angkor, gặp lau liêu xiêu trắng dưới đôi chân sa thạch của những vũ nữ Apsara, phất
phơ bên nụ cười của Bayon bốn mặt, lên Vạn Lý Trường Thành, gặp lau rạp mình
dưới chân cái tấm bia khắc câu “Bất đáo trường thành phi hảo hán” của Mao,
qua Malaysia gặp lau nấp sau bức tường đổ của pháo đài Malacka, ... tôi
không thấy ngạc nhiên lắm. Thì những chốn xưa xưa khuất nẻo thế ấy vốn là nơi
trú ngụ của lau mà. Còn cái lần gặp lau ở Mỹ, thì tôi thực sự ngạc nhiên. Đó
là hôm đến New York, ra đảo tượng Nữ thần Tự do. Ở cái nơi hiện đại tối tân,
nơi được chăm sóc cẩn thận bậc nhất thế giới này, mà phía sau tòa tháp tượng sừng
sững ngất trời lại có hoa lau. Lau thầm trắng những bông ẩn nhẫn. Tất nhiên,
du khách đều đổ xô vào thần tượng. Đến đây đâu phải để ngắm lau. Nhìn những
bông lau bạc lạc lõng, lơ ngơ ấy, tôi bỗng ngộ một điều: phía sau mỗi thần tượng
đều có những đời lau....
Và lần vừa rồi, về Lao Cai, đúng cái nơi con sông Hồng nhập
mình vào đất Việt, tôi lại thêm một lần ngỡ ngàng về lau. Cả một bãi nổi
giữa sông, dài đến hàng dặm, ngập tràn lau trắng. Từng bông trắng xóa, cả
bãi bạc xóa, toàn đảo cứ lấp lóa lên như đang phơi tơ bạc ròng dưới cái nắng hiếm
hoi của ngày đông. Dòng nước hồng thì vờn quanh đảo trắng. Còn lau trắng cứ
bồng bênh soi bóng xuống mặt sông hồng. Chẳng phải kia là Thiên Thai trong
cõi thực sao?
Chẳng phải kia là chốn dành cho những mối tình ngư phủ sao?
Tôi bỗng thèm thấy bóng một chiếc thuyền không, chủ nhân của nó bỏ lại bên
bến lau. Và ước sao khi ấy, giữa ngàn lau xôn xao kia, họ đang thầm thĩ với
nhau những lời chỉ có họ và lau mới biết. Khung cảnh trữ tình đó cứ xui tôi tin
rằng: hẳn là thuở xưa, Chử Đồng Tử và Tiên Dung cũng đã gặp nhau rồi bén duyên
nhau trong đám lau như thế! Thì trong lau vẫn ẩn cái nhịp sống đời đời
trên mặt đất này thôi.
4. Là thứ hoa đạm bạc vào bậc nhất, lau mang trong mình một chút
thiền ý. Thiền ý về cái lẽ sắc không của tồn sinh. Không màu mè, không
hình nét. Có sắc mà vô sắc. Là hoa mà như không phải hoa. Có mà như không có.
Hoa lau nhắc ta nhiều nhất về sự chập chờn mong manh của phận người. Cũng
là nhắc về cái bạc lý bạc nghĩa của sự tồn sinh. Có lẽ vì thế mà thiền nhân
bao đời thường thấy nhân gian trong một thoáng hoa lau. Nhiều khi cứ ngắm mãi cái
bông trắng hiu hắt bất định ấy, chính tôi cũng từng lâm vào nghi hoặc: nó
là hoa hay không phải hoa? nó là hoa lau hay chỉ là cái bóng nhòe mờ, phôi
pha của một loài hoa nào khác?
Nhưng nó cũng nhắc ta về ý nghĩa bền bỉ của sinh tồn. Mỗi tồn
sinh trên cõi này chỉ là một bóng hiu hắt, một thoáng chập chờn, thế
thôi. Có nghĩa gì lắm đâu. Nhưng mà vẫn cố. Vẫn thản nhiên. Vẫn cứ mỉm bông lau.
Nên lau đâu có giấu mình. Trái lại, luôn vươn mình. Mọi loài hoa đều sợ gió.
Gió làm phai sắc, nhạt hương, rã cánh. Gió thành kẻ thù của hoa. Nhưng riêng
lau thì không sợ gió. Lau chung tình cùng gió, nô giỡn, cợt cười cùng gió. Lau
chờ gió để được tung bờm. Lau nương gió để cùng khiêu vũ. Đứng rủ bờm trong
sương sớm, nhưng một khi nắng lên, gió dậy là nó lại tung những chỏm bờm
ánh bạc, rúng động, náo nức như muốn tung mình tề phi cùng gió. Chỉ mình nó
nô giỡn với lãng quên, làm cho lãng quên đỡ phần cô tịch… Song, có lẽ phải
trong canh khuya mới thấy hoa lau nhẫn nại thế nào. Nó gục đầu vào sương
khuya. Nhưng sương khuya đâu phải là điểm tựa. Sương khuya lại từng giọt đậu
lên đầu nó, dụi mình vào nó. Nó tìm nơi tựa, rốt cục lại phải làm chỗ tựa cho
kẻ khác. Nó chỉ còn biết tựa vào chính mình. Đành tìm sự vững vàng trong thế
chon von. Lấy cái chênh chao để làm sự cân bằng. Cứ thế, nó yên phận làm lau để
an ủi mặt đất này.
5. Có tình cờ không, khi theo nhau suốt bao năm, mà phải đến lần
này, khi về đất Hoa Lư tôi mới có thể viết về lau. Có phải đó là ý muốn
của lau? Có phải lau muốn tôi phải viết những trang lau này trên đất cờ lau?
Thực ra, nơi chúng tôi ở và làm công việc soạn đề thi suốt hai tuần, nhìn ra
xung quanh đến hàng cây số đồng ruộng, có bóng lau nào đâu. Nhưng, Hoa Lư là hoa
lau. Đồn rằng xa xưa chốn này là ngàn lau rậm rạp. Rậm rạp đến mức người ta ngỡ
lau đã độc chiếm toàn bộ vùng này làm căn cứ của mình. Lau đồn trú trên
mọi triền đồi, vách núi của cái xứ sở lắm núi nhiều non vẫn được xem là vịnh
Hạ Long trên cạn này. Cứ vào cữ đông này đây là lau nhất loạt phất cờ trên
toàn xứ. Lau rợp đất, lau rợp trời khiến người nay cứ mơ hồ thấy bóng đội quân
cờ lau của Đinh Bộ Lĩnh hàng ngàn năm trước vẫn thấp thoáng đâu đó trong lau.
Nhớ lần tha
thẩn vào Tràng An Bái Đính.
Tôi muốn có cuộc hành hương đến
ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á, nằm sâu trong non nước Hoa Lư, nơi mà thiên
nhiên hoang sơ dường như vẫn còn bảo lưu trong nó màn sương khói thời vua
Đinh vua Lê, cùng màn sương Dương Vân Nga, người đàn bà kì lạ, làm hoàng hậu
của những hai vị hoàng đế, với hai triều đại khác nhau. Lại cũng muốn
kiếm tìm cho mình một ngọn lau mang hồn vía chốn này. Nhưng cuối cùng, cái ấn
tượng còn lại không phải về chùa, mà về lau. Chả biết do mải tìm lau hay
lau dẫn lối mà tôi đã lạc đến một cồn lau ẩn sau một bến nước hoang hút, âm u. Rêu
dày ngập gót, dây dại nghênh ngang chen đá lấn cây. Chốn rậm rạp và rờn rợn
ấy mách bảo tôi rằng có lẽ bao nhiêu năm rồi chẳng có ai mò tới đây. Và, bất
ngờ tôi gặp một vạt lau già có đến cả ngàn bông trắng muốt. Bông nào cũng như một
chòm râu bạc phất phơ bên bến vắng. Cứ như vẫn phất phơ ở đấy tự bao đời.
Chà, những bông lau ẩn dật! Những bông lau tự tại, thích thảng! Tôi nhớ đã
kêu lên thế. Và đã đinh ninh đó là lau xưa, những cây lau vẫn ẩn mình ở đây từ
thời Đinh Bộ Lĩnh.
Trong giây lát, tôi ngỡ mình đang ở ngàn xưa. Và khi bần thần
bước ra khỏi vùng lau ấy, tôi thoáng thấy mình như vừa trở về từ xa xưa vậy.
Tôi đã giữ riêng cho mình cái ảo giác hiếm hoi đó suốt bấy nay và thầm biết ơn
những bông lau đã tặng cho mình khoảnh khắc thi vị ấy. Và, biết ơn cả cái
ông vua Đinh Bộ Lĩnh nữa. Có lẽ ông cũng là vị vua độc đáo nhất trong những đấng
quân vương. Bởi ông là người đầu tiên mà cũng có thể là người duy nhất đã
nhìn thấy trong lau một lá cờ. Người nhìn thấy trong lau tiềm ẩn ngọn cờ, người
ấy là hoàng đế.
Càng xứng là hoàng đế khi nghiệp vương của người ấy cũng là sự
nghiệp biến cờ lau thành một ngọn quốc kì. Vậy là cái lá cờ Đại Cồ Việt
sau này được trương lên khi Đinh Tiên Hoàng Đế đăng quang đã được phất lên
lần đầu trong cờ lau Hoa Lư rồi. Nó là những bông lau trắng xốp này đây.
Nhưng, sau khi lên làm vua, liệu Đinh Bộ Lĩnh có còn quý lau, nhớ lau nữa không? Khi hoàng đế là thằng bé con, thì mới nhìn thấy cờ trong lau. Chỉ có con mắt
trẻ thơ mới có cái nhìn ấy. Còn khi đã ngự ngai vàng, có lẽ vua chỉ còn thấy cờ
trong những tấm vóc đại hồng. Lá cờ lau xưa thì gửi trả lại cái thời chỉ xem
là ấu trĩ thôi.
Vậy là chỉ có con trẻ và giống nghệ sĩ là đoái hoài đến hoa
lau. Đám trẻ con thì thấy cờ trong lau. Đám nghệ sĩ thì thấy mình trong
lau. Cầm trên tay bông lau lúc ấy, một kí ức lau cũng lộn xộn kéo về. Tôi nhớ
cái bến lau của Phan Huy Vịnh đã chuyển một không gian rặt thảo mộc Tàu trong
câu Tầm Dương giang đầu dạ tống khách/ Phong diệp địch hoa thu sắt sắt
thành một không gian rất Việt, trong đó phận tài hoa lận đận bên trời
đã lẫn vào lau lách đìu hiu: Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách/ Quạnh hơi thu
lau lách đìu hiu. Tôi nhớ đến thứ lau nặng duyên nghiệp Nguyễn Du gửi vào
nỗi tương tư của chàng Kim, vào nỗi hoang vắng của nàng Kiều trong cái đêm
nàng đành thả phận mình theo gã Mã Giám Sinh Vi lô heo hắt hơi may/ Một trời
thu để riêng ai một mình, cũng như bố trí Tiền Đường thả một bè lau cho
Vãi Giác Duyên cứu Kiều. Sau này, Thích Nhất Hạnh đã tựa vào chiếc bè ấy mà
đọc Kiều bằng cái nhìn thiền quán để chỉ ra ở đó bao nhiêu là Phật lý cùng
những công án Thiền. Tôi nhớ góc nhìn lau vượt đầu núi Phú Sĩ của Hokusai.
Nhớ ngàn lau hào hoa vẽ tranh trong nhạc của Văn Cao Ngàn lau thấp thoáng bóng
kinh kỳ sầu bao la. Nhớ đến hồn lau đa tình của Quang Dũng Người đi châu
Mộc chiều sương ấy/ Có thấy hồn lau nẻo bến bờ. Và nhớ phận lau của ý
niệm phôi pha đầy se xót về cõi tạm của Trịnh Công Sơn Chập chờn lau trắng
trong tay...
Nhưng, nhớ nhiều hơn là lần đến viếng Hoàng Hữu tại nghĩa
trang Việt Trì. Chiều muộn hôm ấy, sau khi thắp hương, tôi có hóa ngay bên mộ
cho anh bài mình viết về Hai nửa vầng trăng. Lúc hóa xong, ngước lên, bất
ngờ tôi thấy bảng lảng sau làn khói một bóng hoa lau trắng. Thứ hoa bạc mệnh
từng nhập vào thơ anh, ám vào đời anh Người xa phơ phất hồn lau
gió/ Thổi trắng chân trời như khói pha đã theo anh về đây chăng? Tình cờ hay
là vận vào? Bấy giờ, đọc trên mộ chí, thấy bạn văn đã chọn khắc cho thi sĩ một câu
hoành tráng Bến bờ anh tim dội sóng khôn cùng. Tôi nghĩ, ừ, đành rằng đó cũng
là một câu hay. Nhưng khoa trương chưa hẳn đã là Hoàng Hữu. Câu thơ xuất thần
nhất, Hoàng Hữu nhất phải là cái câu đem hồn mình nương náu vào lau gió
kia...
6. Thì ra, người có thể hờ hững với lau, lau đâu hờ hững với người.
Chẳng thế mà một trong những nơi quần cư của lau là nghĩa địa. Hầu
như nghĩa địa nào cũng ẩn hiện những lau. Có phải ở đó, nó mới sống cái sứ mệnh
bí ẩn nhất của loài hoa được gọi là lau : sứ mạng lau xóa hệ lụy nhân gian
và an ủi những vong hồn. Nó hảo tâm hiến mình làm giá thể để cho mỗi linh hồn đậu
lại. Nó là đội quân thiện nguyện, tìm đến an trú nơi nghĩa địa để an ủi những
vong linh. Mỗi bông lau cứ như sự hiển linh của một cô hồn. Trước khi Phật
bà vẩy nước cành dương để hóa giải cho mỗi kiếp người, thì lau đã an ủi cho họ
bên từng nấm mộ.
Khi bông hoa cuối cùng của những vòng hoa phủ quanh mộ tàn
úa, rã rời, thì lau mọc. Lau lặng lẽ đến và cúi đầu mặc niệm. Bấy giờ nó
mới thực sự là lau. Nó lau đi những vết hoen cuối cùng trong dương gian. Nó lau
cho hư vô thêm trong suốt. Nó túc trực bên ngưỡng cửa hư không để đón đợi, để
an ủi những vong hồn, lau khô những khổ lụy cuối cùng, rồi tiễn đưa từng
vong linh vào sâu cõi hư bằng cái vẫy tay phơ phất. Có hoa lau người ta mới biết,
thì ra, hư không cũng bám bụi, cũng cần lau xóa thường xuyên. Hoa lau cứ lầm lụi
lau đi những lớp bụi vô hình, vô minh. Lau cho cả gió, cả mây, cả trời...
Và, chỉ khi nào bước vào đến chốn ấy, may chăng, mỗi chúng ta
mới thấy giật mình: con đường của phận người là đường tới hoa lau. Hoa Lư, mùa hoa lau Giáp Ngọ.
2. TUYẾT MẪU SƠN
Thơ của Chu Văn Sơn
Tặng vật tình cờ của mùa đông
tặng vật mong manh của hạnh phúc
tặng vật tinh khiết của cô đơn
tặng vật âm thầm của hao khuyết
những bông tuyết
bâng quơ
bất ngờ
trắng buốt
Từ niềm hào phóng của trời
từ lòng từ thiện của mây
từ trò đỏng đảnh của thiên duyên
từ giấc mơ bỏ quên trong tuổi nhỏ
những bông tuyết
phù du
một mình
trắng buốt
Trước khi chết thành băng
trước khi tan thành nước
trước khi bốc thành hơi
trước khi về cõi khác
những bông tuyết
trêu ngươi
cứ trọn đời
trắng buốt
Em về đỉnh Mẫu sơn
qua cõi này thoáng chốc
thản nhiên làm phận tuyết
thản nhiên nhìn phận người
bao mùa đông thầm ước
bao mùa đông thầm trôi
lên Mẫu sơn tìm tuyết
chỉ gặp Mẫu sơn thôi!
tuyết chập chờn một kiếp
ta vô duyên một đời
bao người đi tìm tuyết
gặp tuyết được bao người?
những bông tuyết
cứ âm thầm
trắng buốt…
1- 2009
MAI AN NGUYỄN ANH TUẤN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét