Mười lý do làm thơ
rối bời (Poetry
is the clear expression of mixed feelings). H. Auden
Lời dẫn:
Ban biên soạn sách giáo khoa Cánh Buồm đề nghị tác giả viết một
tiểu luận dùng làm tài liệu cho chương trình Văn của lớp Sáu với đề tài “Tại
sao người ta làm thơ”, trong chủ đề bao quát hơn “Tại sao người ta làm nghệ thuật”.
Tôi xin trình bày vấn đề trong những phần riêng biệt, tương đối độc lập, nhưng
nhìn chung chúng vẫn nằm trong quan hệ thống nhất. Câu hỏi “Tại sao người ta
làm thơ ?” là một câu hỏi khó, có thể có nhiều câu trả lời, hoặc không có câu
trả lời nào hoàn toàn đúng, thậm chí chúng mâu thuẫn với nhau. Câu hỏi cũng có
thể được hiểu theo nhiều cách: những động cơ của việc sáng tác hay những kết quả
của việc ấy. Tuy nhiên tìm cách trả lời một câu hỏi khó nhiều khi là phương
cách giúp người ta tiếp cận sự thật. Đối với tôi, trong khi câu trả lời quả thật
khó khăn, thì lợi ích của câu hỏi là rõ ràng. Tác giả xin cám ơn những nhắc nhở,
khích lệ của nhà giáo Phạm Toàn, các nhà thơ Hoàng Hưng, Ý Nhi, Đỗ Quyên. Do kiến
thức hạn hẹp của người viết, đoản văn này chắc vẫn còn nhiều thiếu sót, kính
mong sự góp ý của quý độc giả, cho lần xuất bản sau.
Nguyễn Đức Tùng
I. LỜI MỞ ĐẦU
Có nhiều nhân duyên cho những câu thơ đầu tiên trong đời một
người. Bạn phải tập làm thơ vì đó là chương trình bắt buộc. Bạn muốn giải trí
hay muốn thử xem tài nghệ của mình. Muốn trở thành nhà thơ thực sự. Xúc động
khi nhận một tin vui hay tin buồn. Bạn có lòng đam mê đối với đối với ngôn ngữ,
cũng như người khác đối với hội họa, âm nhạc. Khi viết, bạn tìm thấy trong những
tầng lớp khác nhau của bài thơ ẩn chứa giọng nói chưa từng biết.
Tôi tin rằng tiếng Việt là một thứ tiếng đẹp, hay, âm điệu trầm
bổng giàu tính nhạc, nghĩa uyển chuyển, sâu sắc. Từ thời tiền chiến và Thơ mới
những năm 1930 đến nay, từ vựng thêm phong phú, cách nói thêm linh hoạt, tiếng
Việt ngày càng phát triển. Thơ ca góp phần làm cho nó phát triển.
Trong sáng tác nghệ thuật, cảm hứng đi liền với sự vui thích.
Thật ra đã là chuyện vui thích thì không cần lý do. Dù bạn chỉ làm vài câu thơ
rồi khi lớn lên quên mất, chúng vẫn còn ở đó, những câu thơ đầu đời, và khi bạn
trở lại, đôi khi chúng vẫn còn chiếu sáng như ngọn đèn xưa bên cửa sổ. Bạn có
thể thấy chỉ có thơ mới diễn tả được điều mà mình không thể nói bằng cách khác.
Có thể tất cả những bài thơ hay nhất mà bạn từng đọc, tuy
chúng hay thật, vẫn không diễn tả được đúng cái điều mà bạn muốn nói bây giờ: một
kỷ niệm, một niềm vui, một cảnh ngộ đáng thương, sự hối hận. Không ai nói thay
bạn được.
Làm thơ cũng như bất cứ công việc mới mẻ nào, không dễ dàng.
Nhưng một khi bài thơ bạn viết xuống trở thành nơi gởi gắm tâm sự, bạn bắt đầu
nhận ra rằng cuộc đời một người không phải chỉ được cấu thành bởi học hành, ăn
uống, bổn phận bắt buộc, mà còn bao gồm toàn bộ khả năng xúc động và suy tư,
tóm lại là đời sống bên trong, và bạn bắt đầu sống nó một cách có ý thức hơn.
Một người biết làm thơ đứng trước ngôn ngữ cũng như một người
biết chơi đàn đứng nghe bản nhạc, một người biết cày ruộng đứng trước đồng lúa.
Bạn xúc cảm sâu sắc hơn, kinh nghiệm đầy đủ hơn, thấy những lối đi mới.
Có những cuốn sách giáo khoa dạy cách viết văn, làm thơ, các
luật tắc của thơ mà bạn có thể tham khảo. Nhưng người bắt đầu bao giờ cũng biết
tập mở rộng cánh cửa của tâm hồn mình: mở rộng và hồn nhiên là điều kiện bắt buộc.
Ngôn ngữ của thơ ca có thể dẫn bạn đi sâu vào con đường lạ lẫm, những khoảng tối
chật hẹp, thì thầm với bạn về các bí ẩn, kể cho bạn nghe một sự thật mà bạn
không muốn nghe, hay người khác không muốn bạn ghe, mở ra khả năng nhìn thấy bầu
trời cao rộng bằng sức tưởng tượng, với hai khả năng của nó: tưởng tượng tái hiện
và tưởng tượng sáng tạo. Những sự thật trong đời, chôn cất như những bí mật, bỗng
một hôm tìm được cách biểu hiện của chúng.
II. MƯỜI LÝ DO TẠI SAO NGƯỜI TA LÀM THƠ:
1. Làm thơ để tả cảnh:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Bài Thu Điếu của Nguyễn Khuyến, thường được giới thiệu ở các
năm đầu trung học. Nếu bạn đọc chậm rãi, nhắm mắt lại, tưởng tượng ra cảnh mặt
ao trong vắt, mùa thu vắng lặng, đẹp, bạn sẽ thấy yêu mến thôn quê Việt Nam. Những
chữ bình dân mà mới: bé tẻo teo, gợn tí, đưa vèo, làm cho cảnh vật trở nên nhẹ
nhõm. Đọc lên ta có cái thú khó diễn tả, không giải thích được rõ ràng, nhưng
nó làm lòng ta thanh thản, bình tĩnh lại, biết sống với thời gian hiện tại, làm
cho thời gian trôi chậm lại. Bạn trở về với miền thôn dã nơi mùa hè năm ngoái
hay năm kia bạn đã từng dạo bước.
Khi nhìn cành bạch dương uốn qua trái rồi qua phải
Trên hàng cây dài thẳng tắp tối đen
Tôi nghĩ đến đứa trẻ chơi đùa cầm tay lắc mãi
Lắc lư hoài cây ngã rạp lại đứng lên
When I see birches bend to left and right
Across the lines of straighter darker trees
I like to think some boy’s been swinging them
But swinging doesn’t bend them down to stay
Across the lines of straighter darker trees
I like to think some boy’s been swinging them
But swinging doesn’t bend them down to stay
Các chữ trong câu thơ quấn quýt, rậm rạp, buông ra thong thả.
Như thế Robert Frost tả cây cối, nhưng cũng có thể là tả người.Trong đoạn thơ ấy
có sự bồi hồi của kỷ niệm, có sự vui tươi hồn nhiên của tuổi trẻ, lòng yêu mến
thiên nhiên.
Hãy nghe Tú Xương tả vợ mình:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò nơi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Hài hước mà thi vị, bên ngoài coi hời hợt mà bên trong sâu thẳm,
thương yêu chua xót. Mỗi khi tôi đọc câu thơ:
Cổng làng rộng mở. Ồn ào
Nông phu lững thững đi vào nắng mai
Trước mắt lại hiện ra cảnh làng quê tôi, yên ả thanh bình,
khi tôi còn bé ngày ngày cắp sách tới trường, những năm một chín sáu mươi hạnh
phúc. Và tôi thầm cám ơn tác giả Bàng Bá Lân.
Những câu thơ giản dị như thế tưởng đâu dễ viết, thế mà ngày
nay không ai có thể viết được. Dù chỉ là tả cảnh, không nói về mình, tình cảm của
người viết đứng trước cảnh phải là xúc động chân thật.
Điều quan trọng đối với nhà thơ không phải chỉ là họ nhìn
vào cái gì, mà họ thấy ra cái gì. Khác với trong văn xuôi, ngay
khi kể chuyện hay tả lại một việc, dường như nhà thơ bao giờ cũng định nói một
điều gì khác. Thơ có khả năng làm bộc lộ những kín đáo, ẩn khuất, không những
trong lòng người mà cả trong sự vật tưởng như ai cũng nhìn thấy mỗi ngày. Trộn
lẫn chất liệu và phong cách, nội dung và hình thức, tác dụng thẩm mỹ của một
câu thơ vượt qua sự cắt nghĩa hay phân tích giản đơn, máy móc, đòi hỏi bạn trở
lại với chúng nhiều lần.
2. Làm thơ để tả tình:
Trong khi mô tả cảnh vật, thơ cũng biểu lộ tâm trạng con người,
mà người xưa gọi là tả tình.
Xuân của đất trời nay mới đến
Trong tôi xuân đã đến lâu rồi
Trong tôi xuân đã đến lâu rồi
Có khi chỉ một thềm sương lúc chiều tà:
Nõn nà sương ngọc quanh thềm đậu
Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì
Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì
Những câu thơ của Xuân Diệu đẹp như thiên nhiên chúng mô tả,
nhưng đó là một thiên nhiên đã nội tâm hóa, được thổi vào một mảnh tâm hồn của
tác giả.
Người xưa đi qua trước cảnh hoang phế, như Bà Huyện Thanh
Quan:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Tình ý lên mênh mang mà chữ hạ xuống lại đẹp, giàu nhạc tính,
hình ảnh gây cảm giác bồi hồi. Để diễn tả ý ấy bằng lời nói hoặc văn xuôi cần
nhiều chữ hơn thế, mà vẫn không lột tả hết xúc cảm nén trong bảy chữ kia.
Có khi nói rõ tâm sự:
Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông
Cảnh làm ví dụ cho tình, nhưng vẫn là cảnh của thơ: tấc lòng,
cuồn cuộn. Ví dụ trở thành biểu tượng. Thiên nhiên là người thầy của con người.
Tả tình và tả cảnh thường hòa quyện vào nhau. Tuy là tâm sự của người sống
trong thời đại khác, ưu quốc ái dân, nó vẫn giúp ta nối kết được với những cảm
nghĩ sâu xa của trí thức ngày nay.
Chưa nói đến nội dung, chỉ hình thức ngôn ngữ cũng nói lên
tâm trạng.
Tháng tư đầu mùa hạ
Tiết trời thực oi ả
Tiếng dế kêu thiết tha
Đàn muỗi bay lả tả
Nếu so với đoạn thơ tả mùa thu cũng của Nguyến Khuyến, trong
trẻo, thì bài thơ tả mùa hạ, với vần trắc, gây cảm giác ngột ngạt của thời tiết
và tất nhiên có thể ngụ ý về xã hội lúc ấy. Nhạc điệu là một phương cách hoạt động
trực tiếp hơn cả của ngôn ngữ.
Mặt khác vì thơ có khả năng nói những điều bí ẩn, nó có thể
làm người đọc bối rối, như người quen che giấu mình phải tự bộc lộ ra. Khả năng
hiển lộ trong bối cảnh thân mật không phải là một khả năng mà ai cũng sở hữu.
3. Làm thơ để kể chuyện:
Một trong những chức năng của thơ từ thời xa xưa là kể chuyện,
như trong các trường ca dân gian hay các tác phẩm văn học viết.
Chinh Phụ Ngâm:
Chín tầng gươm báu trao tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.
Mới hơn, thường nhật hơn:
Hôm nay em đi chùa Hương
Hoa cỏ còn mờ hơi sương
Cùng thầy me em dậy
Em vấn đầu soi gương
Hoa cỏ còn mờ hơi sương
Cùng thầy me em dậy
Em vấn đầu soi gương
Nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp hóa thân vào nhân vật, một cô bé kể
chuyện duyên dáng. Nhân vật trong thơ chỉ bắt đầu cất lên tiếng nói của mình,
khi nào tất cả những người xung quanh đều ngừng nói chuyện, chấm dứt cãi vã, im
bặt xì xào, lắng nghe. Có lẽ từ thời khởi thủy của con người, người ta đã bắt đầu
biết kể chuyện thông qua các hình thức thơ ca. Ngắm một bức tranh, bạn phải
mang bức tranh ấy về nhà. Nghe một bản nhạc, bạn phải tự thân đến buổi hòa nhạc.
Nhưng để đọc một bài thơ, bạn chỉ cần ghi nhớ nó.
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Đẹp vì ngôn ngữ, vì hình ảnh, nhưng bàng bạc trong bài thơ một
mối quan hệ, một câu chuyện nào đó xảy ra giữa các nhân vật, khi ẩn khi hiện, tạo
ra cái phông cho bài thơ của Hàn Mạc Tử. Khi hiện thì hiện một nửa:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Khi ẩn thì ẩn gần hết:
Áo em trắng quá nhìn không ra
Cũng như trong phim ảnh, kể chuyện không phải là để cho nhân
vật đứng thuyết giảng dài dòng về tình cảm hay đạo đức, mà để cho nhân vật hành
động, cảnh vật diễn ra. Những nhà thơ xuất sắc là những người kể chuyện tài tình.
4. Làm thơ để nói lên quan niệm của mình:
Có tính khuyên răn, như Nguyễn Đình Chiểu trong Lục Vân Tiên:
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình
Người xưa gọi là thơ ngôn chí, dường như để chỉ loại thơ nói
lên quan điểm đạo đức luân lý của tác giả. Tuyên ngôn, thuyết phục, mà vẫn
có giọng tâm tình, bè bạn, trong thơ Nguyễn Công Trứ:
Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả, trả vay
Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây
Cho phỉ sức vẩy vùng trong bốn bể
Nợ tang bồng vay trả, trả vay
Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây
Cho phỉ sức vẩy vùng trong bốn bể
Nhưng có khi quan niệm sống được diễn tả gián tiếp qua việc
mô tả cảnh sinh hoạt.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Như thế quan niệm trong thơ không cần phải là các tuyên bố,
chúng có thể được thể hiện trên cái giá đỡ của các hình ảnh, trên sơ đồ của hiện
thực, của một không gian cụ thể. Thơ chưng cất hiện thực, và chính lề lối chưng
cất ấy thể hiện quan niệm của nhà thơ. Trong cùng một bài thơ, nghệ thuật tả cảnh,
tả tình, nghệ thuật kể chuyện đan xen vào nhau.
5. Làm thơ để cười vui, hay để châm biếm, đả kích:
Nguyễn Khuyến cười hiền lành, dí dỏm mà thâm thúy:
Đã bấy lâu nay bác tới nhà,
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu, sóng cả, khôn chài cá;
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu, sóng cả, khôn chài cá;
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Khuynh hướng thơ châm biếm xã hội, như cảnh gia đạo suy đồi:
Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng
(Trần Tế Xương)
Đả kích các trò mua vui hời hợt để người dân quên đi trách
nhiệm với đất nước:
Khen ai khéo vẽ trò vui thế
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu.
(Trần Tế Xương)
Thời nào cũng đúng.
Hay tự cười mình:
Người quân tử ăn chẳng cầu no
Đêm năm canh an giấc ngáy kho kho
Thời thái bình cửa thường bỏ ngỏ
Đêm năm canh an giấc ngáy kho kho
Thời thái bình cửa thường bỏ ngỏ
(Nguyễn Công Trứ)
Câu thứ nhất là một ý tưởng, một quan niệm, nhưng câu thứ hai
nhà thơ đã sử dụng một hình ảnh, mộc mạc, hài hước, và câu sau càng vẽ ra một bức
tranh sống động, tự nhiên và đẹp.
Thơ trào phúng là thơ thế sự, có tính chất hướng ngoại. Thơ
trữ tình cá nhân không cao hơn cũng không thấp hơn thơ thế sự. Tuy nhiên vẫn có
sự hòa hợp giữa thơ trữ tình và thơ thế sự nếu cái cười của nhà thơ hướng về nội
tâm.
Khuynh hướng hài hước bàng bạc trong thơ Âu Mỹ và nhất là
trong thơ hiện nay.
Trò chuyện với một cây bông ở quê nhà, cười với nó nhưng thật
ra là tự giễu hoàn cảnh tha hương của mình:
Tưởng ta nhớ chú lắm sao
Này cây bông giấy bên rào năm xưa
Này cây bông giấy bên rào năm xưa
(Cao Tần)
Than khóc cho trăng hay là cười cho sự dung tục của loài người:
Thế giới không còn trăng! Tin nghe rùng rợn quá
(Nguyễn Trọng Tạo)
6. Làm thơ như một cách vui chơi với ngôn ngữ:
Vui chơi là một nhu cầu. Không phải ai cũng biết vui chơi, vì
đó còn là một kỹ năng, có khi cần phải học, và may mắn thay, văn học nghệ thuật
có thể dạy ta. Vui chơi là một hoạt động tự thân không có mục đích, với nghĩa
là không đem lại những lợi ích cụ thể, tuy nhiên tác dụng của chúng lại rất lớn
đối với tâm trí vì nó giúp thư giãn, tăng cường hoạt động, nâng cao đời sống
tinh thần.
Ve sầu kêu ve ve
Suốt mùa hè
Đến kỳ gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối
Suốt mùa hè
Đến kỳ gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối
Bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh mà ai cũng biết và thuộc. Nhưng
khi đọc những câu thơ sau đây của Nguyễn Vỹ:
Ta có thể không để ý lắm đến nghĩa của nó, nhưng nhạc điệu của
câu thơ gây cảm giác êm dịu trong lòng, vì đó là nhịp điệu của sự rơi của giọt
sương, phù hợp với những nhịp điệu khác của cơ thể, như nhịp tim, bước chân,
gây ra tình trạng hoạt động, khoan khoái.
Sự vui thú của ngôn ngữ và ý nghĩa của một bài thơ là hai vấn
đề quan trọng trong sáng tác. Ý nghĩa một câu thơ càng rõ thì câu thơ càng dễ
hiểu và ngược lại, như vậy việc dễ hiểu hay khó hiểu của một bài thơ đối với
người đọc gắn liền với việc người đọc nắm được “ý nghĩa” của bài thơ đến đâu. Mặt
khác ý nghĩa càng rõ thì khả năng chất chứa thông tin càng thấp, ý nghĩa càng
mơ hồ thì lượng thông tin càng cao.
Thử đọc hai câu thơ của Nguyễn Bính:
Anh đi đấy, anh về đâu
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm
Chưa kịp hiểu nghĩa, cũng đã thấy hay. Nội dung ý nhị nhưng
cái hay lại nằm ở lối chơi chữ.
Làm thơ là để đi tìm cái mới. Trước hết là mới trong cách
nói. Khi Nguyễn Du viết:
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
Tưởng sau đó thì không ai có thể nói thêm về mùa thu nữa,
nhưng Đinh Hùng lại viết giản dị, mà vẫn cứ mới, mà hình như chưa ai nói trước
đó:
Thu về em đã gặp thu chưa?
Nhà thơ St. John Perse từng viết: “thi sĩ là người phá vỡ các
thói quen của chúng ta.” Sự làm mới trong thơ thường bắt đầu từ các khoảng
cách, các dịch chuyển ra khỏi chuẩn tắc. Có một sự xô lệch, một quãng trễ, giữa
điều mà bạn cảm thấy và điều mà bạn có thể bày tỏ. Trong trường hợp này hình ảnh
và âm nhạc trong thơ làm nhiệm vụ nối kết các khoảng cách ấy. Muốn đi tìm sự mới
mẻ, nhà thơ cần khả năng trở thành kẻ ngây thơ bỡ ngỡ.
Thơ đầy ngạc nhiên, vì thơ không phải là kiến thức.
Khôn quá thì không làm thơ được. Nhưng làm thơ cũng là cách để
bạn tập diễn đạt ngắn gọn, chính xác, và loại bỏ thói quen ba hoa, thừa thãi.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Tả cái đẹp bên trong và cái đẹp bên ngoài của hai chị em Thúy
Kiều và Thúy Vân, Nguyễn Du chỉ cần một câu sáu chữ, uyển nhã mà trầm trọng,
thoang thoảng mà sắc bén, bề ngoài như mô tả khách quan mà bên trong giấu nỗi
đau thầm kín.
Loại ra những chi tiết không quan trọng, tập chỉ ra đích danh
yếu tính của sự vật.
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Là một đoạn văn mô tả tuyệt đẹp một khung cảnh ngày nay khó
còn gặp được. Không một chữ thừa trong cả bốn câu thơ. Ngay những người không
có ý định trở thành nhà thơ cũng có thể học được ở kỹ thuật ngắn gọn của thơ những
bài học giá trị dùng vào việc khác.
Thi sĩ lừng danh Joseph Brodsky đã từng viết: “Càng đọc thơ,
bạn càng trở nên khó chịu trước thói diễn đạt luộm thuộm dài dòng, dù trong diễn
văn chính trị hay triết học, dù trong môn lịch sử, xã hội nhân văn hay trong
nghệ thuật tiểu thuyết”. (The more one reads poetry, the less tolerant one
becomes of any sort of verbosity, be that in political or philosophical
discourse, be that in history, social studies or the art of fiction.)
Điều mà bạn lấy ra khỏi bản thảo của một bài thơ, tức là phần
không đưa vào, cũng quan trọng như phần bên trong bài thơ, t hậm chí quan trọng
hơn. Một bài thơ thường bị hỏng vì tác giả quá tham lam.
7. Làm thơ để giao tiếp với người khác hoặc để nói về các mối
quan hệ:
Anh đi đường anh tôi đường tôi
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi
Đã quyết không mong sum họp mãi
Bận lòng chi nữa lúc chia phôi
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi
Đã quyết không mong sum họp mãi
Bận lòng chi nữa lúc chia phôi
Đó là những lời của nhà thơ Thế Lữ nói với Nhất Linh, tác giả
Đoạn-tuyệt, lời chia tay ngậm ngùi của hai người bạn thân, lưu luyến. Một quan
hệ bị đổ vỡ hay sự thương nhớ giữa hai người xa cách, sự mất mát của một người,
tạo ra nỗi cô đơn, lòng thương xót, nhiều khi kéo dài cả đời. Ai nói hộ chúng
ta điều ấy? Trong một thế giới ngày càng hỗn loạn, con người ngày càng tất bật,
bạn chỉ có thể đi tìm những hình thái nương tựa khác: thơ ca, nghệ thuật, sáng
tạo, thiền. Hầu hết chúng ta sẽ đi suốt cuộc đời mình với một vài vết thương âm
ỉ, sâu, kín, và một vài gánh nặng tinh thần trên vai.
Quan hệ không những giữa người và người mà còn giữa người và
súc vật, hay cây cối, thiên nhiên.
Cây bàng lên búp nhỏ
Xanh như là thương nhau
(Lưu Quang Vũ)
Xanh như là thương nhau
(Lưu Quang Vũ)
Chữ nhẹ nhàng mà tình xúc động. Tuy vậy, thơ Việt Nam chưa có
truyền thống đi sâu vào các mối quan hệ cá nhân phức tạp. Có thể hình dung một
nhà thơ đề cập tới tình thương trong gia đình dễ hơn nhiều so với việc đề cập đến
những tổn thương, rạn vỡ, căm giận và những hối hận. Các mặt trái của xã hội mới
chỉ dừng ở các loại thơ chính trị, cách mạng, chung chung, chưa đi sâu vào trường
hợp cụ thể và cá nhân. Để chia sẻ với họ những kinh nghiệm như một con người.
Dù bạn viết cho riêng mình hay viết cho một người khác, thơ cũng như văn học là
một hình thức giao tiếp, tương thông giữa người và người. Khi bạn viết cho
chính mình, người đọc tìm thấy bóng dáng của họ, suy nghĩ và tâm tình của họ
trong câu thơ của bạn. Khi tìm cách sắp xếp các từ ngữ, sao cho chúng trở nên
có vần có điệu, bạn đến gần hơn với cuộc đời. Thơ làm tăng tiến khả năng chú ý,
giúp bạn sống sâu xa từng giây phút, nâng cao tinh thần trong một thế giới đau
khổ, giúp con người dũng cảm trước dặm đường khó khăn.
Em mơ cùng ta nhé
Bóng ngày mai quê hương
Đường hoa khô ráo lệ
(Quang Dũng)
Thơ có khả năng chia sẻ lớn lao, và vì thế nó là trụ cột của
giao tiếp từ khi con người biết đến lửa và biết sống thành những nhóm, bộ lạc,
gia đình.
Thơ nói cho bạn nghe: bạn là ai
Vì sao bạn trượt chân, ngã sóng xoài
Và bằng cách nào, lạ lùng thay, bạn lại đứng lên
Vì sao bạn trượt chân, ngã sóng xoài
Và bằng cách nào, lạ lùng thay, bạn lại đứng lên
Poetry can tell us what human beings are
It can tell us why we stumble and fall and how,
miraculously, we can stand up
(Maya Angelou)
It can tell us why we stumble and fall and how,
miraculously, we can stand up
(Maya Angelou)
Đối với một nhà thơ, tác phẩm của họ là kết quả của cần thiết.
Có một tiếng nói ở bên trong muốn dội lên, muốn bắt chước, muốn vọng tới một tiếng
nói ở bên ngoài, từ nỗi cô đơn của cá nhân này đến nỗi cô đơn của cá nhân khác.
Hình thức giao tiếp quan trọng trong thơ là nhịp điệu, tiết tấu.
Tà tà bóng ngả về Tây
Truyện Kiều. Hai chữ tà tà đọc chậm, sau hai chữ ấy
dừng một khoảng ngắn, chữ ngả hơi được nhấn mạnh hơn, khác với cũng
câu thơ ấy mà đọc nhanh, đều đều, nó trở thành vô hồn.
Thơ thiếu nhi và thơ cho thiếu nhi là hiện tượng giao tiếp
đặc biệt, giữa trẻ con và trẻ con, giữa trẻ con và người lớn, viết bởi trẻ con
hoặc bởi người lớn.
Hôm nay trời nắng chang chang
Mèo con đi học chẳng mang thứ gì
Mèo con đi học chẳng mang thứ gì
(Phan Thị Vàng Anh)
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
(Trần Đăng Khoa)
Làm thơ để bày tỏ lòng ngưỡng mộ, tình yêu đối với đấng
chí tôn hay Thượng đế:
Maria! Linh hồn tôi ớn lạnh
Run như run thần tử thấy long nhan
Run như run hơi thở chạm tơ vàng
Chúa, Phật, đấng Ala, trong trường hợp những người có niềm
tin tôn giáo, hoặc những xúc cảm mang tính tâm linh, sự cảm thán, lòng tri ân đối
với tình yêu, cái đẹp, sự bao dung và nhân ái.
Lụa hay tre nào khiến bút ai ghi
Chỗ Người ngồi: một thiên- thu tuyệt- tác
Trong vô hình sáng chói nét Từ- Bi
(Vũ Hoàng Chương)
Đối với những người có niềm tin vào các đấng thiêng liêng,
làm thơ có thể giúp họ tạo ra những liên kết với thần linh, với Thượng đế, tỏ
lòng tri ân, tìm kiếm sự nương tựa. Không phải khi nào họ cũng nói về Thượng đế
nhưng bao giờ trong thơ cũng bàng bạc niềm tin bao la. Hãy đọc Rumi:
Phía sau đúng và sai
Có một cánh đồng. Ta hẹn người ở đó.
Out beyond ideas of wrongdoing and rightdoing,
there is a field. I’ll meet you there.
(Bản tiếng Anh của Coleman Barks)
Đứng im ngoài hàng giậu
Em mỉm nụ nhiệm mầu
Em mỉm nụ nhiệm mầu
Trong hai câu thơ của thi sĩ Quách Thoại, không chỉ có cảnh vật
và cả cảm xúc như được chiếu rực rỡ bởi ánh sáng của một thứ giao hưởng giữa
người và vũ trụ.
8. Làm thơ để đi tìm sự thật hoặc ý nghĩa của sự vật:
Trong khi mô tả những cảm xúc của mình, những hoàn cảnh mà
mình đã gặp, nhà thơ có thể tìm thấy sự thật trong chính ngôn ngữ đặc thù của
thơ ca. Sự thật thường bị lấp khuất ở dưới những khía cạnh khác của đời sống,
chỉ lộ ra khi thi sĩ chạm tay vào bằng bàn tay ngôn ngữ của mình. Đó không phải
là một thứ sự thật báo chí, như những thực tế đã xảy ra mà là sự thật của tâm hồn,
của những thể nghiệm của người viết.
Đường trong làng: hoa dại với mùi rơm
Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm
Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm
Mỗi lần đọc hai câu thơ này của Huy Cận, tôi không chỉ nhìn
thấy vóc dáng của tuổi trẻ mà còn cảm được không khí thanh nhàn thời tôi còn
bé, miền tâm linh dân tộc ngày nay khó còn giữ được, vì ba yếu tố, được truyền
bá khắp nơi: văn minh hưởng thụ vật chất, văn hóa thù hận đấu tranh, văn học bạo
động.
Làm thơ là để đi tìm các ý nghĩa. Mục đích của đời sống không
phải là thành công hay hạnh phúc, mà là ý nghĩa. Tất cả hạnh phúc hay khổ đau,
chịu đựng hay hy sinh đều chỉ có ích cho con người khi chúng trở nên có ý
nghĩa. Sự hy sinh của cha mẹ sẽ không đem lại lợi ích gì nếu các con của họ
không hiểu vì sao cha mẹ hy sinh cho con cái.
Những Chủ Nhật Mùa Đông
Cha tôi dậy sớm vào cả ngày chủ nhật
Thay áo quần trong tối lạnh mờ xanh
Bàn tay cha nứt nẻ vì công việc
Nhóm lửa lò cháy rực. Chẳng ai cần
Nói cám ơn. Tôi thức giấc, than hồng
Lách tách, bếp ấm dần, cha mới gọi tôi
Dậy mặc áo quần, nhưng tôi lười nhác
Căn nhà xiêu cột kèo kêu răng rắc
Tôi cũng chuyện trò ấm ớ với người
Cha dậy sớm chẳng phải vì tôi sao?
Và đánh bóng những đôi giày dơ bẩn
Nhưng tôi có để ý gì đâu? Nào biết gì đâu?
Mưa nắng dãi dầu, tình yêu khổ hạnh
Those Winter Sundays
|
|
Sundays too my father got up earlyand put his clothes on in
the blueblack cold,
then with cracked hands that ached
from labor in the weekday weather made
banked fires blaze. No one ever thanked him.
I’d wake and hear the cold splintering, breaking.
When the rooms were warm, he’d call,
and slowly I would rise and dress,
fearing the chronic angers of that house,
Speaking indifferently to him,
who had driven out the cold
and polished my good shoes as well.
What did I know, what did I know
of love’s austere and lonely offices?
(Robert Hayden)
|
Mê mải đi trên đường, đôi khi bạn nghe tiếng gọi từ phía sau.
Bạn quay lại: không có ai. Tiếc thương không phải là cảm xúc u buồn trầm uất,
trái lại nó có thể làm đời sống tâm hồn sâu thẳm. Tiếc thương là hành động, là
tấm gương chiếu rọi bất ngờ, thách thức, vỗ về, làm đầy một nghĩa tình chưa trọn
vẹn.
Nhiều bài thơ bắt đầu bằng cảm xúc. Có thể nhận được mùi vị,
nghe được âm thanh của nó, và bạn cảm được một bài thơ ngay cả khi mới đọc câu
mở đầu.
Bất cứ điều gì bạn nói, hãy để
Rễ chúng
Đong đưa
Rễ chúng
Đong đưa
Whatever you have to say, leave
the roots on, let them
dangle
the roots on, let them
dangle
(Charles Olson)
Đừng có cắt các búi rễ đi, phải để hiện ra sự nguyên vẹn của
cảm xúc như Olson đã nói. Tức là bạn bộc lộ cho hết những đất đá được giấu kín,
các khía cạnh bí ẩn của cá nhân và lịch sử.
9. Làm thơ để thay đổi:
Thay đổi vì một xã hội, một đất nước, một thế giới tốt đẹp
hơn là ý nguyện của nhiều nhà văn nhà thơ.
Thay đổi trước hết bằng lời kêu gọi nồng nàn, lý lẽ thuyết phục,
hướng tới đám đông:
Một là vua, sự dân chẳng biết
Hai là quan chẳng thiết gì dân
Ba là dân chỉ biết dân
Mặc quân với quốc, mặc thần với ai
(Phan Bội Châu, Hải ngoại huyết thư, bản dịch của Lê Đại)
Thời nay càng đúng.
Thơ yêu nước thường buồn, cảm khái, như thơ Đặng Dung:
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma
(Thù trả chưa xong đầu đã bạc
Bao phen mài kiếm dưới trăng tà)
Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma
(Thù trả chưa xong đầu đã bạc
Bao phen mài kiếm dưới trăng tà)
Nhưng cũng có thể vui hơn, lạc quan hơn:
Chúng tôi đi
Nắng mưa sờn mép ba lô,
Tháng năm bạn cùng thôn xóm.
Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng.
Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng.
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa.
Nắng mưa sờn mép ba lô,
Tháng năm bạn cùng thôn xóm.
Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng.
Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng.
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa.
(Hồng Nguyên)
Không có một chủ nghĩa anh hùng tập thể nào mà không khởi đi
từ các tâm sự cá nhân. Chúng ta có thể thay đổi thế giới, nhưng chỉ có thể bắt
đầu sự thay đổi ấy trước hết từ bản thân chúng ta. Cô gái Malala Yousafzai mười
bảy tuổi, giải Nobel hòa bình: “Chúng ta hãy nhớ: Một cuốn sách, một ngòi
bút, một đứa trẻ, và một người thầy, có thể thay đổi thế giới.” (“Let us
remember: One book, one pen, one child, and one teacher can change the world.”)
Thơ chính trị, thơ cách mạng đều có ý ấy, nhưng các nhà thơ
có cách nói khác nhau. Như Walt Whitman:
Tôi ca ngợi tôi, tôi ca hát về mình
Tôi tin tưởng điều chi, bạn nghĩ điều như thế
Mỗi nguyên tử thuộc về tôi tất thảy thuộc loài người.
Tôi tin tưởng điều chi, bạn nghĩ điều như thế
Mỗi nguyên tử thuộc về tôi tất thảy thuộc loài người.
I celebrate myself, and sing myself,
And what I assume you shall assume,
For every atom belonging to me as good belongs to you.
And what I assume you shall assume,
For every atom belonging to me as good belongs to you.
Không phải chỉ có thơ chính trị, thơ cách mạng, hay thơ phản
kháng mới có thể tạo ra các thay đổi. Những lời tâm sự, những ưu ái tình cảm, một
khi được buông ra một cách nghệ thuật, đều có khả năng ấy. Tôi tự hỏi biết đâu
mấy câu thơ của Vũ Đình Liên:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Đã không khiến bao người chạnh lòng cảm thương, góp phần làm
cho phong trào xin câu đối ngày xuân phát triển như hiện nay? Các tuyên bố hùng
biện chưa chắc có tác dụng bằng.
Xã hội hậu công nghiệp, thời đại thông tin, cũng là xã hội
tiêu thụ. Thay vì tiêu thụ, tức là lấy vào, chúng ta sáng tạo, tức
là làm ra. Làm thơ là làm ra, chúng ta chỉ cần viết lên giấy, gởi lên mạng,
gởi trong email và facebook, hàng ngàn, hàng chục ngàn người chia sẻ với chúng
ta.
Bằng cách ấy, chúng ta thay đổi. Cho một thế giới tốt đẹp
hơn.
10. Làm thơ để đi sâu vào tâm hồn mình:
Trò chuyện với chính mình. Đi vào bên dưới các bề mặt, và lắng
nghe:
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
(Thâm Tâm)
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
(Thâm Tâm)
Đọc lên thì ta thấy tiếng sóng trong lòng thật, tức là thấy
được dòng trôi chảy va đập của tâm hồn mình, của nỗi niềm tâm sự của mình. Những
câu thơ như thế dạy người ta sống có chiều sâu, tập cho người ta biết lắng nghe
thiên nhiên và lắng nghe cuộc đời. Vượt qua thời gian, để chuộc lỗi. Khi bạn lớn
đến một tuổi nào đó, sự giới hạn của cuộc đời, tuổi già, sự tan vỡ, sự chấm dứt,
cái chết, sẽ ám ảnh bạn. Bạn thấy mình nhỏ bé trước cõi nhân gian rộng lớn, vũ
trụ vô cùng. Hơn thế nữa sự mất mát của một người thân, cha mẹ, bạn bè, làm bạn
tổn thương, bạn muốn chống lại điều ấy.
Bằng cách nào? Bằng cách nương tựa vào người khác, vào
thế hệ đi trước chúng ta và thế hệ đi sau chúng ta.
Tức là dựa vào sự liên tục, tính liên tục của kiếp người.
Thơ giúp bạn thấy được điều ấy, kéo dài một kỷ niệm chốc lát trở thành vô hạn
trong ký ức, làm cho sự sinh nở và cái chết có thể giao thoa với nhau, xen lẫn
vào nhau trong một đầu mối của chu kỳ sinh diệt.
Rappelle-toi Barbara
Il pleuvait sans cesse sur Brest ce jour-là
Il pleuvait sans cesse sur Brest ce jour-là
Em còn nhớ không Barbara
Em còn nhớ không Brest hôm xưa trời mưa không ngừng giữa đôi ta
Em còn nhớ không Brest hôm xưa trời mưa không ngừng giữa đôi ta
Brest là một thành phố hải cảng ở vùng cực Tây của Pháp.
Barbara là tên một người thiếu nữ. Ai cũng muốn được như Jacques Prévert đóng
đinh kỷ niệm về người thiếu nữ ấy, thành phố ấy, ngày mưa ấy, tình yêu kia, vào
ký ức vĩnh viễn của nhân loại trong bài thơ Barbara được nhiều người
ưa thích của ông.
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Bến Tầm dương ở đâu chắc không mấy ai biết, nhưng nó trở
thành một nơi chốn đi về trong tâm hồn người Việt từ khi có bản dịch Tỳ Bà
hành. Con người sinh ra, tự trong bản chất, đều muốn để lại dấu vết lâu dài cho
cuộc đời ngắn hạn. Tình yêu và sáng tạo có lẽ là hai thứ quý giá nhất mà chúng
ta muốn để lại.
Nhưng bạn có để ý Brest và Barbara cùng một vần b không?
Còn câu thơ trong bản dịch Tỳ Bà hành có hai âm kh chiếu chênh chếch
vào nhau không?
Không phải vô lý khi Henry Thorau, nhà văn và nhà triết học
Hoa Kỳ, nói rằng: “Every man wants to be a poet if he can” (“Bất kỳ người nào
cũng muốn trở thành thi sĩ nếu anh ta có thể làm điều ấy”). Một bài thơ hay là
một bài thơ mà các chữ mang đầy năng lượng. Năng lượng là ý nghĩa, ý nghĩa là
hòn đảo nổi lên trên bề mặt tối của vô thức. Thương tiếc cái mất mát, lỡ làng,
như người con gái đẹp mà bạc mệnh, thì câu thơ của Nguyễn Du:
Nửa chứng xuân thoắt gãy cành thiên hương
Có thể kéo dài được vẻ đẹp ấy, tưởng đến vô hạn.
Làm thơ cũng là để đi tìm cõi bình an hay niềm tin ở bên
trong, tìm sự an ủi và nhẹ nhõm. Có một cõi lặng lẽ ở bên dưới các bề mặt, ít
lo âu hơn, có thể mang lại an bình cho một người. Bạn tìm ra được căn phòng
trong ngôi nhà của mình, nơi bạn có thể ngồi một mình, ca hát một mình, khóc
thương cho lầm lỗi của mình, suy nghĩ một mình, và sau đó khi bạn trở lại với
cuộc đời ngoài kia, bạn sâu sắc, vững chãi hơn.
Before you know what kindness really is
You must lose things
Trước khi bạn biết lòng tử tế là gì
Bạn phải mất đi nhiều thứ
You must lose things
Trước khi bạn biết lòng tử tế là gì
Bạn phải mất đi nhiều thứ
(Naomi Shihab Nye)
Trong các hình thức văn học, có lẽ thơ gần với cảm giác bình
an nhất.
Vì bình an mà thời gian trôi chậm lại: thơ làm cho một người
sống lâu hơn thời gian của chính mình.
III. NGÔN NGỮ CỦA THƠ
Nghĩa của thơ vừa giống vừa khác nghĩa thông dụng. Trong nhiều
câu thơ, nghĩa của chữ cũng tựa như khi ta đọc một bài văn nghị luận hay một
thông báo về thời tiết.
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Tuy nhiên nó vẫn là một câu thơ.
Nếu ta đổi câu ấy, viết khác đi, mặc dù vẫn giữ nguyên từng
chữ:
Thúy Kiều là chị, Thúy Vân là em
Rõ ràng nội dung thông báo không thay đổi, nhưng câu sau
không có vẻ gì là thơ cả. Tại sao?
Vì nó thiếu vần điệu, nếu xét trong quan hệ với các câu đi
trước và đi sau. Nhưng ngay cả khi tách ra đứng một mình, nó vẫn thiếu nhạc điệu
nội tại. Nghĩa khác của câu thơ, không phải nghĩa thông dụng, cần được đọc và
hiểu theo cách khác. Muốn thế chúng ta cần phân biệt hai loại nghĩa: nghĩa ngôn
ngữ và nghĩa phi ngôn ngữ, hay nghĩa đen và nghĩa bóng, hay nghĩa hiển lộ và ẩn
nghĩa.
Bữa nay lạnh, tôi đi ngủ sớm.
Là một lời tuyên bố rõ nghĩa: vì lạnh quá, làm biếng học bài,
tạm quên lời nhắc nhở của thầy cô, tôi lên giường đánh một giấc cho xong.
Nhưng:
Bữa nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm
Không còn có nghĩa rõ như thế nữa, vì ai cũng biết mặt trời
không đi ngủ, nó chỉ lặn về phương Tây, hay đúng hơn là trái đất, phần chúng ta
đang đứng, xoay về phía khuất của mặt trời.
Một thí dụ khác, trong cùng một bài thơ.
Sương rơi
Nặng trĩu
Trên cành
Dương liễu
Nặng trĩu
Trên cành
Dương liễu
Là những câu thơ đẹp, nhưng rất rõ nghĩa. Người ta không thể
nhầm sương với tuyết, liễu với mai. Câu thơ có nhiều hình ảnh, nhưng trước hết
chúng mô tả một cảnh có thể có thật.
Rồi hạt
Sương trong
Tan tác
Trong lòng
Sương trong
Tan tác
Trong lòng
Thì điều nhà thơ mô tả không thể xảy ra được. Ai cũng biết rằng
về mặt vật lý, sương không thể tan trong lòng. Chúng chỉ có thể tan trên đất
hay trên cành. Nhà thơ đã tả một điều chỉ có thể xảy ra theo nghĩa bóng, với ngụ
ý sự buồn rầu, tuyệt vọng về một điều gì đó (tình yêu, giấc mộng lý tưởng..).
Những nghĩa bóng, nghĩa hình ảnh, nghĩa ẩn như thế tạo nên một thứ ngôn ngữ
riêng, gọi là ngôn ngữ thơ. Nhưng không phải chỉ có thơ mới có cách dùng ấy.
Trong đời sống hàng ngày chúng ta vẫn dùng ngôn ngữ hình ảnh, mà có khi không tự
biết.
Trong lời nói thường:
– Sợ dựng tóc gáy
– Bị đuổi chạy mất dép
Chúng ta không có ý nói một cách cụ thể là mất dép, tóc gáy dựng
lên. Dù chúng có thể xảy ra thật (mất dép) hay không thể xảy ra (tóc gáy dựng
lên). Chúng ta không có ý muốn nói cô ấy là một ngôi sao, vì điều ấy không thể
xảy ra được, chúng ta chỉ muốn nói cô ấy học giỏi nhất lớp, chơi bóng giỏi nhất
lớp, vân vân. Chúng ta dùng ngôn ngữ ấy vì chúng rõ ràng hiện ra trước mắt, dễ
gây ấn tượng mà người nói mong muốn. Thật ra, có nguyên nhân sâu xa của việc
dùng ngôn ngữ ấy, vượt ra ngoài các lợi ích vừa nói. Khi nói chúng, ta thấy
vui, một cái thú khó giải thích. Tương tự như khi bạn dùng các mỹ ngữ, các uyển
ngữ. Cả hai thứ ngôn ngữ hiển lộ và hình ảnh thường đan xen vào nhau
cả trong lời nói thông thường và trong thơ hay văn học.
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi
(Bàng Bá Lân)
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi
(Bàng Bá Lân)
Câu thứ nhất là nghĩa đen, câu thứ hai vừa là nghĩa đen vừa
là nghĩa bóng, vì múc ánh trăng vàng vừa là hình ảnh có thực vừa biểu tượng cho
cái khác, như một đêm trăng đẹp.
Nhiều khi chính sự đan xen giữa chúng tạo nên vẻ đẹp và sự hấp
dẫn của thơ.
Nhà em có một giàn trầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Không thể nào phân biệt đó chỉ là một câu thơ tả cảnh hay kể
chuyện, hay chỉ dùng những việc ấy làm cái cớ để nói về chuyện khác. Dễ dàng nhận
ra rằng nhà thơ không có ý định tả cảnh và chỉ nhắc đến một cách giản dị như
“có một giàn trầu” hay “hàng cau liên phòng” nhưng cũng không thể nói là trong ấy
chỉ có tình ý mà không có cảnh, cũng như chỉ có hồn mà không có xác, hay ngược
lại. Thông thường trong những câu thơ có sự đan xen giữa hai loại nghĩa, bao giờ
tác giả cũng sử dụng một số thủ pháp đặc biệt, nhiều hơn cả là nhân cách hóa,
khoa trương, hoặc tối giản hóa, tức là nói khác đi với sự thật, với dụng ý
riêng. Trong hai câu thơ trên, có thể nhà người con gái cũng có cả một hàng
cau, hoặc có nhiều hơn một giàn trầu, nhà người con trai có thể có thêm một
giàn trầu hay có nhiều hơn một hàng cau, và ngoài ra tất nhiên còn có nhiều thứ
cây khác nữa.
Nghĩa của một chữ trong thơ có nhiều cách hiểu khác nhau tùy
theo trường hợp: (1) định nghĩa như trong từ điển, (2) giải thích từ nguyên,
(3) ý nghĩa, (4) ý định, (5) ngụ ý của tác giả. Trong khi nghĩa có tính xác định,
khách quan, thì ý nghĩa mơ hồ hơn, mang tính diễn dịch chủ quan của người đọc.
Hình ảnh trong thơ thường được nhấn mạnh như một trong những đặc tính nghệ thuật
của ngôn ngữ. Hãy so sánh hai cặp thơ sau đây của Xuân Diệu, một viết thời tiền
chiến:
Trăng sáng trăng xa trăng rộng quá
Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ
Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ
Và hai câu thơ viết sau cách mạng tháng Tám khi Xuân Diệu đã
chuyển qua một phương pháp sáng tác khác.
Biết bao đôi lứa còn xa
Nhường cho đôi lứa chúng ta được gần
Nhường cho đôi lứa chúng ta được gần
Có lẽ nhiều người sẽ nhận xét như tôi rằng hai câu thơ trước
hay hơn hẳn hai câu thơ sau. Hai câu trước rất buồn, hai câu sau vui hơn, ấm áp
hơn, mà tình ý cũng sâu xa. Thế sao nó lại không hay bằng hai câu trước? Chúng
ta thử đọc lại, sẽ thấy rằng hai câu trước có cảnh vật, tức là ánh trăng, mà lại
được mô tả mới lạ, mặc dù hàng ngàn năm thơ chẳng lạ gì trăng. Trăng sáng tất
đã có người nói, trăng xa cũng có thể có nhiều người nói, nhưng trăng rộng thì
hình như chưa có ai, và đặt chung lại với nhau thành ba cặp trăng sáng trăng xa
trăng rộng thì tôi chắc rằng Xuân Diệu là người thứ nhất. Nghe như tiếng reo
vui trước cảnh đẹp hay tiếng than thở trước cảnh buồn. Nhưng nói rộng ra như thế,
nói dồn dập như thế để dồn cái ý vào câu thứ hai: hai người nhưng chẳng bớt bơ
vơ. Hai người mà không bớt bơ vơ thì đó là hai người gì? Người yêu chăng? Hay bạn
bè?
Ta thấy nghĩa của hai câu thơ sâu xa, mơ hồ, bàng bạc, còn
hai câu thơ thứ hai không có hình ảnh, hoặc hình ảnh mờ nhạt ở chữ đôi lứa,
trong câu thơ cái ý tưởng là chính. Câu thơ như có xác mà chưa có hồn mặc dù hồn
của thơ thường khi là ý tưởng.
IV. ĐI TÌM ĐỨA TRẺ TRONG CĂN NHÀ CỦA MÌNH
Khi ta còn bé, có một nhà thơ tí hon mơ giấc mơ cùng ta đêm
trăng sáng. Khi ta lớn lên, nhà thơ ấy nhỏ lại, sống lẩn lút đâu đó trong căn
nhà của giai đoạn trưởng thành. Khi bạn muốn tìm gặp, người ấy lúng túng ngượng
ngập như đứa trẻ đỏ mặt lên lúc có người lớn cúi xuống bắt tay. Nếu một hôm nào
bạn bỗng muốn ngồi xuống viết một bài thơ, rồi táo bạo hơn nữa bạn đọc to bài
thơ ấy lên, xúc cảm dâng trào, bạn tưởng ai nấy đều khóc. Nhưng đọc xong, chẳng
ai nói lời nào. Mọi người ngơ ngác không biết bạn muốn gì, kín đáo mỉm cười,
cha mẹ bạn lắc đầu ái ngại. Lo cho tương lai của con mình.
Mà tương lai của bạn cũng đáng lo.
Vì thơ ca không dành bất kỳ một lời hứa nào cho người đến với
nó cả: công danh không có, tiền bạc càng không. May ra nó tặng bạn một món quà.
Nếu ngày nào bạn in được một tập thơ, nhà xuất bản sẽ gởi nhuận bút bằng ba tập
thơ biếu, một để đem khoe với bạn bè, một để đem về cho mẹ, nếu bà còn sống, và
một để bạn cất đi, thỉnh thoảng đem ra đọc lại trong chiều mưa gió.
Nhưng bạn viết để tạo nên mối liên kết giữa mình và sự vật.
Càng lắng nghe, một người càng trở nên toàn vẹn với mình. Thay vì mở rộng sự
khác biệt giữa khổ đau và hạnh phúc, giữa trái và phải, giữa buồn rầu và hài hước,
giữa thành công và thua cuộc, giữa hận thù và tha thứ, thơ có khả năng mang
chúng lại gần nhau trên bề mặt tiếp nối, giao kết. Bắt đầu từ những người gần
gũi nhất, những vật quen thuộc nhất.
Bạn thử nhớ một người bạn cũ:
Người ở bên trời ta ở đây
Chờ mong phương nọ, ngóng phương này
(Huy Cận)
Một người hàng xóm?
Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn trời, đôi mắt trong
(Nguyễn Bính)
Tình mẫu tử.
Nửa đêm nhớ mẹ tôi thường khóc
Xin tụng giùm nhau kinh vãng sanh
(Du Tử Lê)
Tình anh chị em.
Tôi không bao giờ biết cánh cửa mà tôi đi qua
Để bước vào thế giới này
Đã được làm ra
Bởi anh tôi, bằng cơ thể mình. Anh ấy cao
Hơn tôi một tí: chàng trai trẻ rất xinh
Để bước vào thế giới này
Đã được làm ra
Bởi anh tôi, bằng cơ thể mình. Anh ấy cao
Hơn tôi một tí: chàng trai trẻ rất xinh
I have no idea that the gate I would step through
to finally enter this world
would be the space my brother’s body made. He was
a little taller than me: a young man
to finally enter this world
would be the space my brother’s body made. He was
a little taller than me: a young man
Đó là Marie Howe, cô viết về anh trai của mình. Những câu thơ
có vẻ bình thản chứa đựng sự âu yếm dành cho người anh, lòng tự hào. Nếu bạn có
một người chị hay anh, bạn dễ cảm nhận điều ấy.
Ngôn ngữ, trang giấy, màn hình, tạo cho bạn một môi trường
riêng tư và ấm áp, một chỗ kín đáo để thể hiện suy nghĩ, tình cảm của mình. Một
xã hội chỉ biết chú trọng đến các tiến bộ kỹ thuật, các thú vui vật chất, các
tăng trưởng kinh tế, mà không chú ý đến các quan hệ giữa người và người, giữa
người và thiên nhiên, không chú ý đến các niềm tin, vẻ đẹp tâm hồn, đến khuynh
hướng thơ mộng của tuổi mới lớn, là một xã hội đang gặp nhiều rắc rối. Điều
đáng mừng là bất chấp những khó khăn, nhiều người bắt đầu nhận ra bài học về
hai thứ đang ngày càng mất đi: các giá trị đạo đức và các giá trị tâm hồn. Sự
giàu có của một đời sống xã hội bao giờ cũng bao gồm sự giàu có vật chất và tâm
linh. Hiện tượng nhiều người làm thơ, nhiều tập thơ được xuất bản, tuy với chất
lượng khác nhau, một mặt đặt ra những vấn đề về học thuật, mặt khác là hiện tượng
chứng tỏ con người còn biết đi tìm trong thơ những điều họ không tìm thấy trong
đời sống xã hội. Người mới viết chỉ cần một sự hướng dẫn đúng đắn, khiêm tốn,
đàng hoàng, ở vào tuổi càng sớm càng tốt.
Muốn đọc thơ và làm thơ, bạn cần học im lặng, tập lắng nghe.
Để đi đến trung tâm của sự thật, bản chất của vẻ đẹp, đầu mối của hạnh phúc và
đau khổ, bạn cần biết im lặng và lắng nghe sự im lặng, tìm thấy ở đó sự tỉnh thức.
Những người yêu mến văn chương quý trọng sự tinh tế, biết quý trọng sự sống,
hơi thở, bầu không khí, sự giao hòa của trời đất, xa lánh các lý thuyết đấu
tranh hận thù, xa lánh sự giả dối, thói khôn vặt, biết kính chào mặt trời buổi
sáng như một mặt trời mới.
Làm thơ, tất nhiên cần cảm hứng. Nhưng cảm hứng thôi, chưa đủ.
Cũng như đối với một bản nhạc, một bức tranh, không những người chơi đàn hay vẽ
tranh phải học, mà người nghe nhạc hay nhìn tranh cũng phải học. Cũng như đối với
sáng tạo, sự tiếp nhận cần được học. Chữ chỉ đến với bạn cũng như một nốt âm nhạc
đến với nhạc sĩ khi bạn sẵn sàng tiếp nhận. Bạn mở hết các cánh cửa, nhớ lại cảm
xúc, kinh nghiệm. Như thể không phải bạn đang ngồi sáng tác một bài thơ hay một
bản nhạc, mà chính trái tim bạn đang làm điều ấy. Bạn tập trung, quan sát những
điều đang diễn ra, sống lại những giây phút nào đó trong đời, để tự chúng bày tỏ.
Bài thơ xuất hiện như một ý tưởng hay một hình ảnh, hay một ý tưởng thông qua một
hình ảnh, mà người xưa gọi là tứ. Người làm thơ gặp khó khăn vì trước mặt họ có
biết bao tác phẩm hay của tiền nhân. Đúng là:
Nhớ thuở xưa khi chưa có ta đường đi thênh thang
Kịp đến khi có ta chông gai mênh mang
(Vũ Hoàng Chương)
Nhưng bạn hãy cứ là mình. Một bài tập nhỏ: bạn có bao giờ
nhìn thấy mùa hè chưa? Nếu đã từng, bạn thử viết ra điều ấy, và chỉ một mùa hè
thôi, của riêng bạn. Như Xuân Tâm.
Sung sướng quá giờ cuối cùng đã hết
Đoàn trai non hớn hở rủ nhau về
Chín mươi ngày nhảy nhót ở vườn quê
Ôi tất cả mùa xuân trong mùa hạ
Đoàn trai non hớn hở rủ nhau về
Chín mươi ngày nhảy nhót ở vườn quê
Ôi tất cả mùa xuân trong mùa hạ
Hay mùa thu? Như Đinh Hùng:
Hôm nay có phải là thu
Mây năm xưa đã phiêu du trở về
Mây năm xưa đã phiêu du trở về
Đó là thơ lục bát. Bạn thử làm thơ lục bát, chẳng hạn, và về
bất cứ đề tài gì, miễn là lục bát. Thế là bạn đã bắt đầu.
Học kỹ các thể thơ và quy luật của chúng
Những năm gần đây hình như ở giới sáng tác người Việt, việc học
tập, trau dồi các thể thơ, làm chủ chúng về mặt nghệ thuật ngày càng không được
nhấn mạnh như trước, bị quên lãng. Kèm theo nó là sự coi thường lý luận và phê
bình văn học. Kèm theo sự coi thường ấy là việc chúng xứng đáng bị coi thường.
Sự chiến thắng của thơ tự do trong khoảng nửa thế kỷ nay, mặc dù là một thành tựu
lớn về nghệ thuật, lại tạo ra một bước lùi khác trong nhận thức của nhiều nhà
thơ. Nhiều người không làm chủ được các thể thơ dân tộc. Vẫn biết một nhà thơ tự
do xuất sắc không nhất thiết phải làm thơ lục bát cho hay, nhưng họ cũng phải
biết những quy luật tối thiểu và phải làm được những bài thơ trong các thể thơ
có luật ở trên mức trung bình. Không phải tự nhiên mà các thể thơ có vần
đã sống lâu dài trong lịch sử.
Trong khi việc nhồi nhét các quy luật, học tập một cách máy
móc, là việc cần tránh, thì ngược lại chúng ta không nên rơi vào cực đoan khác,
đó là bỏ qua vai trò của trí nhớ và những ước lệ căn bản. Cần nhớ rằng họa sĩ
thiên tài Picasso trước khi vẽ những bức tranh có tính cách mạng, trừu tượng
hay lập thể, ông đã từng tập vẽ chân dung, tập vẽ truyền thần sao cho thật giống
với ngoài đời. Trước khi bạn vẽ đẹp, bạn cần biết vẽ sao cho giống.
Đừng tìm cách kiểm duyệt chính mình. Đừng vừa viết vừa sửa. Bạn
phải để mặc cho ý tưởng trào ra từ ngòi bút, như một người có dịp kể lại với
người thân câu chuyện đời mình, hay ngồi trong đêm kể chuyện với bức tường. Bạn
phải viết về người quan trọng nhất của đời mình và trước hết phải bắt đầu bằng
người ấy.
Có thể là cha hay mẹ, anh chị hay em, bè bạn, hay một người
mà ta đã gặp đâu đó trong đời, nghĩ về người ấy, may mắn hoặc xấu số, và tưởng
tượng bạn có món nợ tinh thần phải trả. Bạn hãy nghĩ đến hoàn cảnh mà mình đã gặp,
sáng hay chiều, bến đò hay ga xe lửa. Nếu bạn ngấm ngầm căm ghét một người nào,
một nhân vật được nhiều người khác kính trọng như thần tượng, bạn hãy nói thẳng
ra. Nếu bạn yêu mến một người nào, một kẻ bị nhiều người khinh ghét, bạn hãy
nói thẳng ra.
Có dễ không? Không dễ.
Mẹ tôi không bao giờ tha thứ cho cha tôi
Vì đã tự vẫn
Trong một thời kỳ khốn quẫn rối bời
Ở chốn công viên
Mùa xuân đầu tiên ấy
Khi tôi chuẩn bị ra đời
Vì đã tự vẫn
Trong một thời kỳ khốn quẫn rối bời
Ở chốn công viên
Mùa xuân đầu tiên ấy
Khi tôi chuẩn bị ra đời
My mother never forgave my father
for killing himself,
especially at such an awkward time
and in a public park,
that spring
when I was waiting to be born
for killing himself,
especially at such an awkward time
and in a public park,
that spring
when I was waiting to be born
(Stanley Kunitz)
Xưa nay thơ văn thường buồn. Nhưng giữa những người đang than
thở kia, bỗng có một người vui vẻ bước tới, thản nhiên nói:
Lòng ta vô sự, ta vui vẻ
Bướm với hoa cùng bay nhởn nhơ
Bướm với hoa cùng bay nhởn nhơ
Tô Thùy Yên viết được thế là vì ông biết nói thực về một giây
phút hiện tại nào đó của mình. Bạn giữ trong tủ áo của mình những cà vạt, những
khăn quàng không muốn chia sẻ cùng ai. Bạn quên nó đi, vì không biết phải làm
gì với nó, cho đến một hôm bạn mở cánh cửa tủ, nhìn thấy, bạn nhớ lại niềm vui
sướng của mình, lòng hối hận.
Nỗi tiếc thương nào, nặng đến đâu bất kỳ
Chúng ta cũng phải mang nó đi
Chúng ta cũng phải mang nó đi
No matter what the grief, its weight,
we are obliged to carry it
we are obliged to carry it
(Dorianne Laux)
Do được huấn luyện từ bé, mỗi người đều có thói quen lắng
nghe tiếng nói phê bình chỉ trích của chính mình. Tiếng nói ấy là cần thiết
trong nhiều trường hợp: khi bạn làm việc, lái xe, diễn thuyết, ngồi trong tiệm
ăn, vì chung quanh bạn còn có người khác, bạn không thể tuyệt đối tự do, thích
gì làm nấy, vì bạn phải tôn trọng tự do của người khác. Đó là một thói quen vững
chắc. Bạn phải rũ bỏ thói quen ấy. Bạn không cần phải hoàn hảo. Bạn không cần
phải trở thành một người đàng hoàng đúng mực. Bạn không cần phải chỉn chu.
Trong thơ bạn vứt bỏ những thứ ấy.
Bạn không cần tốt lắm làm chi
Bạn không cần quỳ gối mà đi
Qua sa mạc kia đấm ngực vì hối hận
Bạn không cần quỳ gối mà đi
Qua sa mạc kia đấm ngực vì hối hận
You do not have to be good.
You do not have to walk on your knees
for a hundred miles through the desert, repenting
You do not have to walk on your knees
for a hundred miles through the desert, repenting
(Mary Oliver)
Những kỷ niệm đầu đời của chúng ta thường gắn bó với cha mẹ,
ông bà, ngôi nhà cũ, mảnh vườn xưa, chiếc xe đạp, người bạn gái ngồi trước mặt
hay khúc khích cười, cây khế, con trâu, tiếng ve mùa hạ, cuốn tiểu thuyết đầu đời,
lòng nhân hậu đầu tiên mà bạn gặp trên đường. Có khi nào bạn gọi tên của họ ra
trong một bài thơ hay một bài văn không? Nếu chưa thì bạn nên làm. Dưới ngòi
bút, những người ấy sẽ hiện về. Lắng nghe tiếng nói của đồng bào đau khổ, tập
phẫn nộ với các bất công xã hội, xảy ra trước mặt bạn, ngay bây giờ, trước
sự đàn áp của mọi bạo lực, dù chúng nhân danh bất cứ một điều gì. Tập nói lớn
lên bằng các chữ im lặng.
Đọc lớn lên
Thơ trước hết là nghệ thuật ngôn ngữ, nhạc điệu. Ngày nay do
thói quen đọc trên sách vở và máy điện toán, không có khán giả, thiếu các sinh
hoạt nhóm và sinh hoạt ngoài trời, người Việt chúng ta hình như cũng không có
truyền thống biểu diễn, ca hát hoặc nhảy múa nơi công cộng, vì vậy việc đọc diễn
cảm hay ngâm thơ ngày càng không được phổ biến. Không gì sánh được bằng kinh
nghiệm được nghe tác giả đọc chính bài thơ của mình. Tôi tin rằng tập ngâm thơ
là một trong những kỹ năng giúp người ta hiểu hơn và yêu mến hơn tiếng Việt.
Để rũ bỏ tất cả ký ức, tất cả niềm tin, là một điều khó khăn.
Tuy vậy khi làm thơ, bạn vẫn cần những giây phút tách hoàn toàn ra khỏi hệ thống
các niềm tin của mình, quay lưng lại với các giáo điều, sau khi đã học thuộc một
số kỹ thuật căn bản, bạn tập viết một cách tự do, cảm nhận thế giới bằng đôi
tai mở rộng, và nhìn sự vật bằng con mắt trẻ thơ. Mỗi ngày làm một việc khiến
cho bạn sợ hãi, như Eleanor Roosevelt đã nói.
Sự chồng chất thông tin trong một câu thơ không có nghĩa là
tác giả đưa vào đó thật nhiều thông tin, nhiều chi tiết, nhiều sự mô tả, theo
nghĩa thông thường.
Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ
Những câu thơ của Phạm Thiên Thư chinh phục nhiều thế hệ đã
không cần dùng đến các kỹ thuật phức tạp. Thật ra thơ hiện nay cũng ngày càng
tinh giản, ngày càng gần với văn xuôi.
Hãy so sánh thêm hai đoạn thơ sau đây, đều của Nguyễn Bính:
Hôm nay dưới bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Và:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Một người chín nhớ mười mong một người
Cả hai đều được viết với ngôn ngữ trong sáng, nhưng ý nghĩa của
hai câu trên rõ ràng, không thể xê dịch được, trong khi hai câu dưới nghĩa mơ hồ
hơn, chứa đựng nhiều thứ hơn mà tác giả không nói hết.
V. THAY LỜI KẾT
Có nhiều cách để trả lời câu hỏi “tại sao người ta làm thơ?”,
như đã trình bày, và có thể còn nhiều nữa. Nhưng dường như chúng ta không dừng
lại ở việc trả lời mà hướng đến những điều khác, đằng sau.
Ví dụ: hỏi để làm gì?
Để đi tìm ý nghĩa cho việc đọc thơ và làm thơ. Thật ra, thơ
ngày càng ít được lưu tâm, một phần vì nó bị lấn át bởi các nghệ thuật khác như
ca nhạc, sân khấu, phim ảnh, nhưng mặt khác toàn bộ hoạt động nghệ thuật cũng bị
ảnh hưởng bởi đời sống quay cuồng trong xã hội tiêu thụ. Làm cho thơ ca ngày
càng có vai trò kém đi đối với thanh thiếu niên, trách nhiệm trước hết thuộc về
các nhà thơ, vì họ làm thơ dở, sáo mòn, nhưng cũng thuộc về học đường và xã hội.
Các bài thơ được sản xuất ngày càng dễ dãi, các sân khấu thơ
được tổ chức ngày càng ồn ào diêm dúa, thì thơ ca ngày càng được viết
rất ít.
Bạn phải về nhà, đóng cửa lại, vặn thấp ngọn đèn, ngồi một
mình, một góc, một bóng, khóc một mình, cười một mình. Không có cách nào khác.
Nhưng đối với bất kỳ công việc nào, có bao giờ kỹ thuật lại
không quan trọng đâu? Bạn phải học ngay từ bây giờ các kiến thức tối thiểu và
căn bản, luật bằng trắc, luật của các thể thơ. Bạn phải thuộc lòng một số bài
thơ hay, không phải một cách máy móc mà phải nhớ chúng với sự rung cảm. Nếu gặp
một câu thơ hay bạn phải cố đọc lại và nhớ lấy. Năm học lớp Đệ thất, tức lớp
Sáu bây giờ, tôi gặp bài thơ trong một truyện ngắn của Hồ Dzếnh:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Tôi đọc thấy hay quá nên thuộc luôn, mặc dù không hiểu rõ
nghĩa bài ấy lắm. Tôi mơ màng biết rằng tác giả nói về cảnh trăng sáng, sương mờ,
sông hồ gì đó, vì nhận ra mấy chữ lõm bõm, nguyệt, giang, sương, và cũng chỉ mấy
chữ ấy. Nhưng đọc lên dễ nhớ. Ngôn ngữ cũng như than củi. Càng nén lại bởi sức
ép của thời gian, chúng càng cháy đượm, mạnh, bền lâu.
Người làm thơ cần biết biên tập. Nhà thơ Billy Collins đã nói
đại ý như sau: “Tôi thường ném giấy nháp đi và tôi ước gì mọi người đều làm thế.
Nếu bạn có một con mèo, nó sẽ thích chơi với quả bóng làm bằng giấy vụn, thế
thì một bản thảo tồi có thể dùng vào mục đích ấy. Tại sao nhà thơ lại làm độc
giả đau khổ trong khi anh ta có thể làm cho một con mèo hạnh phúc?”
Bạn phải bỏ qua sự canh giữ nghiêm mật của quy ước xã hội, chống
lại thói tuân lệnh bầy đàn và thói ích kỷ lãnh đạm. Bạn tập chống lại những kẻ
thù này của thơ ca trước hết vì chính bạn. Sau khi bạn bắt đầu làm thế, những đồng
minh mới sẽ xuất hiện, khuyến khích bạn tới gần hơn với hai sự thật, của cuộc đời
và bên trong mình.
Vì trong thơ bạn chỉ có thể nói thật. Nếu bạn không có ý định
nói thật, tốt nhất là bạn đừng viết. Các hình thức văn học, đặc biệt thơ ca, là
tấm gương soi rất rõ khuôn mặt bên trong của người viết. Nếu bạn cố tình che giấu
hoặc làm sai lệch các sự thật như bạn đã chiêm nghiệm, điều ấy thể hiện trên
dòng chữ. Khác với những hoạt động tinh thần khác, làm thơ không cần nhiều
phương tiện, trang giấy, ngòi bút, chiếc máy computer, thậm chí điện thoại, tờ
giấy gói kẹo, lòng bàn tay. Và can đảm.
Sấm sét trên đầu không xô tôi ngã
Bút mực tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá
(Phùng Quán)
Bút mực tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá
(Phùng Quán)
Làm thơ không phải chỉ là một quá trình thuần túy nhận thức.
Đó là một quá trình vừa tinh thần vừa thể xác, trong đó toàn bộ nhịp tim, nhịp
thở và nhịp chân bước của chúng ta cũng biểu hiện. Bạn cần lắng nghe ngôn ngữ của
thơ không phải chỉ bằng đôi tai của mình mà còn bằng toàn bộ thân xác, không phải
chỉ bằng hiện tại mà còn bằng kinh nghiệm trong quá khứ.
Thật sai lầm nếu cho rằng chỉ trong các ca khúc và trong thơ
mới có âm nhạc. Nếu ta chú ý lắng nghe, âm nhạc sẽ đến với ta mỗi ngày: tiếng
chim hót ngoài trời mưa, tiếng cãi nhau trên xe buýt, tiếng dế kêu trong cỏ, tiếng
loa phường gọi đi họp, tiếng một người đàn bà khóc bên vách nhà hàng xóm. Tập
phân biệt tiếng nói của người này và người khác, không những giọng nhỏ giọng
to, tiếng thấp tiếng cao, mà còn sự thay đổi của nhịp điệu, cách nhấn mạnh các
chữ, cách chọn chữ, sự ngừng lại, ngắt câu, người khiêm tốn, kẻ hỗn hào, người
thật thà, kẻ giả dối, bạn sẽ nhận ra rằng không phải chỉ có nội dung lời nói mà
chính giọng điệu của người nói truyền đi thông điệp: sự quan sát của bạn tinh
tường hơn, tâm trí của bạn sắc sảo hơn, và do đó, cuộc đời trở nên giàu có. Bạn
sống vui hơn.
Bởi vì bạn đang đi tìm cái tôi chưa bao giờ mất. Trong mỗi
con người đều có một cái tôi nhân từ, thương yêu đồng loại, dũng cảm và yếu đuối,
ngu ngốc và thông minh, hài hước, nghiêm trang, thơ mộng.
Tài liệu tham khảo:
Jonathan Culler, Structuralist poetics, NXB Cornell
University, 1975
Hoài Thanh - Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Đông Nam Á,
Paris, 1985, in lại từ bản chính của NXB Nguyễn Đức Phiên, Hà nội, 1943
Nguyễn Hưng Quốc, Nghĩ về thơ, NXB Văn nghệ, 1989
Thi Vũ, Bốn mươi năm thơ Việt Nam 1945-1985, NXB Quê mẹ, 1993
Thái Doãn Hiểu, Hoàng Liên, Thơ tình bốn phương, NXB Trẻ,
1994
Gary Geddes, 20th - Century Poetry - Poetics, NXB
Oxford, 1996
Hà Minh Đức, Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại,
NXB Giáo dục, 1998.
Việt Thường, Nhóm, Tuyển tập thơ văn hải ngoại năm 2000, NXB
Văn mới, 2000.
Nguyễn Bùi Vợi, Thơ Việt Nam thế kỷ XX, NXB Giáo dục, 2005
Hoàng Ngọc Hiến, Những ngả đường vào văn học, NXB Giáo dục,
2006.
David Lehman, the Oxford book of American poetry, NXB Oxford,
2006.
Adam Kirsch, The modern element, NXB Norton, 2008
Vũ Quần Phương, 30 tác giả văn chương, NXB Giáo dục Việt Nam,
2009
Đặng Tiến, Thơ. Thi pháp và chân dung, NXB Phụ nữ, 2009
Du Tử Lê, Phác họa toàn cảnh sinh hoạt văn học nghệ thuật miền
Nam, NXB Người Việt Books, 2014.
Tháng Giêng, năm Ất Mùi, 2015,
180 năm sinh nhà thơ Nguyễn Khuyến.
Nguyễn Đức Tùng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét