Tôn giáo và dân tộc
Lời nói đầu
Đối với con người, tôn giáo và dân tộc là hai thực tại vừa
thân mật vừa thiêng liêng, hai thực tại mà con người sẵn sàng chết để bảo vệ.
Trong trần gian nầy, còn gì quý hơn mạng sống. Nhưng trong trần gian nầy, luôn
luôn có một số đông người dám hy sinh mạng sống của mình cho tôn giáo hoặc cho
dân tộc. Bởi vì đối với con người, vấn đề không phải chỉ là được sống, mà
còn là được sống như con người. Mà chúng ta đã sống như con người phần
lớn là nhờ dân tộc và tôn giáo. Mất đi một trong hai thực tại này, cuộc đời sẽ
trở thành vô nghĩa, không còn đáng sống nữa.
Dân tộc đã chạm khắc nên khuôn mặt con người của chúng ta hôm nay, qua mấy ngàn
năm vật lộn với trái đất để nhân hóa thiên nhiên và nhân hóa chính mình, qua
bao nhiêu thế kỷ tranh đấu với các dân tộc khác để có thể trường tồn như một
dân tộc.
Và tôn giáo đã đặt thêm cho khuôn mặt con người ấy một ý nghĩa, một giá trị
siêu việt, đã hướng nó nhìn lên vòm trời cao để say ngắm ánh trăng sao mà mơ về
vĩnh cửu.
Hầu hết những gì mang tính chất "người" nơi chúng ta, từ cảm xúc đến
ý nghĩ và hành động, đều là công trình của dân tộc và tôn giáo. Cho dù chúng ta
có chối bỏ dân tộc hay phủ nhận tôn giáo, chúng ta vẫn là con cái của tôn giáo
và dân tộc.
Dân tộc là mẹ, tôn giáo cũng là mẹ. Điều đáng buồn là trong lịch sử, hai bà mẹ
thường xung đột với nhau, tranh giành những đứa con của mình, buộc chúng phải
chọn lựa dứt khoát là con của ai. Lịch sử Giáo hội Công giáo tại Việt Nam thời
bách hại là trường hợp điển hình nhứt của sự tranh giành đó.
Cuộc xung đột càng gay gắt hơn khi các phong trào Cách mạng bộc phát và tự đồng
hóa với dân tộc. Khi đó, cuộc xung đột trở thành một mất một còn, hầu như không
thể hòa giải được nữa.
Mục đích của cuốn sách nhỏ này là thử suy nghĩ về những mâu thuẫn căn bản giữa
tôn giáo và dân tộc để tìm kiếm những đường hướng khả dĩ đưa tới một sự hòa
hợp chân thực và lâu bền hay ít nữa, biến một trạng hái xung đột tiêu cực
thành một trạng thái căng thẳng phong phú có lợi cho cả hai bên.
Và có lợi trước hết cho những đứa con của tôn giáo và dân tộc.
Suy nghĩ về tôn giáo và dân tộc theo chiều hướng nói trên cũng là góp một phần
nhỏ mọn vào việc chuẩn bị cuộc hòa giải giữa người Việt với người Việt mà tất cả
chúng ta đều mơ uớc, dầu chúng ta có quan niệm sự hòa giải ấy khác nhau đến đâu
đi nữa.
Cuốn sách này đã thai nghén từ một lời mời của anh em sinh
viên Đại Học Huế. Năm 1969, anh em có mời tôi ra Huế nói chuyện và tôi đã chọn
đề tài "tôn giáo và dân tộc" vì Huế là nơi mà ý thức tôn giáo cùng ý
thức dân tộc còn sáng tỏ hơn hết tại miền Nam.
Nhưng vì một sự trục trặc giờ chót, buổi nói chuyện đã không thành. Bù lại, tôi
đã khai triển những ý nghĩ dự trù cho câu chuyện để viết thành loạt bài đăng
trên Tạp chí Bách Khoa, cũng trong năm 1969, dưới nhan đề "ý thức tôn giáo
và ý thức dân tộc".
Tôi đã sửa chữa những bài ấy làm thành cuốn sách này. Xin tặng nó cho anh em
Sinh Viên Huế nói riêng và nói chung cho tất cả những người trẻ tuổi tha thiết
với dân tộc và tôn giáo.
Sài Gòn, tháng 8 năm 1972
Lý Chánh Trung
CHƯƠNG I
NHỮNG ĐỨA CON CỦA TRÁI ĐẤT
Khi một tập thể loài người chiếm được một giải đất với những
tài nguyên bảo đảm cho sự sinh tồn và phát triển của nó, khi nó tạo dựng được
trên giải đất ấy một cơ cấu quyền bính độc lập, thống nhứt và có tính cách đại
diện, khi nó sáng chế được chữ viết để giữ lại quá khứ, tích lũy và lưu truyền
toàn bộ kiến thức và kinh nghiệm, bắt một nhịp cầu tương giao giữa các phần tử
của nó vượt qua không thời gian; khi nó dự phóng được một hình ảnh lý tưởng của
con người và thể hiện hình ảnh đó trong một nền văn hóa, khi đó mới xứng đáng
được gọi là một "dân tộc".
Một lãnh thổ có ranh giới phân minh, môt quốc gia có chủ quyền, một lịch sử được
ghi chép và nhận thức rõ rệt, một nền văn hóa nhân bản và sống động, đó là bốn
điều kiện căn bản đẻ một dân tộc sinh tồn và hành động như một "chủ thể",
nghĩa là một thực tế cá biệt, thống nhứt và duy nhứt, làm chủ lấy mình và ý thức
về mình.
Và chính ý thức mới là cái cốt yếu: sự hiện hữu của một dân tộc, trước hết và
sau cùng, chỉ là sự hiện hữu của ý thức dân tộc.
Trong gần hai ngàn năm, dân Do Thái đã phải sống tản lạc trên khắp thế giới, họ
ðã mất tất cả: lãnh thổ, lịch sử, văn hóa, quốc gia, ngay cả tiếng mẹ đẻ cũng
không còn bao nhiêu người nói được. Nhưng họ vẫn ý thức họ là người Do
Thái, đã chấp nhận đến tận cùng cái thân phận Do Thái, nhờ đó họ đã không
bị tiêu diệt hoặc tự tiêu diệt. Trong gần một ngàn năm, ông bà chúng ta đã bị
người Trung Hoa đô hộ và đã vay mượn của họ hầu hết những gì cần thiết để trở
thành những con người văn minh: từ kỹ thuật nông nghiệp cho tới chữ viết và tư
tưởng. Suốt thời gian đó, người Việt Nam chúng ta chưa có lãnh thổ, lịch sử và
văn hóa, quốc gia, cũng không có một yếu tố vật chất hay tinh thần nào ngăn
cách chúng ta với người Trung Hoa. Vậy mà chúng ta đã không trở thành người
Trung Hoa chỉ vì cái tia sáng mong manh của ý thức: ông bà chúng ta đã tự xem họ
là người Việt, đã dám hy sinh tất cả để giành cho được cái quyền tự xưng và được
gọi là người Việt, nhờ đó mới có được một nước Việt Nam trên trái đất này chớ
không phải môt tỉnh nhỏ miền cực nam của Trung quốc.
Người Mông Cổ, người Mãn Thanh đã chiếm cứ nước Trung Hoa để rồi đồng hóa với
người Trung Hoa: Cái thực tại Mông Cổ, Mãn Thanh ðã tan biến trong cái thực tại
Trung quốc. Trái lại, mặc dầu bị người Trung Hoa chiếm cứ, cái thực tại Việt
Nam đã lớn dần trong cái thực tại Trung quốc và khi có ðủ sức mạnh, nó ðã ðứng
lên, để bắt buộc Trung quốc nhìn nhận nó là một thực tại.
Vậy, một dân tộc còn hay mất, trước hết và sau cùng, chỉ vì nó còn hay
không còn ý thức chính nó như một dân tộc, nghĩa là còn hay không còn cái
dự phóng nguyên thủy của nó về chính nó. Dự phóng nguyên thủy của ông bà chúng
ta là hiện diện trên trái đất này dưới cái gương mặt độc đáo của người Việt
Nam. Gương mặt ấy có nhiều nét đẹp, cũng có nhiều nét không đẹp, nhưng đó
là gương mặt duy nhất mà ông bà chúng ta đã chạm khắc vào thực tại. Và từ đó tới
nay, mỗi thế hệ đã tô điểm thêm cho gương mặt ấy, mỗi thế hệ đã hy sinh tất cả
để giữ gìn nó, khiến cho ngày nay nó còn là gương mặt của chúng ta. Có lẽ có những
khuôn mặt khác đẹp đẽ hơn, hấp dẫn hơn, nhưng đó không phải là gương mặt của
chúng ta.
Ernest Renan có viết: "Sự hiện hữu của một dân tộc là một cuộc trưng cầu
dân ý hằng ngày" 1. Thật vậy, dân tộc Việt Nam chỉ tồn tại khi nào
chúng ta ý thức mình là người Việt và quyết tâm hiện diện trên trái đất nầy như
người Việt, nghĩa là khi nào mỗi người chúng ta như là một phần tử bất khả phân
ly của cái toàn thể, khi nào mỗi người chúng ta nhìn nhận rằng sự hiện hữu của
mình tùy thuộc vào một cách thiết yếu sự hiện hữu của dân tộc, do đó, dám hy
sinh chính sự hiện hữu của mình khi cần thiết để bảo tồn sự hiện hữu của dân tọc.
Có nước, có nhà rồi mới có thân. Cái bản thân con người chúng ta là sản phẩm của
dân tộc, như Socrate đã nói: chính dân tộc đã đẻ ra chúng ta, đã nuôi dưỡng và
dạy dỗ cho chúng ta nên người, do đó, chúng ta "vừa là con cái, vừa là nô
lệ" của dân tộc 2. Quy chế của con người chúng ta đặt nền tảng
trên quy chế dân tộc; không còn dân tộc thì có thể chúng ta vẫn còn sống, nhưng
chắc chắn chúng ta không sống như con người và sẽ không được xem là người.
Chính vì chưa đạt tới quy chế dân tộc mà người da đen bị người da trắng coi như
con vật trong mấy trăm năm. Và hiện nay, chỉ nơi nào dân da đen đã quyết định
tranh đấu để được nhìn nhận là những dân tộc, nơi đó họ mới được đối xử như con
người.
Tóm lại, như nhà cách mạng Pháp Sieyès đã viết: Dân tộc có trước tất cả và sẽ
là nguồn gốc của tất cả 3. Tất cả những gì chúng ta có, đều thuộc về dân
tộc và khi cần, phải trả lại cho dân tộc. Ðể cho dân tộc trường tồn, để
con cháu chúng ta tiếp tục được tự xưng và được gọi là người Việt Nam.
Hiểu như vậy, ý thức dân tộc trong trạng thái hoàn hảo của nó
chỉ có thể là một ý thức toàn diện, nghĩa là nó bao trùm và chi phối toàn
thể bản thân và cuộc đời của mỗi chúng ta. Nó đòi hỏi chúng ta phải cống
hiến tất cả cho dân tộc: trí óc, tình cảm, tài năng, sức lực, thời gian, của cải
và mạng sống. Và chúng ta cảm thấy đòi hỏi đó là hợp lý không những vì chúng ta
phải trả lại cho dân tộc món nợ nguyên thủy như đã nói ở trên, mà còn vì chính
trong sự hy sinh đó, chúng ta hoàn thành sứ mạng làm người, hoàn tất cái bản
thân của chúng ta.
"Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi". Con người chơn chánh là con
người biết vượt qua quyền lợi để nghĩ tới nghĩa vụ. Mà cái nghĩa vụ căn bản là
nghĩa vụ đối với dân tộc. Chỉ khi nào chúng ta ý thức nghĩa vụ nầy như một mệnh
lệnh tuyệt đối vô điều kiện, chỉ khi nào chúng ta xã thân để thi hành một
cách hoàn toàn vô vị lợi, khi đó chúng ta mới mong tạo được cho mình một sự
nghiệp nhân bản đích thực với đầy đủ ý nghĩa và giá trị của nó.
Làm trai trong cõi người ta
Trước là báo bổ sau là hiển vang 4.
"Báo bổ" trước rồi mới "hiển vang". Và "hiển
vang" chỉ đến như một hậu quả, nó không thể là cứu cánh. Chính
"báo bổ" mới là cứu cánh. Và dầu có được "hiển vang" hay
không, cái hậu quả tất yếu và cao đẹp nhứt của sự "báo bổ" là sự
thành nhân của chúng ta, khi chúng ta hy sinh cho dân tộc. Đó là cái phần thưởng
quí báu nhất mà chúng ta sẽ thọ lãnh một cách hoàn toàn chắc chắn, không sợ ai
giành giựt với chúng ta. Nó cũng đền bù xứng đáng tất cả những hy sinh của
chúng ta, bởi vì đối với con người, có niềm vui nào bằng niềm vui được cảm thấy
mình thành người thực sự. Cho nên "Đừng hỏi dân tộc đã làm gì cho anh, mà
nên hỏi anh đã làm gì cho dân tộc." (John F. Kennedy)
Vì là toàn diện, ý thức dân tộc cũng có khuynh hướng đóng kín. Nó phải
đóng kín để giữ vẹn cái dự phóng nguyên thủy của nó là hiện diện trên trái đất
nầy như một toàn thể thống nhất và duy nhứt. Muốn được như vậy, nó phải tự
quyết bằng cách phủ nhận, chối bỏ bất cứ cái gì không phải là nó.
Nó phải đóng kín hơn nữa khi sự hiện hữu của nó luôn luôn bị đe dọa từ bên
ngoài cũng như từ bên trong: từ bên ngoài do những dân tộc khác, từ bên trong
do chính những phần tử của nó.
Từ lúc khởi nguyên cho tới ngày nay, lịch sử loài người vẫn là lịch sử của sự
tranh chấp giữa các dân tộc. Có lẽ một ngày nào đó, còn xa lắm, chúng ta sẽ thực
hiện được một nhân loại thống nhất, đại đồng, huynh đệ, nhưng ngay bây giờ, giữa
thế kỷ 20, cái quy luật duy nhứt chế ngự mối tương quan giữa các dân tộc còn là
cái "luật rừng", mạnh được yếu thua. Trước cuộc tranh chấp phổ biến
đó, không thể nghe theo lời khuyên của Lão Tử: "Phù duy bất tranh, cố
thiên hạ mạc năng dữ chi tranh" (Vì không tranh chấp với ai nên cũng không
ai tranh chấp với mình), bởi vì, trên thế giới nầy, dầu mình chẳng muốn gây sự
với ai, luôn luôn có những kẻ muốn gây sự với mình. Và kinh nghiệm đã cho thấy
chỉ những dân tộc nào dám chấp nhận sự tranh chấp, nghĩa là dám đương đầu với cái
chết, mới có thể tồn tại.
Hegel cho rằng chiến tranh là cần thiết để giữ "sức khỏe tinh thần" của
các dân tộc, vì chiến tranh bắt buộc các cá nhân phải hy sinh những quyền lợi
riêng tư để thật sự hòa mình vào toàn thể. Cổ xúy chiến tranh một cách vô trách nhiệm như vậy quả là bất xứng
đối với một triết gia. Bởi vì thiếu gì phương thức tích cực hơn để gìn giữ
"sức khỏe tinh thần" của dân tộc. Đành rằng chiến tranh có tác dụng hợp
nhứt dân tộc thành một khối thuần nhứt trong đó mỗi người bị bắt buộc vượt khỏi
chính mình, đồng thời tìm lại được chính mình trong cái toàn thể, nhưng những hậu
quả tai hại khủng khiếp và khôn lường của chiến tranh, trên bình diện vật chất
lẫn tinh thần, không cho phép chúng ta biện minh cho nó một cách hồ đồ như vậy.
Thật ra, dân tộc nào cũng sợ chiến tranh và đều có bổn phận tìm đủ mọi cách
ngăn chận chiến tranh khi nào còn có thể ngăn chận được. Tuy nhiên, chính sự hiện
hữu của dân tộc đe dọa bởi một dân tộc khác mà không còn cách nào giải quyết vấn
đề thì dân tộc phải chấp nhận chiến tranh để trường tồn. Chỉ trong trường hợp nầy,
chiến tranh mới mặc một ý nghĩa nhân bản và một tác dụng tích cực như Hegel đã
nói. Chỉ có một thứ chiến tranh chánh đáng là chiến tranh tự vệ trước sự xâm
lăng của một dân tộc khác. Và muốn tự vệ, phải ý thức cái mà mình muốn bảo vệ như
là lẽ sống của mình. Cái mà chúng ta muốn bảo vệ không phải chỉ là một giải
đất với một số người cùng một số quyền lợi hoặc tài nguyên, mà thiết yếu hơn nữa
đó là cái gương mặt con người độc đáo của chúng ta. Muốn bảo vệ cho
được gương mặt ấy, ý thức dân tộc phải là ý thức đóng kín, nó chỉ là nó và hoàn
toàn là nó.
Vừa phải tự vệ đối với phía ngoài, dân tộc còn phải ngăn chận những mầm mống
phân hóa từ bên trong. Dân tộc gồm những cá nhân và trên một khía cạnh nào đó,
cá nhân cũng là một toàn thể, nghĩa là một chủ thể thống nhứt, duy nhứt, có ý
thức về mình và có khả năng quyết định những hành động của mình. Dân tộc là
cái toàn thể của những toàn thể. Mà cái khuynh hướng tự nhiên của một
toàn thể là sự độc lập. Lẽ tự nhiên, cá nhân không thể tự mình hiện hữu. Kẻ
nào nghĩ ngược lại thì cứ leo lên chót đỉnh Trường Sơn mà sống một mình. Thử
coi sự "hiện hữu" của họ có thể kéo dài bao lâu! Và khi leo lên đỉnh
Trường Sơn, họ phải trả lại cho dân tộc tất cả những gì họ đã vay mượn, từ quần
áo, thực phẩm, dụng cụ cho đến cả lời nói và tư tưởng, nghĩa là họ cứ trần truồng
mà leo lên núi, trở thành con người hang đá và đi lại từ đầu con đường vạn lý của
văn minh... Cá nhân không thể sống một mình, nhưng khi dân tộc đạt tới một trình
đọ sản xuất và tổ chức cho phép một số nhỏ cá nhân sống tự túc, thì sự tự
túc ấy cho họ cái ảo tưởng rằng họ có thể sống độc lập. Chủ nghĩa cá
nhân xuất hiện từ đó như một đòi hỏi độc lập đối với tập thể. Dương Chu
bên Trung quốc, các nhà ngụy biện và các triết gia của phái "vô liêm
sĩ" (cynique) bên Hy Lạp là những người đại diện của chủ nghĩa nầy. Đây là
mối đe dọa trầm trọng nhứt cho dân tộc, vì nó là căn bệnh trong tâm phúc, cứu
cánh của nó là làm vỡ tung cái "chúng tôi" của dân tộc thành vô số những
cái "tôi" cô đơn, đóng kín và vị kỷ: "Bạt nhất mao nhi lợi
thiên hạ, bất vi giả", mất một sợi lông chân mà lợi cho thiên hạ cũng
không làm. Câu nói của Dương Chu có thể chỉ là một lời khiêu khích, nhưng đó
cũng là cái kết luận thực tiễn hợp lý nhứt của chủ nghĩa cá nhân. Nếu thiên hạ
chỉ là tổng số những cá nhân và nếu mỗi cá nhân là một hiễn hữu cô lập, thì quả
thật không có lý do gì để buộc tôi mất đi một sợi lông để cho thiên hạ được lợi.
Chấp nhận kết luận nầy là chấp nhận sự tan vỡ của dân tộc.
Trước hai mối đe dọa nói trên, phương thức tự vệ tự nhiên của dân tộc là bế
quan tỏa cảng, thiết lập những vòng đai, chỉa mũi dùi ra phía ngoài để chống
ngoại xâm, chỉ mũi dùi về phía trong để ngăn sự phân hóa, nghĩa là trở thành một
toàn thể đóng kín.
Vì là toàn diện và đóng kín, cái khuynh hướng sau cùng của ý thức dân tộc
là sự tự mãn. Một dân tộc chỉ hoàn toàn là nó, trong suốt với nó, nó
không cần đến bất cứ cái gì khác nó, mà chỉ muốn an nghỉ trong sự chiêm ngưỡng
chính mình.
Dân tộc nào cũng có trải qua những giờ phút trọng đại trong đó thời gian như đọng
lại thành vĩnh cửu và tất cả những cái tôi như tan biến đi trong cái chúng tôi
vĩ đại của dân tộc, trong một niềm thông cảm và hiệp nhứt sâu xa như giữa các tế
bào của một cơ thể, trong cái cảm thức thật giản dị mà cũng thật say sưa: chúng
tôi là chúng tôi, chúng tôi sống với chúng tôi, chúng tôi chết cho chúng tôi.
Trong những giây phút ấy, tất cả mọi người đều là diễn viên và tất cả cũng là
khán giả, mà thật ra chỉ có một diễn viên và một khán giả là dân tộc: dân tộc
say sưa nhìn ngắm gương mặt lý tưởng của mình. Những giờ phút mãn nguyện ấy thật
hiếm hoi, thật mong manh nhưng cũng thật vô giá.
Trong những đêm dài của chiến tranh, ai trong chúng ta mà không từng mơ tưởng đến
một buổi bình minh nào đó, dân tộc nầy sẽ đoàn tự từ Nam chí Bắc, sẽ tạo dựng một
xã hội thanh bình, công bằng, thịnh vượng như một tổ ấm cho mỗi đứa con của
mình. Rồi một đêm trừ tịch nào đó, giữa làn khói hương trầm nghi ngút, giữa tiếng
pháo đì đẹt mừng xuân, tiếng nói của một vị lãnh tụ nào đó được toàn dân yêu
kính, nối tiếp tiếng nói bất diệt của các vị anh hùng đã gây dựng đất nước này,
sẽ vang lên trên suốt giải đất quê hương và đi vào mọi tâm hồn như tiếng nói
muôn đời của dân tộc. Trong những giờ phút ấy, không cần đến những cuộc diễn
binh vĩ đại, những đám đông lúc nhúc, những tiếng hoan hô đồng giọng, mỗi người
Việt Nam sẽ thấy chính mình nơi nhà lãnh đạo, nhà lãnh đạo sẽ nhìn thấy chính
mình nơi mỗi người Việt Nam, và dân tộc sẽ là một khối thuần nhứt, dũng mãnh
như giòng nước Nhị Hà, hùng vĩ như dãy Trường Sơn, bao la như ruộng đồng miền
Tây. Đây sẽ là giờ mãn nguyện của dân tộc.
Ai là người Việt Nam không sẵn sàng hiến dâng tất cả để đổi lấy những giờ phút ấy?
Và nếu trong cõi trần gian ô trọc nầy, có một cái gì được gọi là "hạnh
phúc", thì đây là cái hạnh phúc chơn chánh nhứt của con người, bởi đối với
con người, hạnh phúc chỉ có thể nằm trong một thể thức hiện hữu mỗi ngày thêm
phong phú, nghĩa là thêm nhân bản, mà "càng hiệp nhứt thì sự hiện hữu
càng phong phú" 5. Dầu cho sự hiệp nhứt ấy có thể là một ảo ảnh,
hoặc chỉ có thể thực hiện ngoài trần gian, với một nhân loại đã thoát xác như
cái điểm Oméga của Teillard de Chardin, nó vẫn là cái chân trời soi sáng những
bước đi của chúng ta trong trần gian.
Toàn diện, đóng kín và tự mãn, đó là ba khuynh hướng của ý thức dân tộc. Đó
cũng là ba đặc tính của cái Tuyệt Đối. Một thực tại được gọi là tuyệt đối
khi nó hoàn toàn là nó và trong suốt với nó, khi nó không cần đến và không liên
hệ với môt cái gì khác nó và khi nó hoàn toàn thỏa mãn về nó, do đó một thực tại
tuyệt đối chỉ có thể là bất biến và vĩnh cửu, nghĩa là ở ngoài không gian và thời
gian.
Dân tộc trong không thời gian nên nhứt định không thể là cái tuyệt đối, vì thế
mà tính cách toàn diện, đóng kín và tự mãn chỉ là những khuynh hướng,
không phải những đặc tính đã có rồi. Nhưng chính vì những khuynh hướng đó
mà tham vọng của dân tộc là trở thành cái tuyệt đối. Mà cái tuyệt đối
cũng là cái vĩnh cửu. Cho nên, dân tộc có thể được xem như một cố gắng lớn lao
và bền bỉ nhứt của con người để thực hiện vĩnh cửu ngay trong thời gian, nghĩa
là để chiến thắng sự chết.
Lập quốc là trả lời sự thách đố của thời gian: trong thời gian, vạn vật đều suy
mạt, nhưng khi một dân tộc lập quốc, đó là để cho quốc gia tồn tại đời đời. Các
triều đại chính thể, cá nhân tự nhiên sẽ qua đi, nhưng quốc gia là trường cửu,
như Cicéron viết:
"Một quốc gia phải được cấu tạo cách nào để có thể tồn tại mãi mãi. Đối với
quốc gia, không có sự kết liễu tự nhiên như đối với con người. Đối với con người,
sự chết là không thể tránh và trong rất nhiều trường hợp, là điều nên mong muốn.
Trái lại, khi một quốc gia mất đi, bị tiêu diệt, trở thành hư vô, thì... dường
như toàn thể vũ trụ cũng suy vong và sụp đổ" 6.
Thực hiện vĩnh cửu ngay trong trần gian, đó có thể là một tham vọng hảo huyền
và cái quốc gia La Mã vĩ đại của Cicéron cũng đã sụp đổ như bao nhiêu quốc gia
khác. Nhưng đó là một tham vọng chính đáng và cần thiết của con người.
Chúng ta có thể xây dựng một công trình nhân bản khi nào chúng ta tin rằng nó sẽ
tồn tại mãi mãi với loài người. Và chúng ta có thể dốc hết toàn lực để chỉnh
trang trái đất nầy, biến nó thành một mảnh vườn tươi mát cho chúng ta và con
cháu chúng ta, khi nào chúng ta xem nó như cái quê hương đích thực và duy
nhứt của chnúg ta và không mơ màng đến một quê hương nào khác.
Có lẽ tất cả cố gắng của chúng ta chỉ là công dã tràng và thời gian sẽ đưa tro
bụi trở về với tro bụi, nhưng chính cái hiểm họa thất bại ấy tạo cho những công
trình của chúng ta một giá trị vô song. Và chúng ta đã thành người nhờ những
công trình đó.
Dân tộc là một toàn thể hành trình trong thời gian, quê hương duy nhứt của nó
là trái đất này. Là những đứa con của dân tộc, chúng ta cũng... là "những
đúa con của trái đất" 7. Yêu dân tộc tức là yêu quả địa cầu nhỏ bé, ấm
cúng và đầy hương sắc này, nơi sinh thành của chúng ta, nơi mà chúng ta ðã gặt
hái những niềm vui mong manh và thắm thía, đã mang nặng những nỗi buồn ray rứt
nhưng phong phú, nơi mà chúng ta sẽ an nghỉ ngàn đời sau khi đã làm xong nhiệm
vụ, cái nhiệm vụ trọng đại và bi đát của con người. Ai dám bảo đó là một tình
yêu không chính đáng!
Tuy nhiên, chính vì tình yêu dân tộc là chính đáng, chính vì tình yêu ấy đòi hỏi
một ý thức toàn diện, đóng kín và tự mãn, mà môt dân tộc tự nó và trong điều
kiện bình thường, không bao giờ có ý muốn làm thay đổi tiến bộ. Khuynh hướng
tự nhiên của dân tộc là bảo thủ vì cứu cánh của nó là an nghỉ trong sự chiêm
ngưỡng của chính mình.
Nó chỉ chấp nhận tiến bộ khi nó bị thúc đẩy bởi những nhu cầi thiết yếu, bởi một
sức ép từ bên ngoài (sự xâm lược của môt dân tộc khác) hay từ bên trong (sự nổi
loạn của một số cá nhân) hoặc khi nó phải đương đầu với một toàn thể có môt cứu
cánh hoàn toàn mâu thuẫn với nó.
Toàn thể này là tôn giáo.
Chú thích:
Qu'est ce qu'une nation, trong Pages francaises, Paris,
Calmann-Lèvy, 1931, tr. 70. |
|
Platon: Criton, 50 d e. |
|
Qu' est ce que le Tiers État? Paris 1789. tr. 79. |
|
Nguyễn Đình Chiểu: Lục Vân Tiên. |
|
Teillard de Chardin: "Être plus, c'est s'unir
davatage". Le Phénomène humain. Seuil-Paris 1955, tr. 25. |
|
De la République-Livre III, XXIII. |
|
Les Enfants de la Terre, lấy lại một dụng ngữ của Teillard
de Chardin. |
NHỮNG ĐỨA CON CỦA THIÊN ĐÀNG
Nếu dân tộc trói buộc chúng ta vào trái đất thì tôn giáo lôi kéo chúng ta lên "thiên đàng", dầu cho thiên đàng được quan niệm như sự hiệp nhứt với Đấng Tối Cao (như trong Thiên Chúa Giáo) hoặc như niềm cực lạc của một ý thức giác ngộ, đã thoát khỏi ảo giác của cõi vô thường, để đồng nhứt với Sự Thật tuyệt đối là cái tuyệt đối có thật (như trong Phật Giáo). Nếu dân tộc là sợi giây nối liền chúng ta với những người "đồng bào" để cùng nhau xây dựng hạnh phúc trần gian, thì tôn giáo là sợi giây nối liền chúng ta với những kẻ "đồng đạo" để cùng nhau vượt khỏi trần gian, tiến về hạnh phúc vĩnh cửu. Một quê hương dưói đất, một quê hương trên trời, đó là mối mâu thuẫn căn bản giữa Tôn giáo và Dân tộc. Ai có niềm tin tôn giáo, đồng thời có tinh thần dân tộc, mà đã không một lần cảm thấy như bị phanh thây giữa Trời và Đất, giữa tình liên đới đồng đạo và tình liên đới đồng bào.
Thật ra, vào lúc khởi nguyên, Trời Đất chưa phân biệt, người đồng đạo cũng là kẻ đồng bào. Tôn giáo đã góp một phần quyết định vào việc cấu tạo ý thức dân tộc, vì các tôn giáo cổ sơ đều có tính cách quốc gia, mỗi dân tộc chỉ thờ phụng những vị thần của mình và các vị nầy cũng chỉ có nhiệm vụ phù hộ cho dân tộc.
Ngay một tôn giáo độc thần và có khuynh hướng phổ biến như đạo Do Thái, cũng có tinh thần dân tộc mãnh liệt, nếu không nói là quá khích cực đoan: Yah Weh là Đấng Hằng Có đã tạo ra trời đất. Ngài là Chúa chung của muôn loài, nhưng ngài cũng là Chúa riêng của Do Thái, dân tộc duy nhứt đã được Ngài "chọn lựa" (peuple élu) đã ký kết với Ngài một "giao ước" theo đó họ chỉ thờ phụng mỗi một mình Ngài và bù lại, Ngài sẽ dẫn dắt họ đến một vùng "đất hứa" tràn trề sữa và mật, nơi đó, họ sẽ tạo dựng một quốc gia vĩ đại và trường cửu.
Trong các đô thị Hy-La thời Thượng Cổ, tôn giáo là nền móng của quốc gia, quyền công dân trước hết là quyền tham dự các lễ nghi tôn giáo của đô thị và những tội lỗi liên hệ tới tôn giáo đều bị trừng phạt nặng nề hơn hết. Chế độ dân chủ tự do của thành Athènes đã lên án tử hình Socrate, người công dân sáng suốt, thánh thiện và dễ thương nhứt của mình, chỉ vì một lời tố cáo vu vơ về tội bất kính đối với các vị thần.
Riêng về Trung Hoa và Việt Nam, nền triết lý Khổng Mạnh pha lẫn với những niềm tin của đại chúng, đã lần hồi tạo nên một thứ tôn giáo quốc gia rất độc đáo, trong đó chính nhà Vua, đại diện cho Trời, làm giáo chủ, các vị thần đều do vua sắc phong, giáo sĩ là các viên chức đại diện nhà Vua và giáo dân là toàn thể tôi con nhà Vua.
Như vậy, vào lúc khởi nguyên, tôn giáo đồng nhứt với dân tộc, tình đồng đạo là nền tảng của tình đồng bào. Chính vì thế mà cứu cánh của các tôn giáo cổ sơ không vượt khỏi trần gian. Mặc dù các vị Thần được xem như những thực tại siêu phàm và sống trong một thế giới hoàn hảo, bất diệt, sứ mạng được gán cho họ không phải là đưa con người về nơi siêu việt ấy, mà chỉ là hỗ trợ những công trình trần gian của con người. Tôn giáo bao trùm và bảo vệ dân tộc như bầu Trời chụp lên tên mặt Đất và trong cái vỏ ấm cúng đó, người "công dân tín đồ" sống thoải mái giữa anh em mình, không đòi hỏi mơ ước gì hơn nữa, như Socrate xưa kia, trọn cuộc đời dài đăng đẵng, không bao giờ cảm thấy nhu cầu rời khỏi thành Athenes, dầu là để ngao du một chuyến, hoặc như người nông dân nước ta thuở trước, ba vạn sáu ngàn ngày không ra khỏi lũy tre làng.
Tuy nhiên, chỉ vì đồng nhứt với dân tộc, chính vì không vượt khỏi trần gian mà các tôn giáo cổ sơ đã cô đọng trong những tập tục lễ nghi dần dà mất hết ý nghĩa, đã không sáng tác được một giá trị tinh thần khả dĩ cải tiến nếp sống của dân tộc trong trần gian. Các tôn giáo cổ sơ đều có tính cách phản đạo đức hoặc phi đạo đức (amoral). Các vị Thần đầy thói hư tật xấu như con người, ngay cả Yah Weh của dân Do Thái cũng bị gán nhiều hành vi tàn bạo và bất công. Thật ra, thế giới thần linh chỉ là một phản ảnh của thế giới loài người, do đó không thể mang thêm điều gì cho loài người.
Đôi khi một tôn giáo cổ sơ cũng đẻ ra được một nền đạo đức nhân bản có giá trị phổ biến, nhưng vì tôn giáo đồng nhứt với dân tộc, nền đạo đức nầy được xem như chỉ có giá trị đối với dân tộc đó mà thôi. Yah Weh đã ban hành "mười điều răn" cho dân Do Thái. Đó là những quy luật đạo đức căn bản và phổ biến chế ngự sự tương giao giữa người với người. Nhưng người Do Thái chỉ có bổn phận tôn trọng những quy luật ấy đối với đồng bào của họ, còn đối với các dân tộc khác, Yah Weh cho họ trọn quyền chém giết, cướp bóc, kể cả tiêu diệt, vì đó là dân "ngoại đạo" 1.
Tóm lại, các tôn giáo cổ sơ chỉ gia tăng cái khuynh hướng toàn diện, đóng kín và tự mãn của dân tộc, mang lại thêm cho nó một bảo đảm siêu nhiên: Trời gắn liền vào Đất. Trời là nóc, Đất là nền của tòa nhà dân tộc.
Sự hiệp nhứt nguyên thủy ấy đã tan vỡ với sự xuất hiện những tôn giáo phổ biến, đặc biệt là Phật giáo và Thiên Chúa giáo.
Dầu có khác nhau đến đâu về mặt giáo lý, các tôn giáo nói trên đều khẳng định một sự thật căn bản chung: con người là kẻ lữ hành đi tìm cái Tuyệt Đối và chỉ hoàn toàn thỏa mãn khi đạt tới cái Tuyệt Đối.
"Inqietum est cor nostrum, donec requiestcat in Te": tâm hồn chúng tôi mãi mãi lo âu cho đến khi được an nghỉ trong Chúa (Thánh Augustin)
Ngay khi chưa nhận thức được cái Tuyệt Đối, con người vẫn mò mẫm sờ soạng tìm nó trong đêm đen, như thi hào Tagore viết:
"Tôi chỉ muốn một mình Ngài, một mình Ngài thôi." "Như đêm tối đòi hỏi ánh sáng ngay trong âm u của nó, tôi kêu lên từ vực thẳm của vô thức tôi: tôi chỉ muốn một mình Ngài, một mình Ngài thôi." (Gitanjali).
Con người đi tìm Tuyệt Đối như là cái duy nhứt thật sự có thật, thật sự tốt và đẹp, như giòng suối duy nhứt có thể dập tắt vĩnh viễn niềm khát khao vô hạn của mình. Mà cái Tuyệt Đối nhứt định không thể có trong trần gian.
Trời bỗng nhiên bay vút lên cao, xa thẳm, vượt khỏi tầm mắt con người. Đất ở lại trong cô đơn và trở thành chai đá: vạn vật như mất đi tất cả hình thù, mầu sắc, hương vị và cái vũ trụ tươi mát, tràn trề sinh khí, đầy dẫy thức ăn trần gian 2. chỉ là một cái vỏ rỗng. Và bên trong cái vỏ, con người nhìn thấy hư vô. Từ đây, hư vô sẽ như con sâu cuộn tròn trong trái chín, như giọt mật đắng dưới đáy ly rượu nồng; mọi thức ăn trần gian, dầu là chánh đáng nhứt, từ đây sẽ pha trộn dưới tro bụi...
Trước cái Tuyệt Đối, mọi sự trong trần gian đều vô giá trị hay ít nữa không còn một giá trị tự tại nào và con người chỉ đạt tới cái Tuyệt Đối khi biết phủ nhận trần gian, tháo gở những xiềng xích trói buộc mình vào cuộc đời nầy, ngay cả những xiền xích êm ái nhứt.
Trần gian chỉ còn là biển khổ, thung lũng nước mắt, một nơi thử thách mà con người tạm thời phải chịu đựng hoặc là, nếu nhìn trên một khía cạnh tích cực hơn, một quê hương tạm bợ mà con người có thể mến yêu mà không có quyền quyến luyến, một quán trọ, một bến đò để dừng chân giây lát trong khi chờ đợi chuyến sang ngang.
Xuất thế là đặc tính căn bản và cốt yếu của ý thức tôn giáo. Quê hương đích thực của con người tôn giáo là Trời chứ không phải là Đất, dầu chữ Trời có hình dung khác nhau đến đâu đi nữa, như cụ Nguyễn Đình Chiểu đã định nghĩa người Công giáo và người Phật Tử trong một câu: "Hai đàng đều muốn chữ Thăng lên Trời 3.
Thật ra không có tôn giáo nào có thể hoàn toàn phủ nhận trần gian, bởi lẽ tôn giáo hiện diện trong trần gian và người tín đồ, trước khi "về Trời" vẫn phải sống trên mặt Đất. Nhưng tôn giáo chỉ hòa giải phần nào với trần gian vì những đòi hỏi thực tế của hoàn cảnh 4. và luôn luôn xem sự hòa giải nầy như một điều bất như ý: lý tưởng của tôn giáo vẫn là đời sống tu trì và dầu cho ý nghĩa của đời sống nầy có thể khác nhau, trên căn bản, nó vẫn dựa trên sự phủ nhận mọi giá trị trần gian.
Người ta có thể giải thích và phê phán đời sống tu trì cách nầy cách khác, nhưng ai cũng phải nhìn nhận tính cách thanh cao và siêu thoát của nó, lẽ dĩ nhiên trong trường hợp nó là một thái độ chân thật của con người ý thức được cái Tuyệt Đối, chớ không phải là một thái độ trốn chạy, thoát ly trước những khó khăn của cuộc đời. Không ai có thể chứng minh rằng có hay không có cái Tuyệt Đối, nhưng cái nhu cầu Tuyệt Đối mà con người cảm thấy trong thâm tâm mình là một sự kiện không thể phủ nhận.
Và sự trường tồn của đời sống tu trì qua mấy ngàn năm, sự hiện diện của nó trên khắp thế giới, tính cách hấp dẫn mà nó còn giữ được ngày nay, trong cái bối cảnh vô cùng bất lợi của những "xã hội tiêu thụ", chứng tỏ rằng nhu cầu Tuyệt Đối không phải là một ảo tưởng chỉ xuất hiện trong một giai đoạn lịch sử hoặc một nền văn minh nào đó, mà có thể là một nhu cầu căn bản của con người.
Vã chăng, nó không phải chỉ hiện diện trong tôn giáo mà còn trong tất cả các sinh hoạt tinh thần khác: triết học, khoa học, văn nghệ. Bất cứ ai có môt đời sống tinh thần đích thực, nghĩa là có sáng tác, đều cảm thấy cái đòi hỏi vượt qua tất cả những công trình đã có để tiến về một trạng thái hoàn hảo của sự Thật, của cái Đẹp mà biết rằng sẽ không bao giờ đạt tới được.
Trạng thái hoàn hảo đó là gi, nếu không phải là cái Tuyệt Đối không thể có trong trần gian? Đời sống của một triết gia, nhà khoa học hay văn nghệ sĩ chơn chánh giống đời sống nhà tu hành ở chỗ họ cũng chối bỏ hoặc ít nữa là coi thường một số giá trị trần gian như của cải, danh vọng và nhiều khi cả hạnh phúc gia đình. Sự khác biệt giữa họ và nhà tu hành thuộc về trình độ chớ không hẵn là bản chất.
Nếu nhu cầu Tuyệt Đối là một nhu cầu căn bản của con người, thì không ai có quyền cấm con người đi tìm cái Tuyệt Đối trong đời sống tu trì, nhứt là khi đời sống nầy không tạo nên những con người cằn cỗi, bất hảo mà những con người phong phú, tốt lành.
Lúc còn du học, vào một dịp hè, tôi đã có xin vào ở một tháng trong một tu viện cổ kính thuộc một dòng khổ tu chiêm ngưỡng (ordre contemplatif) vừa để quan sát đời sống tu trì, vừa để soạn thi. Tu viện chơ vơ trên một đỉnh núi vùng Ardenes, giữa những rừng thông bát ngát âm u, năm sáu cây số chung quanh không có một mái nhà. Đời sống các tu sĩ thiệt là khổ hạnh, xoay đều theo một thời khóa biểu hết sức tỉ mỉ, khắt khe (cầu nguyện, học hỏi, lao động, ăn, ngủ, chuyện trò, v.v...) và chỉ hướng về một đối tượng duy nhứt: Thượng Đế. Tất cả các hoạt động đều nhằm ca ngợi Thượng Đế và hiệp nhứt với Ngài. Ngay đến giấc ngủ cũng bị ngắt khoảng mỗi ba giờ đồng hồ để đọc kinh.
Nhìn từ ngoài, một nếp sống như vậy có vẻ khắc khổ đến độ phi nhân, vì nó phủ nhận hầu hết những nhu cầu tự nhiên nhứt của con người. Nhưng sự khắc khổ ấy đã không đẻ ra những con người nhăn nhó, xanh xao, mà trái lại, đã tạo nên những con người tươi tỉnh, khỏe mạnh, mà những đức tính đáng mến nhứt là một niềm vui hồn nhiên, trong suốt, một dáng điệu thanh thản thoải mái và một thái độ đón nhận chân thành, cởi mở và nồng hậu đối với tha nhân, ít nữa là nơi các tu sĩ mà tôi được phép tiếp xúc.
Tôi sẽ còn nhớ mãi ông thầy gác cửa, mà tôi đã làm thân ngay khi mới đến, một ông già quắc thước, cao lớn như Hộ Pháp, với một chòm râu bạc xum xuê bao quanh một nụ cười nghịch ngợm như trẻ con. Vì ông luôn luôn mang theo cạnh sườn xâu chìa khóa khổng lồ, nên tôi thường gọi ông là Thánh Phêrô. Ngược lại, ông cũng tặng tôi cái biệt hiệu "nhà thông thái" và thường hỏi thăm một cách nghiêm trang xem tôi đã gặm hết sách của thư viện chưa.
Một buổi chiều, Thánh Phêrô ngoắc tôi lại, ngó trước ngó sau, rồi nói nhỏ: "Tối nay trăng rằm, trời đẹp lắm. Nếu nhà thông thái muốn đi chơi một vòng cho tiêu mấy cuốn sách thì ra cổng hậu chờ Thánh Phêrô sau buổi kinh tối."
Rồi ông nheo mắt: "Mà đừng có cho cha Hotelier 5. biết, ông rầy chết đa."
Thế là đêm hôm ấy, Thánh Phêrô cùng nhà thông thái len lén thoát ra ngoài cổng hậu như hai chú học trò trốn học, đi tung tăng trên những con đường mòn đầy trăng, và sau cùng leo lên một cái nổng cao, ngồi ngắm cảnh.
Vầng trăng tròn và lớn lơ lững giữa vòm thăm thẳm, trong vắt và chi chít những vì sao. Dưới chân chúng tôi, rừng thông đen mịt thoai thoải chạy dài theo sườn núi và ở mút dưới kia. Xa lắm, lấp lánh ánh đèn của xã hội loài người. Không một tiếng động, ngoài những tiếng thông reo vi vu sau mỗi cơn gió thoảng.
Giữa cõi không gian trong sáng và im lặng ấy, tôi cảm thấy như tách rời tất cả, chơi vơi, lặn hụp và tan biến đi trong một thực tại bao la: không còn trời, không còn đất, cũng không còn chính tôi... Thiên Dàng hay Nát Bàn chắc là cái gì na ná như cảm giác lúc ấy: sự tan biến của ý thức mà cũng là ý thức sự tan biến, trong cái vô hạn.
Chúng tôi im lặng ngắm trăng cho đến giờ trở về, không ai muốn nói gì và cũng không có gì để nói. Nhưng trước cửa tu viện, đột nhiên tôi hỏi: "Thánh Phêrô có tin thật rằng có Thiên Đàng không?" Ông già cúi xuống nhìn tôi thật dài rồi cười ngất: "Nhà thông thái hỏi một câu thật là bất thông. Thánh Phêrô mà không tin có Thiên Đàng thì còn ai tin?" Nhưng ông nghiêm trang lại, chỉ vào cửa tu viện mà nói: "Tôi không biết Thiên Đàng thật sự như thế nào, nhưng ngay bây giờ, đối với tôi, Thiên Đàng là đây." Nhìn ông tra chìa khóa vào cửa, chòm râu bạc phất phơ dưới ánh trăng, tôi có cảm tưởng chính ông là Thánh Phêrô đang mở cửa cho tôi vào nước Thiên Đàng...
Những kinh nghiệm nói trên về đời sống tu trì, dưới hình thức khổ hạnh nhứt của nó mặc dầu có tính cách hời hợt của một kẻ đứng ngoài nhìn vào, vẫn cho phép tôi khẳng định rằng đó là một đời sống phong phú, chơn thật và chánh đáng. Riêng đối với tôi, những ngày sống ở tu viện là những ngày tươi mát nhứt mà tôi đã được hưởng trong cuộc đời và sẽ giữ gìn mãi như môt kỹ niệm vô giá. Dầu không có Thiên Đàng đi nữa thì Thiên Đàng vẫn có thật, trong tâm hồn các tu sĩ.
Có lẽ sau nầy, đời sống tu trì sẽ mặc một hình thức khác hẵn bây giờ: những tu viện chơ vơ trên đỉnh núi chắc sẽ không còn nữa, và nhà tu hành không sống tách biệt với thế gian 6. Nhưng dù có thay đội hình dạng như thế nào đi nữa, đầu nhà tu hành có sống giữa đời như một người đời, thì yếu tính của đời sống tu trì vẫn là sự phủ nhận một giá trị tự tại cho cuộc đời nầy, vì không có một giá trị tự tại nào ngoài cái Tuyệt Đối. Sự ly cách không cần được biểu hiện trong hành vi mà chỉ cần hiện diện trong ý thức. Mà khi nào còn tôn giáo thì sẽ còn đời sống tu trì vì nó là nguồn mạch của ý thức tôn giáo. Cho nên có thể kết luận rằng ý thức tôn giáo, trên căn bản, là một ý thức xuất thế và sẽ mãi mãi là xuất thế. Một tôn giáo hoàn toàn nhập thế sẽ không còn là tôn giáo hoặc nó sẽ lùi về tình trạng các tôn giáo cổ sơ để chết khô trong một mớ lễ nghi, tập tục.
Có một cuốn sách đã được nhắc tới ở một đoạn trước mà tôi xem là có tính cách điển hình cho sự mâu thuẫn nói trên giữa ý thức dân tộc và ý thức tôn giáo: Cuốn Dương Từ Hà Mậu của cụ Đồ Chiểu.
Đây là một tập thơ dài gồm gần hai ngàn câu do ông Phan Van Hùm sao lục và hiệu đính từ thời tiền chiến, nhưng mãi đến năm 1964 mới được xuất bản lần đầu 7. trong đó Nguyễn Đình Chiểu với tâm tánh bộc trực của người dân miền Nam, đã thẳng tay đả kích Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Rất tiếc là bộ thông tin thời đó, không hiểu vì lý do gì, đã kiểm duyệt tất cả những đoạn liên hệ tới Thiên Chúa giáo mà, lạ lùng thay, lại để nguyên những đoạn chỉ trích Phật giáo! Nhưng cứ nghe cái giọng cực kỳ gay gắt của Cụ Đồ Chiểu khi luận về nhà Phật thì có thể dự đoán rằng những điều cụ nói về nhà Chúa gay gắt hơn thập bội.
Cốt chuyện nằm trong chuyến du hành trên Thiên đình và dưới Địa ngục của Dương Từ và Hà Mậu, kẻ xuất gia theo Phật, người thờ "đạo Hòa Lan" đã năm đời. Lạ thay, qua chín cửa Trời, chả thấy bóng Chúa và Phật ở đâu, chủ gặp có Đức Khổng Tử. Trái lại, dưới địa ngục thì sư sãi và người Công giáo rất đông, pha lẫn với những kẻ chuyên môn lợi dụng óc mê tín dị đoan của thiên hạ như ông đồng, bà bóng, thầy pháp, thầy địa lý, v.v... và lẽ dĩ nhiên bọn tội phạm thông thường. Tập thơ kết thúc bằng sự "cải tà quy chánh" của Dương Từ Hà Mậu, đưa đến một đạo dụ của nhà Vua, cấm chỉ cả Phật giáo lẫn Thiên Chúa giáo, và những bữa tiệc linh đình, đánh dấu sự đoàn tụ của quốc gia, (lúc ấy cũng vừa dẹp xong giặc "Tây Châu) dưới sự lãnh đạo tinh thần của đạo Nho, đạo của dân tộc:
"Cớ sao mình ở nước Trung 8.
Lòng theo nước ngoại còn mong đạo gì
Ông bà mồ mả bỏ đi,
Gốc mình chẳng kính, kính gì gốc ai?
Cửa nhà làng xóm cách ngoài
Phận gần chẳng đoái, đoái hoài phận xa...
Cứ theo một đạo Nho ta,
Giữ cầu về nghĩa, muôn nhà an vui.
Nếu tác giả cuốn Dương Từ Hà Mậu không phải là Nguyễn Đình Chiểu, và nếu nó không được viết trong một giai đoạn đặc biệt của lịch sử nước ta, thì có thể xem nó như một mớ suy tư của một cụ đồ nho khe khắt, chẳng có một chút khoan dung nào trong con người, Nhưng tác già là Nguyễn Đình Chiểu, và Nguyễn Đình Chiểu không phải là bất cứ ai, và nó được viết trong một giai đoạn bi thảm của lịch sử, giữa lúc dân tộc đang phải đương đầu với hai đe dọa lớn: nội loạn và ngoại xâm. Chính cái bối cảnh lịch sử sôi động ấy và cái nhìn vô song của cụ đồ Chiểu đã khiến cuốn Dương Từ Hà Mậu thành một chứng tích hết sức quí báu của cuộc xung đột trường cửu giữa ý thức tôn giáo và ý thức dân tộc.
Bởi vì, hơn ai hết, Nguyễn Đình Chiểu đại diện cho giai cấp sĩ phu và giai cấp sĩ phu là đại diện chơn chánh của dân tộc trong thời gian nó lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp. Đôi mắt mù lòa của cụ tượng trưng cho sự bất lực của giai cấp này: bất lực vì mù quáng và mù quáng một phần cũng vì quá yêu quý cái di sản được xem như bất di bất dịch của tiền nhân. Nhưng tâm hồn thật cao quý và bất khuất của cụ tượng trưng cho những đức tánh đáng mến nhứt của giai cấp sĩ phu. Cụ lại không được hưởng một chút ân huệ bổng lộc nào của triều đình nhà Nguyễn mà chỉ sống nhờ quần chúng, cho nên lòng yêu nước yêu dân của cụ đã mặc một vẻ chơn thật nồng nàn và vô vị lợi hơn những nhà Nho khác, và cuộc đời cụ có thể tượng trưng một cách xứng đáng hơn hết cho các giá trị tinh thần của nền đạo lý Khổng Mạnh. Cụ là một trong những tia sáng cuối cùng của nền đạo lý nầy, lóe lên rực rỡ một lần chót trước khi chìm vào bóng đêm. Ngoài cụ Đồ Chiểu, ai có thể viết một bài như bài Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc mà bây giờ đọc lên, còn thấy được "manh áo vải, ngọn tầm vông", nghe được những bước chân rầm rập của dân quân miền Nam, "chi nhọc quan quân đánh trống kỳ trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không, nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có?".
Quả thật Nguyễn Đình Chiểu là một trong những đại diện xứng đáng của dân tộc trong thời đó, nghĩa là cụ thể hiện một cách trong suốt những ý thức dân tộc. Và cũng trong thời đó, Cụ đã viết cuốn Dương Từ Hà Mậu, lên án gắt gao và chủ trương loại bỏ Phật giáo và Thiên Chúa giáo ra khỏi cộng đồng quốc gia.
Theo ông Phan Văn Hùm, căn cứ trên một bài báo của ông Nguyễn Văn Nghĩa viết năm 1936, cuốn Dương Từ Hà Mậu có lẽ được sáng tác khi cụ Đồ Chiểu ở trọ tại nhà ông Nhiêu Lê Quang Thịnh, làng Tân Thuận Đông, tỉnh Gia Định, nghĩa là cùng một giai đoạn với Lục Vân Tiên, trước khi quân Pháp chiếm Saigon. Nhưng ông Hùm có thêm rằng bài báo ấy không có một chỉ dẫn nào khác về thời gian sáng tác Dương Từ Hà Mậu.
Tôi không biết từ đó đến nay, có ai đã nghiên cứu thêm về vấn đề nầy không. Nhưng theo thiển ý, căn cứ trên nội dung, hình thức và tác dụng của Dương Từ Hà Mậu không thể nào nghĩ rằng nó được sáng tác cùng một thời với Lục Vân Tiên. Thật vậy, Lục Vân Tiên chỉ là một bài thơ tự thuật và chỉ nhằm nói lên chí làm trai của người quân tử trong thời bình, nghĩ rằng nó được viết trước khi chiến tranh Việt Pháp nổ bùng là đúng.
Trái lại, Dương Từ Hà Mậu có tính cách tranh đấu rõ rệt. Từ những lời thơ cục mịch, không một cố gắng trau chuốt đến cái nội dung giản dị phân biệt tuyệt đối hai nẻo chánh tà, tất cả đều chứng tỏ rằng đây là một áng văn tranh đấu trên bình diện ý thức hệ được sáng tác rất vội vàng để có một tác dụng tức thời lúc ấy. Lúc ấy là Pháp đã chiếm Saigon và họa mất nước đã rõ rệt 9.
Giả thuyết nầy giúp chúng ta hiểu tại sao cụ Đồ Chiểu đã lên án Phật giáo chung với Thiên Chúa giáo, trong khi triều đình nhà Nguyễn vẫn tôn trọng đạo Phật và các Phật tử lúc ấy không có một hành động nào có thể xem là nguy hại cho quốc gia.
Không thể cho rằng cụ có ác cảm hoặc thành kiến đối với Phật giáo, vì mặc dầu thuyết "Tam giáo đồng nguyên" đã mai một và đạo Nho đã chiếm được địa vị độc tôn kể từ nhà Lê, tinh thần bao dung và hòa đồng giữa ba tôn giáo vẫn còn. Trong Lục Vân Tiên kể cả Khổng Lão và Phật đã giữ một vai trò quan trọng vì chính Đức Quán Thế Âm Bồ Tát đã cứu sống Nguyệt Nga và hướng dẫn nàng đến nơi trùng phùng với Vân Tiên, đúng theo sứ mạng "cứu khổ cứu nạn" của Ngài. Nếu cụ Đồ Chiểu không ưa Phật giáo thì cụ sẽ không dại gì mà đi châm thêm củi vào ửa cho một niềm tin rất thịnh hành trong dân gian đối với Đức Quan Âm.
Vậy, nếu Dương Từ Hà Mậu chỉ là một suy tư về tôn giáo và được sáng tác trước cuộc chiến tranh Việt-Pháp, thì cụ Đồ Chiểu chỉ có thể lên án một mình Thiên Chúa giáo, vì hành động của các thừa sai lúc ấy quả là một mối nguy lớn cho quốc gia và đạo Thiên Chúa đã bị cấm. Đạo Phật, trái lại đã được Việt hóa từ mười thế kỷ, đã ăn sâu vào văn hóa, phong tục, tập quán của xứ nầy đến nỗi trở thành một thứ không khí mà người Việt nào cũng hấp thụ ít nhiều và đã không có một liên hệ nào với ngoại bang. Phật giáo cũng có công lớn đối với đất nước và cụ Đồ Chiểu, vốn giỏi sử, chắc biết rõ điều ấy.
Vì lý do gì Nguyễn Đình Chiểu đã lên án nặng nề Phật giáo, đã nhắc đi nhắc lại rằng "Phật ở Tây phương" như muốn đặt Phật giáo vào cùng một rọ với Thiên Chúa giáo và quân đội Pháp, đối tượng của lòng căm thù quần chúng. Chỉ có một lý do hiểu được là trước nạn xâm lăng và nội loạn, dân tộc phải trở thành một khối thuần nhứt để tự vệ và ý thức dân tộc không thể chấp nhận, tha thứ khoan dung bất cứ một thái độ xuất thế nào. Cụ Ðồ Chiểu lên án đạo Phật chỉ vì đạo Phật là một tôn giáo và vì ý thức tôn giáo là một ý thức xuất thế 10. chỉ có thể làm suy yếu tiềm lực chiến đấu của quốc gia.
Tất cả những lời đả kích Phật giáo trong Dương Từ Hà Mậu đều lập lại những luận cứ của nhà Nho Trung quốc, thời Phật giáo mới du nhập vào Trung Hoa: theo Phật là "phá nước, phá nhà, phá thân":
Tóc râu là dạng nam nhi,
Của cha mẹ đúc, can gì cạo đi?
Tổ tiên chút đã đền chi
Vùa hương bát nướcnào khi phụng thờ?
Áo cơm còn nợ sờ sờ
Lá rau con cá ở nhờ đất Vua
Trốn xâu, trốn thuế vô chùa
Trong đời những sải, thời Vua nhờ gì?
Vợ chồng sao bỏ nhau đi
Lời nguyền nhường ấy dám khi quỷ thần
Ba giềng chẳng đặng một phần
Như vầy cũng tiếng là thân con người
Để bây sống cũng nhơ đời..."
Những luận cứ ấy có thể áp dụng toàn diện cho các tu sĩ Thiên Chúa giáo và đều dựa trên một luận cứ căn bản:
Hai đàng đều muốn chữ "thăng lên Trời."
Đã có một quê hương trên Trời thì sẽ không yêu mến thật sự và chết sống với quê hương dưới Đất. Muốn chết sống với quê hương trần gian, phải xem nó là quê hương duy nhứt, phải chấp nhận toàn diện thân phận làm người trong trần gian, mới có thể tranh đấu quyết liệt để cải tạo thân phận ấy. Muốn tranh đấu quyết liệt, phải không còn ngõ rút lui như các vị Tướng thời xưa, sau khi độ quân sang sông, thường đốt tất cả thuyền bè để bắt buộc quân lính, và cả chính họ, phải liều mình tiến tới.
Con người tôn giáo luôn luôn còn một ngõ rút lui vì họ có hai quê hương và chỗ rút lui của họ thật an toàn, vì nó ở ngoài trần gian, ở trong ý thức, do đó, bất khả xâm phạm.
Cho nên, dầu con người tôn giáo có "đi vào cuộc đời" 11, hòa mình với dân tộc, chấp nhận thân phận làm người, thế đứng của họ vẫn là một thế đứng cách biệt: đứng ngoài và đứng trên, chỉ vì cái tia sáng mong manh của ý thức tôn giáo. Họ có thể hòa mình đến mức tối đa, chấp nhận đến mức tối đa, nhưng cái tối đa không bao giờ toàn diện.
Một cảm giác buồn nhứt mà tôi có khi đọc xong cuôn tiểu thuyết "Các Thánh đi xuống Địa ngục" 12. của Gilbert Cesbron - một cuốn sách thật cảm động và gây sóng gió một thời bên Pháp, mô tả cuộc sống của những người linh mục thợ (prêtres povriers) trong một số lao động Paris - là một tu sĩ, dầu có trở thành lao động và chấp nhận tất cả những lầm than tủi nhục, cũng như tất cả những phẩn uất, hy vọng của số kiếp thợ thuyền, không bao giờ hoàn toàn là một công nhân như các công nhân khác. Không phải vì trình độ học thức hoặc cách ăn nói cư xử - về các điểm nầy, sự đồng hóa rất dễ dàng - mà chính vì cái khả năng rút lui. Người công nhân thật sự không thể rút lui về đâu, họ sống chết với số kiếp công nhân và dầu họ vùng lên để tự giải phóng hoặc cúi đầu chịu làm nô lệ tự do cho các xí nghiệp, họ vẫn hoàn toàn ở trong số kiếp đó; trái lại, người tu sĩ đi vào số kiếp công nhân luôn luôn có thể rút lui và bị cám dỗ rút lui, nhứt là khi họ nhận thấy con người công nhân nơi họ dần dần lấn áp con người tu sĩ, như trường hợp của Cha Bernard trong cuốn sách. Và khi bị buộc chọn lựa giữa sự trung thành với giai cấp công nhân và sự trung thành với sứ mạng tu sĩ, đương nhiên họ phải chọn sứ mạng tu sĩ vì đây là sứ mạng đích thực của họ.
Chình vì khả năng rút lui đó mà những người không tôn giáo không bao giờ hoàn toàn tin cậy các tín đồ, khi hai bên cộng tác với nhau trong một công trình trần gian. Điều nầy khiến ta hiểu tại sao đối với Nguyễn Đình Chiểu nghĩa là đối với ý thức dân tộc, Phật giáo và Thiên Chúa giáo cùng một bản chất và người Phật tử đích thực (nghĩa là kẻ đã xuất gia) dầu không có cấu kết với ngoại bang, dầu có thể hy sinh cho dân tộc, vẫn là một kẻ xa lạ trên quê hương mình.
Dự phóng nguyên thủy của dân tộc là tồn tại vĩnh viễn trong trần gian, dự phóng nguyên thủy của tôn giáo là vĩnh viễn thoát khỏi trần gian: đó là mối mâu thuẫn sâu xa nhứt giữa tôn giáo và dân tộc. Nguyễn Đình Chiểu, đại diện cho ý thức dân tộc, đã thấy vấn đề khi lên án cả Phật giáo lẫn Thiên Chúa giáo là "phận gần chẳng đoái, đoái hoài phận xa".
Tuy nhiên, có lẽ vì nghĩ đến cái "phận xa" của con người mà tôn giáo phổ biến đã góp một phần quyết định vào việc cải thiện chính cái "phận gần" của con người; có lẽ vì muốn cho con người được "thăng lên Trời" mà Phật giáo và Thiên Chúa giáo đã là nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp của nhiều tiến bộ lớn lao của con người trên mặt đất.
Có vượt khỏi trần gian mới nhìn thấy nó toàn diện và phê phán nó toàn diện. Có ý thức được một tuyệt đối ngoài trần gian như cái duy nhứt hoàn hảo, mới cảm thấy bất mãn trước những thực tại tương đối trong trần gian. Mà có phê phán, bất mãn mới có tiến bộ. Cho nên, giả như tôn giáo có hoàn toàn bất động đi nữa, nguyên sự hiện diện của nó đã là một thách đố đối với trần gian, bắt buộc trần gian phải tự đặt nó thành vấn đề và tự cải thiện.
Mà tôn giáo đâu phải là đã không làm gì cho trần gian! Nếu khách quan nhìn lại lịch sử, làm sao phủ nhận được ảnh hưởng quyết định của các tôn giáo lớn trong sự phát triển của văn minh nhân loại?
Chính tôn giáo đã nâng cao giá trị của con người đến chỗ siêu việt, đặc biệt là những con người thấp hèn nhứt, đã bị khinh bỉ và chà đạp mấy ngàn nãm qua. Những kẻ nô lệ trong Ðế quốc La Mã, những người cùng đinh (paria) bên Ấn Ðộ chắc chắn cảm thấy chân trời như đột nhiên mở rộng trước mắt họ khi lần đầu tiên họ nghe giảng giải rằng tất cả mọi người là anh em vì là con một Cha trên Trời và đều có thể hưởng hạnh phúc đời đời, hoặc bất cứ ai cũng có Phật tính và đều có thể giác ngộ để đạt tới miền cực lạc. Lẽ dĩ nhiên, giá trị của họ mới chỉ được nhìn nhận trong ý thức và cuộc giải phóng chỉ được hứa hẹn cho đời sau, do ðó, tôn giáo thường bị lợi dụng để làm cho họ ngoan ngoãn, an phận. Nhưng điều cốt yếu vẫn nằm ở chỗ họ không còn là một con số không trước mắt chính họ cũng như trước mắt kẻ khác, và số phận họ không còn được xem như tự nhiên, tất yếu và vĩnh viễn. Khi kẻ nô lệ, người cùng đinh biết rằng họ có thể được giải phóng, dầu là đời sau, thì cuộc giải phóng đã thực sự bắt đầu.
Chính những giá trị đạo đức do các tôn giáo sáng tác, đặc biệt là đức Bác Ái và đức Từ Bi đã là những động lực thúc đẩy con người tìm cách chấm dứt những hành vi bạo động trong mối tương giao giữa người và người.
Lẽ dĩ nhiên, những giá trị nầy đã không giải quyết được vấn đề bạo động và xoa dịu lòng căm phẩn của những nạn nhân bạo động. Nhưng điều cốt yếu vẫn nằm ở chỗ con người không còn dửng dưng trước bạo động và bắt đầu cảm thấy cái đòi hỏi thiết lập một thể thức tương giao mới, nhân bản hơn, nghĩa là công bằng và huynh đệ hơn giữa người với người.
Xét trên khía cạnh trần gian, những cộng đồng tu trì trong Phật giáo và Thiên Chúa giáo có thể được xem như những cố gắng đầu tiên và bền bĩ nhằm sáng tác, duy trì và phổ biến thể thức tương giao nhân bản nói trên. Mặc dầu có tính chất hạn hẹp và ngoại lệ, sự hiện diện của những cộng đồng nầy là một tấm gương, đồng thời là một thách đố với những xã hội bạo động.
Riêng tại Tây phương, ý niệm công bằng đã được các triết gia thời Thượng Cổ ý thức rõ rệt và phân tách chính xác, nhưng nó không có một chút ảnh hưởng nào trong thực tế và phải đợi sự xuất hiện của Thiên Chúa giáo mới thấy được môt tâm trạng phẩn nộ trước những hoàn cảnh bất công, đưa đến những cố gắng kiên trì nhằm thực hiện công bằng trong xã hội, mà những cuộc cách mạng sau nầy chỉ là những biểu hiện quyêt liệt nhứt. Đối với các Giáo phụ, của cải trong trần gian nầy là của chung do Thiên Chúa tạo nên cho tất cả mọi người và phải được chia sớt đồng đều cho tất cả.
"Chính vì một vài ngưòi đã muốn chiếm hữu cho riêng họ cái gì là của chung mà những cuộc cải vả và chiến tranh đã nổ bùng, như thể thiên nhiên phải nổi giận vì thấy con người bằng một lời nói lạnh lùng: của anh, của tôi, đã gây sự chia rẽ nơi mà Thiên Chúa đã đặt sự hiệp nhứt. Những chữ của anh, của tôi không có một ý nghĩa nào mà cũng không biểu hiện một thực tại nào...Chế độ tập sản là một nếp sống thích nghi hơn chế độ tư sản, và là chế độ duy nhứt phù hợp với thiên nhiên" 13.
"Lúa gạo mà các ông dự trữ thuộc về kẻ đói khát, quần áo mà các ông cất đi thuộc về kẻ trần truồng, vàng bạc mà các ông chôn dấu thuộc về người túng thiếu" 14.
Đây không phải là tiếng nói đơn độc, ngoại lệ của vài nhà tu hành có "đầu óc xã hội." mà là tiếng nói chơn chánh và nguyên thủy của truyền thống Thiên Chúa giáo. Lẽ dĩ nhiên các Giáo phụ không có làm cách mạng 15. và các nhà cách mạng sau này không ai nhớ lời họ. Nhưng không thể nào hiểu được tinh thần và hướng đi của Cách mạng Tây phương nếu không đặt nó vào toàn bộ "hệ thống vấn đề" (problèmematique) của văn minh Tây phương và nếu không đạt tới nguồn mạch phong phú nhứt của văn minh Tây phương là Thiên Chúa giáo. Ngay cái ý niệm tiến bộ, một ý niệm căn bản của văn minh Tây phương, của Cách mạng hiện nay, của văn minh toàn thế giới đã thoát thai từ Thiên Chúa giáo, như Emmanuel Mounier đã cho thấy trong một bài diễn thuyết tại Genève năm 1917 16.
Sau cùng, chính các tôn giáo phổ biến, vì là phổ biến, đã dạy cho con người biết vượt khỏi những biên thùy của quốc gia, chủng tộc, màu da để nhìn nhận kẻ khác là anh em và, lần đầu tiên đã gieo vào lòng người cái đòi hỏi chấm dứt sự tranh chấp giữa các dân tộc, kiến tạo một nền hòa bình trường cửu trong một nhân loại đại đồng. Những tổ chức quốc tế đầu tiên của lịch sử là những tổ chức tôn giáo. Chỉ trong những tổ chức này, tình nhân loại được một số triết gia Đông Tây ý thức từ thời Thượng Cổ, mới bắt đầu mặc một nội dung cụ thể. Lẽ dĩ nhiên, ở đây cũng vậy, tôn giáo đã không giải quyết được vấn đề chiến tranh, nhưng điều cốt yếu vẫn nằm ở chỗ con người từ đây không còn xem chiến tranh như một hiện tượng tự nhiên, tất yếu, vĩnh viễn và bắt đầu cảm thấy cái đòi hỏi xây dựng một nền tảng thanh bình và hợp lý hơn cho sự tương ngiao giữa các dân tộc, dầu chúng ta giàu mạnh đến đâu, chỉ thật sự được bảo đảm khi nào nhân loại kiến tạo được nền hòa bình phổ biến và trường cửu. Đó là con đường sống duy nhứt của nhân loại và phải nhận rằng tôn giáo đã có công vạch ra con đường ấy trước tiên.
Như vậy, mặc dầu hướng về một cứu cánh siêu việt, vượt khỏi trần gian và có lẽ chính vì thế tôn giáo đã mang lại nhiều điều tốt lành cho trần gian, nghĩa là cho dân tộc. Lịch sử các dân tộc hiện tại dính liền với lịch sử các tôn giáo lớn và gương mặt con người của chúng ta ngày nay là một công trình chung của tôn giáo và dân tộc, dầu cho chúng ta có thuộc về một tôn giáo hay không. Ngay khi chúng ta chống đối hoặc phủ nhận một tôn giáo hoặc mọi tôn giáo, chúng ta vẫn thừa hưởng di sản tinh thần của các tôn giáo đó. Tuy nhiên, chính cái di sản tinh thần vô giá ấy đã gây nên một mâu thuẫn căn bản khác giữa tôn giáo và dân tộc.
Trong quá khứ, chúng ta thấy rằng sau một thời gian xua đuổi, đàn áp, có khi kéo dài nhiều thế kỷ, dân tộc đã dần dần chấp nhận những giá trị tinh thần của tôn giáo, khi đã thấy được sự tốt lành của chúng.
Nhưng chính cái tính cách phổ biến của những giá trị nầy là điều mà các dân tộc khó chấp nhận hơn hết - và cho đến nay, chưa bao giờ chấp nhận hoàn toàn - ngay tại những nước mà hầu hết các công dân đã theo hẵn một tôn giáo.
Dân tộc đã chấp nhận đức Bác Ái, đức Từ bi vì những giá trị này chỉ có thể làm cho tình đồng bào thêm phong phú. Nhưng các dân tộc không chấp nhận những chiều hướng phổ biến của đức Bác ái, Từ bi, vì dân tộc là một toàn thể đóng kín và phải đóng kín để tự vệ.
Trong một thế giới gian manh, rừng rú, sắt máu, không bao giờ tha thứ cho một lầm lẫn, ngu dại hoặc sơ hở nào, dân tộc phải luôn luôn đứng trên thế sẵn sàng, căng thẳng như sợi giây cung để chiến đấu và không thể cho phép đức Bác ái, Từ bi của con dân mình đi lang thang ra ngoài biên giới. Cách đây vài năm, báo chí có thuật lại rằng trong một buổi họp của Hội Đồng Tổng trưởng Pháp, khi ông Couve de Murville, lúc ấy còn là ngoại trưởng, nói đến "những nước bạn của Pháp quốc" thì tổng thống De Gaulle đã sửa lại "Nước Pháp không có bạn mà chỉ có đồng minh". Dầu có thật hay không, câu chuyện trên bộc lộ cái thực tại phủ phàng của sự bang giao quốc tế; giữa hai dân tộc, chỉ có sự liên kết tạm thời dựa trên một giao điểm tạm thời của hai quyền lợi cùng được xem là tối thượng, kẻ đồng minh hôm nay có thể là kẻ thù ngày mai, do đó không thể có tình bạn, nói chi đến Bác ái, Từ bi!
Trong hoàn cảnh ấy, đức Bác ái, Từ bi chỉ có giá trị trên bình diện tuơng giao cá nhân và ngay trên bình diện nầy, quyền lợi của dân tộc đòi hỏi phải giới hạn đức Bác ái, Từ bi vào khuôn khổ biên thùy quốc gia, vì có như vậy mới gìn giữ được trọn vẹn khả năng chiến đấu của mình; không ai có thể vừa "đánh giặc" vừa xem những kẻ bên kia chiến tuyến là anh em.
Nhưng đặc tính căn bản côt yếu của đức Bác ái, Tù bi lại là tính cách phổ biến của nó, như thánh Phao-lồ viết: "Không còn là Do Thái, là Hy Lạp, ai nô lệ, ai tự do, vì tất cả là anh em trong một đức Kitô" 17. Kính chúa, yêu người, tự giác giác tha: không thể có một ranh giới nào cho hai quy luật nền tảng của Thiên Chúa giáo và Phật giáo. Một đức Bác ái có giới hạn sẽ không còn là "bác ái". Cho nên tôn giáo không thể chấp nhận những giới hạn của dân tộc nếu không muốn phản sứ mạng của mình. Mà dân tộc không thể không đòi hỏi sự giới hạn vì cái nhu cầu tự vệ.
Một trong những biểu hiện cụ thể của sự mâu thuẫn nói trên là vấn đề quân dịch. Từ xưa tới nay, các tôn giáo đòi hỏi cho các tu sĩ của mình được miễn thi hành nghĩa vụ quân dịch hoạc ít nữa được hưởng một quy chế đặc biệt nào đó trong quân đội. Đòi hỏi nầy hợp lý vì không có gì mâu thuẫn với sứ mạng chi bằng việc chém giết, dù là để tự vệ. Nhưng nó gây nhiều vấn đề hết sức khó khăn cho dân tọc. Trước hết, ít nữa là trong thời chiến sẽ có một số người sợ chết và giả bộ đi tu để trốn lính; làm sao phân biệt ai tu thật, ai tu giả? Thứ đến, sẽ có một số người khác không sợ chết, cũng không đi tu, nhưng lại có tinh thần tôn giáo chân thành như các tu sĩ và cảm thấy lương tâm họ không cho phép họ chém giết kẻ khác: đó là trường hợp những người "từ chối quân dịch vì lương tâm" (objecteurs de conscience). Nhưng ở đây cũng vậy, ai là giả, ai là thật? Và nếu chấp nhận cái nguyên tắc cho phép "từ chối quân dịch vì lương tâm", thì bất cứ ai cũng có thể viện cớ lương tâm để trốn quân dịch.
Trong một nước giàu mạnh và ít cảm thấy bị đe dọa, những vấn đề trên có thể được giải quyết một cách tương đối dễ dàng hơn là tại một nước nhược tiểu, luôn luôn phải vận dụng toàn lực để bảo tồn sự hiện hữu của mình.
Nhưng dầu có được giải quyết cách nào đi nữa, những đòi hỏi của tôn giáo về một quy chế quân dịch đặc biệt cho các tu sĩ, trên căn bản, vẫn mâu thuẫn với những đòi hỏi của ý thức dân tộc.
Sự mâu thuẫn nói trên càng trầm trọng hơn khi ý thức tôn giáo không phải chỉ hiện diện trong nếp sống riêng tư của một số cá nhân, mà còn nhập thể vào một tổ chức quốc tế bao trùm một cộng đồng rộng lớn, siêu dân tộc.
Vấn đề nầy liên hệ đến tất cả các tôn giáo phổ biến, vì đã là phổ biến thì phải có tính cách quốc tế được biểu hiện bằng một tổ chức nào đó. Nhưng nó liên hệ trước hết và cách riêng tới Giáo hội Công giáo La Mã vì trên thế giới ngày nay, chỉ có giáo hội nầy là đã bành trướng mạnh mẽ trên khắp năm châu mà vẫn giữ được một tổ chức thống nhứt chặt chẽ, dựa trên một hệ thống tín điều phân minh, một nền tảng pháp lý vững chắc và một guồng máy hành chánh thật tinh vi, mô phỏng theo guồng máy của Đế quốc La Mã thời Trung Cổ.
Trong gần hai ngàn năm lịch sử, tổ chức nầy trải qua nhiều cơn khủng hoảng trầm trọng, nhưng ít nữa là cho đến ngày nay, nó đã tỏ ra có khả năng cải tiến để thích ứng với mỗi hoàn cảnh mà vẫn bảo tồn những đặc tính căn bản của nó. Cho nên sự mâu thuẫn giữa giáo hội La Mã và các dân tộc bao giờ cũng gay gắt hơn những tôn giáo khác và chỉ cần nghiên cứu sự mâu thuẫn nầy là có thể thấy đươc những mâu thuẫn kia, ở một trình độ nhẹ hơn.
Để mỉa mai các tổ chức quốc tế của phe xã hội chủ nghĩa, Charles Maurras thường nói: "Chỉ có một thứ quốc tế đứng vững, đó là tòa Thánh Vatican". Để ra ngoài cái dụng ý mỉa mai đặt không nhằm chỗ, cần phải nhận rằng nhận xét trên là đúng và Giáo hội La Mã quả là một hiện tượng lạ lùng, có một không hai trên thế giới.
Xét trên bình diện chính trị, điều nghịch lý là cơ quan đầu não của giáo hội là một quốc gia còn theo chế độ quân chủ chuyên chế, một quốc gia tí hon chỉ gồm vài chục mẫu đất và vài trăm dân, nhưng có đầy đủ tư cách của một quốc gia độc lập và có một thế lực đáng sợ vì vị nguyên thủ của nó có thể ra lệnh cho bốn trăm triệu người thuộc đủ mầu da, chủng tộc, văn minh đang sống trên khắp thế giới, từ Bắc cực đến Nam cực, viễn Đông đến viễn Tây. Bất cứ một thông điệp nào của Giáo hoàng đều phải được giải thích cho mọi người công giáo, từ ông triệu phú ở New York đến chú chăn bò ở Congo, qua nhà trí thức ở Paris. Và mọi người Công giáo, trên nguyên tắc, đều có bổn phận tuân lệnh đức Giáo hoàng không những trong hành động cụ thể bên ngoài mà cả trong nội tâm. Lẽ dĩ nhiên, những chỉ thị ấy chỉ liên hệ đến đời sống tôn giáo và đạo đức của các tín đồ (và những vấn đề trần gian chỉ được đề cập đến khi có tương quan đến đời sống tôn giáo và đạo đức), nhưng chúng vẫn ảnh hưởng ít nhiều đến đời sống chính trị và xã hội của các dân tộc, vì các tín đồ cũng là phần tử của dân tộc.
Xét trên khía cạnh tôn giáo, Giáo hội là một toàn thể như dân tộc, nhưng một toàn thể đã đạt đến mức độ toàn hảo vì nó tự ý thức như một cơ thể duy nhứt: Giáo hội là huyền thể (corps mystique) của Đức Kitô, nghĩa là sự hiệp nhứt giữa các tín đồ có tính cách khắn khít như giữa các tế bào của một cơ thể.
Theo đạo Công giáo không phải chỉ là nhận sự Thật của Phúc Âm, tuân hành với lời dạy của Đức Kitô, mà cốt yếu là gia nhập cộng đồng đức tin là Giáo hội, vì sự Thật của Phúc Âm chỉ được bộc lộ trên toàn diện và chín chắn trong Giáo hội, đại diện duy nhứt của Ðức Kitô trong trần thế, vì sự thể hiện lời dạy của Đức Kitô đòi hỏi sự hiệp nhứt với Ngài, mà sự hiệp nhứt này chỉ được thực hiện trong Giáo hội, qua các phép bí tích.
Chịu phép rửa tội không phải chỉ là được "tái sinh", trở thành một "con người mới" theo nghĩa đạo đức cá nhân, mà còn là gia nhập một dân tộc, mang một "quốc tịch" mới, trở thành công dân của "Đô thị Thiên Chúa" theo lời Thánh Augustin 18.
Giống như dân Do Thái xưa kia, giáo hội cũng được xem là dân tộc "được chọn lựa", nhưng một dân tộc siêu dân tộc, hành trình trong thời gian để tiến về vĩnh cữu, với cái sứ mạng rao giảng "tin mừng" cho toàn thể nhân loại, giải thoát nhân loại khỏi gông cùm tọi lỗi, và đưa nhân loại về với Thiên Chúa.
Cho nên Giáo hội trong trần gian là môt giáo hội "chiến đấu" (Eglise militante) và chiến đấu không ngừng cho đến ngày tận thế, nghĩa là ngày hoàn tất lịch sử, nhưng chiến đấu với võ khí tinh thần như Thánh Phêrô đã mô tả người chiến sĩ của Đức Kitô: "thắt giây lưng chân lý, mặc áo giáp công bằng, mang thuẫn đức Tin, đội mũ cứu rỗi và cầm gươm tinh thần, tức là lời của Chúa" 19. vì đối tượng duy nhứt của cuộc chiến đấu là tội lỗi của trần gian.
Tóm lại, cũng như dân tộc, giáo hội là "Mẹ và Thầy", dân tộc đã sinh ra tôi và cho tôi một chỗ đứng trong "đô thị trần gian". Giáo hội đã sinh ra tôi và cho tôi một chỗ đứng trong "đô thị Thiên Chúa". Điều đáng buồn là hai đô thị này khó có thể hòa hợp với nhau.
Đối với Giáo hội, "đô thị trần gian" tự nó không phải là xấu, nó là một tổ chức cần thiết cho sự sinh tồn của con người trên cõi quê hương tạm bợ nầy. Nó chỉ trở nên xấu khi nó tự xem là cứu cánh tự tại, khi nó đóng kín trong một ý thức tự mãn. Khi nó trở thành "đô thị của Satan".
"Xã hội loài người khi nó tự xưng là cái Tuyệt Đối bằng cách thờ lạy dân tộc, chế độ dân chủ, thuyết tiến bộ, sẽ là "đô thị của Satan", đối lập với "đô thị Thiên Chúa" 20.
Như vậy, một xã hội có thể là tốt lành, tiến bộ, dân chủ, công bằng... nhưng nó vẫn là "đô thị Satan", nếu nó tự xem là cái Tuyệt Đối, nghĩa là nếu nó không hướng về Thiên Chúa.
Mà như đã thấy trong phần nói về ý thức dân tộc, đô thị trần gian không thể không tự xem là cái Tuyệt Đối, không thể không đóng kín trong một ý thức tự mãn. Cho nên sự mâu thuẫn giữa hai đô thị phải nổ bùng thành tranh chấp: dưới mắt Thánh Augustin, lịch sử chính là sự tranh chấp không ngừng giữa hai đô thị!
"Hai đô thị, đô thị của những kẻ tội lỗi và đô thị giữa những người thánh thiện, cùng hành trình trong lịch sử, từ ngày sáng thế đến ngày tận thế. Tất cả những người đang vui sướng trong ý chí cường quyền, tinh thần thống trị, trong những ảo tưởng to lớn của danh vọng trần gian, tụ họp trong đô thị thứ nhứt... Trái lại, những người đang khiêm tốn phục vụ sự vinh quang của Thiên Chúa, thuộc về đô thị thứ hai." 21.
Cuộc tranh chấp chỉ chấm dứt vào ngày tận thế, ngày chiến thắng của đô thị Thiên Chúa. Trong khi chờ đợi, người Công giáo vẫn luôn luôn bị xâu xé giữa hai quốc tịch của mình, vì mặc dầu thuộc đô thị Thiên Chúa, họ vẫn phải sống trong đô thị trần gian.
Nếu cái đô thị Thiên Chúa của Thánh Augustin chỉ là một cách nói ẩn dụ để chỉ sự hiệp nhứt của các tín độ trong niềm tin nơi Thiên Chúa và trong cố gắng thánh hóa đời sống để xứng đáng vào nước Thiên Đàng, thì cuộc tranh chấp nói trên chỉ diễn đạt, dưới một hình thức gay gắt hơn, sự xung đột trường cửu giữa ý thức tôn giáo và ý thức dân tộc mà tôi đã phân tách trong phần trên.
Nhưng đô thị Thiên Chúa không phải là một hình ảnh tượng trưng: nó là Giáo hội Công giáo La-Mã do Tòa Thánh Vatican lãnh đạo 22.
Mà Tòa Thánh Vatican là một quốc gia, dầu chỉ là một quốc gia tí hon, nó vẫn có những quyền lợi riêng tư, không nhứt thiết dính liền với quyền lợi của đạo Công giáo mà có thể mâu thuẫn với quyền lợi của một quốc gia khác. Nó cũng có một đường lối chánh trị. Lẽ dĩ nhiên, cứu cánh tối hậu của đường lối nầy là "mở mang nước Chúa" nhưng sự mở mang nước Chúa đôi khi đi ngược lại quyền lợi của một số dân tộc. Chẳng hạn từ thời Phục Hưng cho tới những năm gần đây chánh sách của Vatican, trên căn bản, vẫn là cấu kết với các cường quốc Tây phương, theo gót những đoàn quân viễn chinh để giảng đạo ở trong các nước thuộc địa, biến các giáo hội bản xứ thành những rường cột của chế độ thực dân 23.
Mặt khác, Giáo hội La Mã là tôn giáo đầu tiên đã phân biệt rõ rệt thần quyền (pouvoir spirituel) với thế quyền (pouvoir temporel) và luôn luôn đòi hỏi sự độc lập của thần quyền. Sự phân biệt nói trên rất hợp lý và nó là một tiến bộ lớn so với sự lẫn lộn ðạo với đời trong những tôn giáo cổ sơ. Sự căng thẳng giữa hai quyền bính có thể là điều kiện tốt để cả hai bên tự ý cải thiện, đồng thời tránh được sự lợi dụng lẫn nhau, ít nữa là trên nguyên tắc.
Nhưng sự phân biệt thần quyền thế quyền đã gây nhiều mâu thuẫn nhứt giữa giáo hội và các quốc gia, và như linh mục Jacques Leclercq viết "những khó khăn này sẽ không bao giờ được sự san bằng hoàn toàn" 24.
Trước hết, hai lãnh vực đạo và đời, trong thực tế, chồng chéo nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và không thể phân biệt rõ rệt như trong lý thuyết. Cho nên, dầu chính quyền có chấp nhận sự phân biệt, thì vẫn có cơ hội để xung đọt, với giáo quyền trong những phạm vi gọi là "pha chè" (domaine mixte), nghĩa là những phâm vi mà cả hai bên đều có những quyền lợi phải bảo vệ, chẳng hạn như phạm vi giáo dục. Giáo hội cần có một nền giáo dục Công gái độc lập như một môi trường thiết yếu, không những để truyền bá giáo lý mà còn để đào tạo thanh thiếu niên theo tinh thần công giáo.
Nhưng quốc gia cũng cần nắm giữ tất cả than thiếu niên của mình để đào tạo chúng theo tinh thần quốc gia.
Nếu quan niệm về "tinh thần quốc gia" mâu thuẫn với tinh thần công giáo (chẳng hạn trong một quốc gia theo xã hội chủ nghĩa, thì sự xung đột nổ bùng và hầu như không thể giải quyết êm thám được.
Nhưng ngay những quốc gia không có một ý thức hệ mâu thuẫn với đạo Công giáo hoặc do chính người công giáo lãnh đạo, sự xung đột vẫn ngấm ngầm.
Thứ đến, quan niệm của Tòa Thánh Vatican về sự độc lập của thần quyền rất là đặc biệt: Tòa Thánh không phải cghỉ đòi độc lập đối với quốc gia, mà còn đòi đứng trên và chế ngự quốc gia, như linh mục Leclerq viết:
"Cứu cánh tinh thần là cứu cánh tối hậu cao quí nhứt, là điều duy nhứt đáng được gọi là cứu cánh, còn những cứu cánh trần gian chỉ là những phương tiện cho nên cái xã hội có sứ mạng dìu dắt con người đạt tới cứu cánh tinh thần (tức Giáo hội), phải ở trên cái xã hội chỉ có nhiệm vụ lo cho những cứu cánh trần gian... Cứu cánh tinh thần phải đứng đầu, nếu không sẽ không còn cứu cánh tinh thần. Giáo hội phải đứng trên quốc gia, nếu không thì sẽ không còn là Giáo hội 25.
Lập luận nói trên tật là lôgích, nhưng các nhà lãnh đạo quốc gia khó lòng mà nuốt cho trôi cái lô gích siêu việt đó, dầu họ là người công giáo. N1i cho đúng, Tòa Thánh chỉ đòi hỏi cái địa vị "ăn trên ngồi trước" đối với các quốc gia công giáo nghĩa là những quốc gia mà toàn thể hoặc đại đa số dan chúng là người công giáo và được cai trị bằng một chính quyền công giáo. Còn đối viới các quốc gia không công giáo, Tòa Thánh chỉ yêu cầu được xem như một tổ chức độc lập có nhiệm vụ chăm sóc "phần đạo" của các tín đồ. Nhưng đây chỉ là một thực trạng (état de fait) mà Tòa Thánh phải chấp nhận như một điều bất như ý: cái lý tưởng vẫn là một thế quyền công giáo tùng phục thần quiyền của Tòa Thánh.
Mà ngay như sự đôc lập mà Tòa Thánh xem như "bất như ý" đó, đã là một vấn đề lớn cho quốc gia, vì trư1ơc hết nó có nghĩa là chánh quyền không được can thiệp vào sự bổ nhiệm hàng giáo phẩm bản xứ (nghĩa là các Đức Giám mục). Hàng giáo phẩm hoàn toàn độc lập với chính quyền và chỉ tuân phục Đức Giáo hoàng. Nếu Đức Giáo hoàng là một giáo chủ thuần túy thì không có gì đáng ngại. Nhưng Ngài cũng là nguyên thủ của một quốc gia, mà những quyền lợi có thể mâu thuẫn với những quốc gia khác. Và khi có mâu thuẫn, thái độ hàng giáo phẩm bản xứ sẽ là một mối lo ngại lớn cho quốc gia. Vì lẽ đó, các chính quyền ôn hòa đều tìm cách thỏa hiệp với Tòa Thánh La-Mã để có thể tham dự phần nào vào sự bổ nhiệm hàng giáo phẩm và các chánh quyền cực đoan sẽ tìm cách tách rời hàng giáo phẩm ra khỏi Tòa Thánh., chẳng hạn tạo ra những phong trào "Giáo hội tự trị" như tại Trung quốc vào những năm 1951-52. Những phong trào nầy không phải là sáng kiến độc đáo của những chánh quyền "vô thần", vì ngay từ thế kỷ 17, dưới triều nhà vua cọng giáo Louis XIV, cũng nảy sinh một phong trào tự trị trong giáo họi Pháp do giám mục Bossuet khơi xướng 26. Thật ra, những phong trào nói trênchỉ biểu hiện một cách cực đoan sự mâu thuẫn giữa chủ quyền quốc gia và sự độc lập của Giáo hội, một giáo hội cơ quan đầu não lại là một quốc gia.
Cho nên, cuối cùng, vấn đề nằm ở đây: sự phân biệt thần quyền với thế quyền mà chính Giáo hội đòi hỏi, Giáo hội là không tôn trọng trong quốc gia Vatican. Nơi đây, giáo quyền và chính quyền là một, Ðức Giáo hoàng vừa là Hoàng Ðế vừa là Giáo chủ, và không có một sự phân biệt nào giữa quốc gia Vatican và những cơ quan trung ương điều khiển Giáo hội phổ biến. Sự hàm đó là nguyên nhân căn bản của sự nghi kỵ sâu xa của những người không công giáo đối với Giáo hội và là những nguồn gốc của hầu hết những sự xung đột giữa Tòa Thánh và các chính quyền, công giáo cũng như không công giáo.
Chú thích:
1. |
Xem Deutéronome XX 10-20. |
2. |
Xem Kinh Thi: "Thượng thiên đồng vân vũ tuyết phân
phân, sinh ngã bách cốc". Trời cao cùng với mây mưa tuyết phơi phới,
sanh cho ta trãm thứ thóc. |
3. |
Dương Từ Hà Mậu. |
4. |
Chẳng hạn không thể bắt buộc mọi tín đồ phải đi tu, và có
đi tu thì vẫn phải giải quyết một số vấn đề trần gian như ăn mặc, ở v.v... |
5. |
Tu sĩ lo việc tiếp khách. |
6. |
Như một số dòng tu mới lập trong Thiên Chúa giáo, đặc biệt
các dòng Tiểu đệ và Tiểu muội Chúa Giesu... |
7. |
Tân Việt Saigon 1964. |
Câu chuyện xảy ra bên Trung quốc. |
|
Trong Dương Từ Hà Mậu có nói đến giặc "Tây Châu".
Từ giặc "Ô Qua" trong Lục Vân Tiên đến giặc "Tây Châu", sự
ám chỉ rõ rệt hơn nhiều. |
|
Và cụ đề cao đạo Nho cũng phải vì đạo Nho thật sự chỉ là một
triết lý, một nền đạo đức hoàn toàn thích nghi với nền quân chủ thời đó, do
đó, có thể đồng nhứt hoàn toàn với quốc gia. |
|
Lấy lại nhan đề của một cuốn sách của T.T. Nhất Hạnh. |
|
Les Saints vont en Enfer. |
|
Thánh Jean Chrysostome dẫn trong Gerad Walter: Les origines
du Communisme-Payot-Paris 1931, tr. 150, 151. |
|
Thánh Basile, tr 125-128. |
|
Sứ mạng của họ không nằm ở đó. Vã chăng, có muốn làm cách mạng
trong thời đó cũng không làm được vì thiếu những điều kiện khách quan và chủ
quan. |
|
Le Christianism et l'idée du progrès trong Progrès
technique et Progrès moral - Rencontres internationales de Genève, 1947,
Paris 1918, tr 181-223. |
|
Epitre aux Galates, III, 27, 29. |
|
Đô thị (Civitas) thời Thượng Cổ, có nghĩa là quốc gia. |
|
Epitre aux Ephésiens VI, 14-18. Người chiến sĩ nói trên có
hơi khác người chiến sĩ của cố Đức Hồng Y Spellman khi ông ta gọi binh lính
Hoa Kỳ tại Việt Nam là "chiến sĩ của Đức Kitô". |
|
Jean Daniélou: Essai sur le mystère de l'histoire. Seuil,
Paris 1953, tr. 36. |
|
De Catechisandis rudibus, 31. |
|
Thật ra, Thánh Augustin có nhấn mạnh rằng đô thị trần gian
và đô thị Thiên Chúa pha lẫn mật thiết viớ nhau và, trước ngày tận thế, không
thể biết chắc ai thuộc về đô thị nào (chẳng hạn một Đức Hồng y cổ xúy chiến
tranh không chác gì thuộc về đô thị Thiên Chúa mà có nhiều may mắn là công
dân của đô thị Satan và một số người hiện nay bị xem là thuộc về đô thị Satan
có thể là công dân của đô thị Thiên Chúa...) Nhưng trên đại cương, đô thị
Thiên Chúa vẫn ăn khớp với những tổ chức hiện có của giáo hội hữu hình
(Eglise visible), vì nếu không thì còn ai vào Giáo hội làm gì! |
|
Nguyễn Văn Trung: "Công giáo và Cộng Sản". Đất nước
số 8. |
|
Jacques Leclercq: "Lecons de droit natuel" Tome
II, l'Etat et la Politique - Louvain 1918, tr. 120. |
|
Sđd. Tr. 122. Linh mục Leclercq, giáo sư viện đại học
Louvain, là một nhà tư tưởng rất ôn hòa, cởi mở. Ở đây, ông chỉ trình bày lập
trường cô điển và chính thống của Tòa Thánh Vatican. |
|
Phong trào"Gallicanisme". |
CHƯƠNG III
GIỮA TRỜI VÀ ĐẤT
Một bên là xuất thế và phổ biến, một bên là tại thế và đặc thù: Đó là mâu thuẫn căn bản giữa tôn giáo và dân tộc, hoặc trên bình diện ý thức, hoặc trên bình diện tổ chức hoặc trên cả hai bình diện.
Nhìn lại những xung đột đã thực sự xảy ra trong quá khứ, chúng ta thấy Phật
giáo thường phải chỉ đối phó với dân tộc trên bình diện ý thức, trái lại Thiên
Chúa giáo đã phải tranh chấp trên cả hai bình diện và những tranh chấp thường
là đổ máu. Sự khác biệt này có nhiều nguyên nhân.
Trước hết, tính uyển chuyển của giáo lý và tổ chức Phật giáo so với sự chặt chẽ
của Công giáo, đã cho phép Phật giáo hòa giải dễ dàng hơn với dân tộc: Phật
giáo loảng như nước, công giáo đặc như thép; Phật giáo có thể hiện diện dưới vô
số hình thức khác nhau, Công giáo đòi hỏi một khuôn mẫu cố ðịnh chung.Thứ đến, Phật giáo đã được truyền bá như một tôn giáo thuần túy, không pha lẫn
với một trào lưu chính trị nào, cũng không có một tổ chức quốc tế rõ rệt, nên
đã không gây nên những hiểu lầm đáng tiếc như Công giáo.Sau cùng, điều quan trọng hơn cả, sự giải thoát trong Phật giáo đặt nền tảng
trên sự Giác ngộ cá nhân, do đó, Phật giáo không có và cũng không cần
một lý thuyết về giáo hội, ngay tại những nước mà Phật giáo đã được tổ chức
thành một giáo hội có hệ thống và lâu đời; trái lại, sự cứu rỗi trong Công giáo
đặt nền tảng trên sự gia nhập giáo hội và giáo hội được quan niệm như
một dân tộc, nghĩa là một toàn thể, do đó, ý thức tôn giáo trong giáo
hội Công giáo cũng có khuynh hướng toàn diện, đóng kín và tự mãn như
ý thức dân tộc.Phật giáo cũng có khuynh hướng đó, đôi mắt nhắm nghiền, nụ cười bất diệt của
các tượng Phật có thể tượng trưng cho một ý thức đóng kín và tự mãn trong sự
chiêm ngưỡng sự thật tuyệt đối. Nhưng nó chỉ thể hiện nơi cá nhân những
người đã tự giải thoát (arabant), chớ không phải nơi tập thể các Phật tử
nói chung là những người đang tìm sự giải thoát. Trong công trình giải thoát
"mỗi người là nơi nương tựa của chính mình" 1,
không ai có thể cứu rỗi được ai. Cho nên, hai chữ "Giáo hội" trong Phật
giáo 2. chỉ
biểu hiện một tình tự liên đới giữa những người bạn đồng hành, một môi trường
trong đó con người có nhiều cơ hội hoặc phương tiện để giác ngộ, chớ không có
tính cách thiết yếu cho sự giải thoát. Có lẽ nhờ quan niệm đó mà Phật giáo dễ
có thái độ khaon dung đối với những dị đồng về ý kiến trong nội bộ của
mình cũng như đối với các tôn giáo khác. Ngay trong thời vàng son của Phật giáo
tại Ấn Độ, dưới triều hoàng đé Asoka, chính nhà vua nầy đã ban hành và cho khắc
lên đá một sắc chỉ khuyến cáo sự khaon dung giữa các tôn giáo."Chúng ta không nên chỉ tôn kính riêng tôn giáo của mình mà kết án tôn
giáo của người khác, trái lại, chúng ta phải tôn trọng tôn giáo của kẻ khác
(...) Làm như vậy, chúng ta vừa làm sáng danh tôn giáo của mình, vửa giúp ích
cho tôn giáo của người khác. Làm ngược lại là đào mồ chôn tôn giáo của mình, đồng
thời làm hại tôn giáo của người khác 3.Trong Giáo hội Công giáo thì trái lại, khuynh hướng đóng kín và tự mãn hiện diện
ngay trên bình diện tập thể, vì Giáo hội đã tự ý thức mình như một
dân tộc được Thiên chúa chọn lựa và giao cho sứ mạng cứu rỗi nhân loại. Giáo hội
là con đường độc nhứt đưa tới Thiên Chúa: "Ngoài giáo hội không
thể có sự cứu rỗi" (hors de l' Église, point ðe salut).Hậu quả của quan niệm ấy là tính chất bất khoan dung (intolerance) của Giáo hội
Công giáo: Giáo hội đã đượ Thiên Chúa ban tuyền toàn bộ sự thật cần thiết cho sự
cứu rỗi và chỉ Giáo hội mới có quyền giải thích hoặc khai triển sự thật đó. Tất
cả những gì ở ngoài sự thực nói trên hoặc trái với lời giải thích chánh thức của
Giáo hội, chỉ có thể sai lầm. Mà Giáo hội có quyền và có bổn phận tiêu diệt
sự sai lầm để bảo vệ sự thật hầu hoàn thành sứ mạng cứu rỗi của mình.Lẽ dĩ nhiên, Giáo hội chỉ tiêu diệt sự sai lầm còn chính người
sai lầm thì vẫn được kính trọng, ít nữa là những kẻ sai lầm mộ cách thành
thật (de bonne foi). Và những "võ khí" mà Giáo hội dùng để tiêu diệt
sự sai lầm đều là những "võ khí tinh thần" như Thánh Phaolồ đã viết 4.
Tuy nhiên. lịch sử cho thấy rằng, từ khi Giáo hội trở thành "quốc
giáo" dưới triều hoàng đế Constantin và nắm được thế lực lớn lao, thì
"cây gươm tinh thần" của Thánh Phaolồ đã luôn luôn bị cám dỗ đã biến
thành cây gươm thép thật sự. Kể từ dạo ấy, mỗi khi hoàn cảnh cho phép, Giáo hội
đã không ngần ngại dùng thế lực để tiêu diệt những tôn giáo khác, đập phá các đền
thờ "tà thần", đốt sách vở ngoại đạo và đốt luôn bọn người bị xem là
"lạc đạo" nếu không chịu sửa sai.Những hành động nói trên không phải bắt nguồn từ một khuynh hướng đế quốc mà từ
cái ý thức rất chân thành và nghiêm chỉnh của Giáo hội về sứ mạng cao cả của
mình: mang sự thật đến cho nhân loại. Thật là cảm động khi nhìn lại cái ý chí sắt
đá mà Giáo hội đã giữ được nguyên vẹn qua bao cuộc thăng trầm trong gần hai
ngàn năm lịch sử, để thi hành mạng lệnh cuối cùng của Đức Kitô: "Các con
hãy ra đi dạy dỗ các dân tộc". Điều đáng buồn là một số phương pháp mà
Giáo hội đã dùng đến để dạy dỗ các dân tộc, có tính cách phản giáo khoa!Sự bất khoan dung khiến cho, trong quá khứ, Giáo hội không bao giờ chấp
nhân tự do trong Giáo hội của mình cũng như trong xã hội loài người, nói
chung. Trong nội bộ Giáo hội, người công giáo không được quyền có ý kiến riêng
mà luôn luôn phải theo lời dạy của giáo quyền. Có một ý kiến riêng đã là
"lạc đạo" rồi, như giám mục Bossuet viết: "Người lạc đạo"
(hétérique) là người có một ý kiến theo nguyên nghĩa. Mà có một ý kiến
là gì? Là một tư tưởng riêng, một tình cảm riêng. Nhưng người Kitô hữu là người
Công giáo, nghĩa là con người phổ biến (universel). Con người không có tình ý
riêng tư mà luôn luôn tuân theo tình ý của Giáo hội không chút do dự" 5.
Trong xã hội loài người, Giáo hội không bao giờ công nhận cho các tôn giáo khác
hoặc những người không công giáo cái quyền ăn nói ngang hàng với mình, bởi cái
lý do giản dị là chỉ Giáo hội mới có sự thật mà chỉ có sự thật mới có quyền ăn
nói. Người sai lầm chỉ có mỗi một quyền: quyền sửa sai.Trong Thông điệp ngày 29-4-1814 gởi Đức Giám Mục địa phận Troyes, Đức Giáo
hoàng Pie VII viết: "Người ta lẫn lộn sự thật với sự sai lầm, người ta đặt
vị Hiền thê thánh thiện và tinh tuyền của Đức Kitô (tức Giáo hội Công giáo)
ngang hàng với những giáo phái lạc đạo và ngay cả với bọn Do Thái bất
tín". Đức Giáo hoàng Grégoire XVI đã gọi tự do báo chí là "thứ tự do
tai hại nhứt, đáng ghét nhứt, kinh tởm nhứt mà một số người dám đòi hỏi một
cách ồn ào cuồng nhiệt và quảng bá khắp nơi..." 6.Tóm lại, ít nữa là trước Công đồng Vatican II, lý tưởng của Giáo hội vẫn là thời
vàng son Trung cổ trong đó, Giáo hội có đủ thế lực để giành độc quyền dạy dỗ
các dân tộc.Tôi nghĩ rằng chính sự bất khoan dung nói trên (ngoài những lý do khác) đã khiến
cho Giáo hội va chạm nặng nề với các dân tộc Á Đông và đã không thành công mỹ
mãn trong việc rao giảng tin mừng tại vùng nầy. Sau bốn thế kỷ giảng đạo, với
những phương tiện hùng hậu, những hy sinh lớn lao, phải nhận rằng số người Á
Đông theo đạo thật là ít ỏi 7,
ngoại trừ xứ Phi Luật Tân. Lý do căn bản của kết quả khiêm tốn ấy phải chăng là
người Á Đông, khi theo đạo, phải cách ly với cộng đồng dân tộc chính vì Giáo hội
đã xem các nền văn hóa Á Đông là vô giá trị, sai lầm, tội lỗi, do đó, gần như bắt
buộc người Á Đông phải lựa chọn giữa dân tộc và giáo hội.Ngày nay, hầu hết mọi người đều đồng ý rằng việc cấm đạo, giết đạo dưới các vua
triều Nguyễn, là một hành động bất nhân và sai lầm. Nhưng nếu chúng ta tự đặt
mình vào địa vị các nhà vua ấy, vào cái khung cảnh tâm lý thời đó, thì có thể
chúng ta khó có thể làm khác được.Lựa chọn giữa tôn giáo và dân tộc; trong lịch sử có lẽ chỉ có
người công giáo là phải đương đầu với một tình cảnh đau đớn như vậy.Sự bó buộc phải lựa chọn nói trên càng gay gắt và quyết liệt hơn nữa khi
mà ý thức dân tộc, kể từ thế kỷ 18, thường đi đôi với ý thức cách mạng.Ý thức cách mạng vừa có tính cách tại thế như ý thức dân tộc, vừa có tính cách
phổ biến như ý thức tôn giáo. Nó bộc phát từ sự phản kháng triệt để một trật tự
xã hội bị xem là phi nhân và từ cái dự phóng dứt khoát thiết lập một trật tự mới,
được xem như thực sự nhân bản, không phải riêng cho một dân tộc nào mà cho toàn
thể nhân loại.Vì là tại thế, ý thức cách mạng phủ nhận tôn giáo, nó phải phủ nhận mọi
nguyên lý siêu hình chi phối số phận của con người trong trần gian. Hiểu như vậy,
nó là một cố gắng quyết liệt nhứt của con người để thoát khỏi kềm kẹp của định
mệnh (dầu cho định mệnh được hiểu như là ý chí của một Thượng đế toàn
năng, hoặc như cái vòng lẩn quẩn của luân hồi nghiệp báo, hoặc như sự tất yếu
tuyệt đối của thiên nhiên), hầu thể hiện tự do thật sự của con người, giành lại
cho con người quyền làm chủ trái đất và làm chủ chính mình.Vì là phổ biến, ý thức cách mạng phủ nhận dân tộc, xem dân tộc như chỉ là một
giai đoạn trong lịch trình tiến hóa của nhân loại và sâu xa hơn nữa, như là một
ảo tưởng do chính kẻ thống trị tạo nên để gây một sự hiệp nhứt giả tạo giữa các
thành phần xã hội, hầu che lấp hoặc xoa dịu những mâu thuẫn căn bản giữa những
thành phần ấy. Ý thức cách mạng chọc thủng các biên thùy quốc gia và phân chia
nhân loại theo chiều ngang thay vì theo chiều dọc, bên trên là những kẻ thống
trị đàn áp, bóc lột, bên dưới là những kẻ bị trị, bị đàn áp, bóc lột. Đó là mối
mâu thuẫn căn bản đích thực và phổ biến, ngăn chận sự hợp nhứt giữa người với
người. Trái lại, những cuộc tranh chấp giữa các quốc gia chỉ bộc phát từ những
mâu thuẫn nhứt thời giữa các thành phần thống trị và được ngụy trang thành
tranh chấp dân tộc dể lôi cuốn các thành phần bị trị, đồng thời làm cho các
thành phần nầy quên đi mối mâu thuẫn căn bản nói trên. Đó là lý thuyết. Trong
thực tế, ít nữa là cho tới ngày nay, những cuộc cách mạng đều bộc phát từ một
dân tộc và sau một thời gian, say sưa với chiều hướng quốc tế, đều lắng đọng trong
biên thùy dân tộc. Lý do rất dễ hiểu: sau khi lật đổ kẻ hống trị, Cách mạng phải
nắm chính quyền để lập trật tự mới, nghĩa là phải nhập thể vào một quốc
gia. Mà khuynh hướng tự nhiên của quốc gia là bảo vệ quyền lợi căn bản, thực hiện
những mục tiêu lịch sử của dân tộc, dầu cho những quyền lợi, mục tiêu này có thể
không phù hợp với quyền lợi, mục tiêu của Cách mạng nói chung, nghĩa là Cánh mạng
thế giới 8.
Cuộc xung độ dữ dọi giữa Liên Xô và Trung quốc cho thấy rằng hai quốc gia cùng
theo một chủ nghĩa cách mạng và cùng phải đương đầu với một kẻ thù chung, vẫn
không thể xóa bỏ những mâu thuẫn quyền lợi đôi khi thật là nhỏ nhen giữa hai
dân tộc. Những lời cải vả lòng dòng khó hiểu về đường lối cách mạng giữa hai
nhà lãnh đạo hai bên, thật chỉ là đám mây mù che lấp những quyền lợi nói trên
mà thôi. Thật ra, kể từ cuộc Cách mạng Pháp cho tới ngày nay, các quốc gia cách
mạng đều đồng hóa quyền lợi của dân tộc mình với quyền lợi của cách mạng và một
quốc gia càng lớn càng có tham vọng lãnh đạo thì càng đồng hóa dễ dàng hai quyền
lợi nầy.Khi Cách mạng dừng lại ở biên thùy dân tộc thì thay vì phủ nhân ý thức dân tộc,
nó có thể nâng cao ý thức này. Trường hợp điển hình nhứt là nước Pháp: trong thời
Trung cổ, người Pháp chưa có ý thức dân tộc, họ chỉ có ý thức địa phương (người
của tỉnh này, vùng nọ) và ý thức tôn giáo (người công giáo), ý thức dân tộc chỉ
manh nha từ thời Phục Hưng khi các nhà vua dòng Capet bắt đầu thống nhứt nước
Pháp và chỉ bộc phát rõ rệt trong Cách mạng 1789. Cho nên có thể nói rằng dân tộc
Pháp chỉ thât sự thành hình, thật sự ý thức về nó như là môt toàn thể từ Cách mạng
Pháp. Tại Á Châu, ý thức dân tộc đã có từ lâu nhưng nó chỉ phản tỉnh thật sự
trong quá trình đấu tranh cách mạng, cách mạng giải phóng hoặc cách mạng xã hội,
của thế kỷ 20.Như vậy, mặc dầu phủ định dân otộc trên lý thuyết, hậu quả thực tế của cách mạng
là nâng cao ý thức dân tộc, nghĩa là tăng gia các khuynh hướng toàn
diện, đóng kín và tự mãn của dân tộc.Một quốc gia cách mạng, do đó, không thể không xung đột với tôn giáo, nhút là với
Thiên Chúa giáo và trong trường hợp nầy, cuộc tranh chấp có tính cách quyết tử,
một mất một còn vì đây là đương đầu giữa hai ý thức cùng có khuynh hướng toàn
diện, đóng kín và tự mãn, giữa hai tổ chức chặt chẽ tinh vi cứng rắn và đều có
tham vọng bao trùm đời sống con người. Khi đó, hai bên sẽ giành giựt vớ nhau những
đứa con chung, bắt chúng nó phải lực chọn dứt khoát Quốc gia hay Giáo hội, Đất
hay Trời.Năm 1951, Chính quyền cách mạng Trung quốc phát động Phong
trào "ba tự trị" trong Giáo hội Công giáo Trung Hoa, với mục đích
tách rời Giáo hội nầy khỏi Toà Thánh La-Mã. Một trong những hoạt động đầu tiên
của Phong trào là đả kích và trục xuất Đức Khâm sứ Riberi, đại diện của Đức
Giáo hoàng. Ngày mùng 3 tháng 6 năm đó, trong buổi mết tinh do Phong trào nói
trên tổ chức tại Chunting, Linh mục Jean Tong Che Tche đã đọc bài diễn van sau
đây (mà tôi xin trích dịch những đoạn chánh) trước mặt các đại diện của Chánh
quyền, Giáo quyền và đông đảo giáo dân:"Nhân danh Cha và Con và Thánh thần,(Nghiêng mình về phía chân dung của chủ tịch Mao Trạch Đông và về phía cử tọa)"Kính thưa Quý vị đại diện cao cấp của Chính quyền và giáo quyền."Hỡi anh chị em giáo hữu trung thành với đức tin,"Thưa Quý vị "Đề tài của bài diễn văn sau đây là: sự hy sinh của
chính bản thân tôi cho hai quyền bính tối cao."Những người không tin nơi sự hiện hữu của Thượng đế, của linh hồn, không
nhìn nhận Đức Giáo hoàng là đại diện Chúa Giê Su Ki tô, cũng không nhìn nhận
hàng giáo phẩm công giáo, những người ấy đã trình bài Phong trào "3 tự trị"
như một phong trào yêu nước thuần túy... Phong trào nầy phát triển bên ngoài
hàng Giáo phẩm công giáo và hôm nay, nó kêu gọi chúng ta đả kích Đức Cha
Riberi, đại diện của Đức Giáo hoàng. Ngày mai, nó có thể yêu cầu chúng ta đả
kích Đức Giáo hoàng, đại diện của Chúa Kytô. Rồi ngày mốt, tại sao nó lại không
thúc đẩy chúng ta đả kích cả Chúa Giê su Ky tô, Thiên Chúa của chúng ta? Lẽ dĩ nhien,
trên bình diện lý thuyết, khi người ta đả kích, bao giờ người ta cũng phân biêt
điều nầy với đều khác. Nhưng trong thực tế, Phong trào "3 tự trị" nói
trên sẽ không cho phép tôi tiếp tục sống như người công giáo. Bởi vì Phong trào
ấy trong thực tế, mâu thuẫn với sự tự chủ đích thực của chính Giáo hội Công
giáo (...)"Thưa Quý vị,"Tôi không có linh hồn bất khả phân, nhưng thể xác tôi có thể chia cát được.
Có lẽ điều tốt hơn hết là hiến dâng toàn thể linh hồn tôi cho Thiên Chúa và
Giáo hội và hiến dâng thân xác tôi cho Quố gia. Nếu Quốc gia muốn, tôi sẽ không
từ chối việc ấy. Những người duy vật phủ nhận sự hiện hữu của linh hồn, chắc chắn
sẽ vừa lòng về món quà này (...)Tôi xin tóm tắt. Tôi là một người Công giáo Trung hoa. Tôi yêu nước tôi, nhưng tôi
cũng yêu giáo hội tôi. Tôi quyết liệt không chấp nhận điều gì mâu thuẫn với luật
pháp của Quốc gia cũng như với quy luật của Hội Thánh. Và trước hết mọi sự, tôi
không chấp nhận bất cứ điều gì có thể gây sự bất hòa giữa Quốc gia và Hội
Thánh. Nhưng nếu Giáo quyền và Chính quyền không thể hòa giải với nhau thì sớm
hay muộn, mọi người công giáo Trung hoa chỉ còn biết lựa chọn sự chết mà thôi.
Như vậy, tại sao không cống hiến đời sống của mình ngay bây giờ để hai bên có
thể thông cảm với nhau mau lẹ hơn?... 9.Chú thích:
1. |
Dhammapala XII, 14. |
2. |
Tại Việt Nam, hai chữ nầy chỉ được dùng sau biến cố
1-11-1963. |
3. |
Asoka: Rock Edict XII dẫn trong Walpola Rahula: "L'
enseignement de Bouddha" Paris, Seuil 1961. |
4. |
Épitre aux Ephésiens |
5. |
Première instruction pastorale sur les promesses de l'
Église. |
6. |
Giáo hội đã lên án chủ nghĩa tự do qua ba bức thông điệp
"Mirari vos" của Grégoire XVI (1832) "Quanta cura" của
Pie XI (1864) và "Libertas prestantissimum" của Leon XIII. Thông điệp
sau cùng nầy tiến bộ hơn đôi chút nhưng vẫn không công nhận các quyền tự do
như những quyền tự nhiên mà chỉ chấp nhận chúng như một thực trạng. |
7. |
Đó chỉ là nhìn đến số lượng. Nếu nhìn đến phẩm lượng
(qualité) thì kết quả có lẽ còn khiêm tốn hơn nữa; chưa có một giáo hội Á
Đông nào sản xuất được một vị Thánh và đạo đức trung bình của người Công giáo
Á Đông không có gì gọi là "cao" hơn những người không công giáo. |
8. |
Xem "Cảm nghĩ về Cách mạng Nga". Đất nước, số 3. |
9. |
Bản dịch tiếng Pháp đăng trong Tạp chí Réponse, Louvain,
Janvier 1953. |
1. |
Về vấn đề tôn giáo và chính trị xem: |
2. |
Dẫn trong Trương Bá Cần: Tại sao đạo Công giáo chưa Việt
Nam hóa được với người Việt Nam. Tạp chí Đối Diện số 1 tháng 7-1969. |
3. |
Tháng chạp năm 1970, các Đức Giám Mục Á Châu họp Đại Hội tại
Manila, nhân chuyến công du của Đức Giáo hoàng đã công bố môt bản tuyên ngôn
trong đó các Ngài đã tự phê một cách thành thật. |
4. |
Thông điệp "Populorum progressio" (Phát triển các
dân tộc). |
5. |
Dân tộc Đức chớ không phải riêng Hitler vì Hitler đã lên
ngôi thủ tướng một cách hoàn toàn hợp pháp và không ai có thể chối cải rằng đại
đa số nhân dân Đức đã ủng hộ Ông trong suốt thời gian Ông nắm chánh quyền.
Ngày nay, trong giai đoạn cuối cùng, khi nước Đức đã bị nghiền nát và tan rã,
vẫn không có một phản ứng chống đối nào trong dân chúng, ngoài vài âm mưu ám
sát và đảo chánh của một số sĩ quan. Cho nên những tội ác của chế độ Quốc xã
phải do đa số nhân dân Đức chịu trách nhiệm, chớ không riêng gì Hitler. |
6. |
Về điểm nay nên xem bài phỏng vấn Đức Hồng Y Suenens trong
tờ Thông tin Công giáo quốc tế, được linh mục Trần Thái Đỉnh trích dịch và
đang tải trên Bách Khoa số 299. |
7. |
Gần đây, tạp chí Đức Mẹ hằng cứu giúp của Dòng Chúa Cứu Thế
có đề nghị thay thế chữ "Đúc Giáo hoàng" bằng "Đức Giáo chủ",
tôi thấy đó là điều thật hay. |
8. |
Đặc biệt là tại châu Mỹ La tinh và các nước Tây Âu. |
9. |
Livre des Psaumes. XIV, 1. |
10. |
Le sens des l' atheism contemporain. Paris. Casterman,
1961, tr. 65. |
11. |
Ainsi parla Zarathoustra. |
12. |
Xem lời tuyên bố của Đức Giám Mục Huyghr, địa phận Arras, tại
Công Đông Vatican II, về vấn đề tự do trong Giáo hội. Đối Diện số 2, tháng 8,
1969. |
13. |
De Civitate Def, liber V, caput XVII. |
14. |
Epitre aux Romains V, 12. |
15. |
Xem linh mục Nguyễn huy Lịch; Contestation; Phản chứng là
cái gì? Để làm gì? Trong tạp chí Đối Diện số 1, tháng 7. 1969. |
16. |
Xem Lý Chánh Trung: Cách mạng và Đạo đức. Nam Sơn, 1967. |
17. |
Appel radiodiffưsé. 17 Avril 1936. Trong "Pour l'
union: Catholiques et Communistes"; Paris 1936. tr. 6. |
18. |
Marxisme au XXè siècle. Paris. La Palatine. 1966. tr. 14. |
1. |
Isaie XXV 6-7. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét