Chiến tranh kết thúc, đất nước tiến hành đổi mới (1986), cùng với bước ngoặt của
cả dân tộc, văn học nữ Việt Nam cũng từng bước chuyển mình, thoát dần khỏi hình
hài quen thuộc của nền văn học vẫn còn hằn in nếp cũ sau mươi năm làm quen với
đời sống hậu chiến. Trong chiến tranh, ở miền Bắc, văn học nữ tuy được giới
lãnh đạo và quản lý chú trọng như một bình diện của chính sách văn hóa dân tộc
chủ nghĩa nhưng thực sự cũng chỉ có được không nhiều cây bút nổi lên, như Hằng
Phương, Anh Thơ, Thúy Bắc, Cẩm Lai, Phan Thị Thanh Nhàn, Xuân Quỳnh, Ý Nhi, Lâm
Thị Mỹ Dạ trong thơ và Dương Thị Xuân Quý, Nguyễn Thị Cẩm Thạch, Bích Thuận, Vũ
Thị Thường, Nguyễn Thị Như Trang, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Lê Minh Khuê trong văn. Ở
đô thị miền Nam, các cây bút nữ tiêu biểu cũng không thật nhiều, chỉ có thể nhắc
đến Tùng Long, Nhã Ca, Lệ Hằng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trần Thị
Ng.H.,... Sau chiến tranh, những kinh nghiệm thẩm mỹ khác nhau của văn học nữ
hai miền đã không có cơ hội gặp gỡ để đem lại những bước tấn tới của nền văn học
mới. Một số bỏ bút, một số tiếp tục viết theo quán tính văn học thời chiến, chỉ
một bộ phận nhỏ trong số họ có những chuyển đổi trong sáng tác, mà đáng chú ý
hơn cả là Ý Nhi và Lê Minh Khuê, hay duy trì được bút lực trong môi trường sáng
tạo không thuần nhất như Trần Thị Ng.H., để sau đó là sự tiếp nối của nhiều nữ
nhà văn thuộc nhiều thế hệ. Bắt đầu bằng những cách tân trong thơ, rồi xen gài
giữa truyện ngắn và tiểu thuyết, nhất là với truyện ngắn, văn học nữ dần định
hình diện mạo từ sau Đổi mới. Nhìn văn học nữ từ bộ phận những truyện ngắn đặc
sắc của các nhà văn nữ giai đoạn này, phần tinh túy làm nên bản lai diện mục, dễ
thấy trong không khí đổi mới chung, truyện ngắn nữ đã có được sự bứt phá, làm
nên một tư trào, vừa xác lập hình ảnh mới về phụ nữ vừa đột kích vào những cách
tân về nghệ thuật, làm nên một dấu ấn đáng kể trên tiến trình văn học Việt Nam
hiện đại.
Vì đâu, như ta sẽ thấy trong lược thuật về sự phát triển của văn học nữ ở phía sau, nữ nhà văn và sáng tác của họ đột khởi có được vị thế quan trọng? Nếu xét vị trí của người phụ nữ trong cơ cấu kinh tế, chúng ta lại sẽ thấy sự cải thiện đáng kể vị thế của họ do thành quả lao động mang đến. Việc ngẫu nhiên có sự hợp thức hóa vị thế “nội tướng” của người phụ nữ với quyền lực gia đình (giữ vai trò chủ hộ), cùng bối cảnh mở rộng mạng lưới hoạt động văn hóa và giáo dục cho phụ nữ, làm gia tăng vai trò của phụ nữ, từ đó trực tiếp tác động đến những biểu hiện văn hóa xã hội do có sự tham gia tích cực của giới nữ.
Chúng ta thấy được biểu hiện này trong các sáng tác từ góc nhìn nam quyền, với sự phổ biến lối phán xét khắc nghiệt sự tự chủ của người phụ nữ trong đời sống kinh tế, trong cấu trúc gia đình, nhất là trong cách họ tham dự vào các hành vi thương mại. Có thể xem xét một số tác phẩm như của Lê Lựu (Thời xa vắng - 1985), Ma Văn Kháng (Mùa lá rụng trong vườn - 1985), Nguyễn Huy Thiệp (Tướng về hưu - 1987), dù là những tác phẩm xuất sắc trong đổi mới tư duy và bút pháp nghệ thuật lúc bấy giờ, như những chứng dẫn dễ thấy cho sự (vô tình) lãng quên các chủ đề giới trong văn học, khi dễ dàng thể hiện thái độ “bề trên” trong các nhìn nhận về suy tưởng và hành vi của nữ giới. Có thể thấy sự phán xét quyền lực và hình ảnh người phụ nữ trong các tác phẩm này, trong những biểu hiện bột phát vị thế làm chủ trong đời sống mới của họ, vừa cho thấy sự tinh nhạy trong quan sát xã hội của nhà văn, vừa cho thấy những dịch chuyển trong tương quan về giới. Phụ nữ và đồng tiền, sự tha hóa của đời sống đang vỡ ra đa dạng nhiều cạm bẫy, trở thành motif được cả nam và nữ nhà văn khai thác, trong cái nhìn nam quyền nối dài ở thực thể đã chứng nhận nhiều thay đổi. Nhưng câu chuyện ở một số nữ nhà văn đã không dừng lại ở đấy. Đối diện với thực tế/ cơ hội cuộc sống mới, từ bỏ vị thế bị phán xét, nữ nhà văn đã cất tiếng nói, làm dịch chuyển các “văn bản văn hóa” quy chiếu cuộc đời họ. Cái nhìn quyết định luận kinh tế ít nhiều tương thích trong việc cắt nghĩa vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội truyền thống, cũng có thể tìm thấy vẻ hợp lý trong bối cảnh cải cách kinh tế những năm đầu Đổi mới. Song thêm vào đó, sự tự vận động (agency) của người phụ nữ cũng đóng một vai trò quan trọng. Ý chí của họ, trong cách chống lại các thiết chế văn hóa (truyền thống), đáng được xem xét như một biểu hiện văn hóa, thông qua câu chuyện của cá nhân nhà văn, kiến tạo nên quan điểm mới về giới, định vị lại trật tự quyền lực văn chương và xã hội.
Văn học nữ từ Đổi mới được chuẩn bị bằng sự tiếp tục của các nữ nhà văn bước ra từ hai cuộc chiến. Thời bình và tính (đô thị) hiện đại trong không gian sống của ngày trở lại tác động mạnh mẽ đến tâm tư người cầm bút. Nông thôn và các chủ đề địa phương tính, cũng như các suy tư về lịch sử, chưa phải là mối quan tâm lúc này của các cây bút nữ. Điều họ quan tâm là các vấn đề thế sự, đời tư, được hiểu như những vấn đề trước mắt, những thất tình lục dục thời mở cửa. Song cũng có thể thấy, các vấn đề của đời sống (đô thị hiện đại) thời bình thế này cũng là chủ đề được nam nhà văn chú ý, dù nông thôn và các chủ đề địa phương lại cũng dành được rất nhiều quan tâm. Tất nhiên, trong tư cách người lính trở về từ chiến tranh, chủ đề chiến tranh thời hậu chiến thu hút sự chú ý của họ như là một hình thức phản tư khi trải nghiệm bối cảnh cuộc sống mới. Nguyễn Huy Thiệp lần đầu công bố những câu chuyện Tây Bắc được ấp ủ từ trước đó (Những ngọn gió Hua Tát). Và có cả một dòng mạch tái nhận thức về nông thôn Việt Nam, đạt tới tinh thần phản tư sâu sắc như của Tạ Duy Anh (Luân hồi), Nguyễn Khắc Trường (Mảnh đất lắm người nhiều ma). Đề tài lịch sử, nhất là khai thác chất liệu cổ sử, thì hầu như ban đầu là lĩnh vực độc canh của nam nhà văn.
Ở đây, có thể nhận thấy, những vấn đề tưởng như ít gần gũi với hệ quả hậu chiến và sự đổi thay của đời sống mới, cái trước mắt bức thiết của nhà văn, thực sự lại đã hiện lên như một cách thức nhà văn sắp đặt lại trật tự nam quyền của họ. Thoát khỏi cuộc chiến tranh, mất đi sự hợp thức vai trò nam quyền của hình ảnh người chinh phu, mọi “truyền thống” cần được xem xét để từ đó kiến tạo nam quyền trong bối cảnh mới.
Xác lập vị thế
cá nhân, nhu cầu giải cấu các áp đặt của quyền lực gia trưởng cũ được đặt ra,
trong cách người đàn ông phải tự định vị mình trong các hệ thống quyền lực gia
đình, dòng họ, làng, nước; thậm chí, hợp thức quan điểm dị lãm như là một biểu
hiện của nam tính, khả năng chinh phục những gì xa lạ. Trong bối cảnh đó, sự tự
vận động của nữ nhà văn khiến họ thành tựu ở đề tài về hai cuộc chiến tranh,
quá khứ rất gần của sự đánh mất và hòa tan vị thế người phụ nữ, để khẳng định
và đấu tranh cho sự hiện diện chính đáng của họ trong đời sống mới, cùng với khả
năng nắm bắt sâu sắc những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình chuyển đổi.
Vì đâu, như ta sẽ thấy trong lược thuật về sự phát triển của văn học nữ ở phía sau, nữ nhà văn và sáng tác của họ đột khởi có được vị thế quan trọng? Nếu xét vị trí của người phụ nữ trong cơ cấu kinh tế, chúng ta lại sẽ thấy sự cải thiện đáng kể vị thế của họ do thành quả lao động mang đến. Việc ngẫu nhiên có sự hợp thức hóa vị thế “nội tướng” của người phụ nữ với quyền lực gia đình (giữ vai trò chủ hộ), cùng bối cảnh mở rộng mạng lưới hoạt động văn hóa và giáo dục cho phụ nữ, làm gia tăng vai trò của phụ nữ, từ đó trực tiếp tác động đến những biểu hiện văn hóa xã hội do có sự tham gia tích cực của giới nữ.
Chúng ta thấy được biểu hiện này trong các sáng tác từ góc nhìn nam quyền, với sự phổ biến lối phán xét khắc nghiệt sự tự chủ của người phụ nữ trong đời sống kinh tế, trong cấu trúc gia đình, nhất là trong cách họ tham dự vào các hành vi thương mại. Có thể xem xét một số tác phẩm như của Lê Lựu (Thời xa vắng - 1985), Ma Văn Kháng (Mùa lá rụng trong vườn - 1985), Nguyễn Huy Thiệp (Tướng về hưu - 1987), dù là những tác phẩm xuất sắc trong đổi mới tư duy và bút pháp nghệ thuật lúc bấy giờ, như những chứng dẫn dễ thấy cho sự (vô tình) lãng quên các chủ đề giới trong văn học, khi dễ dàng thể hiện thái độ “bề trên” trong các nhìn nhận về suy tưởng và hành vi của nữ giới. Có thể thấy sự phán xét quyền lực và hình ảnh người phụ nữ trong các tác phẩm này, trong những biểu hiện bột phát vị thế làm chủ trong đời sống mới của họ, vừa cho thấy sự tinh nhạy trong quan sát xã hội của nhà văn, vừa cho thấy những dịch chuyển trong tương quan về giới. Phụ nữ và đồng tiền, sự tha hóa của đời sống đang vỡ ra đa dạng nhiều cạm bẫy, trở thành motif được cả nam và nữ nhà văn khai thác, trong cái nhìn nam quyền nối dài ở thực thể đã chứng nhận nhiều thay đổi. Nhưng câu chuyện ở một số nữ nhà văn đã không dừng lại ở đấy. Đối diện với thực tế/ cơ hội cuộc sống mới, từ bỏ vị thế bị phán xét, nữ nhà văn đã cất tiếng nói, làm dịch chuyển các “văn bản văn hóa” quy chiếu cuộc đời họ. Cái nhìn quyết định luận kinh tế ít nhiều tương thích trong việc cắt nghĩa vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội truyền thống, cũng có thể tìm thấy vẻ hợp lý trong bối cảnh cải cách kinh tế những năm đầu Đổi mới. Song thêm vào đó, sự tự vận động (agency) của người phụ nữ cũng đóng một vai trò quan trọng. Ý chí của họ, trong cách chống lại các thiết chế văn hóa (truyền thống), đáng được xem xét như một biểu hiện văn hóa, thông qua câu chuyện của cá nhân nhà văn, kiến tạo nên quan điểm mới về giới, định vị lại trật tự quyền lực văn chương và xã hội.
Văn học nữ từ Đổi mới được chuẩn bị bằng sự tiếp tục của các nữ nhà văn bước ra từ hai cuộc chiến. Thời bình và tính (đô thị) hiện đại trong không gian sống của ngày trở lại tác động mạnh mẽ đến tâm tư người cầm bút. Nông thôn và các chủ đề địa phương tính, cũng như các suy tư về lịch sử, chưa phải là mối quan tâm lúc này của các cây bút nữ. Điều họ quan tâm là các vấn đề thế sự, đời tư, được hiểu như những vấn đề trước mắt, những thất tình lục dục thời mở cửa. Song cũng có thể thấy, các vấn đề của đời sống (đô thị hiện đại) thời bình thế này cũng là chủ đề được nam nhà văn chú ý, dù nông thôn và các chủ đề địa phương lại cũng dành được rất nhiều quan tâm. Tất nhiên, trong tư cách người lính trở về từ chiến tranh, chủ đề chiến tranh thời hậu chiến thu hút sự chú ý của họ như là một hình thức phản tư khi trải nghiệm bối cảnh cuộc sống mới. Nguyễn Huy Thiệp lần đầu công bố những câu chuyện Tây Bắc được ấp ủ từ trước đó (Những ngọn gió Hua Tát). Và có cả một dòng mạch tái nhận thức về nông thôn Việt Nam, đạt tới tinh thần phản tư sâu sắc như của Tạ Duy Anh (Luân hồi), Nguyễn Khắc Trường (Mảnh đất lắm người nhiều ma). Đề tài lịch sử, nhất là khai thác chất liệu cổ sử, thì hầu như ban đầu là lĩnh vực độc canh của nam nhà văn.
Ở đây, có thể nhận thấy, những vấn đề tưởng như ít gần gũi với hệ quả hậu chiến và sự đổi thay của đời sống mới, cái trước mắt bức thiết của nhà văn, thực sự lại đã hiện lên như một cách thức nhà văn sắp đặt lại trật tự nam quyền của họ. Thoát khỏi cuộc chiến tranh, mất đi sự hợp thức vai trò nam quyền của hình ảnh người chinh phu, mọi “truyền thống” cần được xem xét để từ đó kiến tạo nam quyền trong bối cảnh mới.
Các nhà văn nữ:
Lý Lan, Đoàn Lê, Phan Thị Vàng Anh,
Dạ Ngân, Phạm Thị Minh Thư
Ngay khi trở về từ cuộc chiến tranh, một số nhà văn nữ đã có những tác phẩm tiếp
cận hiện thực thời hậu chiến qua việc khắc họa số phận những con người từ đời sống
chiến trận dần bước vào xã hội thường nhật và nhận chân nó, nhất là người phụ nữ...
Chẳng hạn, Lê Minh Khuê có khoảnh khắc lóe sáng bất chợt này bằng truyện ngắn
xuất sắc: Ngày đi trên đường (in trong tập Một ngày xa thành phố,
1986). Ở đây, vấn đề thân xác lần đầu tiên được đề cập một cách chủ động, người
phụ nữ yêu người đàn ông trước nhất bởi thân thể anh ta, vì thân thể ấy (dù
chưa nhấn vào quan hệ thân xác) mà có thể “đại xá” cho những điều bất ổn trong
tính cách, thái độ của người đàn ông. Ta thấy ở đây sự tự định vị vị thế rất
cao của người phụ nữ trong quan hệ với nam giới, nam quyền; là điều sau này còn
tiếp tục được Lê Minh Khuê đẩy cao trong cách để cho người nữ ý thức về thân thể,
thân xác của họ, mà tiêu biểu là Cơn mưa cuối mùa (in trong tập Bi kịch
nhỏ, 1993). Có thể nói, từ Cao điểm mùa hạ (thập kỉ 70) đến Một
chiều xa thành phố, Bi kịch nhỏ (thập kỷ 80-90), Một mình qua đường (những
năm 2000), rồi mới đây nhất là Nhiệt đới gió mùa (2012), Làn gió
chảy qua (2016), Lê Minh Khuê đã luôn nhịp bước cùng với văn học đương đại,
trở thành một đại diện cho những trăn trở và biểu hiện của văn học nữ Việt Nam
suốt mấy chục năm này. Một ý thức về giới và tính hiện đại như thế nữa, ở địa hạt
thi ca, gắn với những chuyển đổi trong thi pháp của Ý Nhi. Tập thơ Người
đàn bà ngồi đan (1985) đã tạo một bước ngoặt để đưa thơ từ cộng đồng trong
đời sống chiến tranh trở về với cá nhân trong đời sống dân sự. Ý thức về thế sự,
đời tư, sự chú tâm vào những đổi mới quan niệm và bút pháp nghệ thuật, là những
biểu hiện đáng chú ý của nữ nhà văn bước ra từ chiến tranh. Có thể thấy, chứng
nghiệm sâu sắc quan điểm nữ quyền dân tộc hóa, nay đối diện với sự đa dạng của
thời bình, cảm nhận về bản sắc giới của họ trở nên tinh nhạy. Lựa chọn vị thế của
“người đàn bà ngồi đan” đầy tính biểu tượng và ẩn dụ, hay khắc họa sự biến dạng
của hình ảnh người nam, cho thấy những đứt gãy trong quan niệm về giới của họ.
Điều này thúc đẩy họ tìm kiếm và tự kiến tạo mẫu hình mới về người nam và về
chính mình, khi được bao bọc trong môi trường mới mẻ mà hòa bình và tính hiện đại
của đô thị thời bình đem lại...Tuy nhiên, nhắc đến văn học nữ Việt Nam sau 1975, sau những đột khởi đã nhắc đến ở trên còn tiếp tục duy trì bút lực, phải nhắc đến thế hệ các nhà văn nữ xuất hiện vào cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Và các nhà văn học sử cũng sẽ phải vất vả khi tìm hiểu giai đoạn này, khi chủ yếu đó là thập kỷ của văn xuôi, thơ nữ sau Dư Thị Hoàn, phải sang đến thế kỷ XXI mới xuất hiện thêm những cây bút có phong cách ấn tượng. Mươi năm cuối thế kỷ trước, gần như đồng loạt, có đến hàng chục nhà văn nữ xuất hiện, đem đến một phong khí mới mẻ cho văn chương nước nhà, những Phạm Thị Minh Thư, Lý Lan, Dạ Ngân, Đoàn Lê, Võ Thị Hảo, Trần Thùy Mai, Hiền Phương, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Lập Em, Nguyễn Thị Ấm, Nguyễn Thị Anh Thư… Những nhà văn này làm nên một bước ngoặt của dòng chảy văn học nữ Việt Nam.
Không có nhiều trải nghiệm chiến tranh nhưng lại sống trong không gian của những tái nhận thức về cuộc chiến ấy, từ cái nhìn của người phụ nữ, những vấn đề mà họ đặt ra trong những Có một đêm như thế (Phạm Thị Minh Thư), Người sót lại của rừng cười (Võ Thị Hảo), Tiếng rừng (Hiền Phương), Đàn sẻ ri bay ngang rừng (Võ Thị Xuân Hà)… chắc chắn là những tiếng nói không thể thiếu trong mọi nhìn nhận về văn học giai đoạn này. Việc nữ nhà văn tập kích vào đề tài chiến tranh đã đồng thời làm được hai việc: đặt thêm một góc nhìn mới về chiến tranh, góc nhìn của người phụ nữ và tái nhận thức người nữ trong bối cảnh của chủ nghĩa nữ quyền dân tộc hóa. Những tiếng nói phụ nữ đã bị câm tiếng trong sự đồng hóa của quyền lực đàn ông, khiến chiến tranh “không có khuôn mặt phụ nữ”. Chỉ khi thoát ra ngoài thời gian và không gian bị chiếm dụng, đặc tuyển ấy, người phụ nữ mới ý thức được về họ, những hi sinh mất mát họ phải gánh chịu. Trong số đó, hiển nhiên nổi bật lên sẽ là những ẩn ức từ bản năng giới, cái thế giới bị triệt tiêu, vùi dập, lấp liếm trong các trưng dụng của nam quyền trong chiến tranh. Không phải ngẫu nhiên mà các vấn đề về tình yêu và tình dục trong những truyện ngắn nhắc đến ở trên, ngay khi xuất hiện, đã gây được hiệu ứng mạnh mẽ nơi bạn đọc.
Các nhà văn nữ cũng là người mở đường cho sự xuất hiện của các không gian cá nhân (trong những mối quan hệ gia đình, bạn bè, và với chính bản thân), vừa như một vấn đề tự thân, vừa như một nỗ lực thay thế các không gian xã hội thời chiến tranh (trong những mối quan hệ dân tộc, cộng đồng, đội ngũ) đang dần nhạt nhòa trước đời sống dân sự mới mẻ. Xuất phát từ các trải nghiệm giới và tính dục, đời sống đương đại trong tác phẩm của họ thể hiện những cảm nhận khác lạ, khó tìm thấy trong văn học của nam giới và trong nền văn học bị nam tính chi phối trước đó. Dạ Ngân với Trên mái nhà người phụ nữ, Con chó và vụ ly hôn, Y Ban với Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, I’m đàn bà, Đoàn Lê với nhóm những sáng tác về xóm Chùa (một hiện hữu văn chương về làng Lủ của tác giả), Trần Thùy Mai với Dòng suối cạn nguồn, Thể Cúc, Phan Thị Vàng Anh với Khi người ta trẻ, Kịch câm, Nguyễn Thị Thu Huệ với Hậu thiên đường, Phù thủy, Võ Thị Xuân Hà với Lúa hát, Nhà có ba chị em… là những sáng tác tiêu biểu từ những nhận thức mới ấy. Sự xen cài giữa màu sắc nữ quyền và nữ tính trong sáng tác của thế hệ các nhà văn nữ này, làm nên sức hấp dẫn riêng có của nó, mời gọi tiếp nhận nhưng đồng thời thách thức các nỗ lực diễn giải. Bởi sự phân biệt giữa “nữ tính” và “nữ quyền” là tương đối phức tạp với những biểu hiện đa dạng các cách tiếp cận và biểu hiện của nữ nhà văn lúc này. Song có một thực tế là, lần đầu tiên được trải nghiệm giới trong sự đa dạng, thoát khỏi sự quy chiếu của nữ quyền dân tộc hóa, nữ nhà văn lại thể hiện trong sáng tác của họ cả quá trình đi tìm thiên tính, thiên chức phụ nữ cùng với quyền bình đẳng nam nữ. Vừa thể hiện “bí ẩn nữ tính” và giải cấu nữ tính, sáng tác của các nhà văn nữ làm nên một hiện trạng khá hỗn độn trong biểu hiện ý thức về giới lúc này.
Sang thập niên đầu thế kỷ XXI, đây cũng là thế hệ nhà văn, sau những quy chiếu về bản thân và bối cảnh gia đình - xã hội thân thuộc, sẽ tiếp tục những nỗ lực bứt phá mới. Ở một mặt, họ nhanh chóng tham góp vào quá trình toàn cầu hóa mới được biết đến bằng hàng loạt những sáng tác lấy bối cảnh nước ngoài, nơi mà họ được đến, được trải nghiệm và suy tư. Và ở mặt khác, khai thác đề tài lịch sử, như một cách thức cạnh tranh với các nam nhà văn, xác lập một góc nhìn lịch sử về giới trong lịch sử dân tộc, mà những nỗ lực của Võ Thị Hảo, Trần Thùy Mai cần được xem xét như những phát ngôn đầy thách thức.
Song có một thực tế khác cần được ghi nhận là, cũng từ giữa thập kỷ đầu tiên của thế kỷ mới này, văn học nữ phát triển trở lại với một thế hệ khác hẳn: những nhà văn trẻ đã không còn gánh nặng trực tiếp của quá khứ chiến tranh và không chia sẻ với những suy tư hậu chiến đã làm nên thập kỷ rực rỡ của văn học nữ trước đó. Một lần nữa, văn học nữ trẻ này làm nên một đứt gãy trong dòng chảy mạch lạc của văn học nữ Việt Nam. Về thơ, có thể nhắc đến Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư; về văn, là Phong Điệp, Đỗ Bích Thúy, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư, Phan Việt... Cùng với đó là sự hợp lưu của các nhà văn nữ hải ngoại, những Mai Ninh, Miêng, Phạm Hải Anh, Lê Minh Hà, Thuận, Đoàn Minh Phượng… Sự chia sẻ các nhận thức và trải nghiệm mang tính quốc tế bởi quá trình toàn cầu hóa, tính giải trí bởi sự quy chiếu của xã hội truyền thông, tính cá nhân từ sự kết tập các ý thức về giới và tính dục qua giao lưu văn hóa, nhất là bởi sự phát triển mạnh mẽ của xuất bản và internet, văn học nữ trẻ Việt Nam đương đại đứng trước ngưỡng cửa của rất nhiều phân hóa, ngay khi chưa định hình được diện mạo của mình.
Trở lại với biểu hiện rõ rệt nhất làm nên bản sắc của văn học nữ giai đoạn này, hình tượng người phụ nữ được tưởng tượng và kiến tạo, điều dễ nhận thấy là, trong không gian chuyển đổi và phân hóa nhanh chóng ấy, văn học nữ cũng phân hóa và chuyển đổi nhanh chóng để thích ứng và tạo lập căn cước cho nó. Sự phát triển nhanh chóng của đất nước sau chiến tranh, nhất là sau Đổi mới, đã thay đổi nhiều mặt đời sống của người phụ nữ, vị trí và hình ảnh của họ. Những hình dung và tưởng tượng về người nữ trong văn học lúc này có nhiều tương thông với thực tại ấy, nơi mà những phong trào chính trị và xã hội mang tính nữ quyền dần được ý thức và lan tỏa. Sự hiện diện của phụ nữ trong văn học như một thực tại được phản ánh, và như hệ quả của việc tăng tiến vị thế người phụ nữ trong cuộc đời và trong nghệ thuật, đã đem đến cho văn học đương đại nhiều sắc màu. Đầu tiên là sự phổ biến dần dần hình ảnh người phụ nữ không chỉ là người anh hùng trong kháng chiến và kiến quốc. Sau đó, sự đột khởi của các nhà văn nữ, ở cả số lượng nhà văn và tác phẩm của họ, nơi kinh nghiệm giới và ý thức nữ quyền mới nhen nhúm, trở thành sức mạnh trong sáng tạo của các nữ nhà văn, thể hiện trong đa dạng tâm lí và tính cách nhân vật.
Như đã nói ở trước, di sản văn học (về) nữ giới thời chiến là không mấy giàu có cho sự tiếp bước của văn học (nữ) thời hậu chiến, ấy là chưa kể đến sự phân rã của các truyền thống văn học nữ sau chiến tranh trong sự quy chiếu của ý thức hệ thống trị. Ở di sản được tiếp thuận, văn học chia sẻ gia tài chung với hội họa, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh… khi người phụ nữ chỉ được hiện diện như những con người dựng xây cuộc đời mới bên cạnh hình tượng người nữ thanh niên xung phong, những người nữ chẳng khác gì người nam, cũng tay búa, tay liềm, tay bay, tay thước, không quản ngại khó khăn tô điểm cho thành thị, nông thôn, hay xung kích tới những vùng sâu xa của Tổ quốc trong biết bao tranh ảnh, ca khúc, kịch và phim. Thoắt cái, người phụ nữ trong văn học hậu chiến thay đổi. Họ đột ngột hiện ra trong không gian đời thường, nơi họ làm chủ nó, trong khi người lính hậu chiến vẫn còn quá bỡ ngỡ, lạ lẫm để chen chân vào. Và ngạc nhiên, họ không còn đẹp một vẻ tinh thần như trước nữa, một tinh thần được biểu thị thông qua thân thể sạch đẹp, tươi tắn, khỏe khoắn của những “gót chân bóng hồng” giữa chiến trường, bàn tay nhỏ nhắn mà rắn rỏi giữa miền Tây Bắc hoang vu, hay giọt mồ hôi và nụ cười tỏa rạng nơi công trường thủ đô.
Người nữ hiện lên trong những eo sèo của cuộc sống, với vật lộn bát cơm manh áo hàng ngày, với tất tả toan lo chồng con, với chanh chua họ hàng làng nước... dù họ đang là chủ nhân của cuộc sống hậu chiến, vị “nội tướng” không chỉ trong gia đình ở một xã hội bao cấp luôn ngấp nghé “xé rào” ở đêm trước Đổi mới. Đó là một ảnh xạ từ đời sống, hiện hình trong văn học, đặc biệt trong những sáng tác của nam nhà văn, từ Bùi Hiển đến Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng và ngay cả Nguyễn Huy Thiệp. Một truyền thống gia trưởng, sự bất bình đẳng giới và những văn bản văn hóa khuôn định phụ nữ trong tam tòng tứ đức, trong không gian nội thuộc gia đình đã vô thức kiến tạo nên hình ảnh những phụ nữ chao chát một thời, bằng một thái độ vừa rẻ rúng vừa trọng vọng, vừa lên án vừa ngợi ca, vừa yêu thương vừa ganh ghét, với giọng điệu nghiêm ngắn đến đáng ngạc nhiên nếu so sánh với cái cả cười tự trào của Tú Xương những năm đầu thế kỷ: Cha mẹ thói đời ăn ở bạc/ Có chồng hờ hững cũng như không (Thương vợ), bất chấp đó là những tiếng nói nước đôi, lấp lửng hai mặt. Nhưng ngay khi người phụ nữ dám xắn váy lội vào xã hội, gánh gồng cho cả đời sống gia đình đang tao tác vì đói nghèo, khủng hoảng thì họ cũng can đảm dấn thân vào cuộc viết. Thơ Ý Nhi, Dư Thị Hoàn như tiếng tạc đạn nổ giữa thời bình, găm thương tích vào truyền thống trọng nam khinh nữ và vị thế bị động của người nữ trong quan hệ tình yêu, tình dục: Tất cả rồi sẽ qua đi, qua đi/ Chúng mình sẽ thành vợ thành chồng/ Nếu không có một lần…/ Một lần như đêm nay/ Sau phút giây/ Êm đềm trên ghế đá/ Anh không cài lại khuy áo ngực cho em (Tan vỡ). Những dòng thơ này của Dư Thị Hoàn đã là khởi đầu cho một dòng chảy sâu và mạnh trong thơ nữ Việt Nam đương đại, những vần thơ (vì/bởi/của) đàn bà hiện diện hầu khắp các tập thơ nữ, đậm đặc trong Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh, Nguyễn Thúy Hằng..., một thế hệ hấp thu nhiều nguồn văn hóa để bộc lộ so với những trực cảm mạnh bạo của những nữ nhà thơ chỉ tới trước họ mươi mười lăm năm.
Song bước ngoặt của văn học nữ, của hình ảnh người nữ trong văn học, gắn bó sâu đậm hơn rất nhiều với sự xuất hiện của những nữ nhà văn chuyên chú ở văn xuôi, nhất là truyện ngắn. Bắt đầu bằng khúc quành của Dương Thu Hương, Lê Minh Khuê, lãng đãng qua Nguyễn Thị Minh Thư, Đoàn Lê, Lý Lan, Dạ Ngân, để nổi sóng từ Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo, Trần Thùy Mai, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Thị Anh Thư, Trần Thanh Hà, Phong Điệp, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư... Văn xuôi nữ thời Đổi mới, ở chặng những năm 90 của thế kỷ trước và mươi năm trở lại đây của thế kỷ này, đã làm thành một khúc đoạn lạ lẫm trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, nhất là bổ trợ với họ, có sự hòa giọng của những cây bút nữ hải ngoại tìm một luồng xuất bản trong nước, những Mai Ninh, Phạm Hải Anh, Lê Minh Hà, Thuận, Đoàn Minh Phượng, Phan Việt đã được nhắc đến ở trên.
Lần đầu tiên trong lịch sử văn học, văn học nữ Việt Nam thực sự sống trải trong các không gian, các quan niệm về giới và nữ quyền được chính những người nữ kiến tạo và vun đắp. Sự trải nghiệm mới mẻ này đem đến sự khác biệt trong hình ảnh về người phụ nữ, khi chính họ là người phác vẽ nên khuôn diện của mình, thủ đắc những phương cách giới, những ngôn ngữ từ thân thể họ, mà nhà văn nam không bao giờ khuynh loát và chiếm đoạt được. Tạo tác hình ảnh của mình, bằng ngôn ngữ và trải nghiệm của mình, văn học nữ đã rọi chiếu cái nhìn mới vào quá khứ dân tộc, vào hiện tại hỗn độn bất bình quyền vẫn còn trong bóng đổ của truyền thống được kiến tạo ấy. Và cùng với đó, cũng là lần đầu tiên, thân thể của người nữ được hiện diện tự thân, đẹp riêng màu nhục thể. Tất cả làm nảy sinh một hình ảnh về người phụ nữ mới, nuôi giấc mộng bất tòng thuộc các quy chiếu của truyền thống nam quyền cũ và mới, để hiện diện như chính họ mong muốn, chính họ tạo ra, từ cái nhìn riêng thuộc về họ - người đàn bà viết về người đàn bà, không chỉ dành cho đàn bà.
Dù với nhiều nỗ lực, văn học nữ Việt Nam đương đại mới thường chỉ đi tìm một sự hài hòa trong sự vây bọc ấy nhiều hơn là đi đến ý hướng lật đổ “sự thống trị của đàn ông”. Nó làm cho văn học nữ giai đoạn này đẹp một cách vừa vặn nhỏ xinh, cho một khoảnh khắc bất ngờ được lịch sử trao tặng vị thế và tự do vừa đủ cho sự thổ lộ, bộc bạch, về một hình ảnh đàn bà được tưởng tượng, cái ốc đảo của người nữ giữa sa mạc đàn ông, mà ngay cả trên bầu trời vẫn vẩn lên đám mây mang hình bóng của người nữ xưa cũ, của truyền thống nam quyền xưa cũ. Gần bốn mươi năm sau chiến tranh, gần ba mươi năm sau Đổi mới, văn học nữ đã phát triển với những khúc quành: từ sự quy chiếu của diễn ngôn dân tộc qua diễn ngôn dân sự đến diễn ngôn đặt nền tảng ở nhìn nhận về tính cá thể. Trong dòng chảy ấy, những sáng tác xuất phát từ ý hệ dân sự có được thành công hơn cả, bởi nó dung hợp được cả nguồn cội văn hóa, ý chí xã hội và sức mạnh giới. Nhưng nó là một ốc đảo, không trao truyền năng lượng cho giai đoạn kế tiếp, để chỉ trở thành một điểm nhấn kỳ lạ, như chính sự phát triển lạ kỳ của văn học Việt Nam đương đại.
18/6/2017
Đoàn Ánh Dương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét