Hiểu Bùi Giáng đã khó, hiểu thơ Bùi Giáng lại càng quá khó.
Ông cứ “ngày tháng ngao du” giữa cuộc đời bụi bặm, bước chân nhảy múa xôn xao,
la hét huyên thuyên trên đường phố Sài Gòn. Rồi ông lại hàng giờ ngồi lặng như
thiền dưới một tàn cây để thẫn thờ đếm những chiếc lá rơi tịch lặng. Có khi
rong chơi suốt thời gian dài như kẻ không nhà. Có lúc lại đóng cửa nằm nhà hoặc
đu đưa trên chiếc võng dưới tàn cây trong vườn suốt hàng tháng trời tịnh khẩu.
Lúc như Bồ tát, lúc giống ăn mày; lúc tỉnh lúc điên, lúc đi lúc ở… Một thân
phiêu bồng, một hồn cố quận, không biết nơi đâu là chỗ dừng chân…
1. Bùi Giáng - Một thân phiêu bồng
Cuộc phiêu bồng của Bùi Giáng là một cuộc rong chơi bất tận.
Cơ hồ như từ trong bản thể máu tim của con người kia khi mới chào đời, đôi chân
bé nhỏ chưa đủ sức kéo thân xác phiêu du, nhưng “tim máu” thì đã thoát xác
phàm, du hành về những miền xa vô cùng tận: Anh nằm đây mà tim máu đi/ Đi
chỗ khác, đi rất xa, xa lắm/…/ Đi chỗ khác xa vô cùng vậy!/ Vô cùng vô tận là ở
đâu? (Xa vô cùng vậy). Như cánh chim én “ly kỳ”, thân non tơ, bé bỏng mà
cánh dạt dào bay đến những chân trời mộng, “phiêu du qua bao đỉnh trời” (Trịnh
Công Sơn), đôi cánh bay bé nhỏ mà “Dang tình yêu rộng ra ngoài trăm năm”: Còn
chim chóc? Còn đâu đâu/ Những chân trời mộng chim dào dạt đi/ Ôi chim én! Ôi ly
kỳ/ Tấm thân nhỏ xíu mà đi khắp trời/ Bởi nhòe đôi cánh thảnh thơi/ Dang tình yêu
rộng ra ngoài trăm năm (Chuyện chim). Như vậy cánh chim phiêu bồng Bùi
Giáng không chỉ phiêu du qua những không gian rộng mà còn phiêu du vượt cả thời
gian đằng đẳng “trăm năm”, gom cả chiều rộng không gian vô tận và chiều dài thời
gian bất tận. Đang ngẩn ngơ tìm dấu chân người trên mặt đất, thân phiêu bồng lại
vút lên cả chiều cao dõi theo những áng mây trời đang lãng du trên cao xa lồng
lộng: Tìm thơ dấu chân người xưa tư lự/ Ở bên đường ngóng dõi khánh vân bay (Những
nhành mai), Xin chào nhau giữa bụi đầy/ Nhìn xa có bóng áng mây nghiêng đầu (Chào
nguyên xuân), rồi: Tôi ngẩng mặt ngó ngàn mây cao rộng/ Tôi cúi đầu nhìn mặt
đất thấp đen và:
Sông trắng quá bảo lòng tôi mở cửa
Trăng vàng sao giục cánh mộng tung ngần
Còn ở lại một ngày còn yêu mãi
Còn một đêm còn thở dưới trăng sao
Thì cánh mộng còn tung lên không ngại
Níu trời xanh tay vói kiễng chân cao (Phụng hiến)
Phiêu bồng giữa hai chiều cao - thấp (Giữa Đất với Trời,
Giữa Dấu chân/ Giữa bụi đầy/ Ngẩng mặt, cúi đầu/ Kiễng chân với Khánh
vân/Áng mây/ Ngàn mây cao rộng/ Níu trời cao), Bùi Giáng lại chuyển di theo cả
hai chiều Nam - Bắc rồi lạc đến cả trời Tây: Bóng du ải Bắc phiêu bồng/ Thổi
sương ngần bạch quyên vòng cõi Nam (Sầu lục tỉnh); Hờn phố thị để lạc
hồn cõi lạ/ Sầu phố xanh từ bữa nọ em đi/ Tuyết trời Tây có nguôi lãng những gì (Không
đủ gọi). Nghĩa là, con người ấy thực sự đã xê dịch bất tận đời mình trong cả bốn
phương không gian. Không phải chỉ bốn phương Đông - Tây - Nam - Bắc theo lẽ thường
của phép Tứ tượng mà là gom cả Ngũ phương của phép Ngũ hành vì có cả phương
Trung ương (Trời - Đất). Đó chính là ngũ phương tung hoành ngang dọc, hoàn toàn
không phải chỉ dừng lại đơn thuần ở bốn phương không gian.
Không gian phiêu bồng trong thơ Bùi Giáng rất đa phương,
đa diện, lúc bốn phương, lúc có cả năm phương, lại có lúc là “bốn phía, ba
phương”: Gió thổi dậy lùa mơ vào bốn phía/ Ba phương trời chung gục khóc
đêm giông (Phụng hiến), lúc là “bốn trời, ba bề, bảy ngõ”: Nằm giữa
vườn cây nhớ bốn trời/Ba bề bảy ngõ nhớ muôn nơi (Cũng là như thể) cùng rất
nhiều thứ phương tứ tung đảo lộn theo kiểu tư duy phiêu bồng rất Bùi
Giáng: Bữa em đi trời xanh không nói. Rằng em sẽ ở cuối chân mây chân trời
chân đất chân cát chân anh (Em quên)… Ngoài không gian vô tận ấy, cái sat
- na thời gian cũng được Bùi Giáng thể hiện thành công bằng những “nốt nhấn
thơ” tài hoa khiến mỗi lần đọc lên cứ nghe rờn rợn bởi cái “sự đi” vô tình của
thời gian trong một kiếp người. Có cảm giác, hễ để vụt qua cái sát - na kia là
thân trượt dài về với tàn phai và đổ vỡ: Lên mù sương xuống mù sương/ Bước
xa bờ cỏ xa đường thương yêu (Áo xanh). “Xa bờ cỏ” là “xa đường yêu
thương” trôi miên man giữa hai chiều mù sương phiêu dạt, để bất chợt đốn ngộ từ
sát - na bé nhỏ giữa cuộc người rằng: Rồi từ đó về sau mang trái đắng/ Bàng
hoàng đi theo gió thổi thu bay (Không đủ gọi) và: Hỏi rằng: từ bước
chân ra/ Vì sao thấy gió dàn xa dặm dài (Chào nguyên xuân). Chợt rùng mình
nhớ lại cái sát - na mong manh giữa sống và chết trong tích tắt tàn hơi của thi
sĩ Bích Khê: Ồ, đừng có ngớp! mời anh hãy bước/ Qua nơi này là cách biệt trần
gian (Một cõi trời).
Dẫu biết một “phiêu linh” là một chịu “thiệt thòi”, là “tồn
sinh” trong “cát lầm” bụi bặm cho bản thân mình: Thiệt thòi đời mộng phiêu
linh/ Canh sương ngọc thụ tồn sinh cát lầm (Mùa phượng cũ) và đem lại sự
“mòn mỏi” đợi chờ cho cả người ở lại: Hồn du mục cỏ hoa mòn mỏi/ Rừng đêm
xanh trăng tạ không lời (Về giữa ngọ), Sườn non bốn vó ngựa trèo/ Sông
mờ bóng phượng ai chèo thuyền nan (Phượng), thậm chí là phiêu du trong những
trận đau đời “lồng lộn”: Các em vô tận phiêu bồng/ Phiêu du suốt cõi trận lồng
lộn đau (Lời là) và thừa biết trong những cuộc “bỏ đi” ấy, “khổ đau”
luôn ập đến bất ngờ, không đợi chờ, “hò hẹn”: Nửa đời bỏ lạc thâu canh/ Nửa
linh hồn bỏ nước xanh lên bờ/ Khổ đau về chẳng hẹn giờ/ Hoang liêu phố rộng bước
hờ hững đi (Ngủ dài)… nhưng người thơ vẫn cứ duỗi rong như người thủy thủ
trên dặm nghìn biển sóng: Tôi người thủy thủ ra đi/ Chân trời thấy nước đợi
kỳ lên mây (Mái hiên), vẫn “thuận tòng chịu vậy”: Thôi thì vậy - hồng
trần chịu vậy/ Thuận tòng theo quan ải đèo truông (Chuyện thình lình), thậm
chí còn nhận ra rất rõ sự khoái cảm khi cuộc viễn hành để lại sau lưng những âm
thanh “dội mãi” trên đường chiều: Những nhịp bước trên đường còn dội
mãi/ Vang về đâu không vọng lại hồi âm (Chiều) và Bốn vó lên đèo
truông ải vang/ Trùng quan một bận gió lên ngàn (Kể chuyện), nhận ra cả sự
huyền diệu “lung linh” trong cuộc phiêu bồng vô cùng, vô tận: Đi về vô tận
mà ra vô cùng/ Phiêu bồng cổ lục linh lung (Khách biên đình) qua suốt “mấy
miền mấy cõi nhớ quên” vẫn nghe thông reo, rừng vọng, suối ngân đón chào trên
truông đèo đi qua và trên cao kia những hào quang mây trời vẫy gọi: Đầu
xanh tư lự mấy phen/ Mấy miền mấy cõi nhớ quên mấy lần/ Thông đèo rừng núi suối
ngân/ Mây trời vấn vít hồng vàng mây bay (Chuyện chiêm bao 18)…
Có thể nói, Bùi Giáng thừa biết sự thiệt thòi, mất mát của
cái thói phiêu bồng, nhưng nhà thơ nghiễm nhiên tuân thuận theo những chuyến duỗi
rong và thậm chí còn rất “đã đời” trong những cuộc phiêu bồng ấy cho dù lãng du
đến tận mây trời hay chỉ là những cuộc lãng du “chạy vòng” loanh quanh giữa cuộc
đời thực tế: Sài Gòn, Chợ Lớn rong chơi/ Đi lên đi xuống đã đời du
côn” và Chạy vòng quanh Thu Lục Tỉnh bao la/ Cồn Sa Đéc Sóc Trăng
sương vòi vọi (Màu xuân).
2. Bùi Giáng - Một hồn cố quận
Gót phiêu bồng tung theo vó ngựa dù có tìm được khoái cảm,
Bùi Giáng vẫn nhận ra sự “gay cấn” trong những cuộc phiêu bồng, vì thế, dù thân
đã “đầu thai trong vó ngựa” hồng trần thì hồn thơ lại “hóa sinh” trở về bản
nguyên nguồn cội giữa “núi đá mưa ngàn”: Lời gay cấn đầu thai trong vó ngựa/ Hồn
hóa sinh về núi đá mưa ngàn (Gửi thôn nữ); đôi lúc, nhà thơ còn thức nhận
rất rõ cái “thiên cổ sầu” của sự chung chiêng “tơi bời lảo đảo” của những đoạn
trường từ tạ để thấy cả cuộc đời bưng mặt khóc giữa biệt ly: Sầu thiên cổ
chợt về trên nước dạo/ Gió biên đình chợt ẩy gục đầu hoa/Ồ ly biệt tơi bời bờ lảo
đảo/ Em ra đi - Đời bưng mặt khóc òa (Chiêm bao). Vì thế, nhà thơ dường
như chỉ thực sự tìm được niềm vui khi quay về cố quận: Em về xứ cũ một
mai/ Nhìn xem cố quận trúc mai hội hè (Nàng tiên ôi), và thực sự buồn nếu
chỉ một đi mà chẳng trở về: Tôi ngồi khóc suốt sơn khê/ Ngàn sau ai dắt
nàng về thăm tôi (Ôi một nàng tiên). Một nỗi buồn trùm “suốt” cả “sơn
khê”.
Cứ ngỡ rằng, tìm được khoái cảm trong cuộc lữ của mình là một
đi không trở lại, nhưng không, từ trong bản thể, cái “sơ nguyên mộng” vẫn là
cái quyết định sau khi nhà thơ “sực tỉnh giang hà” giữa cuộc “biển dâu”: Biển
dâu sực tỉnh giang hà/ Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh (Áo xanh). Ở đây,
hình như, sau khi trải qua muôn biến thiên, thăng trầm của “sử lịch”, nhà thơ
đã ngộ ra cố quận nguyên sơ mới chính là nơi tái sinh của vĩnh viễn xuân: Vì
từ độ manh nha trăng là nguyệt/ Kinh là kỳ từ sử lịch phân vân/ Từ cố quận tái
sinh xuân tận tuyệt (Không thể nói rằng). Nếu nói rằng, cái “ban đầu” là
“nguyên xuân” để rồi từ đó, con người làm cuộc dấn thân phiêu bồng thì sau cuộc
dấn thân ấy con người lại trở về với cái - mai - sau - đầu - tiên, nghĩa là lại
trở về cố quận khởi nguyên: Mai sau hẹn với ban đầu/ Chờ nhau ngõ khác ngó
màu nguyên xuân (Hẹn ước). Chính vì thế, cố quận của Bùi Giáng, ở bề sâu
triết học chính là cái Nhất Nguyên Thể Luận, cái uyên nguyên “sơ nguyên”,
“nguyên xuân”, “nguyên tiêu” khởi thủy: Người kỹ nữ ngày xưa trên bến nước/ Sẽ
đi về trong bóng nguyệt quanh năm/ Và sẽ nhắc với đời em chuyện trước/ Vòm nguyên
tiêu rơi rụng giữa trăng rằm (Về giữa ngọ); là “rừng rú thẳm” , “quê thân
thiết”: Sực nhớ rằng đây rừng rú thẳm/ Là quê thân thiết biết bao chừng (Người
về); là “thôn làng”, “khe suối”, “hang rừng”: Xuống thôn làng ngó lá rụng
ven khe/ Mùa tháng chạp chim trời xa lỡ hẹn/ Với sông thu từ một buổi bay về (Hang
rừng). Cố quận sơ nguyên của Bùi Giáng còn là cái “đầu tiên… thiên hương thiên
thượng” và “man dã”: Vì có lẽ từ đầu tiên em đã/ Là thiên hương thiên thượng
vô biên thùy/ Em xuân sắc tìm anh từ man dã/ Em dã man gạn hỏi: anh là gì (Vì
có lẽ); là cái “vạn đại” có người đẹp “đi về” sau cuộc trầm luân “no nê” với những
phiêu bồng: Rồi nó khóc dỗ hoài nó không nín/ Nó nói rằng giờ bao tử no
nê/ Nó khởi sự nhớ người yêu quá sức/ Ồ giai nhân!. Từ vạn đại đi về (Người ấy).
Đúng như thế, cố quận với Bùi Giáng là “cỗi nguồn”, “tình thương từ đầu”,
“hương màu đầu tiên”: Tình yêu rất có cỗi nguồn/ Ấy là quý chuộng tình
thương từ đầu/ Tình yêu đi mất từ lâu/ Vẫn còn ở mãi hương màu đầu tiên (Tình
yêu). Vậy nên, từ những cõi phiêu bồng xa xôi có hình bóng “tố nữ tiên nga” với
“tuyệt thể nín thinh”, người lại trở về “đủng đỉnh” gót trần và “thình lình cười
to” giữa trần thế gụi gần trong “một giờ… bất ngờ tao ngộ”:
Em từ tố nữ tiên nga
Đi về đủng đỉnh như xa như gần
… Em từ tuyệt thể nín thinh
Bất ngờ tao ngộ thình lình cười to (Một giờ).
Ngoài cái cố quận trong tư duy của cỗi nguồn triết học ấy, cố
quận tìm về của nhà thơ còn là sự trở về với bổn làng, đồng quê miền Trung đất
Việt. Ở đây, người thơ cũng đã nhận ra những nét đẹp nguyên sơ đến mê cả hồn
người: Sương đồng sương ruộng từ khi/ Ta từ vô tận mà đi trở về/ Một vùng thủy
thảo thôn quê/ Tầm sương sái điện tê mê tình người (Cá sóng). Bùi Giáng còn
mong muốn được hòa nhập vào đất quê, chân quê và xem như an nhiên trở về với
“biểu tượng sơ nguyên”: Đồng ruộng đó đương chờ em bước tới/ Bàn chân nhỏ
gót buồn em hãy vội/ Hãy chần chờ anh soạn sửa theo chân/ Áng mây xa cũng sắp lại
về gần (Biểu tượng sơ nguyên). Cái cố quận gần hơn và cụ thể hơn nữa chính
là đồng ruộng quê hương, làng xóm cũ Quảng Nam mà chính ông đã tự mình thất lạc
bởi những cuộc phiêu bồng: Đi về làng xóm năm xưa/ Viếng thăm quê cũ người
chưa quên người/ Người hỏi tôi: “Từ đâu ông đến nơi đây?”/ - “Thưa cô thôn nữ từ
đây tôi về” (Đi về làng xóm). “Từ đây tôi về” nghĩa là nhà thơ đã xem nơi
xuất phát chính là nơi về lại. Trở về quê, người quê thấy lạ, cất tiếng hỏi,
ông lại tỉnh rụi trả lời: Hỏi rằng: người ở quê đâu/ Thưa rằng: tôi ở rất
lâu quê nhà (Chào nguyên xuân). Có nghĩa là ông đã đi mà vẫn cứ như là ông
ở. Người quê có tức giận, xửng cồ thì ông lại lý giải bằng cái giọng điên điên
chẳng ai giận nổi: Em có gặp nó bao giờ chưa ạ/ Ở Sài Gòn mà nói giọng Quảng
Nôm/ Vì quê quán nó vô cùng xa lạ/ chúng ta là những đứa không khùng (Người
ấy). Và khi hiểu ra thì ai cũng tin, cũng cảm thông vì thơ ông gọi tên đất, tên
làng Quảng Nam quá đỗi gũi gần, thân thuộc: Thanh Châu - Thương nhớ ngàn
ngàn/ Vĩnh Trinh Lệ Trạch muôn vàn Duy Xuyên/ Những người quen ở Bến Đền/ Bảo An
Bàn Lãnh gần bên Xuân Đài/ Sông Thu Bồn vẫn thở dài/ Thương dòng khe nhỏ thương
hoài suối con (Chiều nay). Người đọc thật sự thương cảm cho gã lãng du bởi
trong thơ ông cái điệp khúc bàng hoàng cứ lặp đi lặp lại: Chiêm bao tôi thấy
tôi về Quảng Nam/ Rong chơi Đại Lộc Điện Bàn/ Duy Xuyên, Tiên Phước, Hòa Vang,
Thăng Bình (Về Quảng Nam), Chiêm bao tôi thấy tôi về Quảng
Nam/ Dòng khe mất bóng đá vàng/ Dòng sông trôi xuống Hội An, Kim Bồng (Tôi
thấy tôi về). Chiêm bao thấy mình về quê là kết quả của sự ám ảnh khi con người
lúc tỉnh cứ thường trực nỗi nhớ quê. Cái cố quận Quảng Nam trong thơ Bùi Giáng,
mỗi lần đọc lên cứ rưng rức nhớ thương: Tuổi nhỏ băng qua mùa sóng trùng
trùng không thỏa khi nhìn anh hai mắt hai môi trở về khóc than trở về không
nói, trở về không thấy quê hương (Nhỏ dại). Không lắng lòng vào đất quê đến
tận cùng nỗi da diết nhớ, không thể làm nên những câu thơ viết về quê hương như
rút ruột thân tằm: Đồng ruộng cũ màu trôi trong cỏ nhặt/ Dưới bình minh rạ
xám gốc trơ phơi (Người đi đâu). Cái bước chân tuổi nhỏ của nhà thơ cứ chạy
suốt sáng đến chiều qua từng “hàng ngò bụi ớt luống cải” quê hương, chạy cùng
nước mắt của cả một tuổi thơ ngập tràn thương nhớ: Ngọn đèn dầu khóc sáng
và chiều em chạy bên hàng ngò bụi ớt luống cải nắng hồng vào trong tóc không
khuây (Bờ xuân). Đúng là cả một hồn quê thấm đẫm chứa chan trong thơ Bùi
Giáng: Một vùng nắng phủ mai thôn/ Sương trùm nước ruộng lá dồn xuống
khe/ Mai sau dù có đi về/ Xin nhìn gió rụng ngành tre thưa rằng (Em về). Như
vậy thân xác phiêu du mà hồn vẫn “bỏ lại” hòa tan trong “thớ đất ruộng thừa”,
hiểu lòng quê đến mức nhìn thấu cả ruột gan quê xuyên qua hết xương cốt hình
hài: Hồn bỏ lại ruộng thừa trong thớ đất/ Anh nhìn em trong suốt giữa xương
da (Màu xuân).
Nếu ở miền cố quận được quan niệm theo tư duy triết học với
những xứ sở “nguyên sơ”, “nguyên xuân”, “đào nguyên”… ta bắt gặp thấp thoáng những
dung nhan phiêu bồng xa xôi như “tiên nga, tố nữ”, rồi cả trở về “Nguyên
lý Mẹ” với những “Huyền tẫn” Âu Cơ, Thúy Kiều, Thúy Vân, Kim Cương Nương Tử ,
Hà Thanh Cố Nương, Mẫu Thân Phùng Khánh… hoặc xa hơn như “cô mọi Châu Phi”,
Marilyn Moroe, Brigitte Bardot… thì nơi cố quận đồng quê gụi gần, ta lại bắt gặp
trong thơ Bùi Giáng rất nhiều những “Thôn Nữ Bờ khe”, “Thôn Nữ Bờ Mương”: Tôi
ngồi liên tưởng bờ mương/ Có người thôn nữ khôn lường bờ khe (Bâng
quơ), Em là Thôn Nữ Bờ Mương/ Dựng vòm cỏ xóa đoạn trường tương lai (Chào
em), những “thuyền quyên”, “thục nữ”: Hãy mang tôi tới bất ngờ/ Giết tôi ngẫu
nhĩ trong giờ ngẫu nhiên/ Hãy mang tôi tới diện tiền/ Giết tôi chết giữa người
thuyền quyên kia (Sa mạc trường ca) và cả những “Em Gái Núi”, “em Mọi Nhỏ
Thanh Tân” hiện ra cũng đẹp tươi, nguyên sơ chẳng kém “thiên thần”: Em từ
Gái Núi quá xinh/ Hùm thiêng ba cặp bình minh quây quần/ Em từ Mọi Nhỏ thanh
tân/ Mười hai con mắt thiên thần mở ra (Gái núi mai sau)… Quả đúng
là: Ông đi gặp gỡ thiên thần/ Ông về gặp gỡ từ phần tiên nương/ Ông nằm ngủ
mộng du dương/ Thần tiên tụ góp miêu cương một giờ (Thần tiên cảnh giới).
Nghĩa là, cả ở “nơi xa”, “nơi gần” trong vũ trụ vạn vật đều được ông gom
về giữa cố - quận - lòng với “con tim nóng hổi chờ mong”, tận cùng “phụng
hiến”: Tôi đã gửi hồn tôi biết mấy bận/ Cho mây xa cho tơ liễu ở gần/ Tôi đã
đặt trong bàn tay vạn vật/ Quả tim mình nóng hổi những chờ mong (Phụng hiến).
3. Bùi Giáng - Tuy hai mà một
Phiêu bồng, ngao du cả trong đời sống và cả ở thi ca với
một tinh thần “quyết liệt”, “quyết tâm”, “tận cùng”, “quyết thể” và “tận tuyệt”.
Đó là Bùi Giáng. Nhưng có ngao du đến muôn xứ sở thì tấm thân bềnh bồng ấy cũng
lại tụ về để “tao phùng” cùng “nguyên xuân”, “nguyên tiêu”, “bến đào nguyên” của
những giai nhân, tố nữ, tiên nga… cùng “truông rừng”, “khe rú”, “ruộng đồng”,
“hang động” của những “Cô Mọi Nhỏ”, những “Em Gái Bờ Mương”, những “thuyền
quyên”, “thục nữ”… Lại cũng là Bùi Giáng:
Rồi từ đó anh trở thành quyết liệt
Quyết tâm điên và say rượu tận cùng
Vì quyết thể đã từ lâu tận tuyệt
Tới ngao du tuế nguyệt để tao phùng (Không thể nói rằng).
Có lẽ chính vì thế chăng, mà thơ Bùi Giáng cứ đặt ông vào thế
đối lập trước - sau: Xin chào nhau giữa con đường/ Mùa xuân phía trước miên
trường phía sau (Chào nguyên xuân). “Phía trước” là “mùa xuân”, “phía sau”
là cả giấc “miên trường”. “Ngày mai” là một thân “cá sóng phiêu bồng” nhưng rồi
qua lớp “lớp phiêu bồng” dẫu trọn vẹn “trúc mai”, vầng trăng viễn du kia vẫn cứ
“quy lai” về cõi “sương đồng” ở “cuối đường” cùng “ngàn xuân mở rộng” đón chào:
Ngày mai cá sóng phiêu bồng
Ngàn trăng ngậm bóng sương đồng quy lai
Lớp phiêu bồng mọc trúc mai
Một ngàn xuân rộng chào ai cuối đường (Gửi thôn nữ).
Phía trước - phía sau. Dừng lại - bước tiếp. Rảo bước
giữa muôn dặm thị thành, lòng vẫn hướng về phía “xuân xanh”, vừa về với “bến
đào nguyên” lại tiếp tục “khoác áo khinh cừu” làm cuộc viễn du bất tận: Buồn
phố thị cũng xa bay theo gió/ Cộ xe nhiều cũng nhảy bỗng như hươu/ Bờ cõi dựng
xuân xanh em còn đó/ Bến đào nguyên anh khoác áo khinh cừu (Những nhành
mai). Trong thơ Bùi Giáng có cả “hai miền” sau trước; có đến, có đi; có từ giã,
có tao ngộ; có sự dùng dằng đi - ở, ở - đi: Du dương từ giã hai miền/ Nước
truông còn chảy bên triền mây trôi/ Đầu khe lá cỏ phai rồi/ Đá vang tiếng ngựa
bên lời ước mong (Sầu ca sĩ). Nhưng dùng dằng cho mấy, trước sau gì rồi vẫn
trở về với “cỗi nguồn”, về lại chính nơi mình đã ra đi: Thưa rằng ly biệt
mai sau/ Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân (Chào nguyên xuân),
và Sóng phiêu bồng tạnh màu mây xanh về (Sẽ đi)…
Đọc thơ Bùi Giáng, ta dễ nhận ra những xứ phiêu bồng và
cả những miền cố quận vừa rất cụ thể nhưng đồng thời lại cũng đầy tính khái
quát, biểu trưng. Hình như phiêu bồng là bản tính của thân phận nhà thơ, còn
cái “cỗi nguồn” cố quận mới chính là cõi chân như, bản nguyên Bùi Giáng. Và,
cũng hình như, trong tầm thấu đáo triết học mà Bùi Giáng là bậc thầy, ta có cảm
giác “tuy hai mà một”:
Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
Hỏi
quê? Rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên là một hai ba
Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm (Tặng Mã Giám Sinh)
Như vậy, dù một thân phiêu bồng hay một hồn cố quận, bắt
đầu hay cuối cùng, đi hay ở, dừng lại hay khởi hành, phía trước hay phía sau…
thì cái kết thúc vẫn là cái ban đầu của con người và thơ ca Bùi Giáng: Đã
đi đã đến cuối trời/ Đã về như vẫn muôn đời đã đi (Mùa Màng Tháng Tư). Cái
“đồi sim trái chín” mà ông từng “lùa bò vào” từ thuở thanh xuân suốt núi đồi
Trung Việt để rồi từ đó phiêu du đến mọi chốn mọi nơi thì cuối cùng vẫn là cái
uyên nguyên còn lại nở thắm trong lòng ông một “màu hoa trên ngàn”, một làn
“sương bình nguyên” vĩnh viễn của mùa xuân sơ nguyên từ vạn cổ.
Hiểu và thấm thía cái triết thuyết Nhất Nguyên Thể (Vạn
vật khởi nguyên từ một thể), người đọc có thể sẽ nhận ra dáng hình và dáng thơ
của “Đười Ươi thi sĩ” - khởi nguyên của loài người: Đi về trong cõi người
ta/ Trước là thi sĩ sau là đười ươi/ Trận sầu kết chặt cơn vui/ Tiền trình vạn lý
chôn vùi dấu chân (Gấu ôi). Và như vậy, cái câu hỏi khó trả lời xưa nay:
“Bùi Giáng điên hay không điên”? cũng sẽ dần dần lộ diện như chính ông đã từng
bộc bạch trong Lời tựa cuốn “Martin Hoelderlin Và Tư Tưởng Hiện Đại”: Cái
kẻ dịu dàng như hươu non đành chịu bóp chết lòng mình để rống to như thú dữ. Và
Nietzsche đã điên. Trước Nietzsche mấy chục năm, Hoelderlin cũng đã điên. Cùng
với bao kẻ khác cũng đã điên. Để ngày nay… Để ngày nay chúng ta tụ hội về đây,
xôn xao nêu câu hỏi: “Cớ sao mà điên”? Nêu một cách rất ngây thơ tròn trĩnh (trích
theo “Bùi Giáng - Trong cõi người ta”, tr.393-394).
Vậy nên, Bùi - Giáng - Tỉnh như “hươu non dịu dàng” hay Bùi -
Giáng - Điên “rống to như thú dữ”, cố quận hay phiêu bồng… uyên nguyên vẫn chỉ
một mà thôi.
Tài liệu trích dẫn:
1. Bùi Giáng, Thơ Bùi Giáng chọn lọc, Nxb t. hợp Đồng
Nai (2005)
2. Bùi Giáng, Mưa nguồn, Nxb Văn nghệ tái bản, Tp HCM (2005)
3. Bùi Giáng, Rong rêu, Nxb Văn nghệ tái bản, Tp HCM (2005)
4. Bùi Giáng, Mười hai con mắt, Nxb Văn nghệ tái bản,
Tp Hồ Chí Minh (2005)
5. Bùi Giáng, Tuyết băng vô tận xứ, Nxb Văn nghệ,
Tp HCM (2005)
6. Bùi Giáng, Thơ vô tận vui, Nxb Văn nghệ, Tp Hồ
Chí Minh (2006)
7. Bùi Giáng, Thơ vinh họa, Nxb Văn nghệ, Tp Hồ Chí
Minh (2007)
8. Nhiều tác giả, Bùi Giáng - Trong cõi người ta, Nxb
Lao Động, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây (2008)
Quảng Ngãi, tháng 5/2012
Theo http://www.vanhoanghean.com.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét