Những nét độc đáo trong tư duy người Việt
qua văn học dân
gian
Văn học dân gian Việt Nam là dòng văn chương bình dân nhưng
đã ẩn chứa những khái niệm trừu tượng, những phán đoán và sự nhận thức của người
Việt. Hay nói khác đi, văn học dân gian Việt Nam đã có những quan niệm nhất định
về vũ trụ, nhân sinh không hoàn toàn vay mượn tư tưởng của Nho, Phật, Lão. Đó
chính là những nét độc đáo của tư duy người Việt về thế giới, con người.
Văn học dân gian Việt Nam là nguồn tư liệu ít được khai thác
về mặt triết học vì, trước hết người ta thường coi đó là thứ văn học truyền miệng,
kỹ thuật lưu truyền thấp kém nên dễ bị tam sao thất bản. Thứ đến, nó bị xem là
loại văn phong không bác học, có nhiều hạn chế, lạc hậu. Song, thật ra trong thứ
văn chương bình dân ấy đã ẩn chứa những khái niệm trừu tượng mà ở đó, chúng ta
cũng có thể nghiệm được năng lực tư duy, phán đoán, phân tích và nhận thức của
người Việt Nam. Hay nói khác đi, văn học dân gian Việt Nam cho thấy giá trị bản
nhiên của tư duy người Việt, không hoàn toàn vay mượn tư tưởng của Nho, Phật,
Lão. Trong phần nghiên cứu này, chúng tôi muốn chỉ ra những nét độc đáo của tư
duy người Việt qua văn học dân gian để minh chứng cho nhận định trên.
Trong tác phẩm Tư tưởng Việt Nam - tư tưởng triết học
bình dân, Nguyễn Đăng Thục đã chỉ ra những tư tưởng triết học bình dân của
người Việt được thể hiện từ các vật thể như trống đồng, mộ cổ… đến những sinh
hoạt tinh thần như hội hè, đình đám và tục ngữ phong dao. Theo ông, cái vũ trụ
quan Âm - dương và Vạn vật đồng nhất thể của Lão Trang đã ảnh
hưởng sâu sắc đến quan niệm về vũ trụ, về thế giới của người Việt, mà cụ thể ở
đây là quan điểm đồng nhất người - vật được thể hiện trên trống đồng
với hình ảnh con chim Lạc Hồng nửa người nửa vật, trong thần thoại Con rồng
cháu tiên, hay trong những câu hát, những câu ca dao như: Một đàn cò trắng bay
tung/ Bên nam bên nữ ta cùng hát lên... Thêm nữa, Nguyễn Đăng Thục còn khẳng định,
đến ngay cả tín ngưỡng sùng bái anh hùng dân tộc và sùng bái thần tiên của người
Việt đều theo kiểu Lão giáo bên Tàu (1).
Giáo sư Trần Quốc Vượng, trong tác phẩm Theo dòng lịch sử,
những vùng đất, thần và tâm thức người Việt còn nhấn mạnh rằng, các truyền
thuyết, truyện cổ, tín ngưỡng của dân tộc Việt, như truyền thuyết Sơn Tinh -
Thủy Tinh, tục thờ vua Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh, vua Thục ở đền Thượng Cổ
Loa... đều nhuốm màu sắc Đạo giáo, đều là sự "Đạo giáo hoá" những
khía cạnh khác nhau của tâm thức Việt cổ (2). Nhận định về lịch sử tư tưởng Việt
Nam, theo Giáo sư là "Không có sáng tạo, chỉ có vay mượn, chỉ có áp dụng,
chỉ có thích nghi-đó là sự thực của lịch sử tư tưởng chính thống Đại Việt" (3).
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về lịch sử tư tưởng Việt
Nam đều thường nhìn nhận tư tưởng Việt Nam như là sự phát triển của ba học
thuyết Nho, Phật, Lão; hoặc nhấn mạnh đến những ảnh hưởng, sự vay mượn ba học
thuyết đó trong tư duy của người Việt mà chưa chú trọng đến những nét độc đáo,
sự sáng tạo, những đặc trưng riêng của tư duy dân tộc trước khi chịu ảnh hưởng
của văn hoá ngoại lai được thể hiện ngay trong văn học dân gian.
Chúng tôi không phủ nhận quan điểm cho rằng, văn hóa Việt Nam
qua mấy nghìn năm là sự tổng hợp, hỗn giao các trào lưu văn hoá khác nhau từ
bên ngoài và tinh thần Tam giáo (Nho, Phật, Lão) được dùng làm tư tưởng cơ bản
về vũ trụ, nhân sinh của người Việt. Song, chúng tôi muốn lưu ý rằng, những tư
tưởng bác học đó không dễ dàng được tiếp thụ trong một môi trường
mà quần chúng nhân dân là những người không biết chữ Hán, và họ không hoàn toàn
là người Việt mà còn là những dân tộc thiểu số khác. Hơn nữa, Nho, Phật, Lão đều
du nhập vào Việt Nam khi nước ta đã có một nền văn hoá đồ đồng rực rỡ Đông Sơn
trước đấy. Theo những nghiên cứu trên tư liệu hiện vật và cả tư liệu truyền
miệng cho thấy, văn hoá Đông Sơn đã hội tụ đầy đủ những tinh tuý để làm nên một
cộng đồng người Việt, làm nên một nhà nước Văn Lang đầu tiên. Lúc đó, người Việt
đã có một quan niệm nhất định về vũ trụ, nhân sinh theo phương pháp tư duy lưỡng
phân, lưỡng hợp: Núi/ Nước - Trời/ Đất thể hiện trong những truyền thuyết Sơn
Tinh - Thuỷ Tinh, Âu Cơ - Lạc Long Quân và đặc biệt trên trống đồng. Tư duy lưỡng
phân, lưỡng hợp đó còn đeo đẳng cho đến tận sau này trong quan niệm về hôn nhân
giữa Tiên Dung - Chử Đồng Tử trong truyền thuyết về Đầm Dạ Trạch. Những yếu tố
đầu tiên của một thế giới quan như vậy tất yếu sẽ phát triển thành một hệ thống
quan điểm hoàn chỉnh, toàn diện về vũ trụ, nhân sinh nếu như lịch sử dân tộc có
bước phát triển liên tục, tuần tự. Nhưng khi quá trình đó vừa mới bắt đầu thì
người Hán xâm lược và đặt ách đô hộ mấy nghìn năm. Lúc này, theo Giáo sư Hà Văn
Tấn, văn hóa phải chịu đựng một sự tiếp biến cưỡng bức (4). Tuy nhiên, những
yếu tố đầu tiên của một thế giới quan như vậy vẫn tiếp tục tồn tại trong dòng
văn học dân gian và tạo nên nét riêng biệt của tư duy người Việt so với tư tưởng
Nho, Phật, Lão.
Minh chứng cho nhận định trên, chúng ta có thể thấy ngay
trong thần thoại Thánh Gióng của người Việt. Mặc dù được lý giải dưới
hình thức ngụ ngôn, thần thánh nhưng Thánh Gióng cho ta thấy ý thức tự giác của
nhân dân đối với nhiệm vụ thiêng liêng là phải chống xâm lăng để cứu lấy nước.
Khi ấy, sức mạnh của họ bất thần trở thành sức mạnh vô địch, siêu nhiên có thể
chiến thắng kẻ thù lớn mạnh hơn mình rất nhiều. Điều này chúng ta không thấy có
trong tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo hay Lão giáo. Ý thức chống quân xâm lược
trải qua quá trình lâu dài của lịch sử một dân tộc liên tiếp có giặc ngoại xâm
được nâng lên thành một sự nhận thức lý tính, thành lý luận - đó là chủ
nghĩa yêu nước. Các nhà nghiên cứu về lịch sử tư tưởng Việt Nam đều thống nhất
rằng, chủ nghĩa yêu nước là một trong những tư tưởng triết học đặc trưng riêng
của dân tộc Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử tư tưởng dân tộc. Tư tưởng
yêu nước là cơ sở để xây dựng một nhân sinh quan - quan niệm về nhân
cách, về lẽ sống/chết, về đạo làm người, về nghĩa vụ làm dân đối với nước; một thế
giới quan - quan niệm về nguồn gốc tổ tiên, giống nòi, nguồn gốc muôn
loài, sự tuần hoàn của bốn mùa, năm tháng... Ngược lại, nhân sinh quan, thế giới
quan đó lại toát lên tinh thần yêu nước và tự tôn dân tộc một cách nồng nàn.
Sự tích bánh chưng, bánh dày, ngoài ý nghĩa phản ánh thế
giới quan của người Việt, còn cho thấy tư tưởng chính trị không phải của Nho
giáo ở chỗ, người lãnh đạo đất nước phải là người tài đức, không nhất thiết
theo lệ cha truyền con nối hoặc là truyền cho con trưởng. Do đó, mới có cốt
truyện vua chọn Lang Liêu chứ không chọn con trưởng, và mới có câu tục ngữ: Bao
giờ dân nổi can qua/ Con vua thất thế lại ra quét chùa.
Tương tự như vậy, chúng ta có thể tìm thấy bản sắc tư duy Việt
trong truyện Sự tích quả dưa hấu. Mai An Tiêm dám chống lại vua cha
và cuối cùng, chiến thắng đã thuộc về chàng. Điều đó có nghĩa rằng, quan hệ vua
- tôi, cha - con hoàn toàn không tuân theo lý thuyết Tam cương, mà cụ
thể là tư tưởng Trung quân/ Quân - Thần nhất nhất của Nho giáo.
Truyện Tấm Cám, là thể loại chuyện phổ biến có thể
tìm thấy ở nhiều dân tộc khác vì đều có chung một chủ đề: mâu thuẫn giữa dì ghẻ
- con chồng. Song, điểm khác biệt trong truyện Tấm Cám của Việt Nam
là tính đấu tranh bền bỉ, quyết liệt của một cô Tấm nhỏ bé, thảo hiền với người
mẹ kế độc ác, gian manh. Hình tượng đó phản ánh truyền thống của dân tộc ta, phản
ánh tinh thần đấu tranh kiên cường, bền bỉ của một dân tộc nhỏ bé dám chống lại
một kẻ thù xâm lược hung hãn, lớn mạnh. Trong Tấm Cám, những giáo điều
như trung, hiếu, tiết, nghĩa của Nho giáo hoàn toàn vắng bóng. Hay
nói khác đi, trong truyện đó, chúng ta không tìm thấy những phạm trù đạo đức của
Nho giáo mà hoàn toàn là những quan niệm độc đáo của người Việt. Lý thú hơn,
chúng ta có thể thấy trong cách lý giải sự chết đi sống lại của cô Tấm cũng
không phải là thuyết Luân hồi của Phật giáo. Bởi theo Phật giáo, luân
hồi là vòng bể khổ của con người, còn luân hồi là còn lạc trong bến mê, chỉ khi
đạt đến Niết bàn con người mới thực sự giải thoát khỏi vòng luân hồi đó. Còn cô
Tấm "luân hồi" không phải để chịu khổ mà để hưởng cái sướng, để đấu
tranh với cái ác, cái xấu... Và cuối cùng, nàng đã chiến thắng, nàng đã được hưởng
hạnh phúc và sung sướng.
Mở rộng ra, trong một số lễ hội dân gian, chúng ta thấy sự
giao thiệp nam - nữ đã thể hiện một quan niệm "tự do, phóng khoáng" của
người Việt. Điều này được miêu tả điển hình qua bài thơ Đánh đu của Hồ
Xuân Hương: Bốn cột khen ai khéo khéo trồng/ Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông/
Trai đu gối lạc khom khom cật/ Gái uốn lưng cong ngửa ngửa lòng/ Bốn mảnh quần
hồng bay phấp phới/ Hai hàng chân ngọc duỗi song song... Nó khác hẳn, thậm chí
là đối lập với nguyên tắc “nam nữ thụ thụ bất thân” của Nho giáo.
Như vậy, văn học dân gian đã có những yếu tố tiến bộ, mang
tính chiến đấu ở chỗ: Dám chống lại hoặc không thừa nhận những tư tưởng chính
thống, cụ thể là những tư tưởng chính trị - xã hội của Nho giáo mà giai cấp thống
trị trong xã hội đang sử dụng. Nó dám lên án tội ác, thói hư tật xấu của giai cấp
thống trị: Con ơi mẹ bảo con này/cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan; Tuần hà
là cha kẻ cướp; Muốn nói gian làm quan mà nói; Trống chùa ai đánh thì thùng/ Của
chung ai khéo vẫy vùng thành riêng. Nó phê phán cả những tập tục, lễ giáo chật
hẹp bó buộc cuộc đời con người: Lênh đênh chiếc bách giữa dòng/ Thương thân goá
bụa, phòng không lỡ thì/ Gió đưa cây trúc ngã quỳ/ Ba năm chực tiết còn gì là
xuân; Sông bao nhiêu nước cũng vừa/ trai bao nhiêu vợ cũng chưa bằng
lòng. Nó đặt ngược lại nhiều vấn đề trong cái gọi là Tam cương, Ngũ
thường của Nho giáo. Dân gian có câu "Con hơn cha là nhà có
phúc" hay "Tháng sáu em cày, anh bừa/ Tháng mười em gặt, anh đưa cơm
chiều",… thể hiện mong muốn phát triển, bình đẳng trong các mối quan hệ xã
hội của con người Việt.
Chúng ta không ngần ngại khi cho rằng, văn học dân gian là cơ
sở để xây dựng nên nền văn học bác học. Những nhà thơ lớn của Việt Nam, như
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến... đều đã khai thác ở chính văn học dân
gian nghệ thuật miêu tả, ngôn ngữ. Hồ Chủ tịch, khi nói chuyện hay khi viết
sách, thường dùng tục ngữ, ca dao làm cho lời nói dễ hiểu, dễ nhớ và thấm sâu
vào lòng người. Và trên thế giới, thơ ngụ ngôn của La Fontaine rất hay, bởi thơ
ông chịu ảnh hưởng sâu sắc văn học dân gian Pháp. Nhạc sĩ thiên tài Bettoven
cũng dựa vào âm nhạc dân gian Đức để sáng tác nên những bản nhạc bất hủ của
mình v.v...
Các truyền thuyết dân gian cổ xưa do những người dân sơ khai
với một trí thông minh chưa phát triển đã đặt vấn đề về nguồn gốc của vũ trụ,
con người. Đây cũng là câu hỏi luôn nung nấu các nhà khoa học, nhưng câu hỏi
đó, cho đến nay, khoa học vẫn chưa nghiệm ra nên đành coi nó như một tiền đề
không cần chứng minh. Thuyết tương đối của Anhxtanh khẳng định rằng, một vật
khi chuyển động với một vận tốc nhanh bằng tốc độ ánh sáng thì khối lượng của
nó có thể tăng lên, không gian co lại và thời gian thì trôi chậm đi. Thuyết
tương đối đó, ngày nay, đã được các nhà bác học kiểm nghiệm là đúng và chuẩn
xác. Một con tàu vũ trụ đi với vận tốc xấp xỉ vận tốc ánh sáng, thời gian trôi
đi ở đó chỉ có 1 năm; trong khi đó, lấy sự đứng yên của trái đất làm chuẩn thì
thời gian đã trôi là 100 năm. Trong truyền thuyết của nhiều dân tộc đã từng có
những liên hệ đến tính tương đối của khối lượng, không gian, thời gian tương tự
như vậy, chẳng hạn trong truyền thuyết Từ Thức gặp tiên của người Việt Nam.
Chàng trai Từ Thức vô tình cứu một nàng tiên bị mắc nạn trên trần thế, vì cảm
phục tấm lòng hào hiệp, nàng mời Từ Thức lên cõi tiên chơi có 3 năm. Khi trở về
làng quê thì mọi vật đã đổi thay, thời gian trôi đi tận 80 năm, bạn bè người
thân đều đã chết hết cả, đứa cháu khi chàng ra đi mới 1 tuổi nay đã trở thành
ông lão 80 tuổi.
Một số nhà nghiên cứu văn hoá dân gian trên thế giới đã mạnh
dạn tuyên bố rằng, những người sáng tạo ra các truyền thuyết trên đã đi trước
các nhà khoa học khi đặt vấn đề nguồn gốc vũ trụ và "rất có thể nhiều giả
thuyết của các nhà khoa học về vũ trụ được sinh ra bởi sự thúc đẩy của
tâm thức dân gian nhiều hơn bởi các suy luận khoa học" (5).
Tuy nhiên, văn học dân gian Việt Nam vì phản ánh một cách trực
cảm hiện thực cuộc sống, mà cái hiện thực đó lại muôn màu muôn vẻ, chứa đựng đầy
mâu thuẫn nên nội dung của nó cũng có mâu thuẫn. Ví dụ, khi thì cho rằng: Ăn trộm
ăn cướp, thành phật, thành tiên/ Đi chùa, đi chiền, bán thân bất toại; khi khác
lại cho rằng: ở hiền thì lại gặp lành/ Những người nhân đức trời dành phúc cho.
Trứng chọi với đá có ngày vỡ tan, hay; Nực cười châu chấu đá xe/ Tưởng rằng chấu
ngã, ai dè xe nghiêng. Không thiêng cũng thể bụt nhà/ Dầu khôn, dầu dại cũng là
chồng em; Chồng khôn thì nổi cơ đồ/ chồng dại luống tổn công phu nhọc nhằn...
Bên cạnh đó, có thể thấy, văn học dân gian là sản phẩm của quần
chúng (chủ yếu là nông dân) nên những quan điểm, tính cách tâm lý, giáo dục, nhận
thức không thống nhất, hoàn chỉnh. Chẳng hạn, khi thì cho rằng: Đời người có một
gang tay/ Ai hay ngủ ngày, còn có nửa gang, khi lại cho rằng: Nhịn đói nằm co
hơn ăn no vác nặng. Hay có chỗ dạy rằng: Chồng con là cái nợ nần/ Chẳng thà ở vậy
nuôi thân béo mầm, chỗ khác lại dạy: Chòng chành như nón không quai/ Như thuyền
không lái, như ai không chồng. Tương tự như vậy ở các câu sau: Chính chuyên anh
cũng được nhờ/ Lẳng lơ nào biết cõi bờ là đâu; Chính chuyên chết cũng ra ma/ Lẳng
lơ chết cũng chôn ra ngoài đồng. Khuyên chàng đọc sách ngâm thơ/ Dầu hao thiếp
rót, đèn mờ thiếp khêu, đối nghịch lại với câu: Ai ơi chớ lấy học trò/ Dài lưng
tốn vải ăn no lại nằm/ Ngày thời cắp sách đi rong/ Tối về lại giữ đèn chong một
mình, v.v...
Thế giới quan, nhân sinh quan trong văn học dân gian còn nhiều
hạn chế, tiêu cực, mang mầu sắc thần bí, thiên định như: Nhờ trời mưa
gió thuận hòa; Trời làm khổ cực hại dân/ Trời làm mất mát có
phần nào chăng; Trời sao trời ở chẳng cân/ Kẻ ăn không hết, người lần không
ra; Số giàu lấy khó cũng giàu/ Số nghèo chín đụn, mười trâu
cũng nghèo; Số giàu đem đến dửng dưng/ Lọ là con mắt tráo trưng mới giàu;
Ngọn gió đâm ngang nên chàng xa thiếp/ Duyên nợ tự trời, ai quyết xa ai;
Nhờ ơn cô bác giúp lời/ Chị em giúp của, ông trời định đôi...
Mặc dù có những hạn chế như đã nêu trên, song vẫn phải khẳng
định lại rằng, trong cuộc sống của mình, người Việt Nam đã thể hiện sự sáng tạo,
nét đặc trưng riêng của tư duy dân tộc mà không cần đến hay không tìm đến với
những quan niệm đạo đức của Nho giáo, triết lý nhân sinh của Phật giáo và vũ trụ
luận của Đạo giáo. Điều đó cũng có nghĩa là, văn học dân gian phản ánh những
nét độc đáo của tư duy người Việt trước khi chịu ảnh của văn hoá ngoại lai. Nó
chính là yếu tố quan trọng góp phần chống lại sự Hán hóa. Tiếc rằng, những tư
tưởng ấy chưa được khái quát thành lý luận và có hệ thống. Nhưng qua đó cũng đã
cho thấy những nét cơ bản về thế giới quan và nhân sinh quan của người Việt. Vì
vậy, để có thể nghiên cứu những tư tưởng triết học của dân tộc một cách sâu sắc
và toàn diện hơn, chúng ta cần phải nghiên cứu, nắm vững những vốn quý xưa của
dân tộc mình qua nguồn tư liệu dân gian phong phú này.
Chú thích:
(1) Xem: Nguyễn Đăng Thục. Tư tưởng Việt Nam - tư tưởng
triết học bình dân. Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1963, tr.10 - 81.
(2) Xem: Trần Quốc Vượng. Theo dòng lịch sử những vùng đất,
thần và tâm thức người Việt. Nxb VHTT, Hà Nội, 1996, tr. 48.
(3) Vũ Khiêu (chủ biên). Nho giáo xưa và nay. Nxb
KHXH, Hà Nội, 1991, tr.164.
(4) Xem: Hà Văn Tấn. Giao lưu văn hóa Việt cổ. Tạp
chí Nghiên cứu Nghệ thuật, số 4, 1981, tr.19-20.
(5) Lê Đắc Tất. Vũ trụ không chỉ hiện lên trong kính chiếu yêu Big
Bang. Báo An ninh cuối tháng, số 35, tháng 6, 2004.
2/2/2018
Đỗ Lan Hiền (*)
Nguồn: Tạp chí Triết học, số 6 (169), tháng 6/2005
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét