"Tinh huyết" của Bích Khê là một
Lịch sử, dù là lịch sử của một đất nước
hay lịch sử của một nền văn học, đều thường được khái lược bằng những dấu mốc.
Dấu mốc đó có thể là những con số biểu đạt thời gian, có thể là những sự kiện
đánh dấu sự chuyển biến của mỗi giai đoạn lịch sử. Cho nên, việc định danh các
dấu mốc đặc biệt có ý nghĩa. Số này, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của nhà
phê bình văn học trẻ Hoài Nam, cũng xoay quanh việc chọn lựa những tập thơ mà
anh cho rằng “xứng đáng được coi là những tập thơ góp phần chủ yếu làm nên thơ
ca hiện đại”. Ban biên tập rất mong nhận được phản hồi từ bạn đọc, bạn viết.
NHỮNG TẬP THƠ LÀM NÊN LỊCH SỬ
Luận về tiểu thuyết, nhà văn nổi tiếng thế giới người Séc
Milan Kundera có một ý rất hay khi ông cho rằng: lịch sử tiểu thuyết được viết
lên không phải bằng tất thảy những cuốn tiểu thuyết đã có và rồi đây sẽ có. Lịch
sử tiểu thuyết chỉ có thể là lịch sử của những tác phẩm tiểu thuyết nào phơi mở
cho người ta thấy những phương diện mới mẻ của thực tại mà từ trước đến nay
chưa từng được biết đến. Cuốn tiểu thuyết nào không làm được điều đó là cuốn tiểu
thuyết nằm ngoài lịch sử tiểu thuyết. Milan Kundera nói về tiểu thuyết, tất
nhiên, nhưng quan niệm về sự tạo thành lịch sử thể loại của chỉ những tác phẩm
có ý nghĩa như vậy, theo tôi, hoàn toàn có thể được áp dụng trong những khu vực
khác của văn chương, như với thơ chẳng hạn.
Nhưng ở đây xảy ra một vấn đề rắc rối.
Nếu với tiểu thuyết, trên phương diện đơn vị tác phẩm, người ta thường nói tới
“một cuốn”, hãn hữu lắm mới có thể nói tới “một bộ” - ví như bộ “Tấn trò đời”
(Hài kịch nhân gian) của Balzac - thì với thơ, có tới hai khái niệm để trỏ tác
phẩm thơ: “bài thơ” và “tập thơ” (xin được nói ngay rằng ở trong bài viết này
tôi chỉ quan tâm tới “tập thơ” với tư cách là sản phẩm của một tác giả). Vậy lịch
sử thơ sẽ là lịch sử của các bài thơ hay lịch sử của các tập thơ? Không dám mạo
hiểm để đưa ra ý kiến xác quyết, nhưng tôi vẫn nghiêng về khả năng thứ hai. Bởi
lẽ, một bài thơ, dẫu có tuyệt vời đến đâu đi chăng nữa thì cũng khó có thể làm
nên tên tuổi một tác gia thơ (hiện tượng những “nhà thơ một bài”, trái với cách
nghĩ đầy những sương khói huyền thoại của nhiều người, chính là biểu hiện cho
thấy sức sáng tạo của những người làm thơ ấy mỏng và ngắn đến thế nào). Thứ
hai, nếu chỉ là một bài thơ, quyết không thể tạo ra dư chấn lớn đến mức làm
hình thành một trào lưu và từ đó xác định một giai đoạn nhất định trong sự phát
triển lịch sử của thơ ca. Những điều mà bài thơ không làm được thì tập thơ làm
được (vẫn phải xin được lưu ý rằng tôi đang nói tới những bài thơ và những tập
thơ có ý nghĩa, nói một cách dễ hiểu là những bài thơ và những tập thơ có giá
trị nghệ thuật cao và có thể đánh một dấu mốc nào đó trong tiến trình lịch sử).
Mượn một cách diễn đạt giàu hình ảnh của Chế Lan Viên, có thể nói rằng, bài
thơ, đó mới chỉ là những cái vỗ cánh, tập thơ mới là những đường bay có khả
năng vạch ra những không gian khác nhau trên đường chân trời của thi ca.
Những tập thơ nào xứng đáng được coi
là những tập thơ góp phần chủ yếu làm nên lịch sử thơ ca Việt Nam hiện đại? Mỗi
người đọc, bằng vào sức đọc, sức thẩm và gu thẩm mỹ của mình sẽ có một đáp án cụ
thể cho vấn đề này, và chắc hẳn không phải ai cũng giống ai. Riêng tôi, xin được
“cả gan” đưa ra danh sách của mình như sau:
1. Tập “Mấy vần thơ” của Thế Lữ
(1935)
Tập thơ có cái vinh quang của tác phẩm
khơi mở cho Thơ Mới tuôn trào thành một dòng chảy mãnh liệt trong thi ca Việt
Nam tiền bán thế kỷ XX. Trên thực tế, để nói về sự hình thành của Thơ Mới, người
ta phải nói tới những bài thơ “theo lối mới” của Phan Khôi, của Nguyễn Thị Manh
Manh từ trước đó. Thậm chí, mươi bài thơ lãng mạn in trong tập “Người sơn nhân”
của Lưu Trọng Lư còn xuất hiện trước “Mấy vần thơ” của Thế Lữ hai năm (1933).
Thế nhưng, đó chỉ là những dấu hiệu của sự khác lạ trong thơ Việt lúc ấy mà
thôi, nó đưa Thơ Mới vào thế phân tranh ảnh hưởng với thơ cũ, rồi dừng lại.
Tình hình trở nên khác hẳn khi “Mấy vần thơ” xuất hiện. Với tập thơ này “Thế Lữ
đã đem lại chiến thắng quyết định cho Thơ Mới, đưa Thơ Mới vượt qua tình trạng
non nớt chập chững tới chỗ vững vàng thuần thục” (Từ điển văn học, bộ mới.
Trang 976, Nguyễn Hoành Khung viết). “Chiến thắng quyết định” ở đây chính là sự
thuyết phục tuyệt đối về mặt nghệ thuật. Hàng loạt motif chủ đề và hình tượng
cơ bản của thơ ca lãng mạn hiện diện trong “Mấy vần thơ”: sự chán ghét thực tại
tầm thường nhàm chán; giấc mơ hướng về dĩ vãng hoặc thoát lên tiên giới; hình ảnh
một con người yêu tự do và đi tìm cái đẹp lý tưởng trong thiên nhiên, trong nghệ
thuật và trong ái tình. Tất cả những nội dung rất mới, phản ánh rất trúng tâm
thế của thời đại đó lại được phô diễn bằng những hình thức ngôn ngữ và những
thi ảnh thật tân kỳ. Không cần phải nhiều lời tung hô, những bài thơ xuất sắc
trong tập - như “Nhớ rừng” hay “Tiếng sáo Thiên Thai”- đã đủ là một sự biểu
dương cho Thơ Mới. Bởi thế, tập thơ tạo ra sức hấp dẫn rất mạnh đối với công
chúng và những người làm thơ đương thời, tới mức Hoài Thanh phải quả quyết: “Độ
ấy Thơ Mới vừa ra đời, Thế Lữ như vừng sao đột hiện, ánh sáng chói khắp cả trời
thơ Việt Nam. Dầu sau này danh vọng Thế Lữ có mờ đi ít nhiều, nhưng người ta
không thể không nhìn nhận cái công của Thế Lữ đã dựng thành nền thơ mới ở xứ
này” (Thi nhân Việt Nam).
2. Tập “Tinh huyết” của Bích Khê
(1939)
Sau sự khởi đầu của tập “Mấy vần thơ”,
Thơ Mới phát triển rất nhanh và nó đạt tới cao trào với các tập “Thơ thơ” của
Xuân Diệu (1938) và “Lửa thiêng” của Huy Cận (1940). Nhưng đó chỉ là một hướng
vận động trong phong trào Thơ Mới - hướng lãng mạn chủ nghĩa - và vì thế tôi sẽ
nhường vị trí của hai tập thơ này cho tập “Tinh huyết” của Bích Khê. Bởi lẽ,
như một vài nhà nghiên cứu có uy tín đã khẳng định, “Tinh huyết” chính là tập
thơ đánh dấu mốc mở màn cho giai đoạn thứ hai, cũng là hướng thứ hai của phong
trào Thơ Mới: hướng siêu thực chủ nghĩa. Trước đó, trong tập “Gái quê” của Hàn
Mặc Tử (1936) và tập “Điêu tàn” (1937) của Chế Lan Viên đã ít nhiều có màu sắc
siêu thực chủ nghĩa, nhưng ở Bích Khê nó mới thực sự đậm đặc. “Tinh huyết”
không nhận được sự chào đón nồng nhiệt của độc giả đương thời, điều đó cho thấy
rõ ràng có một “khoảng cách thẩm mỹ” giữa tác phẩm với “tầm đón đợi” của thời đại.
Nhưng mặt khác, tập thơ lại phản ánh sự nỗ lực của thơ Việt trên đường cập nhật
hóa những tìm tòi của thơ ca thế giới đương đại. Có thể nói, đây thực sự là một
bước tiến mới trong thơ Việt Nam lúc ấy. Hoàn toàn không phải vô nghĩa khi sau
Bích Khê, nhiều thi sĩ khác đã đi trên con đường thơ siêu thực: Nguyễn Xuân
Sanh, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch, Đông Hoài, Trần Mai Châu, Hoàng Lộc...
Đáng tiếc là với những biến cố lịch sử sau đó nữa, thơ siêu thực không có hoặc có rất ít đất để phát triển trong văn học Việt Nam. Dẫu sao đi nữa, sự tồn tại của thơ siêu thực với vai trò mở màn của tập “Tinh huyết” là một thực tế văn học sử không thể phủ nhận.
Đáng tiếc là với những biến cố lịch sử sau đó nữa, thơ siêu thực không có hoặc có rất ít đất để phát triển trong văn học Việt Nam. Dẫu sao đi nữa, sự tồn tại của thơ siêu thực với vai trò mở màn của tập “Tinh huyết” là một thực tế văn học sử không thể phủ nhận.
3. Tập “Về Kinh Bắc” của Hoàng Cầm (1959)
Tập thơ xuất bản lần đầu năm 1994,
nhưng thực ra đã được tác giả viết từ trên 30 năm trước, trong một hoàn cảnh cá
nhân và một bối cảnh xã hội khá đặc biệt. Có thể cho rằng “Về Kinh Bắc” là một
sự phát triển tiếp tục, nhưng là phát triển “ngầm”, mang tính “bí truyền”, của
dòng thơ siêu thực đã có từ trước năm 1945. “Bốn tám dáng thơ đi tám nhịp/ Tuần
du chưa vợi khối ân tình”. Câu thơ đầu nói về cấu trúc “nổi” của tập thơ: 48
bài, chia thành tám phần. Câu thơ sau nói về cấu trúc “chìm”: “Về Kinh Bắc” là
một giấc mơ, trong giấc mơ đó tác giả đã ngụp lặn, đã tận hưởng hồn vía quê
hương Kinh Bắc của mình cho thoả nỗi mong nhớ. Nói như nhà nghiên cứu Đỗ Lai
Thúy: “Về Kinh Bắc là một giấc mơ. Giấc mơ với những liên tưởng đứt đoạn, những
hình ảnh rời rạc và rất nhiều các khoảng trắng, các dấu lặng... Tất cả trôi đi
trong nhịp điệu thôi miên. Giấc mơ Về Kinh Bắc này là sự siêu thăng trong mặc cảm
Oedipe, một thực tại siêu thực trong vô thức của Hoàng Cầm” (Sự ham muốn của
bút pháp. Tr 188). Từ cái nền vô thức ấy, “Về Kinh Bắc” đã trồi lên như một sự
thể hiện rất thơ và rất đậm đặc của những ẩn ức tình dục - ít có tập thơ Việt
Nam nào mà “chất sex” lại được thể hiện đậm đặc và thơ đến thế! Với riêng người
viết bài này, “Về Kinh Bắc” là tập thơ có những câu hay đến gai người: “Chùa Phật
Tích duỗi mình trong lụa bạch/ Tượng Quan Âm má ửng bồ quân/ Chuông chiều cởi yếm,
chuông sớm đội khăn/ Câu kinh tê tê mười ngón tay măng” (Đêm Thủy). Sau hơn 30
năm mới được in ra và ngay lập tức đã nhận giải thưởng của Hội nhà văn, có thể
nói, “Về Kinh Bắc” là tập thơ được hưởng vinh quang muộn.
4. Tập “Ánh sáng và phù sa” của Chế
Lan Viên (1960)
Đối trọng với “Về Kinh Bắc” của
Hoàng Cầm là tập “Ánh sáng và phù sa” của Chế Lan Viên. Đối trọng, vì được viết
ra gần như cùng một thời điểm, cùng trong một bầu khí xã hội, nhưng tập thơ của
Chế Lan Viên thực sự là sản phẩm của một cái Tôi hữu thức, một tinh thần duy
lý. Tính chất duy lý được thể hiện qua trạng thái dằn vặt, giằng xé liên tục giữa
“cái Tôi” và “cái Ta”, giữa “trước kia” và “bây giờ” trong chủ thể trữ tình.
Nhà thơ đối thoại với chính mình, tự mổ xẻ mình, tự trách mình, tự hạ nhục mình,
tự nhận lỗi về mình- cái “mình” bé mọn của “ngày xưa”- để rồi từ đó bật lên niềm
khao khát vươn tới ánh sáng lý tưởng của cách mạng, khao khát chất phù sa bồi đắp
cho cuộc sống của con người đang “phá cô đơn ta hòa hợp với người”. Tập thơ của
Chế Lan Viên khẳng định mạnh mẽ tư thế và ý thức trách nhiệm của con người nhà
thơ - công dân trong thời đại mới. Tư tưởng ấy tạo được sức hấp dẫn rất lớn. Bởi
cảm xúc thành thực của nhà thơ, bởi một lối thơ giàu chất suy tưởng, một lối
thơ luôn lấp lánh vẻ đẹp của trí tuệ, bởi những câu thơ luôn vận động hướng đến
dáng vẻ của những câu châm ngôn mang chân lý phổ quát (ví dụ: Khi ta ở chỉ là
nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn), bởi cả trình độ giả kim thuật ngôn
từ ở mức điêu luyện của người viết. Với thành công vang dội của tập “Ánh sáng
và phù sa”, Chế Lan Viên đã xác lập một vị trí rất cao và vững chắc trên thi
đàn cách mạng: ông gần như trở thành người phát ngôn (bằng thơ) cho lý tưởng
cách mạng. Nhiều nhà thơ sau đó, như bị một hấp lực đầy ma mị, đã viết như họ
không thể thoát khỏi từ trường ảnh hưởng của tập “Ánh sáng và phù sa”.
5. Tập “Sự mất ngủ của lửa” của Nguyễn
Quang Thiều (1992)
Tập thơ của Nguyễn Quang Thiều tạo một
quãng cách thời gian trên 30 năm so với tập thơ của Chế Lan Viên. Khoảng thời
gian đó ghi nhận lịch sử của 15 năm thơ ca kháng chiến chống Mỹ và gần 20 năm
thơ ca thời hậu chiến, nhìn chung, ít có một khác biệt nào đáng kể, nhất là về
mặt tư duy nghệ thuật và ngôn ngữ thơ. Sự khác biệt có ý nghĩa đầu tiên, theo
tôi, bắt đầu từ tập thơ này của Nguyễn Quang Thiều. (Trước đó, tập “Ngôi nhà tuổi
17” của anh cũng bị lẫn vào diện mạo chung kia). Trong cách đọc cũ, “Sự mất ngủ
của lửa” rất trúc trắc, có người nói nó như thơ dịch, mà là dịch “mộc” từ thơ
Tây. Đã vậy, những liên tưởng nghệ thuật trong tập thơ thường xuyên là những
liên tưởng “trái khoáy”, theo kiểu những tương quan đối lập để làm nên sắc màu
lập thể trong thơ (ví dụ: Tôi trở lại nhặt vành nón gẫy/ Những chân trời gập
khúc xuống mùa đông, hoặc: Người nông dân già chiều nay rút rơm khô thổi lửa/
Xa tít một lưỡi cày mơ tên gọi vì sao). “Sự mất ngủ của lửa” gây sốc cho dư luận,
nó “xẻ” người đọc ra làm hai chiều hướng đối lập: khen thì thật khen, mà chê
thì cũng thật chê. Chưa nói chuyện thích hay không thích, khen hay chê, nhưng
chỉ như vậy, Nguyễn Quang Thiều đã khiến cho những người muốn hiểu anh buộc phải
đọc anh bằng một “ngữ pháp thơ” khác, khác với “ngữ pháp thơ” cũ. Một đóng góp
đáng quý của Nguyễn Quang Thiều ở tập thơ này, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng
Điệp: “Anh thường trăn trở về sự suy kiệt của cõi thế và khả năng tái sinh của
nhân loại” (Vọng từ con chữ. Tr 263). Vào thời điểm đó, riêng điều này cũng đã
là một giá trị: nó vượt lên sự trăn trở về những vấn đề của một quốc gia dân tộc
cụ thể, những vấn đề của cuộc sống con người trong một xã hội cụ thể (khá đặc
trưng cho 30 năm thơ trước đó). Có lẽ, nó đã chạm tới cái trăn trở muôn thuở của
tồn tại người?
Kể từ “Sự mất ngủ của lửa” của Nguyễn
Quang Thiều đến nay, theo ý tôi, chưa xuất hiện một tập thơ nào mang ý nghĩa
ngang bằng về mặt văn học sử như vậy, và bởi thế, việc của chúng ta là phải chờ
đợi. Cái nhìn của những người khác có thể sẽ khác chăng? Và từ những cái nhìn
khác, danh sách những tập thơ làm nên lịch sử thơ ca Việt Nam hiện đại cũng sẽ
khác chăng? Để kết bài, xin được nói thêm rằng: đưa ra danh sách này, người viết
không làm nhiệm vụ phân định cao thấp cho các tập thơ (vả chăng, đó thực sự là
điều không thể), mà chỉ đơn giản là liệt kê, theo trật tự tuyến tính của thời
gian và theo cái nhìn chủ quan, những tập thơ đánh dấu mốc trên các chặng vận động
của thơ ca Việt Nam hiện đại mà thôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét