Thứ Sáu, 4 tháng 3, 2022

Trên một cung đường 2

Trên một cung đường 2

Chương 5
- “Mơ khách đường xa, khách đường xa”, rồi sao nữa Lý? 
Lý đang dọn cái hang đá “ổ cóc” nghe Minh từ lò-áng bên kia hỏi sang, cậu ta dừng lại, đứng thẳng người đưa cùi tay gạt mồ hôi: 
- “Áo em trắng quá nhìn không ra” - Lý chì tay xuống chân núi nầy - Kìa nhưng cái áo xanh đó thì nhìn ra biển.
Minh nhìn đoàn người đang đi lên, quả thật, cô gái mặt áo xanh ấy anh nhận ra là Nhị. Minh định rủ Lý chạy xuống chỗ đoàn người ấy. Nhưng cậu ta thấy anh đến vội ngồi im, cầm cuốn truyện Kiều cũ nhàu, quạt phe phẩy. Thu buồn, Minh cũng ngồi lên một mô đá bên cạnh. Gió hiu hiu. Minh buông tầm mắt mông lung. Bên kia, cạnh sườn đồi Tức Dụp, căn nhà bạt của đám sư đoàn Chín ngụy như lay động. Mấy tên giặc mặc đồ vàng sậm ra vào trông tựa những con chuột đồng len lén bò đi ăn mồi. 
Ngồi trên lưng núi, tầm mắt được phóng ra khoáng đạt. Những ô ruộng bàn cờ mới bị đốt cháy, màu đen sậm. Những nơi cỏ khô và rẫy hoang, màu vàng úa và xanh rong ken nhau như bức địa đồ. Từng khoảng rẫy hình thoi, hình bình hành, hình tam giác đua nhau leo đồi, phanh bộ ngực xanh xám lượn nghiêng theo sườn dốc. Mặt dốc mấp mô những vồ đá xám mốc. Đỉnh núi Cấm bên kia nhô cao màu xanh đậm, có nhiều nơi lốm đốm vẩy cá, vì những trận bom của máy bay B.52 rải thảm trơ đá, chót núi vương vướng bàng hoàng hơi sương, đó là những mảng khói đốt rẫy trôi ngang vắt vẻo... Lý đọc thơ tiếp: 
- “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”, nhớ chưa? Lấy giấy ra ghi đi cha nội, tối dạ như đêm ba mươi mà cũng muốn làm thơ.
 
Minh cười hề hề, không đáp. Lý hất ngược ngọn tóc dài lại sau, nháy mắt cười. Minh quay lại. Lướt và Hường đang lột hai chiếc bòng trên vai để xuống. Lý bước tới phụ đỡ: 
- Chà, vợ chồng “Mao Toại” nầy quảy hai túi kiềng khôn đựng chi chi - Lý đá thử vào bòng - Chẳng biết lóc, trê, rô sặt gì mà gai dữ. Chúng bay “xin” cá chạy lợp của bà con đặt dài theo đường đó à? 
Hường vươn vai, liếc xéo đôi mắt đen sậm vào Lý. Lướt thì gãi cằm, cười khà khà. 
Bỏ mặt Hường và Lướt làm cá, Minh với Lý đi chỗ khác. Họ đứng trên một gộp đá lớn trông xuống sườn núi. Con đường quanh co đã hút tốp người đi lên thêm mấy gấp khúc. Hai ngày trước đây, bất ngờ sư đoàn Chín ngụy ầm ầm rút quân hầu hết để đánh xuống cung đường đồng nước, bỏ trống cả nửa ngọn núi Cô Tô nầy. Phân đội của Minh tạm giấu hàng lại đồng nước, đưa anh em lên núi nghỉ ngơi vài bữa. 
Hôm sau Minh và Lý đến “lót ổ” trước. Bây giờ anh chị em mới lục đục từ khu rừng Lung Bùn kéo lên. Ngồi không chẳng biết làm gì. Minh chạy xuống chỗ tốp người đang đi lên, họ còn cách anh chừng một tầm tiếng hú. 
Vừa vớ được buồng chuối chát trên vai Nhị, Minh chạy phóng mang trở lên, sợ chần chờ bị bọn họ trêu chọc. Như vầy mà họ vẫn cứ la ó, đuổi theo lưng Minh ào ào: 
- Nó cướp buồng chuối của má bầy trẻ rồi, đuổi theo! 
“Cái thằng bá trợn đó, hay nói bậy”. Minh cứ vác buồng chuối, cười rúc rích, chạy miết. Về gần tới chỗ cũ, Minh thấy Lý đứng sau một gộp đá, khom cái lưng dài, thòi mông lên như một gốc cây trụi. Bỏ buồng chuối, Minh đi nhẹ lại. Bên kia gộp đá, Hường và Lướt đang ngồi đâu mặt nhau, làm cá. Hai người cãi lẫy với nhau sanh tử một chuyện gì. Minh vỗ tay gọi lớn: 
- Có kẻ nấp phía sau đây nghe! 
Hường và Lướt la toáng, hốt sỏi vãi vào Minh với Lý. Rồi sau đó cả bốn người cùng xúm lại, ngồi làm cá. Một lúc lâu, Lý không thấy ai ra làm cá tiếp, cậu ta hơi bực. Không phải Lý so bì việc làm cá, mà vì một nội dung khác. 
Nhóng nhóng một hồi không thấy “ai” ra, Lý liền xổ nho chùm: 
- Trong sách Đằng Văn Công có câu “Nhân chi hữu đạo giã, bảo thực noãn y, vật cư vô lực, tắc ư cầm thú”, không sai một chút xíu. 
Lướt bảo: 
- Mày cứ ngậu xị ba cái chữ Tàu đó, ai hiểu được? 
Lý buộc phải giải nghĩa cho lướt và mọi người nghe“ 
- Nghĩa là người ta nói: - Con người tuy có đạo lý nhưng cứ ăn no mặc ấm, ngồi rồi mà không lao động, thì giống như loài cầm thú vây. 
Thành cầm một con dao găm đi tới, giơ lên muốn băm vào mặt Lý, nhưng thôi. Thành dùng ngón tay xỉ vào mũi Lý đến cậu ta phải ngã ngửa. Thành nghiến ngấu: 
- Đừng có mượn giọng Tàu mà mắng nhiều người ta nè. Coi chừng đó nghe! 
Lý ngước mặt cười hà hà. Thành cũng cười theo, rồi ngồi xuống bên Lý. Tất cả đổ ra, ngồi vây quanh hai bòng cá. Không đủ dao để làm, những người phải lượm những mảnh đá có cạnh sắc do máy bay B.52 ném bom, bể vụn, làm đồ cạo vảy cá. Có gì hứng thú hơn lúc ngồi gần người yêu, Lý đổ ra huyên thuyên là chuyện: 
- Tụi mình đang sống trong một thời đại văn minh nhất, mà cũng là man rợ nhất, đố bay biết sao không? Không à? Nghĩa nguyên tử cộng với đồ đá. Sau khi thủy tổ loài người thoát khỏi lốt vượn, họ chỉ biết lượm đá mà dùng. Mình bây giờ cũng dùng đồ đá, bốn ngàn năm ta lại trở về nguồn cội, nhưng đá nầy do một thiết bị tối tân nhất của Mỹ làm ra cho ta dùng, vậy mới có vấn đề chứ.
Có nhiều ý kiến chê Lý nói mép. Riêng Thành thì bảo đàn ông phải lão thông như vậy mới không bị vợ ăn hiếp. Lại có cô nói đàn bà mà không trị nổi chồng, để cho họ có vợ bé là tan nát nhà cửa. Nhưng nhiều người bảo là vợ chồng phải bình đẳng nhau thì gia đình mới có hạnh phúc. Lướt thì bác bỏ tất cả. Cậu ta bảo đàn ông phải biết sợ vợ, nhưng sợ phải có nghệ thuật.
Để mọi người tin mình, Lướt giảng giải: 
- Phải nên định nghĩa cho chính xác “hạnh phúc” là gì mới rõ. Hạnh phúc là sự bằng lòng, tự giác. Bởi vậy người ta tự giác truy điệu  sống để đánh đồn, đó cũng là niềm hạnh phúc. Tự giác sợ vợ cũng là niềm hạnh phúc thôi. 
Nhưng tất cả các cô cho là Lướt ngụy biện để xuyên tạc đàn bà. Rồi cũng qua, vì có một nhóm đang “đụng” nhau về địa phương tính, làm mọi người cuốn hút vào. Một phe bảo: “Cần Thơ múc nước đổ ào, Cà Mau thấy vậy xách thau hứng về”. Một phe đập lại: “Cà Mau làm cá bỏ đầu, Cần Thơ thấy vậy xỏ xâu mang về”. Hai câu ca dao họ đã kích nhau về đặc điểm của hai tỉnh. Xứ Cần Thơ nước ngọt nhưng ít cá, xứ Cà Mau nhiều cá nhưng nước mặn. Trận bác nhau nầy đi đến tự ái, làm Minh phải lên tiếng giải tán. Chốc sau nổi lên hai quan điểm về cái đẹp của kiểu cắt đầu bom bê đạo Hòa Hảo ở miệt Chợ Mới và kiểu tóc búi củ hành của đạo Hiếu Nghĩa ở vùng Ba Chúc. Chuyện nầy qua nhanh chóng, vì có hai người nào đó sắp tát nhau về việc trong mình ông Huỳnh Thủ bảy vết thương hay năm vết thương lần tảo thanh ở Láng Linh, ông bị nàng “Lưu Kim Đính” chém bằng song kiếm. Rồi cũng êm. Họ mách nước cho nhau nên lấy nước mắm biển cốt y Phú Quốc bỏ theo xuồng, vì mỗi người chỉ uống vô năm “xê xê” sẽ chịu lạnh suốt buổi chém vè trong nước. Có người còn bảo nước mắm ấy có chất ngọt đến ruồi bu, kiến đậu... 
Đến lúc mặt trời nằm nghiêng qua đỉnh núi Dài, hai bòng cá hết sạch, nhưng họ vẫn còn nắm nuối câu chuyện tào lao. Có người cứ ngồi vuốt lưỡi dao, cao mảnh đá, chưa chịu đi. Minh hốt mớ cad làm rồi bỏ vào nón sắt, bưng ra suối nước. Gặp Nhị dọc đường, cô ngoắc anh lại. Chỉ tay vào gộp đá bên kia khe nước. Nhị nheo mắt mỉm cười. Đôi mắt màu chì phơn phớt của Nhị hôm nay trông sáng rực. Nhị tung mình nhảy đi thoang thoát từng gộp đá. Có chuyện gì trong lòng mà làm cho cô ngây thơ một cách kỳ lạ? Đuôi tóc kẹp sau lưng Nhị ngúng ngẩy. Minh đứng lặng, nhìn vào những thân con cá trùi trụi không còn vẩy, không còn đầu trong chiếc nón sắt, mỉm cười. Trong anh cũng có một cái gì ngây thơ như trẻ con. 
Ra đến khe nước chỗ Nhị chỉ, Minh thấy Lý và Thanh còn ngồi bên nhau thì thầm chuyện muôn thuở. Hai người ngó chăm xuống dòng nước. Thanh ngắt một bông hoa tàu bay tim tím ném xuống dòng nước. 
- Cho rung mặt nè! Cái mặt thấy ghét nà! Rung rinh rồi đó. 
- Ừ, làm đi! Mặt “họ” cũng gờn sóng thôi. 
- Muốn không? Chọi nữa cho coi! 
Mái tóc dày cộm của Thanh bay bồng bồng về phía Lý. Thanh ngắt thêm một bông hoa nữa định ném xuống nước. Lý làm như sợ hãi, vớ vội mái tóc Thanh bưng lấy mắt: 
- Chọi đi! Lấy cái nầy che mặt, khỏi lo. 
Thanh giật tóc mình lại: 
- Đừng giỡn. Tụi nó thấy được, nó chộ cho mắc cỡ thấy mồ. 
Minh cầm chiếc nón đựng cá, lên tiếng: 
- Hai đứa rửa nón sắt cá cho tao thì tao không chộ. 
Thanh bẽn lẽn, ngồi nhích dang ra: 
- Hối lộ hé! 
- Được! Được! Để tiểu đê làm, đại ca về đàng ấy với chị Nhị... để cắt đặt đội hình đóng quân cho tiểu đội nữ... 
Minh cười. Thanh bưng cá vô. Lý còn cúi ngập người xuống khe nước rửa tay. Cái lưng của Lý dài và cong tựa cây cầu móng. Nắng chiều của những ngày tạnh mưa, vàng như mật ong đổ đầy lưng núi phía tây. 
Chốc sau Nhị và Thanh lại ra. Hai cô rủ Lý: 
- Tụi mình đi thăm cô Nhạn một chút! 
Minh cũng đồng tình: 
- Đến đay phải thăm cô để cô phù hộ cho mà sống đời. 
Lý dẫn ba người đi. 
Họ đến một mô đá lớn, mặt tương đối bằng phẳng, nằm xộc vào bên dưới mô đá hình mui ghe. Vòm đá đóng đầy rêu xanh, cao không quá đầu người, có mấy vòi thạch nhủ buông xuống nửa chừng trông tựa những giọt bạch lạp đặc quánh. Mô đá nằm bên dưới màu xám mốc, có nhiều đường rãnh ngoằn ngoèo trắng như bột, dường như chúng bị ép từ trong lòng núi mà trào ra từ ngàn xưa. Bọn họ thường gọi thạch nhũ là máu của đá, còn những lằn dá trắng ngoằn ngoèo ấy là máu của núi. Lý chỉ cho ba người chỗ nằm của một nữ đồng chí đã hy sinh. Hài cốt đã được bốc đi mới những ngày gần đây. Người xem phải chun vô vòm đá mới nhận ra được dáng dấp của một thân thếch người in đậm trên mặt mô đá “chảy máu”. Dấu chiếc đầu tròn, hai tay xuôi, đôi chân duỗi thẳng. Bên vách đá có ghi nguệch ngoạc dòng chữ bằng máu đã ngả màu đen sẫm : “Lê Thị Nhạn, ấp Thầy Hội, Cà Mau”. Minh tự nhủ: “Ấp Thầy Hội, thuộc xã Tân An, vùng ấy mình có biết. Đến độc lập nếu còn sống mình sẽ tìm gia đình cô ta”. Dòng chữ nầy nhất định là của cô Nhạn ghi lại, nếu người khác thì đâu có máu để viết? 
- Cố ấy bị thương cột sống, do một đội thanh niên xung phong nào đó gởi lại. - Lý kể - Thuở ấy, chỗ nầy là căn cứ của quân y huyện Tri Tôn. Tôi có gặp cô ta một lần trong dịp đến lãnh thuốc cho đơn vị. Người sao có cặp mắt kỳ lạ ! Nhìn vào như đó là hai vũng sâu màu chì chốc chốc vụt rực sáng, làm cho người nhìn phải phát sợ là mình có thể bị chìm sâu trong đó. Tuổi cô ta khoảng mười bảy, mười tám nhưng trông không mặt dạn dày lắm. Tuy đã hoại thư phần dưới lên đến thắt lưng, nhưng cô ta còn yêu đời một cách kỳ lạ. Hai tay cô cử động lẹ làng, thường luyện động tác múa. Cô thích hát và hay mượn người khác chép bài hát vào một cuốn sổ tay con. Cô ta bảo ráng học cho thuộc được nhiều để khi hết bệnh xin vào đoàn văn công. Tôi cũng có ghi vào cuốn cổ cho cô một bài lưu niệm. Thấy trong cuốn sổ đã có rất nhiều bài hát, có cả những bài dân ca miền Bắc, miền Trung... 
Lý dắt ba người trở ra. Cậu ta nhìn lên một miệng ngách thông thiên, kể tiếp: 
- Tôi về đơn vị vài hôm, nghe giặc đánh úp quân y nầy. Cách đây mấy tháng, tôi có dịp trở lại. Tôi mang hài cốt của cô Nhạn ra chôn trên một gò cát cạnh cây cổ thụ ngoài kia. Những dấu vết về cô Nhạn quanh đây chỉ còn một chiếc bình toong Mỹ móp méo mà tôi thường thấy cô đựng nước uống và dòng chữ viết ấy. Tôi tìm mãi cũng không thấy cuốn sổ tay chép bài ca ở đâu... 
Sau lời Lý kể, không ai hỏi gì thêm. Tất cả cứ lặng lẽ cúi đầu luồn qua vòm đá có những giọt “nước mắt” và đi ngang mô đá “chảy máu” để trở về chỗ cũ.
Ăn cơm xong, đã tối đến. Anh chị em ai về vị trí nấy để sửa soạn chỗ ngủ. Còn lại Minh, Bá, Lướt, Bình ngồi tại chỗ để chờ xem Lý dở trò gì. Bình ôm cây đàn măng-đô-lin cũ xì, nứt nở tựa trái dưa gang chín, ngồi trên một tảng đá, khảy tủng tẳng. Hôm nay mặt Bình buồn rười rượi, hồn vía cậu ta dường như bị điệu nhạc cuốn bay theo gió.  Từ bữa Thế được đoàn văn công khu rút đi đến nay, không còn ai tri kỷ nữa. Bình cứ lặng lẽ, chớp chớp đôi mắt đen ngời và dường như nụ cười của cậu ta cũng bị Thế mang theo mất. 
Bá ngồi say sưa nghe Bình đàn, cái bài mà từ xưa đến nay bị người ta thường bảo là “nhạc vàng” nhưng ít có ai thuộc lời. Vành miệng rớt le đít bần của Bá cứ lận ra, cất giọng xướng âm khao khao. Bá là tiểu đội phó của tiểu đội hai, gốc từ bộ đội chủ lực 303 chuyển qua sau sau trận đánh lớn ở Hòa Hưng. Lần ấy Bá bị thương bể mất một mảnh xương sọ ở trán, mỗi lần uốn rượu hoặc cảm xúc mạnh, chiếc sẹo ở trán Bá căng mọng lên tựa một quả trứng gà, và lúc ấy anh nổi cơn điên loạn. Cổ họng của bá cũng có lần bị một viên đạn nhọn xuyên qua khí quản. Anh em bảo là thanh đới của Bá ngủ ngái còn lạt hơi, bởi vậy cậu ta hay khổ vì mình mỗi khi cất tiếng hát. Nhưng thói đời có trời phú, tại Bá thích ca hát, mới khổ. Bá lần dò mãi rồi cũng đưa hơi minh vô ăn giọng đàn được một câu trong bài hát “Lỡ chuyến đò” mà Bình đang điệp khúc nãy giờ. 
- “Người nghệ sĩ lăn tuốt xuống mương. Thương thì thương tấm thân sinh chương. Sình thì sình em út cũng thương...”. 
Bá lấy được trớn, cậu ta hí hửng cất lên om sòm. Anh em ngồi nhe phải bụm miệng vì ê răng và chảy nước mắt sống. 
Đằng nầy Lướt câu cổ Minh hỏi thì thào: 
- Chuyện của tôi thấy có mòi không ông? Có kinh nghiệm nhiều trao đổi thử coi! 
- Cái thằng lạ đời! - Minh bật cười nói tiếp một câu lý sự - Tình yêu cũng như chiến tranh vậy, có ai lường trước được? Nó chợt tới rồi chợt lui, chỉ khác một điều là chiến tranh tới lui với ta bằng bom đạn, còn tình yêu tới lui với ta bằng cảm xúc... 
Lý trở lại, tay cầm chiếc bình toong Mỹ đưa lên cao, lúc lắc như một lão thầy bói: 
- Trong nầy là gì? Ai nói trúng, thưởng cho một nắp bình. 
Minh đoán biết nhưng cố nói trớ đi: 
- Mật ong. 
- Trật lất. 
- Rượu. 
Bá tài khôn, bị Lý “thưởng” cho một nắp bình đầy. 
- Thôi! Bắt nó uống nhiều cái trán nó phồng lên, quậy phá không ai chịu nổi. 
Minh can Lý. Lướt xề lại bên Lý, cười khề khà, nói dèm: 
- Mày kiếm ở đâu hay quá vậy? Rượu chắc khá lắm? 
- Của cha Tư Liêm bên “chín mươi”, khỏi chê. - Lý rót đưa cho Lướt một nắp bình để thắm môi thử - Mấy ông già ăn uống đã nhiều năm rồi, để trai tráng tiến lên làm chút chớ.
Bình buông đàn, lết lại nói lào xào: 
- Kêu mấy thằng “đực đột” dậy làm cho vui. 
- Thôi. - Minh bảo - Anh em mệt lắm, để họ ngủ. 
- Tụi nó hay, nói đám cán bộ mình uống, mang xấu cả đám. 
Bá nói thiệt bụng hay không? Hay câu ta sợ anh em dậy sẽ “chia lửa” bớt đi. 
Bá tiếp tục ca, giọng cậu ta không bắt được hơi đàn nữa. Bình phải đánh đàn rầm rập lên để khỏa lấp, Lý dở cuốn truyện Kiều ra “úm ba la” rùm beng, mời anh em xem quẻ, nhưng ai nấy đều làm ngơ. Chỉ có mỗi mình Lướt, cậu ta vừa có chuyện “chớm nở” trong lòng, nên bắt quyết Lý phải dở cho một quẻ tình duyên. Lướt tự tay cầm cuốn truyện Kiều đưa ngang mày làm đủ những thủ tục, rồi khấn vái: 
- Mô di phật! Mô di phật! Cho tôi đổ nhẹ một quẻ tình duyên thật ướt át xem nào, ông phật. Dở ra nè! Trang phía phải, từ trên bỏ xuống sáu dòng. 
Lướt nhắm mắt, dở sách ra, đưa cho Lý xem. Tội cho cậu ta giọ “ông thầy” lắc đầu nguầy nguậy : 
- Thôi số của mày là... Là, tan nát hết rồi ! 
Nghe Lý kêu thảm não, Lướt chồm tới lấy cuốn truyện xem lại chỗ vận ứng của mình ! “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, giật mình mình lại thương mình xót xa”. Lướt ném cuốn truyện, bật cười, thở ra : 
- Đù ỏa, cái số cô đơn bạc mệnh. 
Lý thì  có truyện vui trong lòng mà khỏi bói toán gì cậu ta cũng biết, nên hứng khởi đến lăn mỡ. Lượm cuốn truyện Kiều dắt vào lưng, Lý bắt anh em vỗ tay cho cậu ta nhảy bài “múa sạp”. Lý đưa hai cánh tay vượn về phía trước, khua khua mười ngón tay dài thậm thượt, đôi chân co lên, thọt xuống. Vừa nhảy, Lý vừa xướng âm theo giọng đàn của Bình: “Sòn sòn là đô sòn, thằng Bình là đô la”... 
Lý chưa kịp trở tay liền bị cây đàn của Bình bay đến bốp vào trán. Cả “hội trường” xao xác. Lý đưa tay vuốt tóc : Máu ! ! Cây đàn của Bình nằm trơ bên cạnh. Anh em xúm lại bên Lý, chỉ trừ Bình, cứ ngồi trơ tựa mô đá. Lướt vốc rượu vã vào vết thương cho Lý, Minh rứt một nắm thuốc hút đắp vào. Cả đám xít xoa lo lắng. Lý cứ cười hề hà biết lỗi vì đã phạm phải điều đại kỵ của bạn. Bình cứ ngồi câm nín như một bình chứa ga, và mặt cậu ta gây gây, thách thức. Ai còn lạ gì việc nầy, nhất là Lý, mỗi khi vui miệng gọi Bình như vậy nếu không ăn đòn cũng bị chửi cho tan nát tam đại cố tổ. 
Số là, lúc đơn vị còn đóng quân ở rừng “Tám mươi”. Một hôm anh em đang ngồi túm tụm làm cá, trong chòi chỉ có Bình đang dạy đàn cho Thế. Sống giữa rừng hoang mông quạnh, có tiếng đàn, tiếng ca cũng góp vui cho kháng chiến, không ai so bì gì. Nhưng bên trong, tiếng đàn của Bình mỗi lúc một sai nhịp, và Thế cũng thôi ca, cứ hỏi vặn lại : “Ui, la, la à ?”. Bình thì cười hì hì bảo : “Đô, đô mà”. Có một nốt nhạc “đô” hay “la” mà hai thầy trò cứ giằng co hoài. Anh em bên ngoài sinh nghi, bảo Lý biệt kích vào xem. Cậu trinh sát đặc công thấy rõ ràng : Bình đang bấm vào một nốt nhạc... kỳ quá, nó không nằm ở cây đàn. Thế thì vùng vằng ưỡn ẹo : “Đô gì ? Kỳ cục ! La à”. Từ đó về sau có ai bảo là Bình-đô thì sẽ đổ nợ với tay thầy đàn nầy.
Minh móc túi lấy ra chiếc khăn tay đầu có gút tua, màu xanh trứng sáo, định chậm máu cho Lý. Đằng nầy cả đám cùng xít xoa tiếc cho chiếc khăn đẹp phải vấy máu. Lý cũng từ chối, xô tay Minh ra : 
- Khăn yêu, khăn quý đừng cho vấy máu “người dưng”. 
Lý cương quyết dùng chiếc khăn choàng tắm của mình mà rịn vết thương. Đúng là chiếc khăn tay của Nhị công kỹ làm tặng cho Minh. Anh lại cất kỹ nó vào trong ngực áo. 
Minh theo Lý về chỗ “ổ cóc”, nơi vị trí tiền tiêu mà tổ cậu ta đang giữ. Lý bảo rằng một trong những “vách sắt tường đồng” của Cô Tô nầy. Hai cậu lính trẻ đã ngủ khò trong hốc đá từ lúc nào, súng AK họ kẹp vào giữa háng. Lý dắt Minh vào ngồi trong một hốc đá. Địa thế nầy thật là ấm cúng. Ngồi một chỗ có thể quan sát được nửa phần vách núi và thấy suốt những ô rẫy giáp chân đồng. Lưng tựa núi. Bên trên là một dồ đá lớn bằng một ngôi khách sạn nằm gieo chồm ra trước, giữa có vòm muôi ghe. Lý bảo là hồi chiều cậu ta định kề vai hất vầng đá văng đi nơi khác, nhưng sợ nó đổ vào nát ruộng rẫy của bà con. Cậu ta thề bán mạng rằng thuở nhỏ có học phép “đảo hải di sơn” của ông Quỷ Cốc Tư. Chốc sau, Lý giả vờ mệt, nằm soài ra, hai mắt lim dim. Nhưng Minh bắt gặp chốc chốc Lý mở bừng mắt nhìn trộm anh. Nghi vấn tay nầy sắp giở trò gì đây. Minh bước ra, đi nơi khác.
Ngồi trên một ngôi đá bằng và quang, Minh thở hít không khí cho bớt căng đầu óc qua một ngày mỏi mệt. Tiếng núi thở run run. Mùi đá ẩm bốc tanh tanh. Gió nam non mang hơi lạnh se se. Đêm sáng rừng rựng vì bầu trời nhiều sao. Trước mặt Minh bày ra quang cảnh những bãi đá trống phốc vì bị nhiều lần máy bay B.52 rải thảm. Từng tảng đá đứng chông chênh, mấp mô theo chiều gốc cây cổ thụ gục đổ. Đêm mập mờ. Sườn núi nghiêng ngả, chạy hụt chân xuống mặt đồng. Màn đêm ngậm mất cỏ và rừng tràm. Minh bật nhìn lên hướng tây bắc, anh chợt giật mình ngỡ trời đang kình kịch kéo mây mưa. Nhưng không : Bóng núi! Dãy núi dài đen kịnh nhô lên nửa vành chân trời. Hơi đá bốc thành một làn mù nhẹ làm cho bóng núi như lùi ra xa hơn. Trên nền trơi đầy sao, sao nhỏ, sao to, nhằng nhì, chi chít, chiếc xanh biếc, chiếc trắng đục, chiếc thì nhấp nháy, chiếc lại lặng im. Dải ngân hà đùng đục bắc thành cầu vồng, nằm vắt ngang vòm trời vời vợi. Khung cảnh nầy, nếu có Lý, cậu ta mặc sức mà phân ngôi định thứ cho những vì sao. Nhưng Minh thì... cố đứng lên, mặc dù anh đã nghe trong mình mỏi nhừ và đôi mắt đang bị con buồn ngủ cắn sụp mi. Minh còn phải đi kiểm tra đội hình phân đội lại lần chót. 
Đến mô đá hồi chiều, chỗ Minh đứng trông qua căn nhà bạt của địch bên ngọn đồi Tức Dụp, anh ngồi xuống, lạ chưa? Tại sao bây giờ bên ấy chỉ có bóng tối, chẳng có đèn đóm gì? Bọn giặc ở góc núi bên ấy đã rút đi mất tự bao giờ? 
Gió cứ quấn một lớp hơi mỏng, mát rười rượi quanh cổ Minh. Một cảm giác êm đềm lòng anh tràn ngập niềm yêu thương lãng mạn. Mấy chun rượu lúc nãy còn bốc hơi men âm ấm ở ngực và lưng. Minh khoanh tay, ngồi dựng gối, úp mặt để tận hưởng khoảnh khắc khoan khoái nầy. Anh đã ngủ...
Có một người đến nhẹ lay Minh dậy. Bàng hoàng ngẩng lên, Minh thấy Nhị. Nhị từ đâu đến, xuất hiện như một bóng ma. 
- Anh !...
Minh và Nhị im lặng nhìn vào mắt nhau, dường như cả hai đang cố tìm hiểu những ý nghĩ thầm kín của nhau. Minh chưa kịp mở lời,thì Nhị bước đi. 
- Nhị!
- Gì hở anh? 
- Có việc gì không? 
Nhị đứng nhìn Minh. Tóc Nhị chảy ràn rụa trong đêm. Tóc Nhị bị gió hất bay cuồn cuộn về phía trước, vương vướng vào vai và ngực. Khuôn mặt Nhị mơ hồ lẩn khuất trong đêm, Nhị toan quay đi, nhưng nhớ ra điều gì, cô lại bảo: 
- Anh à, con Thanh với thằng Lý... 
- Chúng nó làm sao? 
- Lý đến định leo thang... 
- Rồi sao? 
- Thanh yêu cầu cậu ta về chỗ... 
- Nhị nghĩ sao? 
- Chúng nó biết tôn trọng nhau... 
- Anh thừa nhận điều đó. Tình yêu phải biết dừng lại ở chỗ cần phải dừng lại. Nếu không, nó sẽ sa đà mất. Để mai anh tâm tình với Lý thêm. 
Nhị rủ Minh đến chỗ các cô đãi cho ăn một món đặc sản của núi Cô Tô. 
Nếu muốn thỉnh được khách thì ít nhất chủ nhà phải cho họ biết sẽ được thết món gì?
Minh dùng dằng đặt điều kiện ấy. Cực chẳng đã, Nhị đành đưa hai ngón tay lên miệng, tiết lộ bí mật : 
- Trái sa kê. 
- À, món đó thì... cũng tạm được. 
Nhị nắm tay Minh lôi đi. Anh lần theo, anh thầm nghĩ : “Thằng Lý nói cảnh Trư Bát Giới mò vào Bàn Tư động của bảy nàng tiên nhền nhện là như thế nầy đây. Không, mình phải đường hoàng như tư thế của hoàng đế thành Mát Đa đi khám phá lâu đài của ba cô gái kỳ quặc trong truyện “nghìn lẻ một đêm”. 
Minh bật cười. Nhị nhìn vào mắt anh và buông ra, vụt bỏ chạy :
- Nực nồng mùi rượu vậy. 
Nhị biến mất vào lò-ảng. Minh lạc đường, đi vào một hốc đá lớn, quờ quạng. Lần về cuối hang, anh chạm phải một cô gái đang ngồi co ro trên phiến đá. 
- Ai đây? Thanh hả? Cô gái nín  thinh - Hường hả? - Lại nín - Nhị hả? 
Cô gái cất tiếng cười khúc khích : 
- Phải có thêm một cây gậy với chiếc bị nữa thì giống... 
- Giống một đệ tử cái bang? 
Nhị bật cười thành tiếng, nắm tay Minh ghì xuống, trao cho anh một trái sao kê nấu chín bằng quả lựu đạn, hơi nóng còn hầm hập. Minh định lần bóc ra lớp vỏ nham nhám, nhưng mãi không kham, anh đành phải bẻ đôi chia cho Nhị: 
- Ăn đi! Chị em ăn chưa? 
Mùi sa kê luộc thơm dìu dịu nửa giống khoai mì, nửa giống mãng cầu xiêm. 
- Ăn xong cả rồi - Nhị đẩy tay Minh ra - còn mấy củ mì kia, ăn tiếp nghe! 
- Sao không chia bớt cho chị em, dành chi nhiều vậy? Cùng ăn cho vui!
Minh đẩy nửa trái sa kê về phía Nhị. Trong bóng tối, anh dúi miếng sa kê về phía Nhị. Cô kêu rú lên, vùng ra: 
- Ài chà! Cái thằng cha kỳ đời...
Nhị mắng yêu và nhéo vào cánh tay Minh. Anh bắt lấy tay Nhị để đỡ đòn. Nếu không có tiếng cựa mình của cô nào bên cạnh, chưa chắc gì anh đã buông tay Nhị ra ngay. Bóng đêm trong hang núi như ngưng đọng. Vài con dơi muỗi đâu đó lao ngang, vỗ cánh âm thầm. Có tiếng một cô gái nào cười khúc khích bên góc lò ảng.
Chương 6
Đêm ấy khoảng bốn giờ sáng, quả núi Cô Tô bỗng nhiên rung giật, chuyển động. Núi lắc lư, chao đảo, nhảy chồm chồm tựa một con tàu lướt sóng to. Lửa chớp sáng trời. Tiếng kêu cành cạch, chàn chạt dứt đợt nầy đến đợt khác. Đá núi chuyển động ầm ầm. Mảnh đá và mảnh thép bay rần rật ngất trời. Không khí ầm ập vào các lò ảng, rồi cứ giật ra, đẩy vào mang theo từng tiếng nổ chát chúa. Chiến sĩ ta bị hơi gió giật ngã lăn, có người bị uất hơi chết ngất. Khói cay sè xộc vào mũi, ào mắt. 
Tám phi đội máy bay B.52 Mỹ, cách nhau 15 phút một đợt, nối nhau đánh vào một bên vách núi Cô Tô, chỗ phân đội của Minh trú quân. Một trận rải thảm khá tàn khốc ! Lỗ tai, lỗ mũi người nào cũng rỉ máu. Nói chuyện với nhau phải kiêm điệu bộ để minh họa cho ý mình. 
Minh chạy đi một hướng để kiểm tra đội hình phân đội. Đến một chỗ Minh thấy Bá đứng chạng chân, tay múa may, miệng nói láp báp điều gì dường như quan trọng lắm. Minh cứ nghiêng đầu lắng nghe, nhưng mãi anh không hiểu được gì. Có Nhị với Lướt đứng bên, họ “phiên dịch” từng tiếng cho Minh nghe : 
- Tổ tiền tiêu của Lý bị đá sụp chôn mất rồi ! 
Minh không tin ở tai mình. Và đến khi biết chắc rằng tai mình nghe đúng như vậy, lòng anh cũng chưa tin. Có thể Bá nhận lầm một cụm đá đổ nào đó rồi chạy báo cáo ẩu. Qua trận địch ném bom, địa hình núi thay đổi khủng khiếp, khó mà nhận ra chỗ cũ. Minh bảo Nhị ở lại, anh tốc theo Bá để xem xét kỹ lại một lần nữa. 
Hai người đến đúng cái “ổ cóc” của Lý. Chỗ nầy không gì thay đổi lắm. Chung quanh có mấy dấu bom cày xướt đá trầy từng vùng nhỏ tựa dấu lựu đạn nổ trên mặt đất khô. Gộp đá lớn như ngôi khách sạn có cái vòm bụng đã bị sụp xuống. Như vậy chắc chắn là tổ của Lý đã bị “núi cắn” mất rồi. Minh và Bá kêu réo thất thanh nhưng chỉ có tiếng vách đá vọng lại. Họ chạy vòng quanh để tìm kẽ hở nhìn vào lòng đá. Minh tìm gặp một kẽ nứt độ chen lọt cánh tay, nhưng bên trong còn bóng tối lờ mờ, chưa nhìn thấy được gì. Hai người đành trở về, củng cố gấp đội hình để chuẩn bị chiến đấu với bọn bộ binh địch, chốc nữa sẽ đổ xuống. Minh phân công Sơn Nâu dẫn một tổ luồn theo hang đá về phía sau giữ cửa ngách mặt điện Thầy Sồi. Bá dẫn một tổ ra chốt ngoài gộp đá lớn, xa hơn chỗ Lý chừng vài mươi mét. Còn lại bao nhiêu do Nhị chỉ huy, bám dài theo các lò-ảng, sẵn sàng trợ chiến. 
Mặt trời lên. Từng tốp máy bay phản lực thi nhau đến ném bom và bắn đạn mười hai ly bảy xuống sườn núi. Nắng lên. Ánh nắng tỏa dần vào các hốc đá. Hơi nắng ấm làm lỗ tai mọi người bớt lùng bùng. Ai cũng bẻ que dấy cho bớt máu đọng bên trong. Trực thăng địch đã đến đổ quân xuống ầm ầm. Một cụm bên kia đồi Săn Rư đối diện với phân đội cách một vực thẳm. Một cụm trên đồi Cỏ Sắt, ngay trên đầu phân đội. Ta và địch cách nhau như kẻ ở trên mái nhà, người ở trong nhà.
Súng nổ. Ngoài đầu chốt của Bá, anh em đã bắn rơi mấy tên giặc tuột theo sợi dây thừng mong xuống đánh chiếm chốt tiền tiêu của ta. Minh cầm khẩu AK đứng cạnh gộp đá “ổ cóc” của Lý mà thi chiến. Ngoài kia, Bá ngồi tỉnh bơ, rung dùi cười khanh khách, xem từng chùm lựu đạn và bộc phá của địch tuôn xuống nổ bốc khói bên mé vực thẳm. Chốc sau, có lễ thấy kiểu tấn công như vậy không ăn, bọn giặc ngưng lại để chuyển cách đánh. Một chút im lặng. Bá đưa tay ngoắc Minh. Xốc súng định đi ra, nhưng Minh chợt dừng lại vì dường như có nghe tiếng ai từ bên kia gộp đá kêu vọng qua. Anh chạy sang bên ấy. Chẳng thấy gì. Bên nầy đá không có kẽ hở. Vòng về chỗ cũ, Minh lại nghe tiếng kêu phát ra đâu như trên đỉnh gộp đá. Minh nhoài người lên, cũng chẳng thấy gì. Tuột xuống, Minh vẫy Lướt lại. Nhị cũng ra đến. Ba người đều nghe rõ tiếng kêu, lần nầy thì nghe quả quyết là từ trong lòng đá phát ra. Nhị bảo Minh kê vai cho cô trèo lên để tìm xem trong một vệt đá nứt. Minh ngồi xuống cho Nhị lên rồi đứng dậy từ từ. Nhị bảo anh dừng lại để cô úp mặt nhìn vào chỗ đáng khả nghi. Bỗng Nhị rú lên, ngã lộn nhào. Minh giật mình, ôm choàng đỡ lấy Nhị. Nhị ngồi bệt xuống mặt đá, hai tay bưng mặt, thở hổn hển:
- Thằng Lý... Con mắt nó... 
Minh cùng Lướt dùng lê AK khơi những mảnh đá nát còn bám theo lằn nứt. Ánh sáng len theo vào lòng đá. Minh thấy rõ một con mắt của Lý từ bên trong nhìn ra. Và anh nghe tiếng nói đứt quãng của Lý: 
- Hai thằng nhỏ với súng ống bị đè nhẹp mất rồi - Giọng Lý đã khô quánh không còn giữ được âm sắc. 
Minh cố gắng lắm mới khỏi bị buông mình ngã vật ra sau câu nói của Lý. Cối giọng bình tĩnh, anh bảo : 
- Yên chí ! Anh em sẽ tìm cách xeo đá ra. Ngoài nầy đã nổ súng rồi. 
Lý nghiêng đầu qua, nhìn bằng con mắt bên nầy. Lý nghiêng dầu lại, nhìn bằng con mắt bên kia. Ánh mắt của Lý đen ngòm, lấp lánh qua kẽ đá sâu thẳm. Một cái gì vời vợi và hun hút rút sâu vào trái tim Minh. Lý với tay ra. Minh với tay vào. Hai tay của hai người còn cách xa nhau một mét. Minh không còn đủ can đảm đứng lâu thêm, anh để Nhị và Lướt ở lại, xách súng ra chỗ Bá. Vừa đi Minh vừa cắn môi đến ứa máu. Lâu nay chiến sĩ trong phân đội anh cũng đã chấp nhận nhiều kiểu hy sinh, nhưng chưa gặp trường hợp nào quá ư khốn nạn như thế nầy. “Anh em tìm cách xeo đá ra”. Với sức mạnh của gộp đá ấy dù có khối thuốc nổ một tấn đánh thử, nó cũng không xê dịch được bao nhiêu. Nhưng dùng thuốc nổ thì người bên trong thế nào?... 
Minh ngồi gần bên Bá, mặt anh cứ cau có. Bá lại luôn ca hát lảm nhảm, ngồi rung đùi chờ giặc vào. Bực bội quá, Minh đứng lên định quay vô. Bỗng nghe có tiếng động, anh nhìn lên. Thuận đà, Minh đưa nòng AK theo, bấm một điểm xạ ngắn. Một gói bộc phá có nối sợi dây cháy chậm rơi đánh bịch xuống chân Minh. Ngòi thuốc cháy xì loắt quắn một sợi khói xanh. Minh dùng chân chà tắt. Theo kẽ đá, máu và óc một tên giặc chảy xuống nhờn nhờn thành kẻ sọc. Giặc lợi dụng lúc ta không chú ý, chúng định dùng bộc phá xuống đánh sập lưng núi để lấn chốt tiền tiêu của ta. Minh bảo một chiến sĩ chạy vô gọi Bình và Thanh ra tăng cường cho chốt đầu. 
Bình lột cây đàn măng-đô-lin để phía sau gộp đá và lên đạn đánh rộp khẩu AK của mình. Thành đứng nép vào một góc, vuốt lại mái tóc bê bết mồ hôi bên má. Minh biết hai người chưa hay chuyện của Lý, anh cứ để cho họ yên tâm, không nên báo vội. Minh nhắc Bình phòng địch thòng dây đánh bộc phá từ trên xuống, rồi dắt Bá trở lại chỗ Lý. Minh thấy Nhị và Lướt đang cột gói cơm vào đầu súng đưa vào hang cho Lý, anh bảo họ xê ra. Bá chạy ùa đến, úp mặt vào kẽ đá xem. Minh ôm đầu lảo đảo, rồi ngồi xuống một mô đá bên cạnh. 
- Thằng Lý !... 
Bá thét lên rồi té quỵ. Bá lăn mấy vòng. Lại đứng lên, ôm đầu thở hồng hộc tựa người bị trấn thương phổi. Mắt Bá trợn trừng. Chiếc sẹo trên trán mỗi lúc một thoi thóp thở. Bá cắn răng, nhai môi, máu tứa đỏ miệng. Vết sẹo trên trán phồng lên lớn bằng quả hột gà, mắt anh bắn ra nhiều tia máu đỏ ngầu. Bá lại nhai môi, ngửa cổ cười sằng sặc : 
- Con mắt... Giết !... 
Ngoài đầu chốt, chỗ Bình và Thành có nhiều tiếng nổ ùng ình dữ dội. Tiếng giặc la ó sòm. Có lẽ chúng đang tổ chức một đợt xung phong lớn. Minh chụp khẩu AK, khoát tay Nhị, chạy len. Giặc đã dùng bộc phá đánh sập một mảng đá đá lớn bên ngoài. Bình và Thành đang lùi lại sau một gộp đá nhỏ, cố thủ. Ngoài kia, chỗ khoảng trống cạnh thềm vực, có thêm mấy xác giặc nằm sõng sượt, giật giãy. Bây giờ đã có chỗ cho bọn giặc buông lựu đạn cấp tập vào cánh trái điểm chốt của ta. Tiếng nổ chát chúa, miểng thép bắn rào rào và khói thuốc ùng mù mịt vào tận chỗ Bình và Thành. Bá từ trong cầm súng chạy lạng quạng ra, miệng phun máu phì phèo và la hét điên loạn : 
- Con mắt... Giết !... 
Rồi Bá lại ngửa cổ cười sằng sặc, kẹp súng vào nách, nhảy lò cò chân sáo. Bá chạy vọt luôn ra chỗ khoảng trống, nơi có lựu đạn địch đang nổ tóe lửa, anh nâng súng bắn từng loạt ngắn vào bọn địch trên sườn dốc. Bắn hết đạn trong băng, Bá mới chịu trở vào. Minh giữ Bá lại. Bá cứ vùng giẫy, la hét điên loạn. Lúc nầy không thể điều Bá trở lại tuyến sau kịp nữa vì giặc đang đánh hơi cay. Minh lệnh cho mọi người lột khăn, cởi áo ra chùm mặt. Bá bứt áo ném vào cửa hang, ngồi im, không la lối nữa. Trong khói mù và hơi cay, Bá sặc sụa, lần mò giương lê khẩu súng của mình. 
Nhiều luồng gió tạt qua, khói mù tan nhanh. Minh chợt thấy ngoài cửa có hàng chục tên lính ngụy đứng nấp sau mấy gộp đá. Một thằng Mỹ cao lêu nghêu, tay cầm súng lục khoát khoát có ý xua bọn ngụy xôn vào. Đầu ten giặc nào cũng có trùm mặt nạ phòng hơi độc mõ dài như mõ heo nái. Bọn ngụy còn thập thò, tên Mỹ như nổi giận, nó vọt tới trước một mô đá, la hét. Minh nâng súng nhưng chưa kịp... 
- Con mắt... Giết nó !... 
Bá vừa thét vừa lao ra cắm phập mũi lê vào giữa bụng tên giặc Mỹ trong lúc nó chưa kịp chiếm xong mô đá trước mặt. Đà lao tới của Bá mạnh quá làm tên Mỹ dội ngược lại mấy bước, như giật mình, nó kêu rú lên một tiếng mẹ đẻ của nó. Cả Bá cũng thằng Mỹ đã loay hoay cạnh mé vực thẳm. Tên Mỹ giơ thẳng hai cánh tay lên trời như đầu hang. Khẩu súng lục của nó văng ra xa. Bá rùng người xuống, cố lấy hết sức mạnh đẩy tới để xeo cho tên giặc Mỹ ngã xuống vực. Nhưng nhanh như chớp, tên Mỹ hạ tay chụp phân đôi khẩu súng AK của Bá, giành giật. Dường như đôi chân của tên Mỹ dính liền với đá. Bá đẩy mãi không chuyển, ngược lại tên Mỹ cứ ôm mũi súng vào bụng cân lên miết, làm cho Bá càng lúc càng nhóng người lên cao hơn. Tên Mỹ rùng một chút, Bá được nâng lên một chút. Mặt Bá day về phía tên Mỹ. Đầu tên Mỹ vì trùm kín mặt nạ nên Minh không nhìn thấy đươc những vẻ co rúm của khuôn mặt nó. Bá cố giằng người xuống, cân sức với tên Mỹ. Hai đằng giàng co quyết liệt. Bỗng Bá thét lên :
- Sát! 
Cả hai cùng lộn nhào xuống vực thẳm. 
Minh thét một tiếng nghe man dã theo quán tính, anh lao ra. Anh em ào ra thanh toán sạch sẽ những tên lính ngụy đang kinh hoàng nấp sau mấy mô đá. Một chiến sĩ hy sinh. Minh xốc xác cậu ta lên vai, hô lớn: 
- Nhị chỉ huy giữ chốt. Thanh, Bình theo tôi! 
Đến chỗ góp đá “ổ cóc”, Minh dừng lại. Để xác chiến sĩ xuống, Minh đứng thở dốc, bảo một chiến sĩ khác đem tử thi vào trong. Lý còn đang nói chuyện với Lướt. Giọng Lý đã đặc sánh mà vẫn cứ khôi hài:
- Một ngàn năm sau có nhà khảo cổ nào đến đây tìm thấy cuốn truyện Kiều  của tao chôn dưới gộp đá nầy, mày nhớ bảo không phải là “Bí kiếp thiên thơ’ của ông Quỉ Cốc, nghe Lướt! 
Minh gạt Lướt ra, bảo Thanh và Bình:
 
- Sắp rút quân rồi, hai đứa nó chuyện với Lý lần chót đi ! 
Thanh còn ngẩn ngơ. Bình chồm lên. Với vẻ mặt hầm hầm như giận ai, Bình cầm cây đàn măng-đô-lin giơ lên cao, hỏi lý : 
- Mày có thấy tao không Lý? Thấy rõ à? Tụi mình phải thanh toán hết cái gì còn để trong bụng nhau, mày có đồng ý không? Tao xin lỗi mày đây! Chuyện hôm qua tao có lỗi với mày nhiều, tao nhận khuyết điểm với mày đây! 
Nói xong, Bình giơ thẳng cánh, đạp cây đàn vào đá một cái bẻ nát. Rồi Bình vớ khẩu AK, cùng Lướt vác khẩu B.40, hai người chạy xồng xộc ra chốt đầu. Minh gọi với theo: 
- Bảo Nhị lùi dần, nghe Lướt! 
Đến lượt Thanh chồm lên. Cô khóc ngất, nói không ra tiếng. Lý bảo vọng ra: 
- Đừng khóc Thanh ! Em nói với anh một lời cuối cùng đi! 
Thanh mím môi, nuốt dồn nước mắt. Hai bàn tay Thanh run rẩy bám vào vách đá, chen vào kẽ đá. Thanh cắn răng như định xé đôi quả núi ra. Mặt Thanh co rúm, méo mó, giãn ra, cằm đưa ra, xĩa tới, mũi thở khì khịt, cố xé cho mảng đá tét ra làm đôi. Mười đầu ngón tay Thanh cào trườn trượt trên đá. Thanh cố nói : 
- Anh Lý! Anh Lý ơi! Anh có nghe tiếng em nói không? Anh cố nghe đây! Ta sắp rút quân rồi. Anh ở lại một mình. Em có lỗi... có lỗi với anh, anh Lý ơi!... 
Tiếng Lý từ trong thét ra :
- Thanh ! Em nghe đây ! Em trong trắng. Em cao cả, không có lỗi gì... 
Ngoài mũi chốt, tiếng đạn B.40 của Lướt nổ nghe đùng oành. Tiếp theo là từng loạt AK nổ giòn xen trong âm thanh mưa đại liên và tiểu liên của địch. Tiếng lựu đạn, tiếng đạn M.79, tiếng bộc phá... Chốt tiền tiêu của phân đội vỡ rồi. 
Lướt và Nhị  vào. Hai người lui dần đến chỗ Minh và Thanh. Nhị bước loạng choạng nhưng cố gượng theo Lướt. Cánh tay trái buông thõng, đầm đìa máu. Minh đỡ lấy Nhị, anh lôi cô ngồi nấp sau một mô đá, băng bó vết thương. Chỉ một mảnh lựu đạn chém thoạt qua bắp thịt ở phần mền. Băng tay cho Nhị xong, Minh hô lớn : 
- Lướt đưa Nhị nhanh vào hang, chuyển qua điện Thầy Sồi ! Bên ấy có cánh Sơn Nâu đang chờ đón. 
Anh quay lại thấy Thanh vẫn còn nằm úp mặt vào tảng đá, dường như cô ngất lịm. Minh gọi lớn: 
- Thanh dũng cảm lên! 
Thanh đứng dậy, loạng choạng: 
- Trời! Tôi làm sao bây giờ? - Thanh quay ra bấu lấy Minh - Anh Ba, giúp em! 
Thanh té quỵ. Lý từ trong thét ra: 
- Thanh! Hãy cho anh một viên đạn... 
Bình và các đồng chí ở chốt ngoài đã lùi vào tới chỗ Minh và Thanh. Minh thét lớn chới họ: 
- Tất cả rút vào hang! 
Nhiều người biến vào sau một gộp đá. Thanh hốt hoảng, loay hoay, kêu réo điên cuồng: 
- Tôi phải làm sao? Em phải làm sao? Anh Ba? Anh Lý ơi!... 
Có một tên giặc lấp ló qua tảng đá phía trước. Minh lao lên chiếm một tử gác để chận hậu cho phân đội. Thanh bậm môi, lên đạn khẩu AK của mình đánh rốp. Cô quên ràng khẩu súng đã có đạn nằm lòng lửa, nên bật văng ra một viên. Theo kẹt đá, Thanh đưa mũi súng vào ngay đầu Lý... 
Một cái đầu đội nón sắt ló lên từ một tảng đá cách Minh mười mét. Anh bấm cò súng. Chiếc nón sắt tung lên. 
Thanh cứ loay hoay bên tảng đá của Lý. Mặt cô ướt vã mồ hôi. 
- Bấm cò đi, ngay trán rồi ! Thanh, bấm cò đi ! 
Tiếng Lý từ trong vọng ra. Minh quát với Thanh : 
- Ta rút đây ! 
Minh nhảy vọt qua, nắm Thanh lôi đi. Khẩu AK trên tay Thanh lọt thỏng vào hang đá của Lý. Một mảnh đạn M.79 chém vào vai Minh đau nhói. 
Giặc tràn tới. Minh và Thanh không kịp vào hang, phải nấp lại một mô đá để phòng ngự. Minh ghìm súng, Thanh rút chốt hai quả thủ pháo. Đạn trái pháo cứ xộ bụi ùn lên mù cửa hang. Mấy tên giặc nhảy vọt qua chiếm mô đá chỗ Lý. Minh và Thanh cắn răng, chờ... Nhiều tên giặc nữa xô lưng ào qua chiếm mô đá chỗ Lý. Minh nâng súng lên và ra dấu cho Thanh chuẩn bị. Bỗng từ trong lòng đá chỗ Lý rọc ra nguyên một băng AK. Có mấy tên giặc nhảy dựng, với tay lên trời bắt chim. Những tên khác nhốn nháo, dồn cục. Khẩu AK của Minh ré lên. Hai quả thủ pháo của Thanh nổ phù khói trước mô đá của Lý. Minh lôi Thanh chui vào hang. Phía sau : súng nổ, lựu đạn nổ... Và cuối cùng là tiếng bộc phá nổ rung rinh cả một góc núi Cô Tô.
Chương 7 
Gần một tuần lễ phân đội "Sáu Mươi" của Minh vẫn bám quanh núi Cô Tô. Họ luôn lách trong hang động hiểm trở để tránh giặc, dưỡng quân. Dường như những đơn vị bộ binh của địch đứng chân chận các mạch giao thông ở đồng nước hầu hết quay trở lên đánh vào núi. Mật độ chiến tranh ác liệt như vậy nên đồng bào ở các khu dồn dân không bám về thăm vườn rẫy được, do đó cánh của Minh vẫn không vận động lương thực được, họ đành ăn rau, trái, củ mà chịu trận.
Bây giờ là thời cơ để trở lại đồng nước tổ chức vận chuyển chuyến hàng về bên kia lộ Cái Sắn. Họ vừa về đến địa điểm cũ thì nghe tin Long đã hy sinh ! Đêm nay vào khoảng tám giờ, cánh Năm Hoa chạy về người ngợm ướt loi ngoi tìm gặp Minh ở khu vực Lung Sình, báo tin những vậy. Thái độ Năm Hoa vừa bộp chộp, vừa lúng túng khó hiểu. Sau khi Năm Hoa phân công ba chiến sĩ về bám khu vực kinh Đường Tắt, nơi căn cứ của đại đội hậu cần, còn lại một mình ở với phân đội của Minh, anh ta mới tường thuật lại sơ lược cho tất cả nghe về việc đụng độ khiến cho Long và một số chiến sĩ hậu cần hy sinh. Chuyện đơn giản thôi. Năm Hoa vừa dẫn cánh của mình rời khỏi khu vườn Tam Giác như Minh và Nhị đã biết, chở chiến thương đi một đỗi thì đụng một cánh quân bảo an ngụy đánh xuyên hông. Anh dắt đơn vị chạy tạt qua cánh đồng Mỹ Hòa, lại đụng nhằm một chi đội xe lội nước của địch chặn đầu. Thế là chiến đấu, thương vong, cánh anh buộc phải di tản xuống lung “chém vè”. Lại một số bị bắt, bị giết... Sau đó Năm Hoa đề nghị Minh với Nhị đưa lực lượng đột vào ấp chiến  lược Mỹ Đông, móc đồng bào nhờ mua gạo. Anh cũng tham gia cùng đi, vì đơn vị anh đang đói meo, còn nằm tại kinh Đường Tắt. 

Năm Hoa là người rất thông thạo vùng nầy. Anh ta có một số cơ sở mật trong ấp chiến lược Mỹ Đông. Theo lời đề nghị của Năm Hoa, Minh và Nhị trao đổi nhau cũng thấy hợp lý. Việc lấy gạo là điều bức xúc của đơn vị mình lâu nay nên Minh vội vã tổ chức một chuyến đi dưới sự hướng đạo của Năm Hoa và Tỷ, một chiến sĩ trong phân đội, có gia đình trong ấp chiến lược ấy. Kế hoạch đi lấy gạo lần nầy do Minh vạch ra cộng với sự góp ý của Năm Hoa. Toàn bộ lực lượng khuân vác tập trung giữa đồn gần ấp, chỉ để Năm Hoa, Tỷ và Bình đột vào, móc bà con cơ sở đưa gạo ra. Khi nhận gạo xong, Năm Hoa tách đoàn mang phần gạo của anh thẳng về Đường Tắt, còn cánh Minh trở lại vị trí của mình. Khai thông cho toàn đơn vị quán triệt ý nghĩa, yêu cầu, mục đích của chuyến đi. Minh truyền lệnh chuẩn bị lên đường. Một chuyến đi gay go, nên Minh tập trung lực lượng ưu tú của phân đội để tung vào thực hiện cho kỳ được công việc phức tạp nầy. Minh trực tiếp chỉ huy chuyến đi. Sơn Nâu, Nhị hai cán bộ phân đội phó cũng có mặt.
Trong đoàn đi có Bình, một con người bao giờ cũng tươm tất. Đột ấp, phải vượt qua bao nhiêu đạn pháo, bùn lầy, thế mà Bình cứ chưng diện. Áo quần giặt giũ sạch sẽ, súng đạn lau chùi bóng loáng. Bình còn mượn mảnh lưỡi lam của Nhị để cạo sơ lớp lông tơ trên mép. Trông Bình cứ như người sửa soạn đi ăn cưới. Có người bạn cười trêu, Bình bảo: 
- Ăn mặc sạch sẽ, nghiêm chỉnh làm mình tăng thêm lòng tự tin. 
Bình đi bên Minh. Nhị, Sơn Nâu, Năm Hoa,Tỷ lên phía trước. Cơn sốt kinh niên trong người Minh lại nóng lên âm ỉ. Da rát bỏng, từng khớp xương mỏi nhừ. Hơi thở của anh bắt đầu ngắn và mạnh. Trời đổ mưa. Nhưng mưa chỉ ào qua tưng luồng nhỏ. Qua hết đoạn lung lầy đến một khoảng đồng hơi bằng, Bình vượt lên thì thào với Minh : 
- Em sẽ xin bà con một ít lưỡi câu và nhợ, độ nầy nước đồng sẫm đỏ, cá lớn lên mặc sức mà câu với kéo. 
Minh không để ý đến câu nói của Bình, anh cứ lầm lũi đi trong trạng thái mệt mỏi chập chờn. Chung quanh đoàn người vẫn là đêm tối mịt mùng, vẫn là cánh đồn xám xịt, ướt sũng, vẫn là bóng tối với vô vàn hình thù quái dị. Chếch hướng đông có vài ánh lửa vật vờ, có lẽ là ánh đuốc hoặc ánh đèn dầu của nhà ai trong ấp chiến lược Mỹ Đông. Mặt đất với chân nép mình vắng lặng, im lìm. Tỷ và Năm Hoa dắt đoàn người đi ngược về hướng tây một đỗi để tránh bãi đậu của bọn xe lội nước của địch, rồi bất ngờ ngoặt thẳng sang hướng bắc đâm mũi ngay vào bờ thành ấp.  Khu vực nầy ngoài Tỷ và Năm Hoa ra, Sơn Nâu cũng biết rành, nhưng Minh thì chưa hề đột vô lần nào, thỉnh thoảng có hành quân ngang anh chỉ trông thấy xa xa. Nói tóm lại, từ vị trí đến phương hướng ở đây Minh phải cố gắng ghi nhận lần đầu. 
Theo phân công, Minh cùng Nhị, Sơn Nâu và một số chiến sĩ dừng lại một điểm ở ngoài đồng để chờ bà con đưa gạo ra cảnh giới phía đồng Mỹ Lâm, phía ấy có một căn cứ địch nằm trên bờ kinh xáng, do một đại đội bảo an đóng giữ. Bọn nầy có một tốp thám báo trên mười tên, thường đêm hay xuất đồn lùng sục và ăn ngủ luôn trong ấp. Bọn trong căn cứ, khi nhận được điệp báo có lực lượng ta đột nhập, chúng liền xuất quân phối hợp truy đuổi. 
- Bình và Tỷ cùng tôi đột vào ấp, hai cậu ấy bố trí mặt trên phòng tụi thám báo luồn lũi bất tử. Sau đó tôi liên hệ lấy gạo xong, cho Bình và Tỷ hay cùng tập trung đưa gạo ra chỗ Minh để mang về. - Nín lại, Năm Hoa bứt một cọng cỏ đưa vào miệng cắn cắn rồi phun phèo phèo trong đêm - Nếu đụng giặc, nhóm nào nấy tự lực. Điểm tập kết chỗ cây chòi mòi lớn trên bờ đìa mà hồi nãy tôi có chỉ. - Không nghe ai có ý kiến gì, Năm Hoa đứng dậy khoát tay - Đi ! 
Bình và Tỷ theo Năm Hoa đột vào ấp chiến lược Mỹ Đông. 
Để Nhị đứng canh ở đầu quân, Minh giữ chừng mặt ngoài đường, vì theo lời Năm Hoa bảo là nên chú ý mặt nầy. Tình hình có động chúng thường đưa một mũi vòng ngoài ruộng chận đường rút của ta. Sau đó một giờ, trời lại đổ mưa. Trận mưa ào qua thật lớn rồi tạnh. Minh ôm súng ngồi co ro trên một nắm đất có lẽ đây là một gò mả lạng của ai. Gió thổi tạt ngang. Cơn gió lạnh cắt ruột ập vào người làm quai hàm Minh đập vào nhau lập cập. Chó trong ấp sủa vang, cứ như tất cả chúng chực nhảy xô vào cắn nhau với bóng đêm, gió vẫn thổi. Minh cố cựa quậy để chống lại cơn lạnh tê dại cả người. Có lẽ trong đời, anh chưa bị một cơn lạnh nào hành hạ như đêm nay. Do mệt mỏi và tiếng gió xao xác trong cỏ dại, đầu Minh ù lên, tai thoang thoảng như có tiếng người nói lao xao ở đâu... 
Đợi thêm một lúc khá lâu, Minh bỗng nghe có tiếng người lao xao trong đêm từ phía ấp chiến lược. Với tinh thần cảnh giác, anh cho lực lượng triển khai theo đội hình chiến đấu. Chốc sau, Minh nghe ngóng, quan sát cẩn thận và anh đánh tín hiệu với đám người kia. Minh thấy họ đáp lại đúng qui định. Anh lên tiếng gọi khẩu ám. Đằng khai đáp đúng. Thế là hai bên cùng xáp lại, những túm gạo được chuyển qua vai nhau. Rồi một tốp vội vã rút ra căn cứ, một tốp quay trở về ấp chiến lược. Minh ra lệnh cho anh em phải tải gạo về là chính. Có gặp trường hợp nào thì cũng phải bảo vệ gạo và đánh tháo rút về tập kết tại tàng cây chòi mòi đã qui định. 
Minh thấy Năm Hoa vai quảy một túm gạo bước đi khệnh khạng, anh bảo: 
- Này! Hay nghỉ tại phân đội mình đêm nay, sáng mai sẽ về Đường Tắt? 
Năm Hoa khoát tay, anh ta đã tách đoàn, đi một mình về hướng Đường Tắt, nói lui lại: 
- Yên chí! Mình về có việc gấp. Phân đội cứ y đường cũ mà trở lại chỗ tàng cây chòi mòi trên bờ đìa ấy. 
Và Năm Hoa mất dạng trong đêm. Minh nghĩ: “Sao đêm nay anh ta tích cực quá! Một điều mà lâu nay mình chưa thấy bao giờ. Hay là anh ta biết hối lỗi những hành động vừa qua của mình? Cũng có thể anh ta cố gắng tích cực lên để chứng minh là mình không có gì quan hệ đến Mười Tiếu, tên anh em cô cậu đầu hàng phản bội ấy?” 
Minh ngẩng lên hít khí trời đêm một hơi dài rồi thở ra. Anh lắc đầu quay lại đuổi theo đơn vị. Minh gặp Nhị, hỏi: 
- Anh em có đủ mặt chưa? 
- Có. Em cho Bình và Tỷ vượt lên dẫn đầu. Đi về Gò Tranh chứ không đến tàng cây chòi mòi. 
- Sao lại vậy? 
- Sẽ báo với anh sau. 
- Thôi, được ! Nhị theo sát anh em, để anh đi đoạn hậu.
Nhị cũng vọt nhanh lên, lẫn khuất trong đêm. Minh cứ nghe tiếng chân người đi phía trước mà lần theo. 
Đoàn đi bộ, đi độ hai mươi phút, bỗng Minh thấy phía trước có một chớp lửa lóe lên chói mắt. Mìn lay-mo nổ ! Anh cắp súng chạy lên định đánh thốc vào hông địch để gỡ rối cho anh em. Nhưng vừa chồm lên vài mươi mét Minh liền bị một luồng gió nóng bỏng quạt thẳng vào mặt, làm anh bật ngửa. Tên giặc nào đó chỏi ẩu vào Minh một loạt M.16. Lăn qua một vòng, Minh nâng súng lên quạt trả nguyên băng. Có mấy tên giặc tháo chạy, nhảy xồn xộn xuống một con mương. Bây giờ có hai luồng đạn đa chéo cánh sẻ vào Minh. Minh lùi lại một đỗi, gặp Nhị đang ngồi bẹp trên đất, nâng súng bắn từng loạt ngắn về phía giặc. Đạn AK của các chiến sĩ ta cũng đang quạt trả quyết liệt về phía địch. Thế là ta ngộ chiến rồi, phải rút nhanh theo đơn vị. 
Minh khom xuống định lôi Nhị đi, nhưng anh bị cô hất ra: 
- Anh đi trước, em chận hậu. Đơn vị ta đã rút lui an toàn rồi. 
- Bị thương à? 
Minh ngồi xuống bên Nhị. Nhị thì thào: 
- Bị vào bàn chân. 
- Đâu?... 
Minh quàng lấy Nhị, xốc cô lên vai, bước đi. 
- Đạn bắn thấp, phải toài! 
Minh nằm xuống, câu ngang người Nhị, bò đi. Một tay cầm súng, một tay lôi Nhị rất bất tiện. Thân hình Nhị ướt sũng, nặng tuồn tuột. Với kiểu nầy cứ xà nhẹo hoài không tài nào chạy thoát được. 
Hai người đã bò hơn một phút mà không xa quá mấy mét. Nhị vùng ra: 
- Buông ra nào! 
- Không! 
Minh chợt nhớ: Nhị bị thương ở bàn chân, chạy không được chứ bò sao lại không? Vì quýnh quá anh lôi Nhị đi cho mau. Minh cười: 
- Thôi thì bò. 
Hai người bò hàng dọc, nằm dán người trên mặt đất, hai tay cầm súng đưa ra phía trước, họ chỏi cánh tay nương tới. Nhị trước, Minh sau. Mật độ hỏa lực của địch thế nầy Minh và Nhị khó sống sót một khi Nhị không bị thương. Do đó bọn giặc dự tính sai lầm, chúng cứ bắn đuổi theo tốc độ của người lành mạnh chạy tháo thân. Đạn bay qua đầu hai người, phà hơi nóng hầm hập, nhưng cứ cắm về phía trước. Đánh nhau có cái rủi mà cũng có cái may. Rủi vì chân Nhị bị thương nên hai người cứ ì ạch chậm chạp vậy hóa hay. Toài thêm được vài mươi mét, hai người lọt xuống một khoảng ruộng nước xâm xấp. Rồi dần dần nước sâu độ khoảng một gang tay. Nhị mệt nhoài, người cứ lắt lư chậm chạp. Minh chồm tới, cầm bàn chân Nhị đẩy tiếp. Làm kiểu nầy trông cũng khá. Minh lại tiếp tục. Lần nầy anh nắm nhầm chân phải của Nhị mà đẩy tới thật mạnh. Nhị rú lên thất thanh, toàn thân cô buông thả, mặt úp xuống nước. Quýnh quá, Minh bật dậy, xốc Nhị lên. Thân thể Nhị mền nhũn, mũi thở è è tựa một người phụ nữ lên máu sản hậu. Đạn giặc bắn thấp quá, Minh nằm xuống, gác đầu Nhị lên đùi mình. Chốc sau, Nhị rên khe khẽ, quờ tay nắm lấy Minh: 
- Anh làm động bàn chân mạnh quá. - Nhị định ngồi dậy, nhưng bị Minh đè xuống. Cô tiếp - Ta có thể bị giặc bắt sống không anh? 
- Chuyện đó thì... nhất định là không. Minh cười, vỗ vào khẩu súng - Ta còn đạn, hết đạn còn lê. 
Nhị cười, rướn người nằm gối đầu sâu vào bụng Minh : 
- Cho em nghỉ một chút nghe ! 
- Yên chí! 
Nhị lắc đầu, nhùi nhụi mặt vào bụng Minh. Minh sờ mặt Nhị, anh vụt kêu hoảng: 
- Sao lạnh toát thế nầy? 
Nhị lặng thinh. Tiếng súng của địch thưa dần. Bây giờ chúng mới bắt đầu truy kích. Một pha xáp lá cà, đâm lê lộn nhào trên bãi cỏ hiện ra trước mắt Minh, rùng rợn quá ! Một người con gái nằm quằn quại, bất lực. Gương mắt nhìn một tên giặc hung hăng cầm súng đấu có gắn lê xộc thẳng vào giữa ngực mình. Minh bỗng giật thót, chới với. “Không ! Tương quan trận đấu như vậy ta chỉ còn chấp nhận lấy cái chết. Không. Phải sống! Phải chiến đấu đến cùng”. 
Minh nhẩm tính lại tất cả những vũ khí của mình còn trong tay để đối phó với quân thù, loại nào là lợi hại nhất: tinh thần! 
Minh đứng dậy định xốc Nhị lên vai, nhưng bị cô giằng xuống: 
- Chúng sẽ bắn ngã! 
Thế là hai người tiếp tục bò đi. Làm cách nào cho Nhị bò được nhanh hơn? Nhị cứ loi ngoi như một con ễnh ương no nước thế nầy nhất định hai đứa không thoát. Bọn địch đã đuổi theo, kêu la í ới. Minh nảy ra một sáng kiến, anh trườn tới trước, nắm tay Nhị đặt vào lưng mình : 
- Nắm chắc vào thắt lưng ! 
Hai người cùng trườn tới như một chiếc tàu kéo ghe. Làm như vậy lại hóa hay, tốc độ tiến lên nhanh rõ rệt. Mặc dù vậy vẫn còn cái gì vướng vít, Minh đề nghị : 
- Nhị quàng súng lên lưng, chồm tới nắm cả hai tay vào anh. 
Hai người lại trườn lên được vài mét nữa, mỗi lúc nước dưới bụng một cạn dần. Thật tai hại ! Minh và Nhị đã qua hết một vũng quằn của mặt đồng. Đến chỗ mặt bùn nhão, chiến thuật “kéo tàu ghe” của họ không còn tác dụng nữa. Tiếng giặc truy đuổi thúc sau lưng. Nhiều ánh dèn pin quơ loang loáng bên kia vạt ruộng quằn nước. Lợi dụng lúc địch bắn thưa, Minh đứng dậy xốc Nhị chạy một mạch lên gò khô. Đến một thảm cỏ thấp, để Nhị xuống, anh lấy lại hơi thở và nâng súng lên định bắn. Nhị giàng tay Minh xuống : 
- Nổ súng là tự sát ! 
Nhị nói đúng. Địch cách ta không quá năm mươi mét trên mặt đồng trống như ván, nổ súng chẳng khác là mời chúng phát hỏa tập trung vào mục tiêu. Trong lúc giặc chưa nhìn thấy, họ còn nhiều cách để rút lui. Minh xốc Nhị lên, chạy nữa. Nhưng Nhị bảo: 
- Anh cứ để Nhị lại đây! 
- Tại sao? - Minh nổi giận đến sôi máu. Nhị dẫn giải:
- Đừng để phân đội hy sinh một lúc hai cán bộ chỉ huy. 
Minh không còn giữ được bình tĩnh nữa, xốc Nhị lên, bồng ngang cô tựa con mèo tha con chuột. 
Nhị vùi mặt vào ngực Minh, nấc lên. Minh cũng nghe ngực mình đang đau nhói, đầu óc anh vụt sáng rực ra. Anh bồng Nhị chạy cấn sang phía phải, theo bìa thảm cỏ một đỗi rồi ngoặt trở lại tạo thành đường gấp chữ V. Bây giờ trời lại đổ ào xuống một trận mưa thật lớn. Minh chạy như vậy tốn rất nhiều sức lực và thời gian, rốt cục anh cũng trở lại ngay mũi quân địch đang càn tới. Mặc dù vậy anh đã có mưu tính, yên tâm và chủ động lừa địch. Minh để Nhị xuống, hai người cách địch chừng ba mươi mét. Trời càng lúc càng mưa lớn. Bọn địch đã vượt qua vạt ruộng quằn, chúng đang soi đèn pin tìm dấu vết. Có vài tên giặc quát nạt vu vơ, kêu gọi đối phương đầu hàng. Minh rút chốt một quả lựu đạn M26, ngồi chờ. Bọn giặc chần chừ một chút, có một tên ra vẻ chỉ huy, hất đèn pin về phía phải, hô lớn : 
- Bọn nó chạy lướt cỏ về hướng nầy, đuổi nhanh theo ! 
Cả lũ chạy ào theo hướng ấy, và hàng loạt súng nổ vang lên. Đã đúng ý đồ, Minh đứng thẳng dậy, nghiêng người che khuất tia chớp kíp nổ, anh vung tay ném trái lựu đạn thật mạnh về phía phải. Một quả M26  tròn và nặng thế nầy, Minh ném đi xa không dưới bốn mươi mét. Quả lựu đạn bay bổng qua đầu bọn giặc, nổ chồm về phía trước mặt chúng. Bọn giặc đã bị Minh đánh lừa, cứ ngỡ là đối phương từ phía chính diện ném lại nhưng lựu đạn chưa bay đến đúng tầm. Vì thế bọn cứ hô hào và nổ súng, tiến tới mãi. Minh thư thả xốc Nhị lên vai chạy ngược hướng tiến của giặc. 
Và trời cứ tiếp tục mưa. Ít gió, hạt mưa lớn và nặng. Một lúc Minh nghe chân mình sụt dần xuống mặt bùn. Nhưng vẫn còn may, lớp bùn nhão chỉ ná trên mặt đất khá cứng, bước đi không bị thụt sâu lắm, thường vẫn còn nhấc chân bước được, chỉ đôi chút vướng vào đường rãnh của dấu xích xe lội nước địch, bùn mới lún xuống tới gối. Qua khỏi vũng bùn, Minh men theo một vạt cỏ bắc nhám nhúa. Mưa bắt đầu yếu. Bầu trời có sáng hơn đôi chút. Bóng đêm mười ảo, xám xịt; chung quanh giãn ra xa hơn. Gió bắt đẩu thổi. Minh đã bỏ bọn giặc xa hơn hai trăm mét về phía sau, và dường như chúng đã bị mất dấu, cứ tìm kiếm loanh quanh một chỗ. Cố đi thêm chút nữa, khi chắc chắn giặc không còn đuổi, Minh để Nhị xuống. 
Mưa ngớt hột. Gió lạnh thấu xương. Minh đứng lom khom để xác định phương hướng. Trên trời không một vì sao. Bóng những rặng cây khuất trong màn đêm mười mịt. Phía nào đó, còn có mấy ngọn đèn lắt lay, không biết là ở một xóm nào xa tít. Minh và Nhị đã hoàn toàn lạc mất phương hướng. Thế nào thì mặc, Minh xem lại vết thương của Nhị cái đã. Bàn chân phải của Nhị bị một mũi chông đinh xuyên thủng, đầu nhọn của mũi chông còn ngậm trong gan bàn chân, chưa trổ thấu lên phía trên. 
- Nó chạm gân thế nào ấy, cả chân em bị tê liệt hẳn rồi. 
- Để anh cõng đi vậy. 
Minh kề vai cõng Nhị đi tiếp. Khẩu súng của Nhị quàng ngược ra sau nhưng yếm đạn cứ cấn vào lưng Minh. Anh cõng Nhị tựa trẻ con cõng em. Chân Nhị buông thõng, kéo lếch thếch trong cỏ. Chốc sau Nhị đề nghị Minh thả cô ra. Rồi Nhị bám vào vai anh nhấc cò cò đi thử. Cũng không ổn. Thế nầy hai người cứ lấn quấn nhau đến sáng cho giặc phân thây à? Không còn cách nào khắc phục được sao? Nhị đứng tần ngần trong bóng đêm, im lặng một lúc khá căng thẳng. Rồi cô xẵng giọng ra lệnh cho Minh: 
- Để khẩu súng nằm nghiêng xuống đất xem! 
Mặc dù chưa biết để làm gì, nhưng Minh riu ríu chấp hành lệnh Nhị. Hai tay Nhị bợ vào nhượng chân Minh, dở lên, Nhị cân sức quyết liệt tựa một đấu thủ thi một câu vật. Đùi chân phải Nhị bật lên, cô dùng hết sức nặng của cơ thể để cân bàn chân gác lên báng súng đang để nằm nghiêng dưới đất. “Ái ôi !” Một tiếng kêu dội nôn nao lồng ngực Minh. Nhị lộn nhào. Minh vội ôm Nhị đỡ dậy. Nhị quằn quại, run giần giật người và chết ngất trong vòng tay Minh. Mũi chông sắt ở bàn chân Nhị, cả ngạnh bén xuyên thủng lên phía trên bàn chân, Minh phải giải quyết nhanh. Người đang chết ngất, cơ thể chưa thấm đau, như thể được gây mê vậy. Minh gấp rút lấy một viên đạn AK cắn bẻ đầu nhọn, trút ra hết thuốc, dùng miệng bì đạn tra vào đầu mũi chông. Một tay Minh kềm cứng thân cây chông, một tay cầm bì đạn, anh nạy liền mấy cái, mũi nhọn của cây chông mới chịu gãy ngang ngạnh bén. Một dòng nước âm ấm chảy nhớp nháp từ bàn chân Nhị truyền sang bàn tay Minh. Anh biết chắc chắn đó là máu. Minh chợt nhớ ra chiếc khăn tay mà Nhị kỷ niệm cho anh, lâu nay anh còn cất kín trong ngực áo. Minh dùng vạt áo lau quanh bàn chân Nhị rồi lần túi lấy khăn tay băng cho Nhị. Lúc nầy Nhị đã tỉnh lại. Ngồi nghỉ một chút, hai người lại tiếp tục đi. Minh bảo Nhị sửa yếm đạn cho quay lại sau lưng để anh cõng khỏi bị cấn vào vai. 
Đêm tối mênh mông. Những ánh đèn phát hiện lúc nãy đã tắt ngấm đâu mất. Không còn trông thấy nữa. Hai người không biết phải đi về hướng nào. Mải loay hoay, họ không để ý toán giặc đuổi theo mình nãy giờ đang ở đâu. Chắc chúng đã bỏ về rồi. Bây giờ họ phải đi về tàn cây chòi mòi, nơi điểm tập trung mà Năm Hoa lúc đầu hôm có quy định. Minh nghĩ nó đang ở gần đâu đây, cứ đi hướng nầy là tới. Đi trên con đường không quen thuộc thường có ý nghĩ như vậy. Quãng nào còn nhớ mập mờ ta cảm thấy con đường ấy rất gần. Minh cứ đi, mặc dù Nhị đang nằm vắt ngang vai, anh lần bước đi mỗi lúc một nặng nề. Nhiều luồng gió tạt đến dữ dội. Gió quét rin rít qua mặt đồng cỏ thấp dưới chân. Đường đi càng lún sâu xuống bùn nhão. Cơn sốt lạnh bây giờ đang chuyển qua sốt nóng. Ngược lại, thân thể Nhị trên vai Minh thì lạnh toát. Nhị cựa mình, bứt rứt khó chịu. Cô đề nghị dừng lại nghỉ. Nhị nấc lên như nuốt cục gì trong cổ : 
- Anh à, nếu không có em thì anh đã đi xa rồi. Ta hãy đi về hướng Gò Tranh, nghe anh ! Đừng đi đến tàng cây chòi mòi, có hại... 
- Đừng nói xúi quẩy. 
Minh bụm miệng Nhị lại giả vờ như giỡn để cô bỏ đi ý nghĩ ấy. Nhị sờ trán Minh, tiếp: 
Anh lại chuyển sang sốt nóng rồi? 
- Em thì đang lạnh khủng khiếp, có biết không? 
Hai người ngồi lặng thinh, họ không thừa nhận cũng không chối cãi. Tay chân Minh mỏi nhừ, từng khớp xương nhức nhối, hơi nóng trong mình anh tràn ra đôi mắt và đôi tay. Sống lưng và xương cổ của anh nghe uể oải sắp gục. Minh sẽ gục thật, nếu không vì anh đang căm giận cái bờ đìa có tàn cây chòi mòi chó má kia nó cứ lẩn trốn trong đêm. 
Minh lại bồng Nhị đứng dậy, đi tiếp. Cả hai khẩu súng và yếm đạn anh quàng ngược ra sau lưng, một tay luồn dưới vai, một tay xốc dưới hai nhượng chân Nhị, bước đi một cách lưỡng thưỡng. Nói bồng chứ thật ra là “tha” - con mèo tha con chuột cống có sức nặng ngang bằng với mình - Minh bước đi chậm chạp, đòng đưa, lử thử. Chợt nhớ lại một câu chuyện cũ, Minh vụt bật cười: 
- Anh cười gì? 
- Nhớ hồi nhỏ anh cùng cha ra một bờ đìa ngoài hậu đất để tìm con heo nái đang đẻ. Đến nơi, thấy một con chim gà đãy đã nuốt trọng ba chú heo con vào bầu diều. Con gà đãy thấy anh và cha đến, nó tốc chạy. Vì cái bầu diều của nó nặng nên nó không bay nổi. Cha và anh rượt, nó bỏ chạy đòng đưa như điệu bộ của anh bây giờ. 
Nhị cười, đưa tay sờ lên trán, lên má và vuốt mớ tóc ướt sũng nước trên đầu Minh. Bàn tay Nhị lạnh tựa ngâm nước đá. Có lẽ do bàn tay lạnh giá truyền sang làm dịu bớt cơn sốt nóng đang lên của Minh. Anh nghe trong người khỏe lại đôi chút. 
- Người Nhị lạnh quá! Tay cũng lạnh. - Minh hỏi - Chỗ chân đau đưa ngược lên thế nầy, đỡ chứ? - Nhị đồng ý. Minh lại tiếp - Mỗi lần anh bị cá ngát đâm vào chân, phải treo ngược nó lên mới chịu nổi cái nhức nhối của nọc cá hành. 
Đi thêm một chút nữa, Minh thấy mệt nhiều. Hơi thở anh phì phò bên cổ Nhị. Mắt anh sắp hết thấy đường, bước đi loạng choạng chỉ chực ngã. Minh nói đùa : 
- Nhị để bàn tay lạnh lên cổ anh cho nó hút bớt hơi nóng ra chút nào đỡ chút nấy ! 
Nhị ngỡ thật, áp hai tay mình lên cổ, lên má Minh. Cơn sốt nóng của Minh có đôi chút dịu bớt. Nếu không thật như vậy thì nó cũng có cái gì êm dịu làm Minh thấy dễ chịu. 
- Em nghe lạnh đến khủng khiếp ! - Nhị nói - Lạnh trong xương sống lạnh ra, nhờ có hơi nóng của anh truyền sang thấy đỡ. 
- Anh cũng vậy, cũng nhờ... 
Minh trượt chân té quỵ xuống bùn. Tai và mắt anh không còn nghe thấy gì nữa. Hai khẩu súng, hai yếm đạn đè lên lưng, Minh ngồi bẹp, gục đầu lên người Nhị, thở hồng hộc : 
- Cho anh nghỉ mệt chút nghe ! 
Mệt mỏi, đói khát mấy ngày qua làm cho anh kiệt sức. Đầu anh ù lên hỗn độn. Một thứ tiếng động mơ hồ nào đó xao xác loáng qua. 
Minh bật dậy, lầm bầm nguyền rủa như một người mê sảng : 
- Cái cây chòi mòi quỉ quái kia, mày lẩn trốn tao. 
Nhị vỗ tay vào gáy Minh, cô gọi, và cứ gọi :
- Anh ! Anh ơi ! Anh ! Dậy đi thôi  ! Anh nói gì lảm nhảm vậy ? 
À, ra mình đang nói trong mê. Minh xốc Nhị lên, đứng dậy đi. Đi một đỗi lại quỵ. Lại đứng dậy đi. Lại vài bước, té quỵ. Lại ngượng dậy, đi. Lại té... 
Nhị run cầm cập. Minh nóng bừng bừng. Giữa cánh đồng bùn lầy và cỏ dại, họ lịm đi trong hôn mê. Lúc choàng dậy, nhìn lên, Minh thấy có mấy vì sao hiện lù mù trên vòm trời. Tiếng gà gáy eo óc đâu đó làm anh phải ngó quanh để tìm định hướng. Đầu óc Minh đã tỉnh táo nhưng cơ thể anh vẫn còn mỗi nhừ. 
Bỗng Minh muốn reo lên thành tiếng, vì anh vừa nhận ra một vầng trăng mỏng manh tựa vỏ nghêu treo dàng dạng trên một vệt đen mấp mô đậm hơn đêm tối, bò ngang chân trời. Đó là một giăng cây xa xa. Tiếng gà gáy là phía ấp chiến lược Mỹ Đông. Trăng! Thấy nó Minh tưởng chừng như có thêm một người thứ ba đến nhận chung số phận với anh và Nhị. 
Nhị còn ngủ say. Chốc chốc toàn thân Nhị run giật, rên ư ư trong mơ. Minh nghiêng tai sát vào mặt Nhị để lắng nghe hơi thở bệnh hoạn của cô. Trán Nhị, nhiệt độ đã trở lại bình thường. Trong bóng đêm, mặt Nhị trông nhợt nhạt dễ sợ. Minh lay Nhị dậy. Nhị giật mình, người run bắn, chới với. Rồi Nhị từ từ mở mắt ra và mỉm cười. Nhị bảo là toàn thân đang mỏi nhừ, quai hàm rã rời và mắt chỉ còn nhận được bóng dáng lờ mờ.
Minh đề nghị đi tiếp. Nhị bảo: 
- Tùy anh. Em bây giờ chỉ là một cây thịt còn cử động nhẹ thôi, tuy vết thương bớt nhức. 
Minh bồng xốc Nhị lên, bước đi. Được vài chục mét, anh nghe bùn dưới chân lần lượt bớt nhão. Cứ ngó chừng theo hướng có vệt trăng mà đi. Đi một đỗi, Minh dừng lại, anh bàng hoàng tưởng chừng sắp đánh rơi Nhị xuống đất. Và Minh ngồi xuống, thở dài thườn thượt: 
- Đằng đông đã đâm mây ngang rồi! 
Nhị hiểu ngay nỗi cực kỳ bất lợi đến với hai người, cô buông xuôi theo Minh một câu tuyệt vọng: 
- Thế là hết rồi... 
Nói xong, Nhị trở mình, úp mặt vào ngực Minh khóc tức tưởi. Nước mắt Nhị xoáy riết vào tim anh đau buốt. Anh vuốt tóc Nhị, an ủi: 
- Chúng ta có khốn đốn đến tuyệt vọng đâu, sao Nhị vội mất tinh thần? 
- Không phải em mất tinh thần. - Nhị khó rấm rức - Tại em, tại em hết thảy. - Nhị ôm cứng Minh một chút rồi buông ra - Anh đi đi! Đằng nào hai đứa cũng phải hy sinh một, đừng bận bịu mà mất cả hai. 
Minh lắc đầu: 
- Không được, không đời nào anh lại bỏ em lại đây. 
Suy nghĩ một chút, Minh bảo : 
- Anh đi tìm một địa hình nào đó có thể “chém vè” được cho ngày mai. Nhị nằm đây chờ, nhớ giữ đừng ngất để nghe anh gọi.
Minh đỡ Nhị nằm ra đất, anh đi. 
Minh chạy một mạch rồi dừng lại quan sát bốn phía, rồi lại chạy. Tại sao vẫn cứ đồng trống mênh mông? Lúc Năm Hoa dẫn đi, thỉnh thoảng có một chòm cây hoặc vài cái lùm rậm trên bãi tha ma, tại sao bây giờ tìm mãi không ra? Minh tiếp tục chạy và quan sát. Vài phút sau anh vấp phải một rãnh xích xe lội nước, dấu bùn còn mới tinh khôi. Chúng mới chạy qua hồi chiều nầy. Minh khom người chạy theo dấu xích xe, để về hướng đông. Được một quãng, Minh lại nằm xuống xem xét bốn phía. Trước mặt anh có một bóng cây lờ mờ. Minh ghìm súng nhè nhẹ men tới. Nơi ấy rực lên một đốm lửa, dường như có ai đang đứng hút thuốc. Minh mừng thầm: “Có thể đây là tàn cây chòi mòi, các bạn còn đứng đón mình”. Đốm lửa lại lóe lên lần nữa. Minh hơi hoài nghi, anh ngồi lại thận trọng phán đoán: “Người đứng hút thuốc không bao giờ đầu đóm cao hơn ngọn cây và cạnh bờ đìa có mà cây chòi mòi không có dấu xe lội nước, lại nữa sắp sáng, các bạn không thể ở lại, vì làm vậy không khi nào về kịp”. Ba điều nghi vấn mà Minh đặt ra cho “tàn cây chòi mòi” trước mặt Minh. Và Minh nhớ lại lời Nhị bảo: “Đừng đến tàn cây chòi mòi, có hại... ” nghĩa là có ý gì?...
Cẩn thận hơn, Minh chìm súng, men lần đến. Tiến thêm mươi mét, anh chợt thấy có vật gì trăng trắng nằm trên đất. Sờ thử: bọc cơm sấy! Minh mừng rơn, lượm bọc cơm cất đi. Thế là đóm thuốc đằng “tàn cây” lại lóe lên, và có tiếng húng hắng ho. Bây giờ Minh mới cảm thấy có mùi khói thuốc ru-bi, mùi dầu za-đôn, mùi lạnh của thép và mùi khét của lính ngụy. Rõ ràng là một tên lính ngụy ngồi trên một chiếc xe lội nước canh gác và hút thuốc. Minh quay trở lại, vừa đi vừa nghĩ: “Mình bế tắt thật rồi sao?” Không! Một tiếng vang âm thầm như một mệnh lệnh. Minh cắm đầu chạy một mạch. Phải tìm một lùm cây, đám cỏ nào thật um tùm để “chém vè” cho qua một ngày sắp tới. Bám vào gần vùng địch chúng càng sơ hở. 
Minh chạy một đỗi đến vùng khô ráo. Và rồi anh chạy đến một vạt ruộng gò, có nhiều cỏ địa lên tới gối. Ngồi xuống sờ thử, toàn là cỏ ống và cỏ tranh. Cỏ tuy không cao nhưng rất nhiều ủ khô. Minh thở phào nhẹ nhõm, “Hai đứa chém vè vào đây sẽ sống mọc râu”. Minh vội vã quay trở lại chỗ Nhị đang nằm chờ. 
Trời đã hừng đông. Màu hột gà và màu tím than tranh nhau vạch nhiều lằn ngang dưới vầng trăng mỏng. Đám xe lội nước của địch đang rù máy định đi đánh một điểm nào. Đặt Nhị ngồi trên đám cỏ khô, Minh vẫn chưa thỏa mãn, anh định tìm một nơi nào lý tưởng hơn. Nhìn xa về hướng ấp chiến lược Mỹ Đông, dường như có nhiều bụi cây lúp xúp. Minh lội đến. Những chòm cây muối lòa xòa. Phía trước có một mô đất nhô cao, Minh đến xem. Không phải mô đất mà là hai cái mả. Đầu mả day ra phía xấp, mỗi cái có khoét hõm vô xây mộ chí bằng xi măng hình con bướm nằm đâm đầu vào nắm đất. Kiểu mộ của những Hoa kiều. 
Lần đến một gốc cây me keo lớn, phải vạch nhiều chà gai, Minh thấy trong đó dường nhức một túp chòi hoang. Đến xem, anh mới biết đó là một ngôi mộ gạch xây đã cũ, bên trên mọc đầy cỏ tranh. Đêm đã sáng màu lãng mạn, mọi thứ bày ra lờ mờ. Minh đi vòng ra sau ngôi mộ gạch. Phía nầy tranh ủ phủ xuống sùm sụp như một mái rơm, có thể len người vào nằm ém rất tốt. Dùng bá súng ướm thử vào vách mộ, Minh vụt mừng quính! Không phải ngôi mộ. Đây là chiếc kim tỉnh xây bán lộ có cửa vào, mộ chưa chưa chôn người. Thế nầy thì tuyệt trần đời! 
Nắng lên. Nắng sau một cơn mưa, nắng khá trong vào ấm. Mọi thứ tiếng ồn ào của ngày bắt đầu. Tiếng rú của xe lội nước, tiếng súng đại bác, tiếng mìn, tiếng bom, tiếng máy bay...  Tiếng chim kêu chim chíp, tiếng cúm núm gù nghẹn ngào, tiếng dế ngân nga rỉ rả, tiếng người kêu réo nhau ngoài đồng khơi... Minh và Nhị nằm sát bên nhau trong chiếc kim tĩnh. Nhị đang trong tình trạng hôn mê. Dưới lần tấm vải mủ là lớp bùn nhảo của chuột đùn ra lâu ngày quyện với cỏ mục. Bên trên, chung quanh - trừ phía cửa vào - là những bức tường cũ hồ vữa đã rữa nát bày ra sống cạnh của những viên gạch loang lở. Mùi đất ẩm, mùi cỏ mục, mùi phân chuột cống cộng với mùi xác chết của một con gì xôn lên hăng hắc, nồng nồng. Ban đầu có lẽ vì lạ hơi, những con mò, con kiến chung quanh lũ lượt kéo ra bu cắn ngứa náy làm Minh khó chịu, dần rồi cũng quen. Nằm đây, Minh rất yên chí. Anh nảy ra một ý nghĩ khá khôi hài: “Hai đứa đã nằm dưới đáy mộ rồi còn sợ cóc gì mọi thứ trên đời?” 
Chốc chốc Minh phải nhổm dậy vì Nhị hay kêu ú ớ trong mơ. Trong lòng mộ rất hẹp, anh phải để cho Nhị nằm ngửa xuôi tay, thẳng chân thoải mái. Minh chỉ được nằm nghiêng người, lúc trở qua bên nầy, khi trở qua bên kia, chân tay mỏi rã. Nhị thỉnh thoảng co rúm người lại, giật giãy tê tê, mũi phát ra những tiếng kêu hừ hừ không chủ động. Minh cứ phải đặt tay lên trán, lên người Nhị để kềm chế cô qua những cơn hoảng hốt ấy. Nhị trở chứng sốt nóng. Có lẽ vết thương của cô đã nhiễm trùng. Minh lần mở chiếc khăn tay băng chân Nhị ra xem. Một bàn chân mất máu xanh nhợt như chân người chết. Vết thương không sưng lắm nhưng tím bầm, dấu xuyên chênh chếch giữa gan bàn chân; miệng phía dưới bầm đen một quầng lớn bằng đồng xu. Minh dùng vạt áo Minh lau lớp bùn nhớp nháp quanh chân Nhị rồi giũ chiếc khăn băng lại. 
Nhị cựa mình, mở mắt. Ánh mắt Nhị ngơ ngác có pha chút dò hỏi. Chốc sau cô mỉm cười: 
- Có lẽ ta được hưởng thêm một ngày trời nữa, hở anh? 
- Đúng ! - Minh cũng cười - Nhưng một ngày nằm trong lòng mộ chưa hẳn là một ngày của trời. - Nhị bật cười. Minh lại tiếp - Có điều muốn hưởng trọn ngày ấy thì Nhị cố giữ đừng bật ra những tiếng kêu bất ngờ. 
- Em sẽ cố gắng. Nhưng anh giúp em. Trường hợp em không tự chủ được anh cứ bụm miệng lại, hoặc nùi cỏ khô tọng vào. 
Minh vui đùa: 
- Anh không nỡ bóp mũi cho Nhị chết, vì những lúc ấy phần nhiều Nhị kêu bằng đường mũi và dường như có gọi tên anh. 
- Tai hại thật ! 
Nhị hiểu lầm rằng Minh có ý trách mình. Cô thở ra, tủi thân, rân rấn nước mắt. Minh vuốt má Nhị an ủi, pha chút phàn nàn: 
- Cứ hay làm dỗi, bộ có mình Nhị khổ đó chắc? 
Nước mắt Nhị ứa ra, lăn xuống má. Nhị nói xót xa: 
- Anh còn nhớ cái dáng nằm rất bình thản của con Mai hôm ấy không? Nét mặt rạng rỡ, đôi mắt nhắm một cách mơ mộng và đôi môi như cứ tươi cười. 
Nhị nín lại để nuốt nỗi u uất vào cổ: 
- Em cũng hiểu chút ít “chuyên môn”, một người bị thương khi nhiễm trùng phong đòn gánh thì khó cứu sống được, lại nữa hoàn cảnh ngặt nghèo như thế nầy lại càng không có thể... Em không biết vết thương của mình có nhiễm trùng phong đòn gánh chưa? 
Minh bỗng nghe lòng mình đau nhói, mắt cay xè. Anh vội bịt miệng Nhị lại: 
- Cứ nghĩ vớ vẩn. Anh thấy mấy trường hợp người bị phong đòn gánh mà vẫn còn sống, có sao đâu? - Rồi Minh cười, bẹo vào cằm Nhị - Mặt mũi Nhị còn tươi rói như thế nầy mắc phong đòn gánh sao được? 
Nhị nhắm mắt nằm im. Sực nhớ bọc cơm sấy lượm được của bọn xe lội nước hồi hôm, Minh lấy ra, rủ Nhị ăn. Hột cơm bị nước ngấm âm ẩm, mền, nghe mùi thơm dễ chịu. Minh ăn thử rồi đưa cho những. Vừa nhóm một mớ cho vào miệng bỗng Nhị giật nẩy người, chới với. Cô cong queo đôi tay, mũi bật ra tiếng kêu ư ử, ấm ớ ghê sợ ! Minh vội ôm chặt người Nhị, xoa tay vào chân cho cô. Sau đó Nhị lắt đầu, cười : 
- Cử động nó phản xạ ghê quá ! 
- Nhị cứ nằm yên vậy. 
Minh vừa bốc cơm sấy cho mình, vừa nhóm cho những từng miếng bỏ vào miệng. Hai người ăn hết bọc cơm sấy ngấm nước nặng gần một ký lô. Trông người Nhị khỏe ra, vẻ mặt hồng hào lên, Minh cũng nghe “bầy kiến” trong bụng mình bỏ đi đâu hết. 
Không việc gì để làm, Minh loay hoay một lúc bỗng phát hiện ra miệng hang của giống rắn hổ đất trổ qua lớp gạch lở. Lượm những mảnh gạch vụn trám miệng hang rắn hổ lại, anh bảo : 
- Sào huyệt của những tên “biệt kích Mỹ” đây. Nhị có biết không ? Thứ rắn nầy rất sợ buổi sáng, cứ ru rú trong hang. Đến chiều lại bò ra kiếm ăn. Không khéo chiều nay chúng khỏi phải đi kiếm ăn như chúng ta hồi hôm vậy. 
Trong lúc đang làm việc ấy, anh nghe có nhiều tiếng thổi hơi khò khè của những con rắn hổ đất đang ẩn trong lớp gạch nền mộ. Có lẽ vì cơm đã ngấm vào máu nên Minh cảm thấy buồn ngủ lạ. Đầu óc mụ mẫm, người bần thần, đôi mắt cứ ríu lại. Minh nằm ép vào Nhị, ngáp dài:
- Giặc bắn cũng chết, rắn cắn cũng chết, đằng nào cũng phải chết một lần. Ngủ một giấc cho no rồi hảng chết. 
Nhị sờ trán Minh, bảo: 
- Cứ ngủ ngon, em thức nghe ngóng cho! 

Minh ngủ một giấc như chết, anh hoàn toàn không chút chập chờn trong ảo mộng. Lúc thức dậy, Minh thấy Nhị đang nằm bên cũng ngủ vùi. Minh rón rén ló đầu ra khỏi cửa mộ, nhìn lên. Mặt trời đã đứng đúng đỉnh đầu, buông xuống một thứ ánh sáng vàng nhợt nhạt. Nhiều cụm mây đen lởn vởn báo hiệu chiều hoặc tối sẽ có những trận mưa lớn. Quơ mớ cỏ khô đội lên đầu, Minh nhô người quan sát chung quanh. Trên quãng đồng trống cách chừng ba trăm mét, hướng về Mỹ Lâm có sáu chiếc xe lội nước đang đạu im. Những tên lính ngụy mặc đồ cỏ úa đang ngôi trên nắp xe nấu nướng món gì, làn khói bếp bay phất phơ. Phía đồn Mỹ Đông, căn cứ địch rào ráp lô nhô những cột sắt và dây thép gai lởm chởm lên bầu trời. Rồi một dải nhà trong ấp chiến lược Mỹ Đông, những mái lá màu hung, mái dựng màu vàng nhạt, mái tôn màu cứt cò cứ nối nhau kéo dài. Minh rảo mắt về những cụm rừng chồi hướng Tràm Dưỡng, Bệ Dây Heo rồi lần xuống hướng Đồng Giữa. Anh muốn reo lên khi thấy một nà cây xanh đậm như chiếc lộng xa xa : tàn cây chòi mòi trên bờ đìa chỗ điểm hẹn! Khoảng cách xít xoạt năm trăm mét, vậy mà nó làm cho anh và Nhị phải trải qua một đêm vô cùng vất vả. Minh ước lượng tầm xa và ghi nhận phương hướng, mục tiêu lại lần nữa, rồi nhìn ngược lên ấp chiến lược Mỹ Đông. Ở mé hậu vườn, có vài người đi lang thang ra hướng những con lung lầy dường như họ đang tìm kiếm cái gì. Xế đằng nầy, chỗ có mấy nóc nhà lá nâu sậm, có một tốp người lao xao khiêng vác thứ gì, mở hướng đi ngay lại phía anh. Trông nhóm nầy là sắc dân thường chớ không phải lính ngụy. 
Minh ngụy trang kỹ lại cửa mộ, anh bò vào đánh thức Nhị: 
- Tàn cây chòi mòi cách ta khoản năm trăm mét thôi, vậy mà... Nếu hồi hôm tập hợp lực lượng về đó thì nguy. Những chiếc xe lội nước của giặc còn lảng vảng chung quanh nơi ấy. 
Đôi mắt Nhị đang rực sáng trong lúc cô lên cơn sốt, mặt mũi đỏ nhừ, vụt sa sầm. Nhị cắn môi ngẫm nghĩ một hồi lâu : 
- Vậy à? Phải chân em không đau, ra xem thử. Quả rồi... 
- Yên chí ! - Minh sờ trán Nhị - Nóng lên quá rồi đó ! - Anh tiếp - Dường như phía ấp chiến lược có một số đồng bào đang khiêng vác thứ gì đi về hướng chúng ta. 
- Nếu dân thì không có gì đáng ngại. 
- Địch cũng chẳng có gì đáng ngại. - Minh cười đùa - Với hai khẩu súng và hàng trăm viên đạn như thế nầy nó cũng đủ tống táng hai đứa mình linh đình chán. 
- Nghĩ tội nghiệp cho ông cụ hay bà cụ chủ ngôi mộ nầy. - Nhị cười đùa lại trông thật hiền - Đã tốn của lại tốn công chờ chết được chôn, bỗng hai đứa “Việt Cộng” đến chiếm phần trước. 
- Chúng ta chết thì thế nào thằng giặc cũng ưu tiên cho nằm giữa ngã ba đường ngắm trời đất và chào vĩnh biệt bà con qua lại, chớ bao giờ chúng chịu để cho mình mồ yên mả đẹp ở đây.
Nằm một chút không chuyện gì để nói với nhau, Nhị chíp môi : 
- Em đang nghĩ đến cái chết nhiều quá anh à. - Giọng nói của Nhị se lại - Kiếp sống trót vấng vương nhiều chuyện, cõi chết chắc người ta phải mang theo nhiều điều dang dở, anh nhá ? - Nhị ngừng một chút, lau nước mắt rồi thuật cho Minh nghe câu chuyện hồi cô còn bé - “Hồi ấy, lúc em còn nhỏ lắm, cuộc sống trôi nổi ở thị xã Rạch Giá, có lúc về kinh Ba xã Vĩnh Hòa ở nhà một bà cô. Bấy giờ máy bay địch hay ném bom đốt phá làng xóm. Dượng ba em giấu một lu đựng gạo ngoài bờ cây bình bát. Cạnh lu gạo có một gốc cây bình bát lớn, cao tới ngực, đã bị đốn lâu ngày nên giữa đầu gốc có một lỗ mục thành hốc ổ gà. Cũng vào dạo đầu mùa mưa nầy, có một cặp chim quốc đến làm đẻ trứng trong lỗ gốc cây mục ấy. Những lần ra lấy gạo, em cứ đứng ngắm say sưa trứng chim quốc. Ơi, như những hòn đá hoa cương nền trắng ngà có hoa văn đỏ thẫm, đẹp tuyệt vời ! Sau đó em định bắt quốc mẹ và cả ổ trứng đem về nuôi. Làm một khuyết bẫy, em đặt ngay cửa ra vào của quốc mẹ. Khi ra thăm, thấy quốc mẹ vướng bẫy vào cổ chết tự hồi nào. Chiều lại, dĩ nhiên là quốc mẹ và sáu trứng được nằm trong đĩa cạnh ly rượu của dượng Ba. Em buồn đến mấy ngày, buồn nhất là mỗi chiều chạng vạng, mỗi buổi sáng bình minh, quốc chồng cứ đứng trên cành cây cạnh miệng lu gạo mà ra rả gọi quốc vợ. Ngày lại ngày, tiếng quốc chồng kêu nghe đến cùng kiệt, thảm nảo làm sao ! Rồi bẵng đi mấy hôm, em ra gốc bình bát để lấy gạo, thấy xác quốc chồng nằm trên nắp lu, dòi bu đầy hai hố mắt... - Nhị nín lại, nghẹn ngào - Loài vật cũng có lòng chung thủy quá, hở anh? 
- Thôi, Nhị đừng nói nữa!... 
Minh nói ngồn ngột trong mũi và quay mặt đi nơi khác. Anh sợ Nhị thấy được nét mặt đầy thương tâm và hai dòng nước mắt của mình. 
Có tiếng người nói chuyện lao xao ngoài cánh đồng, Minh bảo Nhị cứ nằm im để anh nhóng ra xem. Chốc sau Minh vào báo : 
- Có lẽ đang khiêng một chiếc quan tài đến để chôn vào bãi tha ma nầy. 
Thái độ Nhị chợt cuống lên: 
- Xui xẻo gì đúng ngày hôm nay họ lại giành mất cái lòng mộ nầy với mình sao? 
- Quả vậy, chúng ta sẽ gặp thêm một tình huống khốn đốn. 
Nhị đưa mắt thăm dò thái độ xử lý của Minh. Suy nghĩ một chút, Minh bảo: 
- Cũng có thể là một trường họp ngẫu nhiên vậy...
- Em mong sao không phải là người chủ mộ đến tranh chỗ với ta. 
- Anh cũng mong vậy. Là một người khác thì thân nhân họ sẽ đào huyệt chôn người chết ở bên kia hai ngôi mộ nầy, vì ở đó có khoản đất trống và nhiều nấm mộ mới. Miễn sao ta giữ được bí mật. 
Đúng như lời Minh dự đoán. Họ đã đến và xuống vá đào huyệt cách chỗ hai người vài mươi mét. Tiếng vá xắn đất bầm bập, tiếng nói chuyện rì rầm, tiếng vãi đất ào ào vào cỏ tranh. Lẫn trong tiếng khóc nỉ non của vài người phụ nữ. Sau đó, có lẽ đến lúc họ hạ gọng quan tài, Minh nghe tiếng mấy người đàn ông hô hào. Bỗng một người đàn bà khóc ré và bà ta kể lể rất thê thảm: 
- Người ta đông như kiến cỏ, con có mấy anh em sao cự nổi, con ơi! Mới mười tám tuổi mà con đành bỏ cha, bỏ mẹ đi sao đành, con ơi! Là Tỷ ơi! 
Nghe người phụ nữ gọi đến tiếng “Tỷ ơi”, Minh giật mình, anh khều tay vào Nhị, láy mắt về phía có tiếng khóc. Nhị hiểu ý, gật đầu. 
Sau đó là tiếng một người đàn ông : 
- Bà bớt khóc đùm tôi chút đi ! Con mình chết, có mấy thằng ác ôn chết theo đền mạng, xứng đáng rồi. 
Người đàn bà: 
- Ông nói... Dễ một đứa con mình sao? Còn có một thằng xin lưỡi câu nữa. Con nhà ai mà trắng trẻo, ngộ nghĩnh làm sao! Nghe mấy đứa chăn trâu nói gặp xác thằng con đó nằm ngoài lung, chúng nó ôm cỏ đậy kín lại, không thì bọn ác ôn gặp được, mổ bụng thằng nhỏ đi. 
Người đàn ông : 
- Tụi chăn trâu có nói với tôi, thằng con đó còn sống, lúc tủ cỏ, chúng thấy thằng nhỏ nhúc nhích. Tôi giả bộ đi đâm rắn, kiếm cả buổi không ra. Để chiều về kiếm nữa. 
Một người đàn ông khác : 
- Thằng Lơn nói là chúng bắn chết một cặp vợ chồng bỏ nằm ngoài ruộng, tôi làm bộ đi lùa bò, kiếm dữ cũng không thấy. Nó nó có một người con gái lẹ tợ bóng ma. Cô ta bỏ tóc xõa ngồi trên bờ kinh, bắn tụi nó một băng ngã liền mấy đứa. Cô nhảy qua mương, lết qua bắn một băng, lết lại bắn một loạt. Tụi nó xúm bắn cô đỏ lửa quanh mình mà chẳng thấy cô hề hấn gì. Tụi nó rượt theo cặp vợ chồng đó ra ngoài đồng xa mới bắn hạ được. Thằng Lơn nói, nó bỏ xác hai người chồng đống ngoài kia, ai có bà con thì ra nhìn. 
Qua lời họ nói, Minh và Nhị hiểu được phần nào tình hình ở ấp chiến lược Mỹ Đông trong đêm hôm qua. Sau đó là những tiếng ồn ào, lao xao lẫn tiếng khóc, tiếng tuôn đất xuống huyệt... Rồi im. 
Họ đã về. Vắng lặng. Minh quan sát cẩn thận rồi cõng Nhị bò ra tiễn biệt Tỷ, người đồng chí, mà lúc nãy họ khó lòng lộ mặt để chia buồn với gia đình. Như thế là Bình cũng chắc hy sinh rồi. Hai người cứ ngồi bên nấm mộ mới nhất trong bãi tha ma, cúi đầu lặng lẽ. Gió chiều hiu hiu thổi. Đồng nước mênh mông, xôn xao tiếng nhái và tiếng cúm núm tắc nghẹn... 
Mặt trời đã hạ xuống gần chí mí rặng cây xa. Minh đưa Nhị trở vào nằm lại trong lòng mộ. Họ biết chắc rằng mình đã sống thêm một ngày. Rồi thời gian tới, ban đêm ưu thế nghiêng về phía họ. Minh nghĩ: anh điều Nhị từ đây tới tàn cây chòi mòi trên bờ đìa kia chẳng khó khăn gì. Họ sẽ được các bạn chờ sẵn, đón tiếp. Nhị sẽ được đưa đi bệnh viện. Rồi thì sao nữa?... 
Minh không dám nghĩ tới những cái kế tiếp. Có cái gì đang đau nhói ở vùng ngực phía trái anh, nó se thắt làm anh phải cắn môi chịu đựng. Cơn bệnh phong đòn gánh của Nhị? Nếu có, rồi sẽ ra sao? Biết Nhị có qua khỏi không? Không thì anh và Nhị sẽ vĩnh viễn xa nhau. Nhưng qua khỏi thì... Nhị đã tàn phế, được chuyển công tác khác. Ôi, chiến tranh biết kéo dài đến chừng nào? Hai đứa làm sao gặp lại nhau, làm sao sống gần gũi nhau nữa? Trái tim Minh nhói lên đau thắt đến nghẹn thở. Những nhịp đập bồi hồi cứ buông mạnh và chậm làm trán anh vã tứa mồ hôi. Minh nhìn chăm vào khuôn mặt bình thản của Nhị. Hai mắt Nhị nhắm một cách yên tĩnh, đôi mày, sống mũi, khóe miệng, chiếc cằm... Ôi, sao mà thân thương quá vậy? Tất cả đều chứa chan trìu mến! Lồng ngực Nhị đang phập phồng theo hơi thở: cái lòng ngực chứa trái tim của người mẹ, người chị và người yêu, làm sao xa cách cho nổi?... 
Trong con người có lúc vụt nẩy ra một ý nghĩ đen tối bế tắc, họ muốn trốn khỏi thế gian nầy để đi tìm một cõi nào đó có thể dễ chịu hơn chăng? Nếu không vậy, họ đang nghĩ rằng cõi đời nầy không còn một ý nghĩa gì đẹp đẽ đáng yêu mà níu giữ lại nữa! 
Đó chính là tâm trạng của Minh ngay lúc nầy. “Thôi thì đắng cay, gian khổ, thương yêu trên cuộc đời nầy bao nhiêu đó cũng đủ rồi, kéo dài thêm chi nữa ? Chết là yên ổn tất cả, là hai đứa được nằm bên nhau mãi mãi,  trong lòng mộ thế nầy đến vạn kiếp là ấm cúng, là trọn vẹn lắm rồi ! Nhị ơi ! Mở mắt ra nhìn lại cõi đời nầy lần chót rồi chúng ta cùng đi, em nhá!’ 
Minh bật khóc... 
Nhị choàng dậy, ôm ghì lấy đầu anh áp sát vào ngực mình: 
- Thôi anh... Sao lại yếu mền như vậy? 
Nhị trách Minh như một mẹ hiền. Và cô nhè nhẹ vuốt tóc anh. Lâu lắm, anh mới hỏi Nhị được một câu: 
- Ngày độc lập nếu cả hai chúng ta còn sống thì sao? 
- Thì dù ở cuối đất cùng trời em vẫn đợi anh. 
- Nếu hai chúng ta còn một thì sao? 
Nhị mỉm cười, liếc yêu Minh, cô cố phá tan không khí căng thẳng vô ích nầy: 
- Thì sao đó hãy viết thư về cho mẹ để tiến hành việc hôn nhân với cô Hiền, chớ sao? 
Câu nói đùa của Nhị dường như không đúng chỗ. Cô thấy mặt Minh tối sầm lại, ngó nơi khác. Nhị liếc nhìn trộm Minh rồi bật cười khúc khích. Vừa bực bội vừa tức cười, Minh quay lại: 
- Rầu muốn chín ruột, bộ có chuyện gì vui lắm sao? 
Minh quay lại hỏi Nhị và anh cũng mỉm cười. 
- Nghĩ đến những ngày độc lập em sẽ xin phụ trách một nhà giữ trẻ. Trẻ con mà dạy chúng đúng cách, chúng ngoan và dễ yêu lắm anh à. - Nín lại một chút Nhị lại hỏi Minh - Đến ngày độc lập anh sẽ làm gì? 
- Anh dốt thấy mồ, văn hóa chưa hết lớp ba, phải đi học bổ túc... 
- Nhưng sao đó rồi cũng phải... 
- Đúng! Phải học để mà lái máy cày. Anh sẽ cải tạo cánh đồng cỏ nầy thành nông trường lúa xanh mát mắt cho em xem. Đất mình bỏ hoang nhiều, uổng quá! 
- Rồi sau đó nữa? 
- Anh xin một khoảng đất nho nhỏ để xây nhà, làm vườn trồng vú sữa, trồng cam nầy... 
- Ở vùng đất phèn nầy mà trồng cam thì...
- Thì... để hái trái chọi chó chơi vậy. 
Cả hai bật cười thành tiếng. Minh vội đưa tay ra dấu bảo im để giữ bí mật. Hai người chợt nhớ lại hoàn cảnh hiện tại, họ lại im lặng. Nhị ngồi dậy, sờ nắm nhè nhẹ vào bàn chân bị thương: 
- Chắc nó chịu yên rồi, anh hả? Hết chết rồi. - Nhị lục túi áo tìm cây lược nhỏ xíu cô thường cất giữ - Nhưng có chết cũng phải chết cho “đẹp gái” chớ. 
Nhị khom đầu chải tóc, từng lọn tóc suông óng hoe hoe màu nắng chảy tuột theo kẽ tay cô. Minh cũng mơn man mớ tóc của Nhị đang tấp vào cổ anh: 
- Bao giờ độc lập anh sẽ mua cho Nhị một chai dầu nhuộm tóc để nó đen mượt trông mới đẹp hơn. 
Nhưng như chợt nhớ ra điều gì, Nhị hất mớ tóc về sau, nhìn Minh có vẻ hối lỗi:
- Anh à! - Nhị ngập ngừng - Có một chuyện nầy mấy bữa nay định báo với anh, nhưng chưa kịp. - Nhị nín lại đắn đo rồi tiếp - Thằng cha Năm Hoa... Sao em có những điểm nghi vấn quá. 
Nhị thuật cho Minh nghe câu chuyện về Năm Hoa biết trái gài ở khu vườn tam giác kinh Đường Tắc mà còn xúi chiến sĩ Mậu càn vào cho nổ để anh ta có cớ chạy bỏ trận địa, như lời của cậu em nuôi của Nhị báo lại. Sau đó Nhị tiếp: 
- Thằng Quí, cậu em nuôi của em ấy mà, nó bảo với em hồi đầu hôm, lúc Năm Hoa dắt bọn nó về gấp phân đội ta rằng, Năm Hoa mới vừa bắt liên hệ với địch. 
- Năm Hoa liên hệ với địch là thế nào? 
Minh kinh ngạc, chồm tới như định nuốt sống Nhị. 
Nhị: 
- Xe lội nước càn ngay, Năm Hoa đứng lên giơ tay. Sau đó độ vài giờ, anh em thấy Năm Hoa bươn bả chạy về đơn vị. Anh ta bảo, lợi dụng lúc địch sơ hở, anh đánh tháo, thoát thân. Từ hoài nghi nầy em mới bảo thằng Bình dẫn mũi về Gò Tranh chứ không trở lại tàn cây chòi mòi như Năm Hoa bảo. 
Minh ngớ người ra:
- Sao em không bảo sớm với anh? Đêm qua, không hiểu, anh cõng em về điểm tàn cây chòi mòi thì sao? 
Nhị lớ ngớ như người mất hồn, cô vỗ tay lên trán: 
- Tại sao em đoản trí như vậy kìa? 
Minh do dự một chút, rồi ngập ngừng: 
- Anh nói chuyện nầy chắc em không cho anh có thành kiến với Năm Hoa chớ? 
Nhị nhìn vào mặt Minh, ra vẻ hờn trách. Minh tiếp: 
- Em có biết Năm Hoa là em cô cậu với tên Mười Tiếu không? Hắn có dây mơ rễ má với tên trung tướng tư lệnh vùng Bốn chiến thuật Đặng Văn Quang đó.
Chương 8 
Cái gì vừa mất hoặc sắp mất người ta cứ day dứt nhớ nhiều về nó. Bình, một cậu bé đi vào cách mạng bằng con đường khá ngộ nghĩnh. Khi mới lập phân đội vận tải, Minh nhận hai cậu thiếu niên vốn là chiến hi đường dây huyện Giồng Riềng có đến gần hai tuổi quân. 
Lý cao nghều ngào, đôi tay dài quá gối, áo quần xập xệ, mồn hay nói tía lia, phần nhiều chuyện tiếu lâm, thỉnh thoảng xen vào vài câu chữ nho. Ngược lại, Bình ăn mặc tươm tất nịt vòng thắt lưng băng đạn CKC sạch bóng, thường xuyên đỏ nhừ vì cả thẹn. Một chiếc khăn “giao liên” trắng bong có thêu chỉ hồng quàng cổ, một chiếc nón tai bèo màu xanh lá cây đội trên đầu, trông Bình như cậu công tử bột. Nếu không được Lý thuật những trận đụng độ của hai cậu với giặc gay go là chừng nào, thì Minh rất ngại cậu tân bình loại con út nầy. 
Bình là con trai độc nhất của bà mẹ góa và cũng là đứa em trai út của sáu chị gái trong một gia đình trong rạch Cái Bát. Nơi đây là vùng tranh chấp, nhưng người ta bảo nó nằm trên mảnh đất hàm rồng nên chiến tranh ít đụng tới. Hai bên bờ rạch có nhiều tàn cây cổ thụ che bóng cho những ngôi nhà ngói cổ. Mùa sa mưa, vào những chiều nắng ráo, người đi qua trông thấy những tàn cây cao đòng đưa đầy tổ ong bần và tổ chim dòng dọc. Tiếng gia cầm hào với tiếng chim rừng tạo thành một âm thanh êm ả, ngời gợi trong không khí thanh bình thôn dã. Bình lớn lên trong một ngôi nhà ngói cổ như vậy và trong vòng tay sáu chị gái, luôn được dạy dỗ, ăn học đàng hoàng. 
Một hôm Bình bảo mẹ và các chị rằng mình sẽ đi tòng quân. Rồi chiều hôm sau Bình cương quyết ra đi dưới trận mưa nước mắt của đám đàn bà, con gái trong nhà. Các chị nhét vào ba lô Bình hàng khối tiền và sáu chiếc khăn khác nhau với sáu chai dầu thơm hiệu Huê Lạc... 
Bây giờ những kỷ niệm êm đềm ấy đối với Bình trở thành dĩ dãng... 
Bị một viên đạn gãy ống chân trái, nếu Tỷ không buộc Bình phải rút trước, Bình vẫn ngồi tại chỗ bắn nhau với bọn giặc phục kích đến viên đạn cuối cùng. Vì nhiệm vụ hậu vệ phải chặn giặc cho đồng đội rút lui, dù hy sinh Bình vẫn không rời trận địa. 
Bình bò qua mấy con bờ cao một cách khá vất vả. Có những lần Bình phải gượng đứng dậy bằng đầu ống xương chân để nâng mình lấy đà trèo qua bờ. Vì sức nặng của cơ thể trì xuống, thịt bắp chân và bàn chân còn dính lại bị tuột lên, đùn lên, ống xương chân cắm sâu vào đất. Giữa trời đêm với những cơn mưa tầm tã. Súng và đạn quàng lên lưng, Bình hết bò lại nghỉ. Trong ý nghĩ Bình luôn cho rằng mình đang bò đúng hướng chỗ Gò Tranh nơi địa điểm tập trung mà Nhị đã ra lệnh thay đổi và cậu cũng tin ràng chốc nữa thôi Tỷ sẽ đuổi kịp rồi cả hai cùng rút về. Nhất định Bình phải về gặp đơn vị ngay, cậu đang có một sự kiện quan trọng : phải gặp phân đội trưởng Minh và bí thư chi bộ Nhị để báo cáo sự kiện quan trọng nầy. Lúc nãy, từ trong ấp chiến lược ra, vừa gặp Nhị  thì Bình được lệnh vọt lên đi đầu, chưa báo kịp với Nhị việc ấy: thằng Năm Hoa... 
Đi một đỗi, Bình dừng lại định dùng khăn băng bó vết thương. Sờ nắm một lúc, Bình thất vọng! Bàn chân chỉ còn là một món của nợ đeo đẳng theo nhùng nhằng, vướng víu mà thôi. Bình sờ soạn khắp mình định tìm một vật gì bén có thể cắt bỏ. Nửa mảnh lưỡi lam của Nhị mà Bình mượn cạo lông mặt, còn đây. Mấy cuộn chỉ nhợ và mớ lưỡi câu vừa xin được trong nhà Tỷ, thì làm gì được? Cuối cùng Bình tháo cuộn chỉ quấn chặt quanh ống chân làm kiểu thắt ga-rô. Bình dùng mảnh lưỡi lam định cắt bỏ đi bàn chân mà bây giờ chỉ còn là một túm thịt lầy nhầy nhưng không làm nổi. Thôi thì cứ bó túm nó lại, mang theo đến đâu hay đến đó. Khi dùng khăn băng vết thương xong, Bình ngất đi một lúc thật lâu mới tỉnh lại. Rồi tiếp tục tục bò, Bình cứ nhích dần tới. Nhưng chỉ một chút sau, Bình nghe toàn thân lạnh buốt, đầu choáng váng, mắt mờ dần trong mưa. 
Khi tỉnh lại, Bình bò về hướng Gò Tranh trong tưởng tượng. Cậu thấy rất rõ tàn cây chỗ điểm hẹn ngay trước mặt mình. Đói thì chẳng có gì ăn, nhưng khát thì có sẵn nước dưới bụng, tha hồ uống. Lúc bị choáng ngất thì nằm, khi tỉnh dậy thì bò. Gò Tranh mỗi lúc một hiện rõ ngay trước mắt. Và Tỷ, người đồng chí ấy nhất định một chút nữa sẽ đuổi kịp, rồi cả hai cùng về điểm hẹn. Trên đường, có chỗ nước xâm xấp, có chỗ qua những vạt đất gò cao và trống trải, lại có chỗ phải vượt qua một con lung bùn nước sâu. Những đoạn nầy Bình phải nắm cỏ, nghểnh đầu lên, bườn tới... 
Không biết tỉnh lại lần thứ mấy, Bình thấy mình nằm trong một đám cỏ rất dày và trời đã sáng trắng. Trên mình Bình ai đã phủ lên một lớp cỏ, rõ là có ai đó cố che giấu mình. Chung quanh đây, có tiếng người nói chuyện lao xao, thỉnh thoảng có tiếng súng nổ cắc bùm. Bình nghĩ : “Chắc có người tốt bụng đi đồng, thấy mình nằm mê man họ tưởng mình là xác chết nên hốt cỏ đậy lại cho diều quạ khỏi xé thây”. 
Đến lúc trời nắng gắt, Bình thấy khát. Từng phút cứ nghĩ đến chuyện uống. Nắng càng lên, chuyện uống cứ nghĩ đến dồn dập trong từng giây, từng nhịp tim đập. Người chiến sĩ đường dây ở vùng đồng bằng nầy đã từng chịu đựng mọi thứ: ngâm nước, dang nắng, đói và đau... nhưng cái khát giờ đây lồng lộn trong cơ thể vật vã không tài nào chịu nổi ! Ban đầu Bình cảm thấy như bị xát ớt vào đầu lưỡi, kim đâm vào miệng, vào cổ họng. Sau đó như có ai nung lửa đốt cháy hết ruột gan, rồi lửa bùng lên đôi mắt, hốc mũi, vòm miệng và cả bầu trời ngùn ngụt lửa đỏ và máu đỏ. Bình uốn mình nôn mửa nhưng không tháo ra được tí chất nhờn nào, vì trong miệng đã khô quánh và nóng bỏng. Và Bình quằn quoại... 
Nhưng cũng nhờ chết ngất, Bình mới chống lại được cơn khát tàn bạo ấy. Đến trời xẩm tối. Bình không nhích đi được thêm một mét nào nữa. Đêm lại đêm. Có những đợt mưa lâm thâm. Bình cảm thấy cảm thấy trong người khỏe khoắn, tỉnh táo. Lại tiếp tục bò. Đêm Bình bò đi là vì biết mình còn sống, còn làm được cái gì trên cõi đời nầy. Thế thôi, Bình không hy vọng gì đến được nơi điểm hẹn có tàn cây ở Gò Tranh. Sức lực dần dần rơi lại theo con đường đi lên. Đôi tay mỏi rã rời, cảnh vật trước mắt Bình mập mờ, chập choạng. Dù sao cũng mặc, Bình cứ bò lên. Nói đúng hơn là Bình chỉ còn cựa quậy, đun lên từng chút một như một con sâu rộm bò. Có điều kỳ lạ là suốt trong đêm thứ hai nầy Bình ít bị choáng, thiếp đi đôi chút cũng chỉ vì quá mệt mỏi sinh mê man từng chập mà thôi. Bình mỗi lúc tiến dần lên vạt đất khô, có nhiều rau đắng biển trơn mát và những lùm cây lức lá có vị chát tê đầu lưỡi mỗi khi người ta nhai lấy nó. Bình nhờ nhai những thứ nầy mà đỡ khát nước. Món gì để ăn? Bình không còn nghe đói, nhưng mỗi lần nắm được một thứ rau đồng nào cậu ta cứ cho vào miệng nhai thử. Lần lượt Bình thấy không cần làm vậy nữa, chỉ biết đun người lên theo bản năng trong trạng thái lơ mơ. Thường, những cơn kiệt sức đến Bình chẳng hề hay biết, ngược lại khi hồi sức Bình cảm thấy rất rõ. Và sau đó với động tác quen thuộc, Bình cứ “đun” người lên. Hai cánh chỏ của Bình đã tuột da, tuôn đầy máu. Xé vạt áo bó lại, và Bình cứ dùng hai cánh chỏ bám xuống đất, kéo người tới. 
Sáng ngày thứ hai sau khi bị thương, Bình không còn nhớ rõ đêm qua có cái gì đến với mình. Tất cả chỉ loáng thoáng qua trí nhớ bằng một xâu chuỗi dài những giấc chiêm bao. Một ông thần râu dài, mắt to, người cao lêu nghêu, đứng trên tàn cây chòi mòi nơi điểm hẹn, vẫy gọi... Một luồng chớp giật chới với... Một tốp lính ngụy la hét, truy đuổi, chúng bắn nhiều súng... Một con dao ngâm nhọn hoắc chực đâm vào giữa bụng... Cây đàn măng-đô-lin cũ kỹ, điệu nhạc du dương của bài “Lỡ chuyến đò”. Ơi, sao buồn rười rượi nao nao lòng người! Đôi mắt đen ủ rủ, đôi lông mày hình vòng cung, màu mi thâm quàng của Thế, người bạn gái thân thương, người diễn viên văn công khu... Không! Ánh mắt của mẹ và sáu chị gái ở phương trời nào xa lắm! Cái gì vấn vương? Cái gì tiếc nuối? Đi qua... Còn lại một màng lưới vô hình, một luồng gió hắc hiu... Hay là mình tự cắn lưỡi đi cho thoát cảnh nầy? Bình tự hỏi rồi lại tự giải đáp. Chết ư? Đành rồi! Nhưng không! Phải cố gắng! Phải tìm gặp đơn vị để báo cho các đồng chí biết cái sự kiện quan trọng mà chỉ có mỗi một mình mình biết, để các đồng chí cảnh giác một con người, nó dường như đã... Thằng Năm Hoa... Và Bình lại ngất đi. 
Bình tỉnh hẳn khi mặt trời xuyên xuống nhiều tia nắng chói chang. Nắng xốn mắt. Nắng rát bỏng toàn thân, rát bỏng trong cổ họng. Một vài cánh cò bay qua, chao lượn, dường như chúng định đáp xuống một nơi nào gần đây. Bầy ruồi nhặng bay quanh mình vo ve.  Mùi hôi thối từ vết thương chân bốc lên hừng hực. Bình quờ quạng, sờ nắm. Cái bàn chân và cả vết thương thối rữa lầy nhầy. Bình uể oải lắc đầu, nằm úp mắt xuống thảm cỏ rau đắng biển thổn thức... 
Những ngày sống bình thường trên cuộc đời, có biết bao nhiêu chuyện để cần đến sự bình thản để mà chiến đấu với khó khăn. Những giờ phút sống trong mơ, có lắm điều rạo rực trong nhu cầu sinh thái, nhưng trong những khoảnh khắc cuối đời, người ta cố sống để mà chườm cái chết đến. Ơi, thật khủng khiếp hơn bất cứ khủng khiếp nào! Nhưng ở Bình, một con người vốn là bình thản, nhu cầu của cậu ta trong lúc nầy chỉ còn nhớ có hai thứ: ăn và uống. Phải chăng hai thứ ấy là con nợ bám riết vào cuộc sống người ta cho đến lúc không còn hơi thở? Cái chết đến nơi Bình chẳng phải lạ lùng gì. Đã biết cầm súng đánh nhau hơn ba năm rồi, Bình không bao giờ nghĩ cái chết đến với mình. Mình không bao giờ chết được! Có thế thôi! Chiến đấu khó khăn, gian khổ đó là phận sự của mình, còn cái chết là phận sự của những kẻ đã làm xong nhiệm vụ. Đơn giản vậy thôi! Bình có biết bao cái đáng yêu, không thể chết được; chết là tội lỗi. Những ý nghĩ riêng tư ấy có lúc Bình cảm thấy tự xấu hổ: Mình ích kỷ quá! Cái gì người khác làm được tại sao mình không dám làm? Các đồng chí chết. Mình lẩn tránh nó, dồn nó về cho các đồng chí ư? Rồi Bình cảm thấy cũng có thể chết được một khi cần thiết phải làm cái việc mà trên đời nầy chẳng có một động vật nào muốn làm. Bây giờ đã đến lượt mình rồi, đến lượt mình phải làm nhiệm vụ như Lý Sên, như Mai, như Lý, Bá... và các bạn khác đã từng làm mỗi người một lần. Việc ấy gọi là “làm nên cái chết”. Bình hoàn toàn bình thản và chấp nhận điều ấy một lần như các bạn vừa qua. Nhưng có một điều là trước cái chết thì cái đói khát, đau đớn nó hành hạ con người một cách quá tàn khốc! 
Nhưng cuối cùng Bình cũng chẳng lấy gì làm lạ với ba con quỉ: đói, khát và đau đớn ấy. Những cái gì khó chịu cũng chỉ là lúc ban đầu thôi rồi dần quen hết. Hơn ba năm qua đã từng được chỉ huy và bạn bè khen là: “Sống và chiến đấu tươm tất và đàng hoàng”. Bình nghĩ: “Thì bây giờ có chết thì mình cũng chết sao cho đoàn hoàng. Thế thôi!”. Bình nhấm nháp từng cọng để nghe hết cái vị đắng cuối cùng trên thế gian nầy. Bình phải cố sống để gặp đơn vị báo cho các đồng chí một sự việc vô cùng quan trọng: thằng Năm Hoa... 
Một lúc lâu, nghe trong người dễ chịu Bình ngủ một giấc ngon lành trên thảm cỏ dưới ánh mắt trời gay gắt. Những cái gì day dứt nhất, người ta thường mang nó vào giấc ngủ. Trong mơ Bình thấy mình được uống nước, uống lấy uống để, uống thừa mứa, uống đổ tháo, uống vội vàng, uống ồng ộc qua những ca nước trong, mát thật lớn, thật đầy nhưng vẫn không thấy đã khát. Khi tỉnh thì Bình lại thấy cổ họng rát đắng nhiều hơn. Tình thế khắc nghiệt như vậy, Bình biết không còn cách nào tốt đẹp hơn, đành vơ vào miệng vài cọng rau đắng biển để tiếp tục nhấm nháp. Dù thế nào Bình cũng cố giữ cho mình còn đủ tư cách một người chiến sĩ Giải phóng quân lãnh một trọng trách. Dù đó là một chuyến đi ra khỏi thế giới nầy, Bình cũng thanh thản tổ chức cuộc đi với tư thế người chiến sĩ tình nguyện. Bình tự nhủ và cứ nằm im để chờ cái chết đến như những lúc nằm im trong công sự chờ lúc xung trận với kẻ thù. Tội gì không nằm ngửa mặt nhìn ngắm bầu trời có nhiều cụm mây biến dạng qua những hình thù lộn xộn? Những đoạn ký ức trẻ con cùng các chị thuở nào lần lượt trở về với Bình... Bình chợt nhớ ngày xưa các chị thường kể rằng... 
Những người nằm chết giữa trời, đầu quay về hướng tây, linh hồn sẽ lên mây bay qua cõi phật, những người nằm quay đầu về hướng đông linh hồn sẽ bị thổi tạt mù ra muôn trùng sóng nước mà chịu đói lạnh rã rời. Những người chết nằm trong nhà, hồn thư dậy thành con đom đóm đực thật lớn, có màu xanh lập lòe bay lượn là quanh giường thờ để thăm viếng người thân. Hồn ma trơi ấy bay đụng vào người thì người chết, đụng vào đồ vật thì mọi thứ bị ngã đổ ầm ầm... 
Lại có hai cánh cò bay qua. Chúng sà thấp, đảo lộn muốn đáp xuống gần chỗ nào đây. Bình cứ nằm lặng lẽ không quan tâm đến vợ chồng cò, và man mác nhớ về tuổi thơ... Chốc sau lại có tiếng cò kêu, không xa lắm. Bình ngẩng đầu dậy tìm xem. Chưa xác định chắc chắn tiếng cò kêu chỗ nào, Bình lại gục xuống. Chốc sau tiếng cò lại kêu. Nơi cò đánh nhau tất nhiên là có một mương nước hoặc một đầm lầy chứa nhiều cá, là vì chúng tranh ăn chỗ ấy. Bình cố gượng dậy một lần nữa. Chếch về tay phải không xa, có nhiều cây lức mọc chen nhau xông lên thành một dãy, nơi ấy đúng là một chỗ bờ đìa lạn hay con mương cũ. Phải cố bò tới nơi ấy sẽ được nước uống. Nước uống bây giờ là một phương thuốc hồi sinh cho Bình. Nghĩ vậy, Bình cố đun người lên về phía bờ cây lức có nhiều tiếng cò kêu. 
Bình đến được cạnh mương nước bên bờ cây lức ấy sau mấy lần ngất đi. Lúc đến nơi, phần vì mệt, phần vì thấy nước uống, xúc động quá, Bình lại ngất đi một lần nữa. Vốn là một con người cẩn thận, lúc tỉnh lại, Bình quan sát kỹ xung quanh. Một khẩu đìa lạn chứa đầy nước trong veo, có nhiều cá rô quẫy bọt. Mép bên kia đìa giáp với một đồng cỏ ống, mép bên nầy, nơi Bình nằm là một con bờ khá cao, mé hẩm, bậc đất cách xa mặt nước. Bình không còn đủ sức để bò xuống đìa lấy nước uống được. Suy tính một lúc, Bình lấy ra cuộn nhợ xin của gia đình Tỷ, tháo lấy một khúc, xé vạt áo vo tròn, cột vào. Cầm đầu nhợ, Bình ném cục giẻ xuống nước, rồi lôi lên, cứ làm như thế, Bình hút lấy nước trong cục giẻ mà uống. 
Qua một giấc ngủ dài chập chờn. Đêm khác lại đến. Những nỗi đau đớn và đói khát Bình cảm thấy chúng không còn phải là một thảm họa đối với mình nữa. Còn một nỗi là lạnh, lạnh thấu xương! Lạnh buốt ruột gan! Trong ảo giác chập chờn càng thấy lạnh, những lúc tỉnh lại càng nghe lạnh hơn. Nỗi lạnh khó chịu lạ lung! Bình cứ ngỡ là cơ thể của mình đã hóa băng đi rồi. Tỉnh táo càng chịu cực hình, Bình cứ để cho mình mê man trong giấc ngủ, vậy mà đỡ hơn. Hết lạnh lại đến nóng... Bình nhớ rằng mình đang còn sống sót đến ngày thứ ba sau cái đêm bị thương. 
Lúc mặt trời lên nửa buổi. Lần nầy Bình cảm thấy mình đang tỉnh táo nhất. Cơ thể hầu như hoàn toàn tê liệt, nhưng đầu óc thì minh mẫn lạ. Ruồi nhặng đánh theo xèo xèo bên chân. Vết thương đã thối rữa, dòi đục nhung nhúc. Ngay giờ phút nầy mà mình cũng vẫn còn sống trên cõi đời này ư? Bình tự hỏi - Như thế này thì may hay rủi? Sao không được chết ngay trong loạt đạn đầu khi đụng địch, có nhẹ nhàng hơn không? Bình khóc! Những giọt nước mặt đặc sánh ứa tròn hai bên khóe mắt. Bình ôm mặt nức nở như một đứa trẻ chịu đòn oan. 
Nhưng cái sống cực kỳ khốn khổ ấy nhất định không buông tha cho Bình. Chẳng những nó hành hạ đủ điều về tinh thần, nó còn đem đến những cơn sốt nóng bừng bỏng môi, mờ mắt; nó còn đem đến sự đói khát cồn cào thắt ruột, xé cổ.
Lúc cái chết đến gần thì Bình nằm mê, khi cái sống hồi phục cậu ta lại ngồi dậy nhìn quang cảnh chung quanh. Để đốt thời gian chờ chết, Bình lấy một lưỡi câu tóm vào nhợ rồi bắt những con dòi lớn đang đục khoét ở vết thương chân, làm mồi, quăng xuống đìa câu cá. Lôi lên được con cá rô thứ nhất, lại thêm con thứ hai, con thứ ba... Cơn mệt mỏi dần dần kéo đến làm đôi mắt mờ hẳn, và Bình thiếp đi. Rồi không biết bao lâu, cơn đói cồn cào lại kéo đến lôi Bình tỉnh dậy. Trong cơn sốt bừng, những con cá rô mề mềm mun múp trông chúng béo bổ lắm! Nước dãi Bình tứa ra, hàm cứng lại, vị ngọt từ dâu đọng lại đầu lưỡi và cuống họng. Bình chép miệng nước suông nước bọt đến nhiều lần. Rồi bỗng đôi mắt Bình sáng rỡ, cậu ta dùng một que cây cào bỏ lớp vẩy cá. Vị ngọt của thịt cá thấm vào đầu lưỡi, vào cuống họng và dường như có một sức mạnh hồi sinh lại cả thân thể... 
Sau khi tìm về đơn vị. Minh phân công Sen Nâu cùng một chiến sĩ trở lại ấp chiến lược Mỹ Đông vào đêm sau. Minh bảo họ đột vào ấp, đến chia buồn cùng gia đình đồng chí Tỷ và hỏi thăm cặn kẽ những chi tiết về Bình. Rồi theo sự chỉ dẫn của cha Tỷ, họ lần tìm xem Bình sống chết thế nào. Minh không trực tiếp cùng Sơn Nâu đi tìm Bình được, vì anh còn phải cùng đơn vị tổ chức một chuyến mở đường máu để vượt vượt vòng vây địch đưa Nhị đến quân y. Minh cứ chờ mãi cho đến chiều hôm sau vẫn không thấy Sơn Nâu trở về đơn vị để báo cáo tình hình, tin tức về Bình. Chuyến đưa Nhị đi vào quân y đã chuẩn bị xong, Minh buộc phải ra lệnh xuất phát vào đêm thứ ba sau trận đụng độ với giặc ở ấp chiến lược Mỹ Đông không còn ở lại chờ tin tức Sơn Nâu được nữa. 
Riêng Sơn Nâu, anh cùng một chiến sĩ đột vào ấp. Theo sự chỉ dẫn của gia đình Tỷ, hai người lần dò theo dấu mà tìm kiếm Bình đến sáng, vẫn mù mịt tăm hơi. Họ quyết tâm trụ lại, “chém vè” vào cỏ rậm, chờ đến “tan phèn”, lại đứng lên, cởi áo bọc lấy súng giả làm người đi đặt lọp, tìm Bình thêm suốt một ngày ấy. Họ tìm thấy những dấu vết đáng khả nghi: có nơi cỏ bị quần nát và có dấu máu. Nhưng mãi đến chiều tối, thêm một ngày, cũng vẫn chẳng tìm thấy móng vó gì. Tìm ra chăng thì chỉ để đến ban ngày thôi. Sơn Nâu quả quyết như vậy, và hai người lại nằm đến ngày thứ ba để quyết lòng tìm Bình cho kỳ được, xem sống chết thế nào mới yên tâm. Đêm ấy, cánh Sơn Nâu nằm lại trên một bãi cỏ hoang cạnh bên ấp chiến lược Mỹ Đông chờ trời sáng. Nâu nghĩ: một người đã bị thương, dù cho còn sống đang nằm nấp đâu đó, đến hai ngày, ba đêm rồi thì cũng không thể còn cứu vãn nổi. 
Nửa chiều ngày thứ ba, sau đêm Bình bị thương, Sơn Nâu mới tìm gặp được cậu ta, lúc tình cờ đến khấu đìa nầy tìm nước uống. Nhờ đàn ruồi nhặng bu ở vết chân Bình đánh lên ào ào chỉ điểm, anh thấy cậu ta nằm mê man bên mấy thân con cá rô đã bị vết răng cắn nham nhở. Bình ôm chặt lấy Sơn Nâu. Thoạt đầu đôi mắt cậu ngơ ngác như một người mộng du. Sau hồi lâu, Bình úp mặt vào ngực Nâu, nức nở. Ống xương chân của Bình bị bùn xảm vào dầy đặc. Toàn bộ vết thương bị dòi đục đầy nhun nhút.
Trong lúc Sơn Nâu tạm buộc vết thương cho Bình, cậu ta thều thào với anh:
- Thằng Năm Hoa! Anh Nâu! Thằng Năm Hoa nó... nó... 
Nói được bấy nhiêu, người Bình ỉu xìu ra, mặt úp gục vào lòng Sơn Nâu. Im lặng. Bầu trời nhẹ nhàng và lên cao. Một cánh cò bay qua, bay qua... 
19/12/2004
Anh Động
Theo https://vanchuongviet.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  ​ Tình Điên Ánh sáng vàng úa của vừng thái dương đỏ chót như còn do dự ở chân dẫy tre già cao vót, rì rào, kẽo kẹt. Luồng gió mát ...