Người đương thời thơ mới
bàn về thơ Nguyễn Vỹ
Nhà thơ Nguyễn Vỹ (1912 - 14.12.1971), còn ký các bút danh
Tân Phong, Tân Trí, Lệ Chi…; quê làng Tân Hội (sau đổi thành Tân Phong), nay
thuộc xã Phổ Phong, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Ông học Trường Trung học
Pháp - Việt ở Quy Nhơn từ 1924, đến năm thứ ba (1927) thì bị đuổi vì tham gia
phong trào bãi khóa. Sau ông ra học ở Hà Nội, đỗ Tú tài toàn phần (1932), được
bổ dạy tại Trường Thăng Long, cộng tác với các báo La Patrie Annamite, L’Ami du
Peuple Indochinois, Tiếng dân, Văn học Tạp chí, Đông Tây Tuần báo, Phụ nữ Tuần
báo, Tiểu thuyết thứ Năm… Ông cùng Trương Tửu chủ trương tuần báo Le Cygne
(1935-1936). Khi viết bài chỉ trích đường lối cai trị của người Pháp trên báo
Le Cygne, ông bị qui kết “phá rối cuộc trị an, xui dân làm loạn để đánh đổ
chính phủ” với cái án 6 tháng tù và phạt 3.000 quan (1937). Vì có tư tưởng chống
Nhật nên ông bị quân phiệt Nhật bắt an trí ở Trà Khê, Phú Yên (1941-1945)...
Đương thời phong trào Thơ mới, Nguyễn Vỹ đã cho in Tập thơ đầu - Premières
poésies (Thơ Việt và Pháp, Tác giả xuất bản, Hà Nội, 1934) và các tác phẩm văn
xuôi: Đứa con hoang (Tiểu thuyết. NXB Minh Phương, Hà Nội, 1936); Grandeurs et
Servitudes de Nguyễn Văn Nguyên (Tập truyện ngắn Pháp văn. NXB Đông Tây, Hà Nội,
1937); Người đàn bà trần truồng (1938); Thi sĩ Kỳ Phong (Ký cô Lệ Chi. Truyện
dài. NXB Nam Ký, Hà Nội, 1938); Kẻ thù là Nhật Bản (Luận đề chính trị. NXB Thanh niên, Hà Nội, 1938); Cái họa Nhật Bản (Luận đề chính trị. NXB Thanh niên,
Hà Nội, 1938); Chiếc bóng (Tiểu thuyết. NXB Cộng lực, Hà Nội, 1941)… Nói riêng
về thơ, đương thời thơ Nguyễn Vỹ đã được nhiều nhà thơ và giới phê bình như Tứ
Ly (Hoàng Đạo), Lê Ta (Thế Lữ), Nguyễn Nhược Pháp, Lê Tràng Kiều, Vân Hạc - Lê
Văn Hòe, Trương Tửu, Thanh Địch, Mộc Khuê (Kiều Thanh Quế), Hoài Thanh, Hoài
Chân, Vũ Ngọc Phan... cùng quan tâm tìm hiểu, thẩm bình.
Trong tiến trình phát triển phong trào Thơ mới 1932-1945,
Nguyễn Vỹ thuộc lớp nhà thơ tiên phong, giai đoạn khai phá, mở đường, đặt nền
móng. Tuy nhiên, chàng thơ Nguyễn Vỹ 22 tuổi trình làng Tập thơ đầu - Premières
poésies (1934) với những sự khác người ở cách tự xuất bản, trổ tài bằng cả thơ
tiếng Việt và thơ Pháp, trong đó có mấy bài theo lối 12 chân (alexandrins),
hình thức kiểu thơ Tây lạ lẫm, thế cho nên có khi đã không được đánh giá cao,
thậm chí còn bị châm biếm, giễu nhại. Khởi đầu, với bút danh Tứ Ly, nhà văn
Hoàng Đạo dõng dạc lên tiếng: “Một Tập thơ đầu, thơ Tây lẫn thơ ta, nhà
thi sĩ Nguyễn Vỹ cũng ra đời. Thi sĩ cũng nức nở tự giới thiệu
cùng độc giả: “Lệ đầy mắt, quản bút cầm tay, hỡi độc giả, tôi là
một nhà thi sĩ vô danh, xin ra mắt các ngài. Nếu các ngài không vồn
vã tôi, xin cũng đương khinh tôi”... Nào ai khinh thi sĩ mà thi sĩ đã
vội sụt sùi.
… Tôi biết người ta khinh tôi và không bao giờ người ta
yêu tôi,
Tôi biết tôi đem gieo tung vần thơ và nước mắt của tôi.
Nhưng, hãy thong thả cho tôi, hỡi tất cả các ông!
Hơn nữa, nếu nước mắt của tôi có mọc mầm trong lòng
các ông, xin các ông cứ để cho nó nở hoa.
Đọc xong những câu thơ này, ai còn là người có can
đảm không tha thứ cho ông Nguyễn Vỹ và không để nước mắt của ông nó
mọc mầm ở trong lòng cho được! Vậy ai ai có linh hồn ảm đạm xin hái
lấy những bông hoa ảo não, rầu rĩ nó nở trên những mầm, mọc trong
bát nước mắt của nhà thi sĩ Nguyễn Vỹ” (Phong hóa, số 125, ngày
23-11-1934, tr.3).
Liền số sau, Tứ Ly trong bài hý tác tưởng tượng Cuộc hội chợ
“Phong hóa” tổ chức, đến tiểu mục Gian quỷ thuật, lại nhè tập thơ Nguyễn Vỹ mà
châm biếm: “Lý Toét không bỏ gian đồ cổ, Ba Ếch đành bỏ Lý Toét lại đấy, rồi
sang gian là trò quỷ thuật. Ông Nguyễn Vỹ vác Tập thơ đầu khóc thiết tha để rỏ
nước mắt vào một quả tim lợn để cho nó mọc mầm nở hoa” (Phong hóa, số 126,
ngày 30-11-1934, tr.5).
Cách tuần sau, Lê Ta - bút danh chủ tướng Thế Lữ - bày tỏ sự
phản cảm, chê trách thơ Nguyễn Vỹ trong mục bài điểm sách: “Nhà “thi sĩ” Nguyễn
Vỹ, tác giả Tập thơ đầu là một nhà có nhiều tài, tình cảm nhiều, mà lòng tự ái
lại nhiều hơn. Cho nên, khi ông ra mắt quốc dân, mắt đầy lệ, cây bút cầm tay,
ông không muốn cho ai khinh ông cả. Ấy thế mà Nhất Linh lại bảo tập thơ đầu của
người tên là đuôi kia không có ruột! Muốn khỏi mất lòng “thi sĩ”, tôi phải nói
chữa hộ Nhất Linh: thơ ông Vỹ có ruột đó chứ, chả tin cứ giở cuốn sách của ông
ra mà coi: chỉ tiếc cái ruột ấy đặc quá, mà khốn một nỗi là người ta lại không
biết nó đựng những cái gì! Về phần thơ chữ Pháp thì tôi thấy Nàng Thơ của ông
là một chị chàng sướt mướt, ẻo lả, khóc khóc, mếu mếu, như con mẹ điên, mà lại
nói ngọng nữa. Bởi thế, khi nàng ấy ca, người Nam không ai chịu được, còn người
Tây thì… tôi khuyên cả nàng lẫn ông đừng có cho họ nghe!” (Phong hóa, số 127,
ngày 7-12-1934, tr.9)…
Khác biệt hơn, nhà phê bình chuyên về thơ mới Lê Tràng Kiều
đóng vai trò trọng tài, vừa điểm lại tình hình phê bình thơ Nguyễn Vỹ và đi tới
phân tích, xác định, khẳng định những nét mới lạ, đặc sắc:
“Kể bây giờ mà nói đến Nguyễn Vỹ đã là chậm lắm rồi, người ta
nói đến Nguyễn Vỹ nhiều lắm, nhiều quá… Chỉ một cái được người ta nói tới nhiều,
cũng đủ vinh dự cho nhà thi sĩ, vì vô duyên nhất, đau đớn nhất cho kẻ hao tổn
không biết bao tâm trí, biết bao ngày giờ để làm nên một bài thơ, in nên một cuốn
sách mà không ai nói tới. Đã đành rằng những lời nói tới đó, chẳng đẹp lòng ông
Nguyễn Vỹ, nhưng… “người ta công kích ta, chỉ chứng rằng ta sống”. Thơ ông Nguyễn
Vỹ đã là một cái đầu đề cho người ta viết, một câu chuyện cho người ta bàn, thơ
Nguyễn Vỹ đã sống một cách đầy đủ ở trên mặt các tờ báo… Quyển Tập thơ đầu, mới
ló đầu ra đã bị ngay ông Lê Ta ở báo Phong hóa, công kích một cách tàn tệ… Cũng
lại chỉ vì cái lẽ ông Lê Ta (Thế Lữ) cũng làm thơ mà ông Nguyễn Vỹ cũng làm thơ
đó thôi. Chứ công kích như cái kiểu ông Lê Ta, trong cái thời kỳ văn học đang
phôi thai này, có nhà văn nào, có tác phẩm nào là không đáng công kích?… Ông
Nguyễn Vỹ chẳng hạn, đưa lại cho sự xây đắp ấy, một mảnh vôi nhỏ, cũng đã là
nhiều lắm rồi. Ta có cầu gì hơn nữa ở họ một sự hoàn toàn không bao giờ có…
Đêm đã về khuya. Vài hạt sương gieo nặng ở trên cành… theo điệu sương, những
cái mảng lòng của nhà thi sĩ cũng rơi vào trong cái rỗng không vô để: Sương
rơi/ Nặng chĩu/ Trên cành/ Dương liễu… Đó là những hạt sương? Những mảnh lòng tan vỡ ư? Những hạt lệ rơi thánh thót ư?
Không, đó là tất cả! Đó là cái nhạc điệu thiên nhiên của những vật vô hình và hữu
hình ở trong vũ trụ lúc đêm khuya, những vật ấy, nối tiếp nhau mà tan vỡ thành
từng giọt.
“Từng giọt
Thánh thót
Từng giọt
Điêu tàn”…
Một người đã tìm được một cái nhạc điệu mới như thế, há chi “xứng” để cho người
ta dìm xuống? Làm ra được một bài như bài Sương rơi cũng đã nhiều lắm rồi, cũng
đủ cho ta quên hết những cái sơ xuất của nhà thi sĩ trong lúc mới ra đời” (Hà Nội
báo, số 23, ngày 10-6-1936, tr.11-15).
Từ Sài Gòn, bình giả Lê Văn Hòe phê phán tập Những áng thơ hay gồm 17 bài của
17 nhà thơ do Nguyễn Nhuệ Thủy sưu tập và Lê Tràng Kiều đề tựa (Nam Ký Xb,
1936), trong đó có điểm danh thơ Nguyễn Vỹ: “Bài Sương rơi của Nguyễn Vỹ chỉ là
một xâu chữ, một xâu chuỗi lệ. Thế thôi. Hay hay dở chưa dám quyết. Nhưng nếu
“thơ hay cốt ở ý” thì bài nầy dở lắm” (Công luận, số 7230, ngày 19-9-1936,
tr.4)…
Một năm sau, tức đã vượt qua ba năm kể từ khi Nguyễn Vỹ cho in Tập thơ đầu
(1934), bình giả Lê Văn Hòe với bút danh Vân Hạc cho rằng thơ Nguyễn Vỹ mạnh về
ý tưởng nhưng cần gia tăng chất thơ và trau chuốt hình thức câu chữ: “Tôi cũng
nhận rằng ông Nguyễn Vỹ có một tâm hồn thi sĩ và chỉ có thế thôi. Ông Nguyễn Vỹ
không thể là một thi sĩ được, mặc dầu, theo André Chénier, thì “nghệ thuật chỉ
làm nên những câu thơ, cái tâm hồn mới làm nên thi sĩ”. Ta cứ đọc thơ của tác
giả Tập thơ đầu thì tự khắc thấy ngay cái tâm hồn thi sĩ ẩn hiện ra lờ mờ phảng
phất, còn thi nghệ thì thật là trắng
trơn:
… Hỡi Trâm! Đêm nay ta nhớ Trâm lòng ta thật bùi ngùi…
Chiếc giường đôi ta cùng nằm trò chuyện mấy canh thâu.
Còn kia… nhưng hình ảnh của Trâm đã dần dần xóa mất,
Mà dưới cỏ phủ mồ Trâm, còn gì?... Hay xương với đất!
(Đỗ Thúc Trâm)
Các bạn thấy chưa? Những câu thơ trên đây đọc cũng e khó đọc,
chớ đừng nói đến ngâm! Đọc xong những câu thơ đó, chúng ta có cảm giác như đọc
những bản dịch nô lệ (tranduction littérale), tức là dịch theo trúng nghĩa đen
của các câu thơ Pháp hay thơ bên phương Tây. Thiệt thế! Chúng ta dám quyết đoán
rằng ông Nguyễn Vỹ khi làm thơ quốc văn thì nghĩ thơ theo chữ Pháp rồi mới tự dịch
ngầm ra quốc văn, khó đọc như vậy! Giá những câu thơ nầy mà viết bằng chữ Pháp
thì có thể hay đó. Thiệt đáng tiếc vô cùng” (Công luận, số 7537, ngày
16-10-1937, tr.4).
Tiếp đến đầu năm sau, nhà phê bình Trương Tửu khi bình phẩm tập Điêu tàn của Chế
Lan Viên đã hoan hỷ đọc «liên văn bản» đề cao thơ Nguyễn Vỹ: “Tôi đã được sung
sướng đọc những bài thơ thâm trầm của Nguyễn Vỹ ca hát cảnh nhỡ nhàng đau xót của
kẻ ăn mày trong đêm khuya, cảnh tan vỡ bi đát của giọt sương tình ái dưới sức
tàn phá của hơi gió bấc, cảnh đổ nát của lâu đài thân hữu trên bờ bể” (Ích hữu,
số 101, ngày 26-1-1938)…
Liền đó, khi luận bình thơ nữ sĩ Mộng Sơn, Trương Tửu tiếp tục
nhắc nhớ, liên hệ và so sánh với thơ Nguyễn Vỹ: “Mộng Sơn là thi sĩ đầu tiên hưởng
ứng tiếng gọi của tác giả Tập Thơ Đầu. Nghe theo khẩu hiệu cách mạng của Nguyễn
Vỹ, nàng tàn nhẫn vứt cây đàn xưa. Nàng liền bắt nguồn thơ trong những cảm hứng
mới… Cùng với Nguyễn Vỹ giữa một tình thế gay go, nàng hăng hái xung vào đội
hình tiên phong trên mặt trận cách mạng của thi ca Việt Nam hiện đại” (Ích hữu,
số 105, ngày 23-02-1938)…
Trong mục Những sáng chế khác của phong trào Thơ mới trong sách Khảo luận luật
thơ mới, Lam Giang đã dẫn giải về lối thơ hai chữ qua trường hợp Nguyễn Vỹ (có
so sánh với các nhà thơ Pháp như Jules Rességuier, Victor Hugo, Verlaine): “Một
sáng chế của trường thơ Bạch Nga do Nguyễn Vỹ chủ trương. Bài Sương rơi được
nhiều người biết vì mô phỏng theo âm điệu đều đều buồn buồn của những giọt
sương rơi. Đó là một thứ âm nhạc mô phỏng theo lề lối tượng thanh… Nguyễn Vỹ còn
cao hứng dịch bài này ra Pháp văn. Bài dịch vẫn giữ được thứ âm điệu mô phỏng
rơi rơi buồn buồn: Les branches/ De saule/ Se penchent/ Molles/… Goutte/ A
goutte/ Toules/ Brisées… Muốn dùng điệu “thơ nhạc”, thi sĩ cần phải để hết tinh
thần vào âm điệu. Càng giàu âm điệu bài thơ càng có giá trị” (Huế, 1940)…
Trong bài viết thực sự công phu Tính sổ mười năm văn học
(1930-1940), nhà phê bình Trương Tửu đánh giá cao thành tựu phong trào Thơ mới
và vị thế Nguyễn Vỹ: “Tựu trung, vẫn chỉ có bốn trường thơ mới có tính cách đặc
biệt là:
1) Trường thơ Thế Lữ;
2) Trường thơ Lưu Trọng Lư;
3) Trường thơ Nguyễn
Vỹ;
4) Trường thơ “thể cũ ý mới” có Thái Can đại diện…
Trong 10 năm trời nay, sự
thí nghiệm thơ mới đã được thi hành rất siêng năng, rất thông minh, rất liên tiếp.
Không có lý gì cuộc thí nghiệm đồ sộ ấy của mấy thế hệ thi nhân lại không tạo
ra được một kết quả tổng hợp nào xứng đáng. Riêng phần tôi, tôi thành thực tin
rằng cái kết quả tốt đẹp ấy sắp nở ra, ở một ngày mai rất gần với hôm nay” (Mùa
gặt mới, số 2, ngày 30-11-1940, tr.181-184)...
Nhìn rộng ra, thực hiện tổng kết tiến trình Ba mươi năm văn học đầu thế kỷ, Mộc
Khuê (Kiều Thanh Quế) nhấn mạnh dòng chảy thi ca, xác định vị thế Nguyễn Vỹ
trong cuộc đấu tranh cho thơ mới và điểm danh: “Nguyễn Vỹ trong Tập thơ đầu
(1934) có hơi thơ dài như gió lướt” (NXB Tân Việt, Hà Nội, 1941)...
Tiếp đến công trình tổng thành Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh
- Hoài Chân khái quát một chặng đường thơ Nguyễn Vỹ, khách quan xác định cả những
phương diện hạn chế và đóng góp đặc sắc: “Nguyễn Vỹ đã đến giữa làng thơ với
chiêng, trống, xập xoèng inh cả tai. Chúng ta đổ nhau ra xem. Nhưng chúng ta lại
tưng hửng trở vào vì ngoài cái lối ăn mặc và những điệu bộ lố lăng, lúc đầu ta
thấy con người ấy không có gì. Táo bạo thì táo bạo thực, nhưng trong văn thơ
táo bạo không đủ đưa người ta ra khỏi cái tầm thường… Tôi tin rằng linh hồn
chung của một lớp người đủ phức tạp để cảm thông với hầu hết những thơ văn có
giá trị. Một bài như bài Sương rơi được rất nhiều người thích. Người ta thấy
Nguyễn Vỹ đã sáng tạo ra một cái nhạc điệu riêng để tả một cái gì đương rơi.
Cái gì đó có thể là những giọt sương, cũng có thể là những giọt lệ hay những giọt
gì vẫn rơi đều đều, chậm chậm trong lòng ta mỗi lúc vẩn vơ buồn ta đứng một
mình trong lặng lẽ… Nhưng Sương rơi còn có vẻ một bài văn. Gửi Trương Tửu mới
thực là kiệt tác của Nguyễn Vỹ. Trong lúc say, Nguyễn Vỹ đã quên được cái tật cố
hữu của người, cái tật lòe đời. Người đã quên những câu thơ hai chữ và những
câu thơ mười hai chữ. Người dùng một lối thơ rất bình dị, rất xưa, lối thất
ngôn tràng thiên liên vận và liên châu. Lời thơ thống thiết, uất ức, đủ dãi nỗi
bi phẫn cho cả một hạng người. Một hạng người nếu có tội với xã hội thì cũng có
chút công, một hạng người đã đau khổ nhiều lắm, hạng sống bằng nghề văn. Hãy
cho đi là họ không có gì xuất chúng; thì ít nhất họ cũng đã nuôi những giấc mộng
to lớn khác thường. Nhưng đời không chiều họ; đụng vào sự thực, những giấc mộng
của họ đều tan tành và lần lượt họ bỏ thây ở dọc đường hay trong một căn phòng
bố thí… Một hôm say rượu, Tản Đà trách Nguyễn Vỹ: “Sao anh lại ví nhà văn chúng
mình với chó? Anh không sợ xấu hổ à?”. Nguyễn Vỹ đáp lại, cũng trong lúc say:
“Tôi có ví như thế thì chó xấu hổ, chứ chúng ta xấu hổ cái nỗi gì?” (Nguyễn Đức
Phiên Xb, Huế, 1942)…
Cho đến cuối mùa phong trào Thơ mới, nhà phê bình Vũ Ngọc
Phan đi sâu đánh giá toàn diện sự nghiệp văn chương của Nguyễn Vỹ, trong đó nhấn
mạnh đặc điểm thơ ca: “Về thơ cũng như về văn, Nguyễn Vỹ đã có những cái lầm kỳ
quặc. Ông là người đề xướng một lối thơ bắt chước thơ Tây và gọi là “thơ Bạch
Nga”. Ông là người đặt ra những câu thơ hai chữ và những câu thơ “mười hai
chân”. Ông đã từng “làm ồn” lên một độ trong Tiểu thuyết thứ Năm, một tạp chí
xuất bản ở Hà Nội cách đây sáu bảy năm, về những cái mới ấy; nhưng với thời
gian, không một ai có thể bị cám dỗ mãi về những cái tầm thường, chỉ cầu kỳ có
bề mặt… Nói như vậy, không phải bảo Nguyễn Vỹ không có tài về thơ. Ông có tài
khi ông không cầu kỳ và chịu ở yên trong giòng thơ Việt. Bài Gửi Trương Tửu của
ông đăng trong báo Phụ nữ (xuất bản ở Hà Nội) là một bài được nhiều người nhắc
đến (...). Người ta thấy không một chút cầu kỳ nào trong bài thơ trên này. Cái
đặc sắc của toàn bài ở những lời nhỏ to rất giản dị như đang ngỏ tâm sự cùng bạn
ngồi đối ẩm với mình. Giọng lại là giọng một người say rượu, lúc tửu hứng nói
ngông. Những câu “Sáng dậy nhìn nhau cười hê hê!...”, “Bao giờ chúng mình thật
ngất ngưởng? Tôi làm trạng nguyên, anh tể tướng...”, thật rõ ra giọng anh say
và ngông… Về tiểu thuyết cũng như về thơ, Nguyễn Vỹ tỏ ra một người giàu tình cảm.
Những mối tình của ông diễn ra trong lúc ông thành thực, trong lúc ông trút bỏ
những tính cầu kỳ, bao giờ cũng cảm động. Nhưng người ta lấy làm tiếc rằng
trong những lúc viết văn hay làm thơ, ít khi Nguyễn Vỹ lại thành thực được như
lúc ông choáng váng hơi men” (Nhà văn hiện đại, Quyển tư, tập hạ. Nxb Tân dân,
Hà Nội, 1945)...
Nguyễn Vỹ là hiện tượng chín sớm, được coi là “tiên phong”
nhưng không chín đều, có bài trung bình “kém xa vè”, có bài được coi là “kiệt
tác”. Thơ ông biệt ra một lối “trọng về tứ”, “Trường thơ Nguyễn Vỹ”, “Một sáng
chế của trường thơ Bạch Nga do Nguyễn Vỹ chủ trương”, thể hiện khả năng tìm
tòi, thể nghiệm, đổi mới, dấn thân đến quyết liệt. Người đương thời phong trào
Thơ mới đã tiếp nhận, đánh giá công bằng, đúng mức về ông, về cá tính thơ ông,
để lại những bài học sâu sắc về bản lĩnh và tinh thần dân chủ trong nghệ thuật
phê bình văn chương.
16/6/2020
Nguyễn Hữu Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét