Thơ không là nguy hiểm,
"Thơ tự bản thân nó là nguy hiểm.
Nó nguy hiểm trước hết là với người đẻ ra nó, là nhà thơ. Nhiều nhà thơ đã chết
vì thơ của mình. Không phải cơn bệnh lao tứ chứng nan y đã giết Bích Khê. Chính
là thơ đã giết ông...". Nhà thơ Thanh Thảo - Chủ tịch Hội VHNT Quảng
Ngãi đã mở đầu Hội thảo toàn quốc lần đầu tiên về thơ Bích Khê (do Hội Nhà văn
Việt Nam, Hội VHNT và tỉnh Quảng Ngãi đồng tổ chức trong hai ngày
20-21/12/2006) với lời đề dẫn ấn tượng như vậy. Cuộc hội thảo như lời khai mạc
của nhà thơ Hữu Thỉnh, là "đã từ lâu chúng ta chờ đợi". Một ngày xuân
tròn sáu mươi năm trước, chàng thi sĩ Tượng trưng vẫy tay từ biệt cuộc đời ở tuổi
30, vì đã trút hết Tinh hoa và Tinh huyết cho thơ. Sáu mươi năm, sau một mùa
thi ca cùng nở rộ, với những Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận, Mà Mặc Tử, Bích
Khê..., thì tiếp theo có thể nói là một khoảng, một thời khá xa vắng của thi ca
Việt Nam, đặc biệt là ở sự cách tân. Một sự hào hứng đặc biệt với trên 40 tham
luận dày dặn, công phu của những nhà nghiên cứu, giảng viên văn học, nhà thơ,
nhà xã hội học, nhạc sĩ,... từ mọi miền đem đến Hội thảo đã phần nào nói lên sự
"khát thèm" được giải mã trước cái Mới, cái Bí ẩn của thơ mà đã lâu rồi
còn quá hiếm hoi. Dẫu Bich Khê đã ở trước đó bằng khoảng cách thời gian tính bằng
nhiều thế hệ. [...]
Bích Khê làm thơ từ tuổi 12. Cho đến
năm 22 tuổi, chàng thi sĩ trẻ đã trở thành "cụ đồ non" kho toàn
"chơi" loại thơ Đường luật và cũng có những thành công nhất định.
Theo tác giả Trịnh Hoàng Mai (tham luận "Một vì sao sớm tắt" tại Hội
thảo), thì năm 15 tuổi, Bích Khê đã có thơ đăng ở mục Văn Uyển bên cạnh các bậc
túc nho nổi tiếng như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Bội Châu trên báo Tiếng Dân, và
sau đó còn in trên Phụ Nữ Tân Văn. Khi ấy chàng vẫn lớn tiếng chê thơ Mới là
"cua bò", và mỉa mai những lời tỏ tình cảu Hàn Mặc Tử gửi Mộng Cầm (Mộng
Cầm là cháu gọi Bích Khê bằng cậu), và trong cả tập Gái Quê (1936) của
Tử, Khê cho rằng chỉ có... 2 bài đáng gọi là thơ! Nhưng đến khi được Mộng
Cầm đưa cho đọc Đau thương (bản đánh máy),
Bích Khê mới giật mình kinh hãi trước thi sĩ họ Hàn. Không chút do dự, “cụ đồ non” phá bỏ hoàn toàn “xích xiềng” của niêm luật lẫn tư duy thơ cũ, bước hẳn sang địa hạt tân kỳ của thi ca. Ngập ngừng gửi Hàn Mặc Tử tập bản thảo “thơ kiểu mới” nhờ “xem giùm”, không ngờ nhận được lá thư hồi âm với “rất nhiều lời lẽ khiêu khích, mỉa mai”. Tự ái, Bích Khê đã thề trước họ Hàn, rằng “trong 6 tháng sẽ trở nên một thi sĩ phi thường, bằng không sẽ không bao giờ làm thơ nữa”. Thế rồi, Tinh huyết - tập thơ thần dị hoàn thành chỉ trong vòng có ba tháng! “Một bông hoa lạ nở hương, một thứ hương quý trọng, thơm đủ mùi phước lộc. Ta có thể sánh thơ Bích Khê như thứ hoa thần dị ấy” - Hàn Mặc Tử vẫn chưa hết sửng sốt khi viết như vậy trong lời tựa tập Tinh huyết (in năm 1939). Hàn thi sĩ lập tức gọi Bích Khê là “thi sĩ thần linh”, còn Hoài Thanh - Hoài Chân trong “Thi nhân Việt Nam” thì: “Tôi đã đọc trong Tinh huyết những câu thơ hay vào bậc nhất trong thơ Việt Nam”.
Bích Khê mới giật mình kinh hãi trước thi sĩ họ Hàn. Không chút do dự, “cụ đồ non” phá bỏ hoàn toàn “xích xiềng” của niêm luật lẫn tư duy thơ cũ, bước hẳn sang địa hạt tân kỳ của thi ca. Ngập ngừng gửi Hàn Mặc Tử tập bản thảo “thơ kiểu mới” nhờ “xem giùm”, không ngờ nhận được lá thư hồi âm với “rất nhiều lời lẽ khiêu khích, mỉa mai”. Tự ái, Bích Khê đã thề trước họ Hàn, rằng “trong 6 tháng sẽ trở nên một thi sĩ phi thường, bằng không sẽ không bao giờ làm thơ nữa”. Thế rồi, Tinh huyết - tập thơ thần dị hoàn thành chỉ trong vòng có ba tháng! “Một bông hoa lạ nở hương, một thứ hương quý trọng, thơm đủ mùi phước lộc. Ta có thể sánh thơ Bích Khê như thứ hoa thần dị ấy” - Hàn Mặc Tử vẫn chưa hết sửng sốt khi viết như vậy trong lời tựa tập Tinh huyết (in năm 1939). Hàn thi sĩ lập tức gọi Bích Khê là “thi sĩ thần linh”, còn Hoài Thanh - Hoài Chân trong “Thi nhân Việt Nam” thì: “Tôi đã đọc trong Tinh huyết những câu thơ hay vào bậc nhất trong thơ Việt Nam”.
Nhân câu chuyện trên, người viết bài
này chợt liên tưởng đến thời tiết thi ca đầu thế kỷ 21 này, khi luồng gió sáng
tạo mới đang ngày một mạnh dần lên, với nhiều gương mặt trẻ và kể cả không còn
trẻ nữa. Mùa màng thu về chưa có nhiều hoa thơm trái ngọt, thậm chí chưa định
hình đó sẽ là hoa quả hay một thứ dị kỳ nhưng vô bổ. Nhưng dù gì, đó vẫn là cái
mới, thi ca luôn cần cái mới. Có một thực tế, tuy khát thèm một cái nhìn mới
và cách thể hiện mới, muốn kêu lên tiếng nói mới, nhưng không ít người làm thơ
vẫn không dám rời khỏi mảnh đất thi ca đã thâm canh đến bạc màu cằn cỗi của
mình. Bài học Bích Khê đầu thế kỷ 20 có nói lên điều gì chăng?
Thơ không là nguy hiểm, theo tôi.
Thơ chỉ nguy hiểm với những "tay chơi" không sẵn lòng vắt kiệt tháng
năm sống của mình cho nó, nhưng lại chỉ thích gặt hái sự xưng tụng. Di chứng cảu
nó không phải là cái chết thể xác. Năm 1938, nếu không có sự "mỉa
mai" (dẫu là để khích tướng) của Hàn Mặc Tử, mà thay vào đó là sự vuốt ve
(với những gì bạn mình đã có, như nhiều nhà phê bình hiện tại vẫn làm),
thì chắc gì đã có Tinh Huyết và Tinh Hoa (tập thơ theo Chế Lan Viên
còn xuất sắc hơn cả Tinh Huyết, chỉ được in ra rất lâu sau khi Bích Khê mất)? Họ mời nhau không phải bằng bia rượu, chầu karaoke hay những lời có cánh, mà
mời nhau vào, "dẩy" nhau vào những Mùa Sáng Tạo Khổ Sai.
Và chắc gì co một Bích Khê như bây
giờ chúng ta được biết, nếu như ngày ấy chàng thi sĩ không dũng cảm và dấn thân
bước sang địa hạt khác, như đánh giá của nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà
văn Việt Nam tại Hội thảo: "Trong số những đại diện hàng đầu của thơ Mới,
Bích Khê là trường hợp dâng hiến và vắt kiệt triệt để nhất cho thơ. Một cuộc
khám phá dũng cảm và không thoả hiệp...".
Nhưng, nghĩ cho cùng, bị nghi là
thành phần Troskit cũng chỉ là một trong nhiều cái “hạn” trong cuộc đời ngắn ngủi
nhưng lắm bão giông (kể cả sau khi chết) của Bích Khê. Sự chậm trễ trong việc
công bố thơ Bích Khê có lẽ bởi thơ ông vẫn còn Mới quá. Mới từ những tinh hoa của
thi đàn thế giới đương thời mà thi sĩ đã học được, tiêu hóa được thành cái trác
tuyệt riêng mình. Mới về cái nhìn lạ lẫm về “sex”, về “thơ lõa thể”..., điều
mà cho đến hiện tại đang trở thành thời sự trong thi ca với nhiều đánh giá chưa
nhất quán, thậm chí cự tuyệt. Trong khi số đông có lẽ vẫn còn chưa đủ độ lùi cần
thiết để chiêm cảm. Đúng như nhận định của GS Lê Đình Kỵ, “so với các nhà thơ
cùng trường phái, Bích Khê đã đi xa hơn tất cả trong chủ trương canh tân triệt
để của mình”. Năm 1941, khi viết “Thi nhân Việt Nam”, dẫu có linh giác và
tiên cảm đặc biệt về thơ, Hoài Thanh vẫn còn khá dè dặt: “... Nhưng tôi chưa thể
nói nhiều về Bích Khê. Tôi đã đọc không biết mấy chục lần bài Duy tân. Tôi
thấy trong đó những câu thật đẹp. Nhưng tôi không dám chắc bài thơ đã nói hết
cùng tôi những nỗi niềm riêng của nó. Hình như vẫn còn gì nữa... Thơ Bích
Khê đọc đôi ba lần thì cũng như chưa đọc”. 47 năm sau, Chế Lan Viên khi viết tựa
cho tập thơ Bích Khê lần đầu tiên được in lại (NXB Nghĩa Bình, 1988) với đầy đủ Tinh
hoa, Tinh huyết, vẫn còn viết “Sợ e bây giờ người ta cũng chưa quen anh dễ
dàng đâu. Nếu Nguyễn Bính là một miền đồng bằng thân thuộc, thì Khê là một đỉnh
núi lạ ... Có những nhà thơ làm thơ, có những nhà thơ vừa làm thơ vừa đẩy lịch sử
thơ ca duy tân thêm một bước, có những nhà thơ đem đến một mùa lương thực. Lại
có những nhà thơ cầm một dúm hạt giống mới trên tay. Khê thuộc hạng thứ hai”.
Rồi đây, người ta sẽ trả lại tên đường
Bích Khê trên chính quê hương ông. Nhưng có một con đường rất quan trọng khác,
đó là con đường thi ca phía trước của chúng ta vẫn còn đang rất nhiều ngập ngợ
với rất nhiều cái giá sẽ phải trả. “Cái quan trọng hơn là chúng ta đem cái
hạt giống trên tay thi sĩ, chọn lựa để gieo lấy một mùa mới cho nền thi ca đang
khát khao đổi mới của chúng ta” (Hữu Thỉnh).
Quảng Ngãi, tháng 2/2006
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét