Thứ Hai, 29 tháng 6, 2020

Đi về vùng thảo nguyên

Đi về vùng thảo nguyên
1. Tôi quen Lam tại nhà ga trong một đêm gió rét. Hôm ấy tôi có việc phải mang một chiếc xe máy phân khối lớn lên tàu. Dựng chiếc Suzuki hiệu GZ-150A trên bãi đất trống và đứng chờ, khi đã nóng ruột vì sắp đến giờ khởi hành tôi mới thấy một nữ nhân viên nhà ga xách chiếc chai rỗng đến tháo xăng khỏi bình xe. Nàng nhìn con ngựa sắt đen sì nặng chừng tạ sáu của tôi, thả một chiếc ống nhựa vào bình xăng và ngậm miệng vào đầu kia để hút.
- Đàn ông ở ga chết hết rồi hay sao mà để cho em làm cái việc này? - Tôi ái ngại.
Nàng không trả lời. Hơi xăng xộc lên làm nàng mấy lần phải dừng lại thở. Cặp vú căng nhọn tưởng chừng sắp nứt ra khỏi làn áo màu ghi bó sát thân mình của ngành đường sắt. Tôi thấy thương nàng.
- Em tên là gì? - Khi chiếc chai nhựa đựng xăng đã đầy, tôi hỏi.
Nàng ngoảnh về phía sau, nhổ bọt, đưa tay vuốt ngực rồi nói cụt lủn:
- Lam.
- Người đẹp như em, phải lấy chồng đại gia và giờ này ở nhà nằm nghe nhạc mới xứng - Tôi tán.
- Chồng em đại gia đấy chứ - Nàng nói - Nhưng bỏ rồi.
- Thật à? - Tôi mừng rỡ - Anh thì mới li thân.
Năm phút sau, xe của tôi được đưa lên kho chứa hàng trên tàu. Tàu chạy, tôi nghe gió rít ngoài cửa sổ và miên man nghĩ đến một vùng ngực mềm.
Hai tháng sau, tôi và Lam trở thành người tình. Tôi không tò mò hỏi về người chồng cũ của nàng, chỉ biết ông ta làm chức gì to lắm. Chúng tôi rất hợp nhau, ít khi cãi vã, nếu có thì thường nhanh chóng chấm dứt bằng những nụ hôn.
Một hôm nàng đột ngột bảo tôi: “Em chán ngấy cái Hà Nội này rồi. Mình lên miền núi làm lại cuộc đời đi anh”. Tôi hỏi đi đâu, nàng bảo lên Tây Bắc. Tôi hỏi vùng nào ở Tây Bắc, nàng nói: “Đi về vùng thảo nguyên”.
Thì đi. Tôi cũng đang chán ngắt cơ quan. Ở đó có một lũ đố kị luôn bày kế hại tôi, nhăm nhăm tìm những lỗi vặt của tôi rồi ghi vào sổ để cuối năm thanh toán, bề ngoài ngọt nhạt, bề trong khốn nạn ngấm ngầm. Hai ngày sau, tôi bỏ lại cho vợ ngôi nhà chục tỉ ở ngoại thành, nàng lặng lẽ ra khỏi nhà ga, cả hai lên chiếc Suzuki rời Hà Nội ra đi không một lời từ giã.
2. Chúng tôi lên Châu Mộc vào cuối mùa thu. Khi ấy cánh rừng phong ở ven thảo nguyên đang bắt đầu đỏ lá. Dừng xe ngắm hoàng hôn xanh lam buông xuống đồng cỏ lốm đốm những chú bò đen lang trắng, trong không khí trong vắt và se lạnh, Lam vui sướng rú lên.
Đêm đầu tiên, tôi và nàng ở nhờ tại một trang trại nuôi bò sữa. Chủ trại, một anh chàng có đôi mắt xanh thẳm như nước hồ và môi đỏ như hoa trạng nguyên bờ giậu, suốt đêm thổi sáo một điệu nhạc buồn. Chú bò yêu quý của anh mới bị loại trong cuộc thi hoa hậu bò sữa tổ chức vào tháng mười, còn vợ anh vừa bỏ nhà theo trai sau khi giật giải cuộc thi nhan sắc nông trường cấp huyện. Khuya, tiếng sáo buồn làm Lam không ngủ được. Nàng đi rất xa ra thảo nguyên, ôm về một bó hoa xuyến chi đẫm sương đêm tươi mát.
- Chúng mình phải làm việc gì đó để sống em ạ, không lãng mạn mãi được - Tôi nói - Anh tính bán chiếc Suzuki để lấy tiền mua bò sữa. Giá một con bò dao động từ hai mươi đến ba mươi triệu, khéo mua khéo bán thì mình sẽ có được hai con. Mỗi con mỗi ngày cho ba mươi lít sữa, mỗi lít bán cho nhà máy sữa được mười nghìn đồng, vị chi mỗi ngày mình thu được sáu trăm nghìn. Còn khoản tiền nữa anh mang theo, sẽ dùng vào việc thuê đất và làm chuồng trại. Thế là sống khỏe rồi!
- Anh phải sắm một con ngựa, đeo hai khẩu súng săn và đội chiếc mũ màu cỏ úa rộng vành. Anh sẽ thành cao bồi miền Tây, còn em mặc váy trắng và ôm cái bình vắt sữa bò. Chúng mình sẽ làm một ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên, y như trong phim ấy! - Lam nói.
- Ngôi nhà có ống khói, có hàng rào gỗ bao quanh và một con chó lông xù nữa chứ!
- Tất nhiên rồi, anh tuyệt lắm! - Lam vít cổ tôi xuống mà hôn. Tính nàng là thế, mỗi khi thích thú thì phải hôn, hoặc cười rú lên như ngựa hí.

Minh họa: Thành Chương
Trời vừa sáng, Lam đã lên thị trấn gặp nhà chức trách để xin giấy tạm trú, còn tôi tìm một hiệu sửa xe máy gần chợ nhờ mai mối bán chiếc xe. Đến quá trưa thì bán được xe, tôi ôm năm chục triệu ra về, hình ảnh đôi bò sữa mượt mà cứ hiện ra phập phồng trước mặt. Qua quán nậm pịa ở lưng dốc, thấy một đám buôn ngựa đang nốc rượu, tôi liền tấp tểnh tạt vào. Bọn họ cho tôi xem ngựa, gạ gẫm tôi mua một con lông tía có mụn lồi ở mắt rồi chuốc cho tôi uống đến say. Tỉnh dậy, tôi thấy mặt trời đỏ ối đã tụt xuống chân quả núi sau lưng, còn mình nằm nhũn ra như con chuột dưới gậm bàn và bọc tiền thì biến mất.
Tôi về đến trang trại khi bóng tối xanh biếc đã ngập tràn thảo nguyên và căn nhà gỗ. Lam chạy ra đón.
- Bán được xe rồi hả anh? - Giọng nàng có vẻ mừng.
- Bán rồi, nhưng mất hết cả, mất hết cả rồi - Tôi giơ hai tay lên trời, khật khưỡng, lè nhè.
Lam cúi đầu im lặng. Rồi nàng đi rót cho tôi một cốc sữa.
- Chả sao. Mình sẽ tìm cách khác để sống anh ạ. Năm chục triệu, đáng gì.
Nàng ôm tôi tha thiết, mặn nồng. Đêm ấy tôi và nàng ngủ ngon. Trong mùi hoa cỏ đưa về từ thảo nguyên. Trong tiếng sáo dịu dàng suốt đêm của chàng chủ trại.
Mấy hôm sau, chúng tôi rời thảo nguyên lên núi.
Trước ngày lên núi, có những tin nhắn từ Hà Nội liên tục nhảy vào máy di động của tôi. Anh đang ở đâu, cho mọi người biết để mang xe đến đón. Anh đừng nóng giận mà bỏ đi như thế, cơ quan lúc này đang rất cần anh. Tôi không trả lời, ném điện thoại vào bụi cây ké. Sao bây giờ chúng mày mới thấy cần tao, sao cả năm trời chúng mày chỉ nói xấu tao, biến trắng thành đen, nói không thành có. Cái chức trưởng phòng với tao là muỗi, thằng này có chết rũ xương trên núi cũng không thèm trở về.
Đường lên núi hun hút. Chúng tôi cứ men theo triền núi mà bước, không biết phía trước sẽ là đâu. Những dãy núi màu xám, màu lam trải dài như vô tận, mênh mông, như không bao giờ hết.
Lam vừa đi vừa hát. Bài dân ca du mục, kêu gọi con người ta đi tới một nơi nào rất xa.
Đến phía bắc thảo nguyên, tôi và Lam ở trong một chiếc lều canh nương. Dưới chân núi có một bản người Thái trắng, khói bếp màu nâu đỏ bay lên từ những nếp nhà sàn. Mùi khói làm Lam bồn chồn. Đã hai ngày nàng chỉ ăn bánh mì, mua bằng tiền dành dụm được trong mấy hôm đi vắt sữa bò thuê ở nông trường thị trấn.
- Chúng mình phải rời khỏi đây trước khi mùa đông đến em ạ. Đi về hướng gió Lào sẽ ấm. Anh nghe nói ở đây có sương muối, mùa đông em sẽ không chịu nổi đâu.
Lam ngồi im như con chim ốm ở góc lều, khẽ run vì lạnh. Chiếc áo nhân viên đường sắt nàng mặc bị gai song, gai mây cào rách, hở ra mảng thịt trắng gần bả vai.
Một sớm kia, tôi mò xuống bản người Thái xin ăn. Vào ngôi nhà sàn đầu bản, chỉ thấy trẻ con ở nhà, khi bước xuống cầu thang tình cờ trông thấy một bộ váy áo vắt ở đầu hồi, tôi liền vo tròn nhét vào trong áo. Đi khỏi bản một quãng, tôi lủi nhanh như cáo vào ruộng mía giở ra xem. Đó là chiếc áo cóm trắng nõn, đính khuy bạc hình bướm trên đường nẹp xẻ ngực, chiếc váy đen có cài dây xà tích bạc, dải lụa thắt eo màu xanh lá cây.
Tôi chạy lên dốc núi, sướng rơn. Món quà này, chắc Lam phải hôn tôi đến ngạt thở mất.
Chẳng ngờ Lam nổi giận. Mắt nàng chuyển từ màu đen sang màu xanh biếc. Nàng ném chiếc váy mềm nhũn và mát lạnh vào mặt tôi.
- Quân đốn mạt!
Rồi kiên quyết bước ra khỏi lều, mặc cho tôi lạy lục, van vỉ.
- Tôi từ bỏ một thằng chồng chỉ lo đục khoét, hút máu dân lành, không phải để lại gặp một phường trộm cắp như anh. Chúng ta chia tay ở đây.
Nàng vùn vụt xuống núi, đi về phía thảo nguyên. Tôi nhìn theo, mãi đến khi bóng nàng mờ khuất trên cánh đồng bạt ngàn hoa cải trắng.
Ngày hôm sau, tôi gạt nước mắt, một mình đi về phía Thượng Lào.
3. Giữa mùa đông tôi trở lại thảo nguyên, vào trại nuôi bò của anh chàng thổi sáo. Anh ta không biết tin gì về Lam. Tôi đi ra đồng cỏ, dưới bầu trời âm u màu thiếc, chân giẫm lên khóm ngải cứu héo khô vì sương giá, lòng thấy nhớ Lam vô cùng.
Một lần đi chợ huyện Châu Mộc, tình cờ tôi nghe kể về một người đàn bà có chồng làm quan bỏ Hà Nội lên đây làm việc cho hợp tác xã nấm. Họ tả chị ta “trông như trái lê mọng nước, ngon lành, chỉ tội tiếng cười chẳng khác gì ngựa hí”. Tôi giật mình.
Tìm vào khu trồng nấm, khỏi phải nói tôi đã mừng như thế nào khi gặp lại Lam. Tôi không hỏi những ngày qua nàng sống ra sao, chỉ quỳ xuống xin nàng tha lỗi. Nàng nhổ nước bọt, bỏ đi.
Tôi không nhớ mình phải khổ công lặn lội vào cái hợp tác xã nấm chết tiệt khuất sau vạt rừng thông hiu quạnh ấy bao nhiêu lần mới được Lam tha thứ. Nàng đồng ý trở về với tôi, một thằng ăn cắp, có lẽ vì thương hại hơn là còn yêu. Vừa mừng tôi lại vừa lo vì chưa kiếm được việc làm, trong khi đồng lương hợp đồng của Lam không đủ sống.
Tôi thuyết phục Lam lên núi, đi tìm một vùng quê mới, biết đâu sẽ dễ sống hơn.
Lại đi. Kẻ trước, người sau, thất thểu như đôi vợ chồng du mục. Qua những đồi cỏ tranh mênh mông vàng xuộm, những bãi ngô già úa xác xơ, những nương lúa trải dài hiu hắt. Đi trong những ngày hun hút gió, những chiều u ám mưa phùn. Cả hai đều đói và buồn, phải sống qua ngày bằng rau cải mèo hái được trên nương rẫy. Có lần qua rừng bắt gặp một ống tre treo trên cành cây, ở trong đựng khúc nhau thai của một chị người Thái nào đó đã bốc mùi thum thủm, tôi liền mang xuống suối rửa rồi nướng ăn. Lam ngoảnh mặt đi. Nàng nhìn ra bãi đá ven rừng, nơi có những cành mơ đã bật ra những nụ trắng tinh trong giá rét.
Từ Châu Mộc qua mấy cánh rừng rậm, chúng tôi sang đến đất Vân Hồ. Ở đây núi dựng cao vút, bản làng trông bé như những xơ gỗ rải giữa hai triền đá xanh. Trên núi trồng nhiều bí đỏ và ngô, đôi khi rực rỡ những vườn hoa cải vàng tươi sáng bừng trong lũng vắng. Một buổi chiều sương đi qua đèo nhìn xuống bản, chợt nghe thấy tiếng lợn kêu và tiếng thậm thịch giã bánh dày trong máng gỗ, mới biết Tết của người Mông đã đến rồi(1).
Một sớm ra khỏi rừng, tôi và Lam trông thấy một thung lũng rải rác những nếp nhà mái xám. Khắp trong lũng, bạt ngàn mận đang lấm tấm trổ hoa. Ngửi thấy mùi khói thơm trong gió, cặp môi thâm tím vì rét của Lam mấp máy, đôi mắt trắng bệch vì đói lại sáng lên. Ngần ngừ hồi lâu, nàng đánh liều cùng tôi rẽ qua đồi lanh xanh rì tìm đường xuống bản.
Trong bản, mọi ngôi nhà đều giống hệt nhau, vách thưng bằng gỗ, mái phủ tấm lợp, thấp thoáng sau những lùm mận xùm xòa. Vườn mận ken dày, cây nào cũng to gộc, rêu phong, xù xì mốc trắng. Qua một nếp nhà có khói xanh tỏa lên ấm áp, bên trong có tiếng cười văng vẳng, tôi và Lam đứng lại, chần chừ.
- Ai đến nhà ta thế nhỉ? - Tiếng cười im bặt, từ khung cửa hơi tối ló ra một cái đầu chít khăn. Rồi một người trai mặc quần áo chàm đen, cổ đeo vòng bạc chạy ra nhìn chúng tôi, hồ hởi:
- Ở đâu đến đấy? Vào đi, vào ăn cái Tết với nhà tôi đi!
Tôi kéo Lam bước vào căn nhà ấm sực. Hỏi ra thì biết đây là bản Chiềng Đi của người Mông. Người chồng tên là Lầu A Dua, vợ là Mùa Thị A, cả hai đều còn rất trẻ.
Lam sà ngay vào bếp lửa than hồng rực ở góc nhà. Tôi mân mê chén nước nóng, nhìn quanh. Trên vách gỗ, ban thờ làm bằng tấm giấy bản màu vàng nhạt dán loăn xoăn những túm lông gà. Bên cạnh dựng cuốc cày, dao nỏ và gùi, cái nào cũng được dán bung biêng một tờ giấy đỏ(2). Thì ra hôm nay là mùng một Tết.
- Chúng tôi đi buôn ngựa, qua núi bị cướp sạch tiền… - Tôi rỏ một giọt nước mắt, ngập ngừng.
- Đầu năm đừng nói chuyện buồn - Người chồng xua tay - Đã đến đây rồi, ta cùng nhau ăn thịt, uống rượu.
Bữa ăn được dọn ra, ngoài thịt lợn thịt gà còn có món thịt chuột nướng chấm muối ớt thơm ngậy. Chiếc chậu nhôm méo mó đựng tiết canh lợn đỏ lòm đặt ngay trên chiếu. Tôi vục mặt vào tảng tiết canh, ngốn ngấu, còn Lam suýt nghẹn vì xơi liền một lúc hai chiếc bánh dày. Nàng ghé tai tôi, thì thào: “Ngon thế này mà chẳng có rau, canh. Giá như có thêm một bát canh khoai sọ!”(3).
Mùa Thị A chỉ uống chút rượu rồi ra ngồi trên chiếc ghế gỗ mòn vẹt bên bếp lửa. Ở người đàn bà trẻ này gợi lên một cái gì đó vừa xa xôi vừa khó hiểu. Tôi trộm ngắm đôi chân khô bóng không quấn xà cạp của cô nàng chìa ra qua vạt váy chàm in hoa văn bằng sáp ong. Gương mặt ửng hồng lấm tấm tàn nhang như vỏ trứng chim cút của cô đăm đắm nhìn qua ô cửa về phía xa, nơi có màu lam nhạt của vệt núi dài, và bầu trời phảng phất sương mù càng về trưa càng sáng.
- Vợ tôi nó rất chăm làm. Ngày Tết đàn bà Mông phải kiêng không được cầm kim may vá thêu thùa, cái chân cái tay nó bỗng thừa ra nên cái mặt nó cũng ngẩn ngơ như chim mất tổ đấy - Lầu A Dua giải thích, rồi quay sang vợ hỏi - Lại nhớ thằng Phử phải không?
Tôi hỏi Phử là ai, Dua kể rằng trước kia vợ mình từng yêu một người tên là Lầu A Phử. Phử là tay đua ngựa cừ nhất bản Chiềng Đi, luôn về đích đầu tiên trong mỗi cuộc đua ngày Tết. Trên đường đua Phử vừa nhào lộn như một con sóc trên lưng ngựa vừa nhoài mình xuống vặt những đóa hoa xanh biếc trên cỏ ném cho đám con gái đứng hò reo cổ vũ bên đường. Mùa Thị A say Phử như say thuốc phiện, Phử cũng mê nàng. Hai người đã tính chuyện ở chung nhà, ngủ chung giường thì cách đây bốn năm, trong cuộc đua ngựa vào đầu xuân, con hắc mã của Phử bỗng nhiên giở chứng hí loạn lên, xoay tròn như một con quay rồi hất Phử xuống bãi đá tai mèo trên miệng vực. Đầu Phử vỡ như quả pao nhồi hạt lanh bị bục. Thì ra có kẻ gian đã bí mật thả một hạt đậu vào lỗ tai ngựa, càng chạy hạt đậu càng chui vào tận óc khiến con ngựa hóa điên. Phử chết, nhờ đó mà Dua lấy được cô nàng xinh nhất bản là Mùa Thị A. Cũng từ đấy, mỗi dịp xuân về, bản Chiềng Đi không còn tổ chức đua ngựa…
Dua kể đến đó thì cô vợ đột ngột gắt lên. Hai má đỏ bừng như trái sơn tra ướp trong băng tuyết, đôi mắt long lanh gườm gườm như mắt cú và từ cái miệng xinh nhỏ tuôn ra một tràng tiếng Mông dài.
- Nó bảo chính tôi là người đã nhét đậu vào tai ngựa - Dua cười hề hề, dằn mạnh cái bát sứt đựng rượu - Nó bảo tôi không đi đường thẳng. Nó bảo tôi chỉ đi lối tắt bụi rậm như con cáo con cầy.
Buổi tối, Dua theo bố vợ là ông Mùa Chờ La đi chúc Tết các nhà trong bản. Ông La là trưởng bản nên mùng một Tết năm nào ông cũng đến chơi đủ mọi nhà. Về khuya, khi bóng đêm dày như đổ mực vào thung lũng, tôi thấy Mùa Thị A lặng lẽ cầm đèn pin ra ngõ tìm chồng, ánh đèn quét dọc quét ngang vào từng gốc mận. Bên khe suối và các bụi rậm cũng lác đác có ánh đèn xanh lét lóe lên. Đêm tân niên, có biết bao người vợ Mông lầm lũi tìm chồng say rượu ngủ quên trên lối đi vào bản.
Tôi và Lam tính sẽ ở lại Chiềng Đi đến hết Tết năm ấy. Người Mông ăn Tết lai rai cả tháng do ngô lúa đã gặt xong, cỏ khô đã trữ đủ cho bò ngựa, chờ ra giêng ông trời làm mưa thì mới vỡ nương vào mùa. Lam không còn giận tôi, suốt ngày mùng hai nàng theo tôi và Dua đi ăn Tết từ nhà nọ sang nhà kia, cả ba đều say khướt. Đó là cái Tết vui nhất trong cuộc đời của tôi và nàng.
Mùng ba Tết, thung lũng mận xuất hiện thêm một vị khách mới là Linh. Linh là sinh viên từ Hà Nội lên, một mình đi phượt miền núi. Linh tóc ngắn, người thon và trắng, trên đường qua bản tình cờ gặp Tết thì ghé lại nhà Dua. Lần đầu tiên đến đất Vân Hồ nhưng cô tự nhiên như ở nhà, tắm giặt xong phơi đồ lót ngay trên khung cửi dệt vải lanh ngoài cửa. Lam không giấu giếm ác cảm với cô bé này. “Con gái con đứa gì mà vô duyên, ăn xong không thèm dọn mâm, nhảy luôn lên giường nghe nhạc”. Mùa Thị A, với ánh mắt xa xôi bí ẩn thường ngày, thì im lặng. Chỉ có một lần Linh chúm môi thổi vào than củi, người đàn bà Mông này mới liếc nhìn cô với vẻ giận dữ. Đầu năm không ai được thổi bếp, làm thế khác gì mang giông bão về phá đổ hoa màu.
Tôi bảo Linh: “Bọn trẻ các em bây giờ vô tâm và ích kỉ. Rất khác bọn anh ngày xưa”. Cô sinh viên kém tôi hai mươi bốn tuổi trả lời: “Vâng, mỗi thời mỗi khác mà anh. Chúng em bây giờ chỉ làm những gì mà mình thấy thích”. “Thế em thích nhất cái gì?”. “Phượt. Sang năm ra trường em sẽ đi Ả Rập. Cứ có cơ hội là phượt thôi”. Tôi hỏi: “Đi suốt không sợ ế chồng à?”. Cô đáp: “Cuộc đời vẫn phải đi. Ế vì mình thích thế. Ai nói gì mặc kệ. Miễn là mình thấy vui”.
Sớm mùng bốn Tết, ông Mùa Chờ La mời tôi đến nhà uống rượu. Hôm ấy trời đặc sương mù, cả thung lũng Chiềng Đi nghi ngút như chảo khói. Ông hỏi tôi về Hà Nội, than rằng ông là trưởng bản mà cả đời chưa biết mặt mũi cái thủ đô nó thế nào. Tôi bảo rằng đó là một chốn nhố nhăng, quan thì tham, dân thì gian, đàn bà lẳng lơ, đàn ông hư hỏng, tóm lại là rất tệ, ông chả nên mơ ước đến đó làm gì. Cứ ở trên này, trưa uống rượu, tối tắm truồng, sáng ra nghe con họa mi trong trẻo hót giữa rừng, đời thế là tuyệt nhất. Ông vỗ tay đôm đốp, bảo nghe sướng cái lỗ tai lắm, thôi anh cứ ở lại đây đến hết năm rồi tính, xem có đứa gái Mông nào chồng chết thì ta làm mối cho, còn bây giờ thì uống đi, nào, cạn. Ông rót hai bát rượu ngô đầy. Tôi cạn. Uống cho tới lúc nhìn ba vuông giấy đỏ thếp vàng trên ban thờ nhòe ra và chập vào nhau làm một. Rồi khật khưỡng đi về trong sương mù. Qua mảnh sân rộng đầu bản, gặp đám trẻ con đang phơi mình trong gió lạnh ném pao. Tôi nhảy xổ vào bắt pao nhưng trượt chân ngã ngửa làm chúng cười phá lên. Về đến nhà thấy vắng hoe, chỉ có Mùa Thị A thấp thoáng trong buồng, không thấy Lam và Dua đâu cả.
Tôi định vào buồng, nghĩ thế nào lại bước ra vườn mận. Khắp vườn trắng đặc sương, những gốc mận già hiện ra giữa biển sương bồng bềnh như một khu vườn trên thượng giới. Xa xa lập lòe ánh lửa. Đi đến nơi thì thấy Linh đang ngồi tựa vào gốc mận, hai chân dạng, chiếc váy đỏ thẫm như lửa tụt xuống đùi. “Anh có thích nghe nhạc không?”, cô chìa điện thoại, gỡ một bên tai nghe rồi kéo tôi ngồi xuống. Chân cô không khép, và dù sương đặc đến nỗi có thể xắn ra từng tảng được, tôi vẫn nhìn thấy màu trắng tinh khiết của chiếc xi-lip viền ren nổi bật giữa hai đùi.
Tôi đổ ập xuống Linh như cây chuối rừng bị đốn gục. Quá nửa đời người, tôi chưa thấy cặp chân nào thon và trắng nuột nà đến thế. Linh vít cái đầu bù xù của tôi xuống, hỏi: “Say rồi phải không?”.
Có tiếng loạt xoạt rồi tiếng kêu ư ử của một con chó nhà ai chạy tới. Linh đẩy tôi ra, bảo: “Mình lên trên núi đi anh”. “Kệ, sương mù chẳng ai nhìn thấy gì đâu”. “Không, ở đây em không thích”.
Chưa bao giờ tôi say mà lại leo dốc nhanh và khỏe thế. Trong màn sương nhờ nhợ trắng, tôi như con bò tót hung hãn cứ nhằm cái váy đỏ rực như đốm lửa nhảy nhót của cô bé ở phía trước mà bám theo. Đến lưng chừng núi, gặp bãi cỏ dưới cây mắc khén lởm chởm gai, cả hai dừng lại.
Chúng tôi vồ lấy nhau ngay tại gốc cây, mặc cho đám gai đâm vào da đau nhói. Tôi cuộn xiết như trăn lớn. Linh nát nhừ như thú non. Dưới chân núi vọng lên tiếng cười nói của bọn trẻ đánh pao, tiếng hát của đám thanh niên lẫn trong tiếng khèn réo rắt.
Trời hong hong rồi vụt nắng. Ánh nắng tươi rói màu vàng chanh như được chắt ra từ vàng nguyên chất. Tôi dắt Linh xuống núi khi toàn thung lũng đã được mạ vàng. Qua vườn mận, thấy biển sương biến mất từ khi nào, không khí trong veo giữa tràn trề nắng ấm. Tôi vuốt má Linh, bảo: “Em hư quá”. “Đàn bà không hư, đàn ông không thích”, cô bé đáp tỉnh khô.
Thấy tôi về, Mùa Thị A bước ra cửa với cái nhìn lặng lẽ và nói “Đi rồi”. Và dẫn tôi ra chiếc cối xay ngô ở đầu hiên, chỉ vào chiếc khăn hoa xanh vắt trên cần cối. Tôi chột dạ. Đó là chiếc khăn quàng cổ tôi đã mua ở chợ Châu Mộc tặng Lam.
Chợt hiểu, tôi chạy như điên ra khỏi thung lũng mận. Đến ngã ba đường mòn dẫn sang bản khác, chỉ thấy đồi núi hoang vu không một bóng người. Tôi rút máy di động, gọi vào số của Lam tới cả trăm lần. Chỉ có tiếng đổ chuông lẫn trong mơ hồ tiếng gió.
Đêm ấy ở Chiềng Đi, tôi không ngủ. Hận mình, hận Linh, hận cả ông Mùa Chờ La và hai bát rượu. Vì sao nàng lại biết chuyện của tôi và con bé kia trên núi, rồi lặng lẽ bỏ đi? Nàng đi đâu? Nửa đêm tôi đánh thức Dua dậy. Nhìn ngọn cây thông đen thẫm in lên trời đêm đang ngả màu xanh nhạt, tôi nhớ có lần Lam ước được nhìn thấy sông ở Tây Bắc, liền đoán có thể nàng đi về vùng đồi núi thấp thuộc lưu vực sông Đà.
Bưng vò rượu ngô, tôi và Dua uống cạn. Tôi khóc. Dua say ngã lăn ra đất, nức nở, rằng thằng Dua này không thả hạt đậu vào tai ngựa, thằng Dua này chỉ đi đường thẳng, không đi lối tắt bụi rậm như con cáo con cầy. Trong buồng ngủ, Mùa Thị A trở mình, rồi có tiếng xụt xịt âm thầm, hình như nàng ta cũng khóc.
Chỉ sau một đêm, hoa mận trắng xóa nở tràn thung lũng. Mận vùng cao là thế, cứ ấm lên là nở. Nở quyết liệt, ào ào, xối xả. Như cho bõ những ngày giá buốt. Như một phút huy hoàng rồi tắt. Nở đến thỏa thuê, cùng kiệt, cấp tập chỉ trong vòng hai tuần.
Linh kéo tôi ra vườn xem hoa mận. Đang chụp ảnh dưới hoa, cô chợt kêu đau bụng rồi thì thầm: “Chiều nay mình lại lên núi nhé. Cũng chỉ còn hôm nay thôi đấy, vì ngày mai là em bị rồi”. Tôi lắc đầu. Tôi không còn thấy hứng.
Mùng sáu Tết, tôi rời bản Chiềng Đi. Khắp Vân Hồ, đâu đâu cũng hoa mận trắng rừng trắng bản. Những mỏm đồi trắng tinh như tuyết phủ. Những thung lũng từ trên cao nhìn xuống như một rừng san hô trắng muốt dưới đáy đại dương.
Tạm biệt những ngôi nhà Mông vách gỗ, mái đen xỉn vì nắng mưa, chẳng biết có khi nào gặp lại. Tôi xốc ba lô, nhằm hướng bắc. Sau hai ngày thì tới đất Mường La.
4. Mường La, xứ sở trù mật ven sông Đà, rải rác những bản làng người Thái. Ngày đầu đặt chân đến, tôi tìm vào một bản Thái đen. Bản tên là Chiềng Mai, nằm ở thung lũng dưới chân núi, ruộng bậc thang óng ả viền quanh như sóng lượn, các mái nhà lợp gỗ pơ mu. Từ lan can nhà sàn nhìn ra, thấy một dải sông Đà xanh như mắt mèo trôi lững lờ man mác.
Bịa cớ đi buôn trâu bị cướp sạch tiền, tôi xin ở nhờ tại một nhà trong bản. Chủ nhà là ông Bạc Cầm Đăm, vẻ mặt lương thiện, người đen như một hòn than. Nhà chỉ có một mụn con gái tên là Bạc Thị Sương, da trắng như lõi chuối rừng, tôi hay gọi đùa là làn sương bạc. Vì em chưa có chồng nên tôi giữ ý, đêm đêm xuống ngủ trong chiếc thuyền đánh cá của ông Đăm đậu bên bờ sông Đà. Hàng ngày giúp ông đào mương, bắc máng, đan chài, ăn ít lại làm nhiều nên chẳng bao lâu tôi đã được cả nhà coi như con đẻ. Sớm chiều lầm lụi như con dúi đào hang, con tê tê đào đất, mỗi khi rảnh việc tôi lại bí mật đi dọc sông gặp thuyền bè qua lại mong tìm được một tin gì đó về Lam.
Sương là một cô gái ngoan và rất dễ thương. Những lúc ngừng tay dệt thổ cẩm, em dạy tôi hát các điệu khắp của người Thái. Em còn bày cho tôi cách làm món chẳm chéo để chấm măng chấm rau, những đêm hạn khuống (4) dẫn tôi đến sàn ca hát với đám thanh niên trong vùng tới sáng. Tình cảm của tôi với em, phảng phất mơ hồ, nửa giống tình yêu, nửa giống tình anh trai em gái. Biết em thích đùa, mỗi khi nhìn thấy sông Đà mịt mù sương trắng, tôi lại gọi em ra ngoài lan can:
- Sương ơi, ra mà xem, sương đang bay trên sông kia kìa!
Nghe câu ấy tới cả chục lần mà lần nào Sương cũng bật cười.
- Anh lại quên rồi. Tên em trong tiếng Thái có nghĩa là “thương” cơ!
Một sớm tinh mơ, ông Đăm xuống thuyền đánh thức tôi dậy và mời lên nhà sàn nói chuyện. Tưởng mình đã gây ra chuyện gì, tôi lo sợ. Hôm ấy trời lạnh, sương mù xám ngắt bay như khói tỏa trên sông Đà. Hút xong hai điếu thuốc lào và nhìn ra sông mấy lần, ông mới nói rằng tao biết chúng mày thương nhau rồi, nếu ưng thì sang xuân bắt đầu ở rể. Tiền trả công nuôi dưỡng con gái, vợ chồng tao chỉ lấy năm đồng bạc trắng cho đúng phong tục, nếu mày không có thì tao cho khất. Tôi nói trong nước mắt, rằng mình quá già lại thô lỗ, không xứng với con gái ông.
Tôi ở bản Chiềng Mai qua cái Tết năm ấy(5). Chiều ngày hai chín Tết, trong lễ gọi hồn tại nhà ông Đăm theo tục lệ, tôi cũng được ông mo buộc sợi chỉ đen vào tay để trừ tà ma như một thành viên của gia đình. Đêm ba mươi tôi ra sông, ngồi uống rượu một mình trên thuyền. Sông Đà vắng ngắt, thăm thẳm sương mù, hai ngọn núi sau bản chọc lên nền trời như một cặp vú dài đen thẫm. Chừng nửa tiếng một, lại nghe tiếng chiêng vọng ra từ các nhà trong bản báo sắp giao thừa. Từng hồi chiêng thong thả, trầm đục lan dài trên mặt sông tối đen. Tôi bỗng thấy cô đơn, thấy nhớ Hà Nội. Nhớ những ngày làm việc trong ngôi nhà sơn trắng ở nội thành, mười mấy năm ngồi ghế trưởng phòng, áo trắng cà vạt. Nhớ những lễ lạt tiệc tùng sang trọng, những cuộc tình chớp nhoáng, những cái Tết nhận phong bì mỏi tay…
Gần đến giao thừa, nhịp chiêng trong bản dồn dập hơn. Tôi thấy nhớ Lam da diết, năm mới đã tới rồi, không biết giờ này nàng ở đâu. Nhớ những đêm ân ái giữa lều nương, tiếng nàng thét trong gió giật ào ào, mồ hôi tiết ra mằn mặn. Nhớ buổi chiều mùa đông vàng nắng, ăn lá độc bị sưng phồng môi miệng, nàng vẫn cười như ngựa hí giữa đồi hoang. Nàng, người đàn bà cũ, bao giờ cũng ám ảnh tôi bởi một cái gì đó rất sâu, không như bọn gái trẻ chưa chồng, trông thì mơn mởn bề ngoài nhưng bẻ ra thì như đọt cây non, vừa hăng vừa nhớt…
Cứ nhớ miên man thế, đến lúc không chịu nổi, tôi lục ba lô lấy ra chiếc khăn hoa xanh của Lam trải xuống lòng thuyền rồi loay hoay nằm sấp, vùi mặt vào đó hít hà. Đang rên rỉ gọi tên nàng thì bỗng có ai đó kéo mạnh dây buộc thuyền cùng giọng nói như chim ríu rít. Thì ra Sương đến, mang cho tôi một cặp bánh chưng đen.
Mùng một Tết, từ sáng sớm các nhà trong bản đã rộn ràng tiếng gõ sạp mừng khách đến chơi. Tôi kiếm một mảnh chai vỡ cạo sạch râu, thắt chiếc khăn của Lam vào cổ thành chiếc cà vạt hoa, đĩnh đạc lên nhà ông Đăm chúc Tết. Sương đón tôi ở bậc cầu thang thứ chín của nhà sàn. Em lộng lẫy như cánh bướm đêm trong bộ cóm đen óng ánh tuyết nhung huyền bí tôn chiếc cổ cao trắng ngần, dải lụa xanh lá mạ thắt eo, tay nâng chén rượu sơn tra đỏ. Tôi tựa vào cầu thang, ngước nhìn, ngây ngất. Ở nhà ông Đăm một tháng, tôi chưa thấy em đẹp thế bao giờ.
Giữa nhà, vợ chồng ông Đăm đã chỉnh tề đợi sẵn. Đón tôi trên chiếu hoa là bình rượu cần vàng chóe, thịt trâu gác bếp thơm nồng tẩm mắc khén, cá suối nướng pa pỉnh tộp và một đĩa bánh chưng đen. Ông Đăm xoay chiếc cần rượu cong vút có buộc sợi chỉ đỏ về phía tôi, than phiền rằng nhà không có con trai ra gõ sạp chào khách quý. Sương quấn quýt bên tôi như một cô em gái. Bà mẹ mỉm cười lặng lẽ. Bà cũng vít cần rượu, và khi đôi má đỏ lên như quả gấc, bà gọi tôi bằng con.
Từ các nhà mọi người đổ ra đường chơi Tết. Nhìn sang ngôi nhà lớn bên cạnh, tôi thấy khách đến chơi đứng chật gầm sàn. Đón khách lên là tiếng gõ sạp vang lừng. Tiễn khách về, những cô con gái chủ nhà cầm chén phục sẵn ở cầu thang, vừa hát vừa rót rượu. Mỗi bậc thang, khách phải đổi bằng một chén. Chín bậc là chín chén. Ra đến ngõ, khách nào cũng loạng choạng say mèm.
Đám bạn của Sương kéo đến, rủ em sang các bản lân cận chơi hết Tết mới về. Em tỏ vẻ muốn đi nhưng liếc nhìn tôi rồi từ chối.
Sáng mùng năm Tết, em rủ tôi ra bến, chèo thuyền bơi dọc sông Đà về phía bắc Quỳnh Nhai. Hôm ấy trời đẹp và trong, gió rét từ núi thổi ra dìu dịu. Nước sông xanh màu thủy tinh, sóng vỗ mạn thuyền óc ách. Hai bên sông thấp thoáng bản làng, giữa màu xanh rợn của núi đồi có những vệt hồng tươi loang khắp triền cao, thung lũng. Cho thuyền đi sát vào chân núi mới thấy, trên nương bãi và các khu vườn trong bản, cả Mường La hồng rực sắc hoa đào.
Sương rủ tôi lên mạn Mường Chiên, Mường Sại thuộc đất Quỳnh Nhai chơi. Em có các bạn người Thái ở trên đó. “Đi xa thế mất mấy hôm, phải ngủ dọc đường, em không thấy sợ anh sao?”, tôi hỏi. “Bố mẹ em đã coi anh là con cái trong nhà, anh lại là người tốt thế này, sao em phải sợ”, Sương khỏa tay xuống nước rồi rời mũi thuyền, ngồi nép vào tôi âu yếm. Chạm vào tấm thân lả lướt mềm mại và bầu vú mây mẩy như trái lê trong vườn, trong đầu tôi tiết ra những ý nghĩ trần tục. Chợt nghĩ đến Lam, tôi cố kìm lòng: “Ta phải về em ạ. Anh cũng định ít hôm nữa sẽ rời bản”. Sương nhìn tôi ngỡ ngàng. Tôi chỉ vào chiếc khăn xanh trên cổ, thẳng thừng: “Anh đã có vợ ở miền thảo nguyên rồi. Anh phải trở về tìm cô ấy”. Sương tái mặt đi rồi nói: “Anh không đi khỏi đất này được đâu!”.
Tối hôm ấy chúng tôi trở về Chiềng Mai. Mẹ Sương cười bí hiểm. Sáng hôm sau Sương kéo tôi ra bãi đất đầu bản, hòa vào đám thanh niên múa sạp múa xòe. Mùng sáu Tết ở đây vẫn náo nhiệt tưng bừng, trai gái ngất ngây từ khuya đến sáng. Trong vòng xòe, tôi nắm tay một cậu con trai mặt đầy trứng cá tên là Cầm Văn É. É nhún nhảy như một con vượn và hỏi tôi:
- Anh ở nhà ông Đăm hử? Nhà ấy có hi đán, khuây đán(6) đấy, không sợ ư?
- Hi đán? Khuây đán? Là cái khỉ gì?
- Là cái này - Cậu ta vỗ vỗ vào háng mình - Nhưng nó bằng đá. Nó có phép. Cả Tây Bắc chỉ có nhà ông Đăm có hai cái ấy. Ông ta muốn bắt anh làm rể hay làm trâu làm chó suốt đời cũng được, anh không bao giờ thoát nổi đâu!
Rồi É kể thêm, họ Bạc của ông Đăm vốn là dòng họ quý tộc, mấy đời trước đều có người làm chức chảu mường (7). Riêng cụ cách đây năm đời thì làm thầy mo, một buổi chiều đi thăm nương thấy một cục đá màu đen cứ nhảy theo mình. Cụ đứng lại nó cũng đứng lại, cụ đi tiếp nó lại nhảy theo, thấy lạ cụ liền nhặt lên cho vào túi. Cái cục này trông giống cái của đàn ông y hệt. Một lần lội suối cụ lại bắt được viên đá khác giống cái biết đẻ ra người của đàn bà. Từ ngày có hai vật này, cụ muốn làm gì chúng đều phù hộ cho. Qua mấy trăm năm truyền lại, báu vật được ông Đăm bọc trong vải đỏ, cất kĩ vào đâu đó, không ai nhìn thấy bao giờ.
Ý nghĩ về hai linh vật bằng đá cứ bám riết lấy tâm trí tôi cho tới lúc rời hội xòe về nhà ông Đăm. Nhà ông đang có khách ở bản xa tới chơi. Tôi uống rượu với khách cùng ông rồi say gục luôn tại chiếu. Khi tỉnh dậy tôi thấy mình nằm trong một căn buồng tối. Hình như đã khuya lắm, đây cũng là lần duy nhất tôi ngủ tại nhà ông Đăm. Căn buồng phảng phất mùi thơm dịu từ mái gỗ pơ mu, trên vách gỗ trổ ra một ô cửa khép hờ đón từ ngoài vào chút ánh trăng xanh nhạt. Đang định ngồi dậy thì có tiếng kẹt cửa, và từ đâu đó lờ mờ trong bóng tối, tôi thấy một người lặng lẽ bước vào.
Người ấy cao lớn dị thường, đầu chạm nóc nhà, trông giống một con tinh tinh. Màu da đen kịt tựa ông Đăm, cái miệng khổng lồ vều ra như cái phễu. Y đứng giữa buồng, im phắc, rồi thả xuống mặt sàn một vật gì đó. Vật ấy lăn lộc cộc về phía tôi, khi sắp chạm vào tôi thì dừng lại. Trong ánh sáng nhợt nhạt, tôi thấy một cục đá đen có hình giống hệt âm hộ đàn bà, ở giữa có lỗ rỉ ra vệt nước nhờn đo đỏ. Trên sàn gỗ, cái vật kinh tởm ấy cứ ngọ nguậy, phập phồng…
- Hi đán! - Tôi thét lên kinh hãi.
Ngay lập tức, một cánh tay dài ngoẵng vươn tới bịt miệng tôi. Tôi vùng vẫy nhưng toàn thân cứng lại như bị đóng băng. Người khổng lồ đổ ập xuống như núi đè, một tay y vẫn khóa miệng tôi, tay kia móc sâu vào mạng sườn như muốn rút xương ra làm tôi đau chết ngất. Trong giây phút tột cùng khủng khiếp, tôi vẫn cảm nhận được cơ thể của y không phải là thịt, mà được cấu tạo từ thứ gì đó tựa chất dẻo, một hỗn hợp của than, bồ hóng và nhọ nồi.
Có tiếng động mạnh ở cửa sổ, có lẽ là gió đẩy. Bàn tay to bằng cái xẻng buông ra, tôi mở mắt và không thấy có gì trong buồng nữa. Phút kinh rợn vừa qua chỉ như ảo giác, như tình trạng bị bóng đè.
Tôi gắng gượng bò ra cửa, vẫn có cảm giác xương đang vỡ lạo xạo trong người. Ánh trăng xanh biếc ở ngoài giúp tôi xác định được vị trí gian buồng mình vừa nằm chính là khười quản trong nhà, tức sàn ở rể. Tìm được cầu thang, tôi loay hoay tụt xuống và thấy đột nhiên khỏe khoắn khi chân đã chạm sân. Vừa đi vừa chạy ra phía sông, không muốn chui vào chiếc thuyền có mui của ông Đăm, tôi rẽ lên dải đường đi về phía núi.
Trăng thượng tuần đủ sáng để tôi tìm đường lên núi. Qua một vạt đồi trồng kê xen vừng, lạc, thấy màu đen đá núi và màu xanh u tịch của rừng. Chợt khát nước khô họng do cuộc rượu lúc chiều, tôi quay xuống chân đồi, men theo triền ruộng bậc thang tìm khe nước. Đi mãi không gặp nước, khi ngẩng đầu lên tôi thấy cây cau cao vóng với chùm quả úa vàng, cùng chiếc khau cút(8) hình sừng trâu trên nóc nhà sàn của ông Đăm hiển hiện ngay trước mặt.
Dù là người bản lĩnh và bặm trợn, tôi bỗng thấy rợn người lên.
Tôi chạy ngược trở lại. Lần này không lên núi nữa, cứ theo đường mòn ven núi mà đi. Trăng trên trời tái nhợt như mặt người chết trôi, soi núi đồi ướp trong sương buốt lạnh. Qua mấy cánh rừng âm u thì nghe tiếng nước chảy, tiếng cối nước giã gạo rì rầm. Ra tới dòng suối lấp lánh ánh trăng, tôi lại thấy những mái nhà hình mai rùa của bản Chiềng Mai ló ra phía trước.
Thì ra tôi đã đi một vòng tròn quanh núi.
Tôi thất thểu quay lại đường cũ. Rẽ lên nương ngô, nương đậu, sang tới nương bông, nương chàm, tôi phát hiện ra mình đã vượt qua đỉnh đồi xuôi xuống con đường dẫn về phía bản. Dù đi ngang đi dọc thế nào, cuối cùng tôi vẫn về chỗ đó. Lúc ấy tôi mới vỡ lẽ và kinh sợ, mình đang bị điều khiển bởi một sức mạnh vô hình.
Tôi quyết định nhằm đỉnh núi sau bản làm đích, trèo thẳng lên. Tới lưng chừng dốc, như có ai vặn ngược chân, tôi lại thấy mình phăm phăm xuống núi. Nhưng lí trí của tôi mạnh hơn, tôi kiên quyết cưỡng lại. Sau mấy bận trèo lên trượt xuống, trong óc tôi bật ra một ý nghĩ: phải trói mình vào một cái cây.
Tôi đã trói mình vào một cây móc già mọc trên khoảng đất trống cạnh rừng đào bằng sợi dây sắn rừng bứt ra từ đá. Thoạt tiên tôi trói hai chân để vô hiệu nó, rồi trói hai vòng quanh bụng vào gốc cây. Trăng mỗi lúc một sáng hơn, soi rõ rừng đào cổ thụ. Giữa đêm xuân, ngàn hoa rạo rực nở, một màu hồng mênh mông hào phóng tỏa trên khắp hai sườn núi, ban hơi ấm cho cả triền cao. Mỗi khi gió nổi lên, từng cánh hoa lại ứa ra màu thắm đỏ mặn mà, đẹp lộng lẫy như trong cuốn phim truyện thần kì tôi được xem hồi nhỏ.
Cũng vào lúc ấy tôi bỗng nghe thấy tiếng ngựa hí. Âm thanh mơ hồ trong gió, như vẳng đến từ một nơi nào rất xa. Vùng này không ai nuôi ngựa, tiếng gọi trở về ấy là thật hay do thương nhớ người xưa chốn cũ mà tưởng tượng ra, suốt đời tôi mãi mãi là ẩn số.
Đêm qua đi trong ánh trăng lạnh lùng tê tái. Tôi thả hồn vào sắc ấm hoa đào cho đỡ rét. Đợi đến sớm mai, mùng bảy Tết, sẽ xuống sông Đà rời khỏi đất Mường La.
5. Tôi trở lại Châu Mộc vào đầu xuân, khi lộc non mơn mởn xanh trên khắp núi đồi. Những vườn mận mới ngày nào còn trắng tinh như tuyết đọng giữa thảo nguyên, nay tràn trề một màu xanh tươi mát. Mưa xuân đã gội sạch các cánh rừng, thung lũng, không khí trong như lọc và trời chỗ nào cũng xanh ngắt không một gợn mây.
Tháng ba, hoa ban bắt đầu nở trắng núi rừng Tây Bắc.
Tháng tư, mận bắt đầu kết trái. Những quả non xanh như ngọc phủ lớp phấn trắng e ấp trong chùm lá xanh.
Tháng năm, mùa mận chín. Các bản Thông Cuông, Loóng Luông, Pa Phách, Phiêng Cành… đâu đâu cũng tím đỏ một trời mận hậu. Từng chùm mận mỡ màng căng bóng, sai trĩu trịt như nhánh quả hồ tiêu.
Một hôm có việc đi qua bản Pa Khen, tôi thấy trong thung lũng nhấp nhô một dãy lều xanh đỏ. Tưởng học sinh nghỉ hè về đây cắm trại, đến nơi mới biết đó là hội thi hái mận năm nào cũng diễn ra vào cuối tháng năm. Trên sân khấu nhỏ có người đang đứng thuyết trình về quả mận độc đáo của thảo nguyên. Nghe nói chị ta vượt lên cả sáu đội thi hái mận trong vùng và đoạt giải nhất.
Tôi chen lên trước đám đông để nhìn cho rõ. Người đàn bà vừa lập chiến công hiển hách ấy, thật kì diệu, chính là Lam.
Nhìn thấy tôi, nàng sa sầm mặt.
Đợi tan hội, tôi kéo nàng ra một góc, hỏi em giờ sống ra sao. Lam lạnh lùng cho biết nàng đang làm người hái mận thuê cho một gia đình có bốn trăm gốc mận ở thung lũng Nà Ka. Tôi nói sẽ về đó sống cùng em. Nàng cười nhạt, nói mùa mận qua rồi, nàng sắp theo một chị Mông đen về sống ở Tà Sùa, cùng làm nương và hái chè shan tuyết.
Tôi nghĩ ngợi rồi nói một câu rất sến:
- Anh làm quan mười mấy năm, dù chỉ là quan nhỏ thôi, cũng nhiễm vào người bao nhiêu thói xấu. Từ ngày lên Tây Bắc, thiên nhiên trong sạch đã giúp anh trở thành người tốt. Anh không bao giờ muốn về xuôi nữa. Chỉ cần em tha thứ, anh sẽ đi với em đến cuối đất cùng trời.
Nàng nhìn tôi, ánh mắt tiết ra sự khinh bỉ.
- Loại người như anh không bao giờ gột hết được tham sân si. Không có anh tôi vẫn tự làm tự ăn, anh nên cút đi cho rảnh mắt.
- Anh phải làm gì để em tin được đây? - Tôi giơ hai tay lên trời, rên rỉ.
Nàng không nói gì, nhổ bọt.
Tôi mím môi chạy vào gian trưng bày sản phẩm, nơi mận đã hái được bày thành đống trên những tấm bạt xanh. Tìm được một con dao, tôi kê ngón tay vào cột lều, chặt đứt. Mẩu thịt bắn vọt qua cành mận. Lam kinh hãi rú lên.
Ngay sáng hôm sau, tôi cùng nàng đi Tà Sùa. Tà Sùa, rặng núi bốn mùa ủ trong mây ở vùng Bắc Yên xa xôi, nơi có những cây chè trăm tuổi rêu phong, tôi đã từng nghe nói tới. Những đoạn đường không bắt được xe, tôi và nàng cuốc bộ. Vừa đi Lam vừa cằn nhằn rằng tôi ngu quá thể, chặt ngón nào không chặt lại chặt ngón trỏ, làm sao hái chè shan tuyết được bây giờ.
Rồi như chợt nhớ ra, nàng hớn hở cho tôi biết Tà Sùa chính là quê hương của các nguyên mẫu trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài. “Lên đó mình sẽ trồng một nương lanh dệt vải may váy áo, anh ạ. Cũng như vợ chồng A Phủ xưa kia, em chỉ mơ làm được một cái nhà gỗ chắc chắn trên núi tranh, có trâu có ngựa quanh nhà, ngày Tết trẻ con chơi dưới cây đào trước cửa. Chỉ mơ thế”. Tôi gật gù. Ừ, cũng chỉ mơ đến thế…
Qua những cánh đồng ngô rộng lớn, những đồi táo mèo trùng điệp phảng phất hương táo đầu mùa, chúng tôi bắt đầu leo núi. Dãy núi cao vút gồ lên như sống lưng một con khủng long, nửa trên bị bầu trời xanh lơ nuốt mất. Đá núi trơn và lạnh buốt. Đến đỉnh cao thứ nhất thì gặp lòng chảo nghi ngút biển mây.
Mây trắng như sữa, lô xô và đặc, cuồn cuộn tràn lên sườn núi như sóng vỗ bờ. Bốn bên lòng chảo, đá núi vút lên những mỏm nhọn hoắt, đen ngòm. Nhìn cái kì quan huy hoàng rợn ngợp ngay ở dưới chân, cả Lam và tôi đều khiếp đảm rú lên. Chỉ một chút sơ sẩy thôi, đời người sẽ biến mất dưới biển kia như một trò chơi vô tăm tích.
Lam bỗng im lặng, lục túi lấy ra điện thoại. Rồi đột ngột nghiêng mình, ném mạnh. Chiếc smartphone vút lên trời trong ánh nắng long lanh, rơi tõm xuống biển mây trắng muốt. Tôi cũng bắt chước nàng, tháo đồng hồ, rút ví, thẻ ATM và chìa khóa ngôi nhà chục tỉ. Tất tật, đều ném xuống biển sâu.
Chú thích:
1. Người Mông ăn Tết cổ truyền vào đầu tháng chạp, trước Tết Nguyên đán của người Kinh một tháng.
2. Ngày Tết, người Mông đặt các công cụ lao động cạnh ban thờ, dán giấy lên mỗi vật để tạ ơn chúng đã giúp mình trong công việc cả năm.
3. Người Mông kiêng ăn rau và canh trong ba ngày Tết, do quan niệm chan canh sẽ gây ra lũ lụt và ngày Tết phải ăn thịt thì cả năm mới được sung túc.
4. Hạn khuống là sinh hoạt văn hóa truyền thống của dân tộc Thái, có sàn làm bằng tre nứa dựng ở ngoài trời cho nam nữ đến ca hát giao duyên suốt đêm.
5. Người Thái cũng ăn Tết Nguyên đán như người Kinh, từ ngày 25 tháng chạp tới mùng 10 tháng giêng.
6. Hi đán và khuây đán là hai vật bằng đá có hình thù giống bộ phận sinh dục của nam và nữ, được truyền qua nhiều đời và được coi là có phép thuật phù hộ cho người dùng tai qua nạn khỏi, trừ được ma tà, còn dùng làm bùa yêu. Theo một nguồn tin trên báo chí, cả Tây Bắc chỉ có người Thái đen ở huyện Mường La (Sơn La) còn giữ được những linh vật này.
7. Chảu mường: người đứng đầu bản mường.
8. Khau cút: biểu tượng trang trí ở hai đầu hồi trên nóc nhà sàn của người Thái đen ở Tây Bắc.
Hà Nội, 2019
Phạm Duy Nghĩa
Theo http://vannghequandoi.com.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...