Thứ Sáu, 4 tháng 3, 2022

Trên một cung đường 1

Trên một cung đường 1

Chương 1 
I. Đêm đen sệt. Mưa dữ dội. Nhiều lằn chớp vẽ ngoằn ngoèo trên bầu trời đen kịt. Tiếng sấm lúc to lúc nhỏ kéo dài trên mặt nước đồng sóng sánh, bật lên tiếng vang ì ùm nghe tựa có một trận đánh lớn xa xa. Cảnh vật trong đêm chốc chốc được bừng lên qua ánh lóe sáng của từng tia chớp. Rồi đâu đó lại chìm ngập trong làn mưa và màn đêm tối mù mịt.
Từ phía Vĩnh Điều có ánh đen pha tàu tuần tra của giặc. Chúng cứ nhấp nhá quét dọc theo hai bờ kinh Vĩnh Tế, chạy dài xuống. Ánh đèn loáng thoáng qua những lùm sậy âm u, những đám môn nước lắc lay, càng đến gần chúng càng quét hối hả. Tiếng máy reo của một đoàn tàu tuần vang dậy trong đêm đến nhứt màng tai. Chúng rú ong óng, hù hụ chẳng khác nào một phi đội máy bay phản lực đang sà thấp đảo lượn sát mặt đồng. Chiếc “P.L.F” đi đầu lù lù xuất hiện. Ánh đèn pha của nó tựa cây chổi lân tinh quét đùa qua những lùm cỏ thấp. Trên bờ kinh phía bên nầy, ánh sáng làm bật lên mấy gương mặt của những chiến sĩ đơn vị vận tải “Sáu Mươi” đang ngồi nấp mình, ghìm súng bố phòng cho đồng đội vượt sông. Họ từ bên kia đất bạn Campuchia đột ngột chuyển hàng về phái bên nầy - hơn mười tấn hàng vũ khí chiến lược - vượt kinh Vĩnh Tế sang khu đồng nước tứ giác tỉnh Châu Hà, để giấu ém.
Bình một chiến sĩ trai khoảng hai mươi tuổi, gương mặt sáng, mũi thẳng, nai nịch gọn gàng, vai choàng nửa bức vải dù bông. Cậu ta ngồi xổm, một tay cặp khẩu súng AK, người hơi nghiêng về phía trước. Ở một cụm cỏ khác, Thanh, một chiến sĩ gái, tuổi khoảng hai mươi, có đuôi tóc kẹp thả sau gáy, khuôn mặt tròn có đôi mắt nhỏ ti hí dưới hai hàng lông mi thưa nhạt. Người thứ ba là Lý, cán bộ tiểu đội trưởng, có thân hình cao lêu nghêu, anh ngồi chồm hổm sau một gốc cây trụi, hai gối dựng cao chí mép tai. Sau là Long, một chiến sĩ trai, mặt tròn mày ngắn, mũi lớn và gãy. Long nằm ép mính sau một mô đất, ôm chặt khẩu AK trong lòng, vẻ mặt phờ phạc, nhớn nhác. 
Chiếc tàu đi đầu đã vượt qua, chạy thẳng về phía Phương Thành. Hai chiếc “pho-ca” nối đuôi theo sau. Tiếng động cơ của chúng hụ nghe rợn người. Nước hai bên bờ vẹt ra, dựng lên trắng xóa vạch đầu mũi tên lao tới. Những lượn sóng từ lòng kinh chồm lên vỗ ầm ập vào hai mé bờ. Tốp tàu tuần của giặc ào qua. Đêm lại ập tối. Trời vẫn còn mưa. Sấm chớp cứ liên hồi vẽ những lằn lửa ngoằn ngoèo qua lưng chừng trời. Bốn chiến sĩ vận tải ngồi ôm súng bố phòng lặng lẽ trong mấy lùm cỏ thấp, bóng họ cứ chập choạng qua ánh chớp. 
Một chiếc “xuồng bay” sau cùng chồm tới, chạy máy thật nhỏ. Nó đủng đỉnh theo sau ra vẻ chỉ huy. Trên tàu nổi bật lên mấy bóng đen lô nhô qua ánh lửa, chúng hút thuốc bập bùng. Một bộ mặt có hàng ria mép của một tên giặc mặc đồ nhà binh được lộ ra phân nửa theo ánh sáng đóm điếu thuốc Ru-bi của hắn vừa rít lên. Tên giặc có ria mép ấy dường như chưa được hài lòng một chuyện gì, hắn gặng hỏi tên mặc thường phục ngồi bên: 
- Ông quả quyết là chúng nó chuyển số vũ khí ấy vượt sông trong đêm nay? 
Các chiến sĩ vận tải trong đơn vị “Sáu Mươi” nầy không còn ai lạ gì tên mặc thường phục ngồi trong chiếc “xuồng bay” bên tên giặc có ria mép kia: thằng Mười Tiếu em một cha khác mẹ với tên trung tướng tư lệnh vùng Bốn chiến thuật ngụy Đặng Văn Quang. Mười Tiếu chui vào lực lượng cách mạng, tham gia kháng chiến chống Mỹ ngót sáu năm nay, hắn lập được nhiều thành tích, được đề bạt làm trạm trưởng trạm “đầu cầu” trên kinh Vĩnh Tế nầy. Hôm qua, đơn vị vận tải “Sáu Mươi” do phân đội trưởng Minh, từ bên kia đất bạn vận chuyển trên mười tấn hàng chiến lược quân sự về tới, ghé liên lạc với tên Tiếu để phó hợp vượt sông. Bất ngờ hồi chiều nầy hắn chạy ra đầu hàng địch. Đã nhiều năm làm nhiệm vụ của người chiến sĩ đường dây, tên Tiếu nắm rất chắc quy luật giao thông vận tải của ta. Cho nên ngay bây giờ hắn đã có mặt trên đoàn tàu địch, cố mong chặn đánh chuyến hàng quan trọng nầy. 
Tên Mười Tiếu cũng hút thuốc. Hắn rít đóm điếu thuốc lóe lên, và hắn gật đầu quả quyết đáp lời tên giặc có ria mép: 
- Nhất định là như vậy, thưa trung úy! Bao nhiêu năm tôi từng làm trạm trưởng trên nhiều nút, đã quen. Khi trong bọn có một nầy “chạy ra” là lập tức chúng chuyển ngay. 
Tên sĩ quan có hàng ria mép gật gù cười hả hả : 
- Chuyến nầy ông lập công to, chắc chắn khi diện kiến, ngài trung tướng sẽ hết sức hài lòng. 
Tên Mười Tiếu cất giọng cười có hơi kiêu ngạo: 
- Tôi sẽ đưa đội vận tải nầy chở chuyến vũ khí thẳng lên thiên đàng, trung úy hãy tin điều ấy. 
Liền đó, phía sau chúng, trong đêm một chiếc xuồng ba lá chở nặng từ bên kia kinh Vĩnh Tế lao qua, quẹo mũi vào một con kinh nhỏ trước mặt những chiến sĩ bố phòng. Trên xuồng hàng hóa được đậy kín bằng vải mủ, ngụy trang đầy lá cây và dây leo. Người chống sau lái xuồng là phân đội trưởng Minh, dáng hơi cao, da ngăn đen, mắt sáng, cằm vuông, tuổi khoảng hăm bốn. Trên xuồng có thêm hai chiến sĩ. Chiếc xuồng tấp lại chỗ chiến sĩ bố phòng. Minh trao sào cho một chiến sĩ ngồi bên, anh cầm AK phóng lên bờ một cách nhẹ nhàng. Chiếc xuồng tiếp tục đi, lao hút về hướng cánh đồng Lung Bèo. Đi mấy bước, Minh khom người nhìn qua bên kia kinh Vĩnh Tế, rồi anh túm hai tay đưa lên làm loa gọi: “Cuốc, cuốc, cuốc”. Bên kia kinh có hai tiếng: “Bịp, bịp” đáp lại. Rồi những chiếc xuồng ba lá, xuồng mõ (độc mộc) lần lượt lao qua, quẹo vào con kinh nhỏ trước mặt  Minh. Chiếc xuồng nào cũng nghi trang cành cây um tùm. Mặc dù hành quân trong đêm, nhưng họ vẫn làm như thế, vì ở chiến trường nầy ngày cũng như đêm loại máy bay trực thăng luôn kéo nhau từng phi đội quần đảo, săn đuổi. Mỗi xuồng có hai người cầm sào nạng, người đứng trước mũi, người sau lái đứng chống. 
Một chiếc xuồng be chín chở khẩm mẹp lao qua. Người đứng chống sau lái là Sơn Nâu, cán bộ phân đội phó, người dân tộc Khơ Me, anh có thân hình kịch cỡm, da nâu bóng, tóc quăn, đôi mắt điểm đường viền. Sơn Nâu nhìn Minh, anh cười nhe hai hàm răng trắng muốt. 
Minh bảo với Sơn Nâu: 
- Điểm hẹn: Đài Ổi. Nơi tập trung: Lung Bèo. Vượt lên dẫn đầu. Nhanh! 
Sơn Nâu quật cây sào nạng vào vai Minh rồi chống mạnh xuống bùn nhún vọt lên. 
Những chiếc tàu tuần của địch đã đi xa, giờ từ phía Giang Thành chúng quay trở lại. Lần nầy chúng chạy máy nhỏ, thả trôi rề rề trên sông, dùng đèn pha quet thật kỹ, soi mói hai bên mé bờ. Tàu tuần của địch chạy thành hình nanh sấu, những chiếc trước chiếc sau tiến quét chéo ánh sáng vào nhau vạch thành những vùng sáng rực. Súng đại liên trên các chiếc tàu thỉnh thoảng nổ ùn ục vào những nơi nào chúng nghi vấn có điều bất thường. Minh nhóng người lên, túm tay đánh tín hiệu cho đoàn xuồng còn kẹt bên kia kinh, qua chưa kịp. Bên ấy, tiếng một người con gái đáp nhận. Rồi sau đó, màn đêm trở lại im lìm, căng thẳng. Đoàn tàu tuần của địch mỗi lúc một nhích lại gần. Ánh đèn pha của chúng cứ quét hối hả dọc theo hai bờ. Chiếc “LPF” đi đầu, “trôi” qua. Kế đó, hai chiếc “pho-ca’ cũng lần lượt qua ngang mặt Minh. Những tên giặc trên tàu bấm cả đèn pin soi vào chỗ mấy chiến sĩ ta đang nấp. Mũi súng AK, súng B.40 từ trong những bụi cỏ ghim thẳng vào hai chiếc tàu địch. Và họ cứ xoay theo. 
Bất ngờ, có một tên sĩ quan đập tay vào vai tên giặc lái ngồi bên cạnh, và khoát lên về phía trước. Hai chiếc tàu hụ máy giật ngược, phóng vọt đi. 
Minh đứng lên, túm tay báo êm qua bên kia kinh. Tiếng con gái bên kia đáp lại. Rồi một tốp xuồng ào ạt lao qua. Họ lao nhanh nhưng không mất trật tự. Minh vẫy tay cho từng chiếc xuồng qua ngang mặt, anh ra dấu bảo quẹo nhanh vào con kinh nhánh trước mặt. Những chiếc xuồng hối hả lao tới ào ào. Lý, người cán bộ tiểu đội trưởng có thân hình cao lêu nghêu, ôm súng B.40 ngồi nấp cạnh Minh, bây giờ có dịp, nhổm người lên, mỗi chiếc xuồng ngang qua đều bị anh ta ném một cục đất vào người đứng chống. Nhưng rồi khi người ta nhìn lại, Lý cứ tản lờ đi, đưa tay gãi đầu mặt hướng nhìn chỗ khác. Chiến sĩ nằm ép mình sau mô đất cạnh Lý, thấy mọi hành động rắn mắc của bạn, nhưng anh ta mãi bồn chồn trước cảnh sắp chạm súng nên không nói năng gì. Long cứ loay hoay cố tìm chỗ nấp tốt hơn quanh mô đất. Bình, cậu chiến sĩ đệp trai, ngồi bình thản, cầm nửa mảnh lưỡi lam cạo cạo mớ lông tơ trên mặt. 
Hai chiếc “pho-ca” lúc nãy đã chạy xa, bất thần chúng quay trở lại, phối hợp với chiếc “xuồng bay” từ dưới dòng nước phía Giang Thành chạy ngược lên, hai đầu quét chéo ánh đèn pha sáng rực. Súng đại liên trên những chiếc tàu bắt đầu nổ giòn. Những dây đạn đỏ lừ bay chéo cánh sẻ về một phía bờ kinh bên nầy. Minh sụt người dần xuống mé con kinh nhỏ nơi đoàn xuồng vừa quẹo vào. Anh đứng ngập bùn lên tới bụng. Những chiếc xuồng ba lá, xuồng mõ hối hả vượt sông, quẹo vào con kinh nhỏ qua ngang mặt Minh, trong làn mưa đạn của giặc. Minh mím môi, thở gấp. Anh thầm nhớ một câu tâm niệm của binh chủng mình : “Người chiến sĩ giao thông vận tải phải biết coi tài, cán của Đảng quí trọng hơn xương máu mình”. Mỗi chiếc xuồng ngang qua, Minh phụ đẩy cho nó lao tới nhanh thêm. Súng của những chiếc tàu địch cứ nổ ùng ục, đạn bay đỏ lừ. Tàu đã đên gần. Nãy giờ Lý cấp súng B.40 chỉ về phía giặc. Anh đã phóng đạn rồi! Tàu giặc, một bựng lửa và khói màu da cam bùng lên. Bọn giặc vọt những trái pháo sáng lên màn đêm đỏ dom, quay tít rồi bừng sáng. Ánh sáng chập chờn, lấp lóe. 
Xuồng chót là xuồng của Nhị, lao ngang mặt Minh. Nhị là một nữ cán bộ phân đội phó phụ trách công tác chính trị trong đơn vị, tuổi độ hăm hai, mặt trái xoan, mũi thẳng, đôi mắt xanh hơi lồ lộ. Nhị có vóc người mảnh khảnh nhưng rắn chắc. Minh vịn vào be xuồng của Nhị, hỏi: 
- Còn xuồng nào nữa không? 
- Hết! 
Đáp lời Minh, Nhị cúi xuống lấy một nắm cơm vắt đưa cho anh. Cầm nắm cơm, Minh vuốt nhẹ vào vai Nhị, bảo: 
- Nhị đi sau chót! Nơi hẹn, điểm tập trung: như trước. Nhanh lên! 
Lý quay trở lại gặp Minh. Cánh tay trái của Lý đẫm máu, nhưng đạn chỉ xượt vào phần mền. Minh đổi súng AK, lấy khẩu súng B.40 của Lý. Lý rút dần lại sau. Bình, với tư thế bình tĩnh, bắn từng loạt đạn căng thẳng về phía giặc. Long nằm dán mình sau gốc cây trụi, run cầm cập, bắn chỉ thiên từng phát một. 
Minh phóng ra một trái đạn B.40. Một nấm khói và lửa màu da cam lại bùng lên. Nhiều tiếng nổ lớn tiếp tục. Một đám lửa lớn cháy cuồn cuộn mỗi lúc một bốc cao trong đêm dưới ánh sáng chập chờn. Chiếc tàu giặc đã bốc cháy tạo thành một khối lửa trôi bập bềnh trên mặt nước kinh Vĩnh Tế. Minh rút dần. Ra đến chỗ Bình, rồi đến chỗ Long. Minh hơi bực mình, anh nắm vai Long lôi dậy. Long đã mất bình tĩnh, cứ bắn chỉ thiên, một viên đạn báy xém qua mang tai Minh. Minh nổi giận, xâu cả hai vai Long, dựng dậy, vung mạnh, gầm lên. Mặt Long thất sắc, nhớn nhác. Minh xô mạnh Long về phía sau: 
- Đi! 
Tất cả lẩn khuất trong đêm. Ánh lửa cháy tàu và ánh pháo sáng còn chập choạng. Pháo 105 ly từ căn cứ Giang Thành bay tới hùng hục, nổ chụp lửa chớp nhoáng. Nhiều cột khói và lửa lại bùng lên, rãi thưa ra trên một khu vực rộng. Pháo im. Có tiếng trực thăng vũ trang từ căn cứ Chi Lăng cất cánh. Nhiều ngọn đèn máy bay chớp, tắc xa xa trên màn trời đêm. Tiếng rốc-két nổ “cảo đùng” tóe lửa nhiều nơi. Phi đội trực thăng cứ quần đảo vòng lớn rồi vòng nhặt. Chúng cứ lần mò, xoáy dần theo hướng rút quân của phân đội "Sáu Mươi".
Chương 2 
II. 
Vùng Lung Bèo, nơi cách núi Cô Tô khoảng mười kí lô mét. Một khu lòng chảo nước mênh mông, lả chả. Rải rác có những cụm tràm chồi thâm thấp, những đám sậy non lưa thưa “nổi trên mặt nước đồng nhẳn thín màu sáng bạc. Còn lại là trảng trống, cỏ bắc, lúa ma phơn phớt màu xanh rêu. Xa xa, khu vực Bảy Núi: núi Dài xanh rì có mấy cái bứu nhô trên lưng; núi Cô Tô cao và tròn tựa chiếc nón lá úp, màu xanh lá cây, màu đá trắng xen kẻ với lốm đốm, vì nơi ấy đã bị nhiều lần bom rãi thảm của máy bay B.52 Mỹ đến hủy diệt. Nhiều đám mây xám trắng ken nhau thành từng cum vương vướng quanh lưng chừng đỉnh núi. 
Qua những trận mưa lớn, trở lại nắng ráo. Mấy cánh diều cheo gió tận trên đám mây mạng nhện mù mù cao. Loài quạ rừng đánh nhau táo tác ở cụm tràm gần đó. Tiếng tiếng cúm núm gù loang âm thanh tỏa rộng trên đồng nước nghe ấm và hơi nghẹn ngào. Vài tiếng bom, tiếng đại bác nổ xa xa làm cho loài cá đồng giật mình nhảy rộ. 
Một chiếc may bay trinh sát L.19 từ hướng căn cứ Chi Lăng bay bê bê trên bầu trời trông như một tên say rượu cô đơn. Nó vừa bay vừa rống lên ồm ồm trong máy phóng thanh: “Hoặc chiêu hồi! Hoặc tử thần! Hoặc... hoặc...” Rồi từ trong thân nó phun ra những cuộn khói xám. Nhưng không phải. Ban đầu ai thấy cũng ngỡ là khói hoặc bột hóa chất độc, nhưng sau đó nó bung tỏa ra và rơi xuống lớp chớp từng mảnh nhiều màu sắc. Bây giờ còn ai lạ nữa: chiếc L.19 kia đang rải truyền đơn. Nhiều lá truyền đơn, phải nói là hàng vạn, mỗi lúc một hạ thấp phân tán trên một vùng rộng ở cánh đồng Tứ Giác. Chiếc L.19 đã bay qua, nhưng tiếng phóng thanh của nó vẫn còn vọng lại vang vang trên đồng nước. Những lá truyền đơn đầy màu sắc đã đáp xuống mặt đồng trắng trắng, đỏ đỏ, đầy đầu những đám tràm, đám sậy trông tựa bầy chim từ đâu bất thần hạ cánh. 
Trong một cụm tràm, hơi mù nhẹ và những lá truyền đơn còn nhún nhảy run run trên ngọn cây, thì bên trong, đơn vị vận tải "Sáu Mươi" đã tận hưởng khoảnh khắc hòa bình. Từng chiếc võng ni lông màu lá cây, màu rong được căn vắt vẻo trên từng cây tràm nầy qua cây tràm nọ. 
Hai chiếc võng của Lý và Thanh căng cạnh nhau. Người bên nầy, người bên kia. Thanh đang chồm qua để cạo rửa vết thương trên tay cho Lý. Phía dưới bụng những chiếc võng là mặt nước đồng dâng cao lé đé. Vết thương của Lý chỉ toạt một lớp da ngoài. Thanh cột xong, khom đầu cắn mối dây. Tóc Thanh tấp vào cổ Lý. Có lẽ bị nhột nhạt khó chịu, Lý đưa tay đỡ cằm Thanh lên. Hai người nhìn nhau, cười với nhau bằng ánh mắt. 
Hai chiếc vọng bên kia, Nhị và Hà, hai chiến sĩ gái, căng cạnh nhau. Hà cầm đọc cuốn truyện Kim Vân Kiều cũ nhèm của Lý, mới mượn được. Cầm sách nhưng Hà cứ liếc chừng về phía Thanh và Lý để tìm cách trêu chọc. Hà: 
- “Trăm năm trong cõi người ta”, cánh tay bị đạn ngẫm mà vui ghê! 
Rồi cô cười. Nhị cũng cười theo. Nhị vã vào vai Hà. Cô bé Hà láu lỉnh vô cùng, cứ cù lại Nhị. Những chiếc võng chao đảo trên mặt nước lao chao. Thanh quầng quắng xấu hỗ. Lý cười lém lỉnh, với tay lấy cuốn truyện Kiều lại, giả vờ đọc để trả đũa lại Hà: 
- “Trải qua một cuộc bể dâu”, những điều trông thấy làm tao tức mình. 
Họ cười ầm lên. Giọng cười vang vang và trong trẻo. 
Một chỗ, Bình và thằng Kéo, một thiếu niên tân binh ngồi trên hai chiếc võng cạnh nhau. Bình ôm cây đàn măng-đô-lin cũ xì , đàn bài “Lỡ chuyến đò”. Kéo cố hết sức xướng âm theo giọng đàn nhưng hơi cứ lạc xa, trớt lớt đến mấy bậc. Kéo: 
- “Người nghệ sĩ lăn tuốt xuống mương, ai thèm thương tấm thân sình chương...” 
Minh căng vòng nằm cạnh Lý, nhưng anh cứ nằm êm, nhai lá tràm non để đắp vào mấy chỗ bị nước ăn lở loét ở kẽ ngón tay, không đá động tới ai. 
Có một chiếc võng đặc biệt, căng riêng cách biệt mọi người, người nằm trên võng đang trùm kín đầu lại bằng một bức vải dù bông. Chốc chốc anh ta lại nhè nhẹ hé mí mền ra nhìn trộm các bạn rồi đậy lại. Long. Nằm trong mền, Long móc túi lấy một tờ giấy có hình tên lính ngụy đầu đội nón sắt, mình mang đồ trận đứng sát nhau với hình một chiến sĩ Giải phóng đầu đội nón nan, mình mặc đồ lục quân. Hai người choàng tay qua cổ nhau, mặt hướng về một nơi xa xa có nhiều nấm khói bom B.52 Mỹ đàng ùn lên khủng khiếp ! Phía dưới hai hình người có một hàng chữ to: “Các bạn hãy dùng truyền đơn nầy thay cho giấy thông hành”...
Mấy ngày nay đơn vị vận tải của Minh cứ ém lẩn quẩn trong con Lung Bèo nầy. Gạo đã hết trước khi đưa hàng đến trạm của thằng Mười Tiếu bên kia kinh Vĩnh Tế. Đã là khó khăn lại gặp chuyện bất ngờ: việc thằng Tiếu ra đầu hàng. Đơn vị hỏa tốc bốc hàng vượt sông về phía bên nầy đất liền của Tổ quốc. Qua một đêm chiến đấu gay go trên kinh Vĩnh Tế, lẫn về đây luôn từng giờ bị lũ giặc đánh hơi truy đuổi, cả đơn vị đành đói meo. “Đói ăn rau, đau uống nước”, đó là khẩu hiệu thường trực của con nhà lính vận tải ở chiến trường đồng nước nầy. 
Những lần trước, họ cứ vượt biên giới đi một mạch đến khu vực nầy, đột vào những ấp chiến lược trên bờ kinh xáng, nhờ cơ sở mua gạo là có ăn ngay. Lần nầy, sự đời không tùy thuộc theo ý muốn của họ, đã ba lần tổ chức dùi ra đều bị dội lại vì bọn giặc đã điều đến một chi đội xe lội nước nằm chắn ngang, cản trở trục giao thông của ta. Sáng sớm, bọn lính ngụy nấu ăn ngay trên nắp xe, khói bốc nghi ngút đầy đồng. Độ nửa buổi, đã thành quy luật, chúng căng hàng ngang mỗi chiếc cự ly một trăm mét, càn tới, thụt lui trong một khu vực quy định và cho nổ súng vu vơ vào các cụm rừng chồi cốt để thăm dò xem lực lượng đơn vị vận tải trú ẩn nơi nào. Mỗi ngày một lần, chiếc “cần cẩu” từ thị xã Rạch Giá bay xuống thả hàng tiếp tế những bọc to sù. 
Đơn vị không còn gạo ăn, cứ chia nhau đi hái rau muống, gạt nai, cỏ bòng bòng, bông điên điển mà luộc. Mấy ngày đầu họ ăn đọt non, riết rồi phải tận dụng đến lá. Rau: sáng rau, chiều rau. Rau ăn mãi nghe tanh tanh làn lạt. Cứ rau luộc nước lã, nước lã luộc rau suông, chẳng một thẻ đường, nhúm muối để nêm dậm chớ nói chi đến thứ bột ngọt. Cơ thể người bị thiếu muối sinh nhiều chứng: nhìn nắng vàng có pha màu máu, tay chân rũ riệt, bụng dạ lõng thỏng, hơi thở rối loạn. Mấy cậu con trai thì thầm với nhau rằng mấy người nay họ đi tiêu phân màu xanh như sương sáo. 
Ở chiến trường nầy, cái tàn ác nhất vẫn là nước. Nước làm khốn khổ bọn con trai, làm tội tình các cô con gái đến cùng cực trong sinh hoạt giới tính. Các cô không thể mặc độc một chiếc quần cụt nằm cuộn tròn trong võng mà ngủ như bọn con trai được. Mỗi người chỉ có một bộ đồ. Đêm hành quân: ướt, ngày lội đi cải thiện: ướt, đứng nấu ăn: ướt, tránh máy bay: ướt, lúc nghỉ ngơi: ướt... Nhất nhất phải mang bộ đồ ướt trầm ê mà chịu. Biết sao tránh khỏi nỗi thiệt thòi một khi là thân con gái? Ai đã tứng thấm thía cải xót của ghẻ nước ăn, cái ngứa của hắc lào thì mới thông cảm phần nào nỗi khổ của các cô gái sống trên chiến trường đồng nước nầy. “Lác khô đi trước, lác ướt theo sau, hai lác gặp nhau, hè gãi!”. Đó là câu vè của Lý sáng tác ra để ngân nga trêu chọc con nhà lính vận tải. Còn câu ca dao mà con bé Hà thường trêu chọc các anh nó thì: “Ô môi xức lác còn hay hơn muồng, lấy chồng bộ đội chở xuồng ô môi”. Nghe vậy, bọn con trai chỉ mỉm cười và nháy mắt cho nhau: Con Hà dùng sai chữ. Phải nói “lấy vợ bộ đội” mới chính xác hơn.
Sáng nay phải nói là một buổi sáng hòa bình nhất. Trời trong veo. Một vài tảng mây xám nhạt răn reo vởn vơ lót nền cho vòm cao xanh màu trứng sáo. Hương đồng mùa nước có một mùi chua chua làn lạt, thoang thoảng mùi mật hoa tràm, mùi hoa điên điển. Mùi hương lúa ma trổ sớm hòa lại thành mùi hương cốm dẹp. 
Nước đồng có nơi sâu đến thắt lưng, trắng và trong như rượu, có thể một cây kim may chìm tận đáy cũng nhìn thấy. Nước đầu mùa ở đây có vị chua của phèn, vị chát của cỏ ủ và mùi hôi của bùn khô. Cá đồng rất nhiều. Ban ngày chúng sợ ánh sáng, cứ nấp kín trong những kẹt cây, gốc cỏ chờ có tiếng nổ lớn là hè nhau giật thót quẫy lên một lượt. 
Cứ chuyện tào lao mãi không gì hấp dẫn, anh em sinh uể oải. Bình gói cây đàn măng-đô-lin lại trong tấm vải mủ, treo lên đầu võng. Sau đó câu ta dùng một nhợ câu có buộc lưỡi, bẻ một đài hoa điên điển móc vào, quăng xa, và kéo rê lại như người nhấp cá lóc. Minh nhìn xung quanh, anh thấy có có người đã ngái ngủ, có người còn trăn trở trên võng, có người lại hái lá tràm non nhai giập để xoa vào những vết nước ăn lở lầy theo kẽ tay, ngón chân. Màu nắng của buổi sáng đầu mùa mưa trong như bột lọc. Không gian im tuyệt nhiên. Không khí êm ả nầy càng gây cho Minh một cảm giác mơ hồ mông lung. Anh chợt bắt gặp từ bên trong mình một nỗi niềm canh cánh bâng quơ của một cái gì đang dang dang dở dở. Dường như chính mình vừa làm tổn thương một người bạn gái điều gì hoặc làm đổ bể một vật gì thật quý giá. Chuyện xích mích cùng Nhị, cô gái phân đội phó phụ trách chính trị ấy... Thằng Kéo, cái thằng bụi đời kia, phải có biện pháp giáo dục chứ, tai hại là việc nuông chìu chiến sĩ... Nhị có đúng không?... Chuyện đã nói thẳng vào mặt Nam Hoa, người chính trị viên phó đại độ đội hậu cần rằng đã mất niềm tin về tư cách và cũng như về quan hệ lý lịch của anh ta. Năm Hoa không có bà con với tên Mười Tiếu vừa đầu hàng ư? 
Để xóa đi những nghĩ ngợi lang bang nầy, Minh bật dậy với tay ngắt mấy lá tràm cho vào miệng nhai bỏn bẻm. Rồi cũng không biết phải làm gì, anh cứ cầm một que cây quơ quét trên mặt mình. Bất chợt Minh thấy có con chàng hiu ngồi lim dim trên cành cây gần đó. Sẵn cầm que cây, anh vói đập con nhái chết tươi. Vứt xác nó cho Bình, Minh bảo: 
- Móc thả xuống nước chút sẽ có cá lóc ăn ngay. 
Bình cười, làm theo Minh: 
- Buồn ngủ mà gặp chiếu manh. 
Bình vừa nói một câu tục ngữ, có lẽ cậu ta vừa học lóm của Lý. Trước mắt Minh, sao Bình đáng yêu quá! Hai má Bình tròn phính, hồng hào, đôi mắt dài có hàng lông mày vòng nguyệt, tất cả đều gợi lên dáng dóc của một cô gái mặn mà. Tính Bình rất cẩn thận và ngăn nắp. Cậu ta luôn ăn mặc gọn gàng bất cứ ở trường hợp nào. Nằm võng, khẩu AK láng bóng treo đầu nầy, cây đàn măng-đô-lin bọc giấy kiếng kỹ lưỡng treo đầu kia, băng đạn trước ngực, chiếc khăn vải dù hoa ngụy trang choàng ốp sau lưng. Bọn trai nhìn Bình còn thấy yêu say, bảo các cô gái không đeo theo đòi dạy đàn, tập ca sao được? 
Cánh đồng phản chiếu màu sắt biếc. Màu rong của những chiếc võng trộn trong mùa xanh lá cây, màu xám của lớp tràm hòa lẫn mùa vải ngụy trang, tất cả đều sáng rực lên. Những con người mặc đồ vá đụp, tay chân nước ăn ghẻ lở, mình mẩy trầy trụa hắc lào, tóc tai vàng hoe râu bắp, mặt mày sần sùi da cốc; các đồng chí của Minh đấy ! Hôm nay sao họ giống những vị thần nằm gọn trong lòng anh? Bỗng dưng Minh thấy mình bé bổng, ngây thơ một cách kỳ lạ! Và anh cứ nằm im nhìn Bình. 
Bình thả chìm con mồi nhái lao chao xuống nước. Mồi vừa tới đất, có hai con cá rô mề chạy đến, dừng lại nhìn sững. Con cá tới trước, sau một hồi xem xét rồi bỏ đi. Con cá tới sau uốn cong cái mình đen trạy, giương hai hàng vây, lao mạnh vào mồi rồi cũng chạy vọt. Nó bỏ lại một cuộn bùn quăn queo sau đuôi. Chốc sau, trong đụm lá lá tràm một con cá lóc ló ra thập thò nhè nhẹ đến bên mồi tỏ vẻ bỡ ngỡ. Minh và Bình đưa mắt nháy nhau, im lặng. Con cá lóc từ từ đưa mỏ ngửi mồi rồi há miệng như ngáp. Con mồi liền chui tọt vào giữa cái mõm đen nhẻm và tròn tựa trái gòn khô của nó. Nó đang thư thả nhấm nháp, trệu trạo dường như cảm giác trong mồi có mùi gì lạ. Minh và Bình cứ ngồi chăm chỉ theo dõi con cá một cách thú vị. Bình trở bộ lấy thế để giật mạnh cho ngạnh câu xốc vào hàm cá... 
Bỗng mặt đất rung giật. Nước đồng chồm lên liếm bụng võng. Đồng lúc với tiếng cá quẫy rộ, một “cây cột” âm thanh khổng lồ dựng lên hướng biên giới. “Cây cột âm thanh” lụn xuống bắn ra nhiều khối tiếng nổ chát chúa làm tê dại màng tai. Sau tiếng nổ long trời lở đất ấy, đồng cỏ chồm lên, hạ xuống; rừng tràm dựng lên, rạp xuống; mặt nước dâng lên, tuột xuống; vũ trụ bung ra, co vào và chuyển động ầm ầm, ào ào; không gian bể nát ra từng lượn sóng, từng âm hưởng khác nhau cứ đua chạy lan lan đến hơn một phút sau chưa lặng. Ở đây thường có những chiếc máy bay không biết từ đâu tới ném xuống những trái bom bảy tấn làm rung chuyển đồng nước như vậy. Mỗi ngày chúng ném một vài quả theo dọc tuyến biên giới, không thành quy luật. Có lẽ bọn Mỹ ngụy định dùng những “chiếc âm thanh” khổng lồ ấy hòng chẹn vào giữa hai dân tộc Việt Nam - Campuchia anh em cho dạt xa nhau ra. Đợt sóng âm thanh lặng xuống, còn lại tiếng động cơ của chiếc máy bay khát máu kéo lê ngang bầu trời nghe như rên rỉ. Và sau đó lại có tiếng lè nhè của chiếc máy bay “đầm già” lúc nãy từ thị xã Rạch Giá bay đến. Anh em rục rịch cuốn dẹp những chiếc võng căng lộ thiên. Từ cụm tràm bên kia, nơi tiểu đội nữ trú quân, tiếng các cô réo lên vơi vơi: 
- Chiếc “đầm già” đỏ đuôi bay thấp lắm nghêu! 
- Loại máy bay trinh sát của sư đoàn đó nghêu! 
Bên nầy Lý vẫn nằm ì trên võng không thèm ngóc đầu dậy, đáp lời: 
- Kệ cha nó nghêu! Thứ con mắt bịt bạc đó, sợ gì. 
Minh vói bẻ mấy nhánh tràm đậy lên người cho Lý. Sực nhớ đến Sơn Nâu, anh chàng người Khơ Me phân đội phó, lúc nãy là bảo lội ra trảng cỏ tìm bắt trứng chim. Minh lầm bầm một mình : 
- Có tai để nghe ngóng gì không? Làm sao không được ăn trứng chim mà lại ăn lễ truy điệu mới khốn nạn cho. 
Bình treo con cá lóc mới câu được trên nhánh tràm, xốc lại yếm đạn, mang súng, mở chiếc võng quấn lại từng nuột như đòn bánh tét, cột vào bên sườn. Cậu ta ngồi trên một cây tràm làm đà bắc ngang. Tất cả lần lượt làm theo Bình. Có lẽ Lý thấy mình nằm nướng hoài sinh trơ trẽn, anh ta tốc bỏ những cành cây ngụy trang, nghểnh người, vươn vai trên võng. Sẵn đà, Lý chồm lên câu tay vào hai cây tràm gần nhất để trông theo chiếc máy bay. Chiếc võng ni lon quằn bụng căng phồng, lắc lay, nhún nhảy. Minh ghìm mũi súng AK kềm võng lại cho Lý. Lý quan sát, ề à thông báo tình hình: 
- Thằng cha Sơn Nâu ói phở rồi! Đang lom khom giữa trảng trống như chó ỉa kìa. - Lý chặc lưỡi - Chiếc máy bay đã phát hiện được cha nội rồi. 
Lý vừa báo dứt, Minh nghe hơi bay của chiếc “đầm già” đổi khác: giọng ngập ngừng, hơi rì rì và lọc cọc tợ người già húng hắng ho. 
- Đúng rồi! 
Tất cả kêu lên một tiếng tối nghĩa như vậy và cùng nhìn nhau, nhưng họ đều hiểu ý được nhau. Minh chồm lên, tay câu lấy hai cây tràm đu mình để xem. Theo hướng chỉ của Lý, chiếc máy bay trinh sát L.19 đã “nín thở” lao xuống chỗ Sơn Nâu. Nâu ở giữa trảng trống, chung quanh chỉ có cỏ bắc lất phất. Anh lúng túng, định vùi xuống nước. Nước sóng sánh phản chiếu lấp lóa dưới ánh nắng sớm. Nâu định bườn chạy, lại không. Anh lúng túng. Chiếc L.19 cứ theo độ chúc từ trên lao xuống chầm chậm. Cự ly hai bên mỗi lúc một rút ngắn. Chiếc máy bay kêu lục bục chứng tỏ nó sắp phóng rốc-két vào Nâu. Với mục tiêu di động ở giữa đồng như thế, phải nói là loại máy bay nầy phóng pháo ngay như để. Minh cắn răng, ruột gan dồn hết lên ngực. Không biết làm sao chi viện cho Sơn Nâu được, Mình đành mím môi, nín thở chờ đợi một cái gì... Chỉ trong chớp mắt nữa thôi, “cái gì” ấy sẽ gặp một hậu quả khó lường nổi. Phải nghĩ hết cách để chi viện Sơn Nâu. Bắn thì lộ. Không bắn thì đồng chí hy sinh. Tinh thần trách nhiệm của một người chỉ huy trong chớp nhoáng bùng dậy một quyết định: việc gì còn có thể thì để sau, việc gì không cách khắc phục thì hành động ngay. Minh quyết định. Anh thét như sắp khóc: 
- Bắn! 
Chưa biết tiếng hô của Minh vang ra tới Sơn Nâu ngoài kia không, nhưng trong nầy Bình lên đạn khẩu AK đánh rốp, nhảy ùm xuống nước, bươn bả ra đồng. Cùng lúc, ngoài kia Sơn Nâu đứng thẳng người lên, nòng súng của anh chĩa vào chiếc máy bay, hai mũi giao nhau trên một đường xiên. Bình chưa kịp nổ súng thì ngoài kia đầu súng của Sơn Nâu đã phụt khói. Đốp ! Một tiếng nổ cô độc giữa đồng nước nghe khô khan. Thế mà đồng nước như giật mình, rùn lên. Một bựng nước và bùn tung lên lấp mất Sơn Nâu. Bầu trời trở lại trong xanh và im ắng, chỉ còn nghe tiếng quẫy đuôi rời rạc của loài cá đồng. 
- Máy bay rớt rồi! 
- Hoan hô, máy bay rớt rồi! 
Sau tiếng reo hò vỡ lở ấy, tiểu đội nữ bên gò cát tràn ra. Bên nầy các cậu trai cũng tràn ra đồng nước. Nước sâu đến thắt lưng. Những lúa ma, cỏ bắc vướng vít theo người, bất kể họ cứ ngoi lên. Chỗ chiếc máy bay vừa rớt bỗng có một loạt AK ré lên giòn kháy. Như thế có nghĩa là Sơn Nâu chưa bị máy bay “cáp dốl’. 
Còn trăm mét nữa, sức Minh đã kiệt. Anh nằm dài trên nước, quàng súng tréo lưng, hai tay nắm cỏ toài người tới. Nhiều anh em khác cũng làm theo như Minh. Còn vài người cố chạy, nhưng tiến lên được mấy mét lại té nhủi một cái. Tất cả đều lếch thếch, lử khử. Minh nghe cơ thể mình nhẹ tênh như cơn mệt đã cướp đi hết nửa phần sức nặng. Cố gắng, mắt đổ đom đóm, tai lùng bùng, các mạch máu đều sục lên đầu, vỗ rần rần vào hai bên thái dương. 
Mặc dù mệt lã cò bợ, Minh cũng đã đến nơi với những người đầu tiên. Những con người ngồi thở hồng hộc trong nước chưa thể tin ngay được rằng một đống sắt màu nâu biếc lớn bằng chiếc xuồng be mười kèm kia có cái đuôi đỏ chót đó là chiếc máy bay trinh sát hiện đại của Mỹ mà mấy phút trước đây nó đã từng hùng hổ gieo chết chóc xuống cho họ. Bên cạnh đống đuya-ra to sù kia, có hai cây thịt nhúng bùn, một lớn mà thấp, một nhỏ mà cao đang chỏ cành vào nhau, đầu cành có búp hoa bằng sắt, loại hoa thường nở ra hạt đồng. Nếu không thấy được hai mắt đục lừ và hai cánh mũi to hự như quả cà chua ở phần trên cây thịt lớn và thấp kia, nhất định chưa ai biết được đó là một thằng giặc lái Mỹ. Còn cây thịt nhỏ và cao không gì khác hơn là Sơn Nâu. Một khẩu côn đuôi, một khẩu AK chĩa nòng vào nhau, cách nhau không đầy năm mét. Một đôi mắt đục lừ  thô bạo và táo tợn, một đôi mắt viền xám tự tin và kiên nghị đang giao nhau bằng những tia lửa cực mạnh. Họ định thiêu nhau bằng ánh mắt mà quên cả động tác ấn ngón tay mình vào cò súng. 
Khi Minh chĩa súng vào tên giặc lái, khoát tay ra hiệu cho nó đầu hàng, lúc ấy ánh lửa của nó mới từ từ tắt lịm. Khẩu súng lục trên tay nó rơi tỏm xuống nước. Sơn Nâu cũng chậm rãi quàng khẩu AK vào vai, rồi mở một nụ cười xả láng bày ra hai hàm răng trắng muốt giữa bộ mặt nhem nhuốc bùn. Thấy Sơn Nâu cười, tên giặc lái gục đầu khóc.
Sơn Nâu bảo lúc chiếc L.19 rớt, chút nữa anh bị nó đè bẹp nát xương, bùn và nước phủ lấp người anh. Khi ngoi lên được, Nâu ngỡ những tên giặc lái đã cáo chung theo cái chiến cụ hiện đại của nó rồi. Trong súng anh còn hăm chín viên đạn, liền quạt hết vào đống sắt vụn kia để thị uy chiến thắng. Nào ngờ khi lội vòng qua bên kia, Nâu bỗng gặp tên giặc lái Mỹ văng ra còn ngồi một đống sần sần, nó chỉ gãy một vế đùi trái. Chợt thấy anh, thằng Mỹ vội rút súng lục ra và anh cũng ghìm AK lại. Tên giặc lái từ trên trời rơi xuống làm sao biết trong súng của đối thủ vừa quật lộn đầu mình kia lại chẳng còn một viên đạn nào? 
Lý là người tới sau cùng. Cậu ta quấn chiếc võng trên cổ. Lý lội ngúc ngắc trên nước, chiếc võng tung ra một đầu trãi dài theo sau trông tựa một chú lân con đang biểu diễn. Minh chỉ tay vào tên giặc lái Mỹ, bảo Lý: 
- Mở võng ra, cáng nó về! 
Lý cùng chị em tiểu đội ba cán tên giặc lái Mỹ về chỗ đóng quân. Minh phân công Nhị về chỉ huy bên ấy: nơi mà có một gò cát khô khan và còn có một chiếc hầm đắp nổi. Họ khiêng không nổi, buộc phải bọc thằng Mỹ trong chiếc võng mà kéo là là trên nước. Có lẽ niềm tủi hổ cho số phận của một chiến khách từng đi mây về gió chẳng may bị sa cơ thất thế, cộng với nỗi đau của vế đùi bị gãy, nên tên Mỹ cứ há họng khóc khùng khục hoài. Nó không muốn rời “con ngựa sắt” và “con ngựa người” của nó - xác tên giặc lái ngụy còn nằm chết trong chiếc máy bay - thằng Mỹ thò tay níu cỏ ghị lại. Tiếng khóc của nó mỗi lúc một giòn, một lớn nghe như giọng cười ngạo nghễ của một anh kép hát trên sân khấu có âm trầm. 
Thằng Kéo, một cậu bé tân binh của phân đội thấy “động lòng”, đành phải mượn bá súng AK để đoạn giùm mối tình dang díu đã tuyệt vọng của chúng. 
Nhị rầy Kéo. Minh căn dặn Nhị: 
- Chúng ta phải giữ nó để giải về trên. Trước hết Nhị cho anh em trói nó lại và giấu kín vào chiếc hầm đắp nổi ở gò cát! 
Trông vào ánh mắt đáng tin cậy của Nhị, Minh biết dặn như thế là dư. Một bí thư chi bộ, đồng thời là một phân đội phó, lâu nay Nhị tỏ ra là một người gương mẫu về mọi mặt trong nội quy kỹ luật. Nhị chẳng đã giáo dục anh em trong phân đội rất nhiều ở điểm nầy sao? Nhị không đáp, không gật đầu nhưng Minh thấy tin tưởng. Ngược lại, anh để ý đến ánh mắt của thằng Kéo nhìn trả lại anh như có một cái gì chống báng khinh thường. Minh nghĩ : “Do đâu thằng nhóc nầy có những ánh mắt thách thức, những nụ cười khinh khỉnh thật là khó chịu như vậy?” Minh cảm thấy lòng tự ái của mình bị tổn thương nghiêm trọng. Thằng Kéo “lừng phèn” với anh như thế nầy là tại ai? Nhị! - Minh lại nghĩ: “Tại sao Nhị được nhiều người yêu mến, kính trọng hơn mình? Nhị có mặt nơi đâu như tình thương của một người chị, một người mẹ chan hòa với chiến sĩ đến đó?”
Nhưng tình hình trước mắt khẩn cấp lắm rồi! Giặc sẽ đánh trả đũa ngay lập tức vì cái vồ thất bại bất ngờ nầy. Đơn vị phải rút ngay. Sơ tán hoặc di chuyển hàng và xuồng vào một nơi nào có địa thế có lợi cho ta. Những chuyện thắc mắc nhỏ gác lại, sau sẽ tính. Nghĩ vậy, Minh liền ra lệnh: 
- Tiểu đội ba giấu kín tên giặc lái Mỹ lại gò cát, sau đó tập trung xuồng bọng chở hàng hành quân về khu vườn hoang ở ngã tư kinh Đường Tắt!
Chương 3
Trong một khu nhà hoang nằm vào góc thước thợ của kinh xáng Tân Hội với kinh Đường Tắt, phân đội của Minh ém quân, ém hàng và chuẩn bị chiến đấu. Cất giấu xuồng bọng, hàng hóa, bố trí đội hình cồn sự xong thì có một chiếc máy bay “cán gáo”từ hướng Mỹ Lâm vè vè đến. Nó bay không thấp lắm, cứ nghiêng nghiêng, ngó ngó như một con ong tò vò. Chiếc máy bay khoanh được một vòng, vụt nghểnh đầu, đưa cái ức cu tròn bóng vọt thẳng ra đồng xa. Hiện tượng nầy cũng chưa có gì lạ. Minh cứ để yên cho chiến sĩ ai nấy bám vị trí của mình. 
Ngồi trên một cộng sự cũ cạnh bụi tre gai, Lý đưa cánh tay dài khòng chỉ theo chiếc máy bay : 
- Đến độc lập tao mua một chiếc như vậy để chở chị mày đi chợ chơi, nghe Kéo! 
Thằng Kéo có thân hình gầy guộc, loắt choắt, sọ gồ ra sau đầu. Nó hất khuôn mặt dài nhìn Lý, ra vẻ giận dữ. Nó có biệt danh là Kéo-chịu - chơi. Là một thằng ma-cà-bông sống giữa thị xã, Kéo được Nhị lôi ra từ một đống tường đổ vào đợt tổng tấn công Mậu Thân, lần lực lượng ta đánh vào trung tâm. Lúc Minh đến, Nhị đề nghị được dắt Kéo theo. Hai người chưa thống nhất, họ tranh luận với nhau:
- Cứ gởi nó lại cho địa phương hoặc một đơn vị nào đó, Nhị quên rằng chúng ta hành quân tựa con thoi sao? 
- Địa phương không còn bám trụ, đơn vị khác thì... ta lại giao gánh nặng cho bạn à? 
- Nhưng nó đang bị thương chân, đi không được. 
- Chân nó chỉ bị sai khớp, em sẽ cõng nếu đoạn đường nào không có xuồng. 
- Nhưng cái thân hình nghiện ma túy đó thì tải với vác gì? 
- Kéo đói quá nên gầy trơ xương như vậy chớ không phải nghiện. Cách mạng không cứu vớt những người đói khổ thì làm gì? 
- Thôi, tùy cô. 
Họ bàn cãi không cẩn thận nên câu chuyện lọt vào tai thằng Kéo. Từ ấy, mỗi khi chạm mặt, Minh cứ bắt gặp ánh mắt không thiện cảm của nó. Ngược lại, theo lời Lý thường bảo, Kéo xem Nhị như một bà phật mẫu... 
Ba hôm nay, một chi đội xe lội nước của địch từ Mỹ Lâm cứ kéo vào đánh nhau với đại đội hậu cần tỉnh ở khu vườn nầy, nhưng chúng đều bị đánh bật ra. Giặc giã, bom pháo ầm ầm, ai đụng đâu đánh đó, có biết chỗ nào yên chỗ nào động. Minh dẫn phân đội của mình về đây là cố tránh trận đánh trả đũa ngoài lung sình, vì nơi ấy là đồng trống, sình lầy, địa thế rất bất lợi cho ta. Nhưng thật là “ma dẫn lối, quỷ đưa đường”, sau khi giấu tên giặc lái Mỹ ngoài ấy, Minh điều cả phân đội và hàng hóa về đây để chui vào sự nổi giận của bọn địch vào ngày thứ tư dốc sức đánh báo thù cho những ngày qua bị nhục nhã. Phân đội đến vào lúc chín giờ sáng, tình cờ Minh gặp lại Năm Hoa, người chính trị viên phó đại đội hậu cần tỉnh còn trú quân nơi đây. Minh hợp đồng lực lượng, cắt đặt địa hình, phân chia vị trí chiến đấu với Năm Hoa... 
Và bây giờ, con nhà lính vận tải trở lại với những câu chuyện tếu nhà nghề của mình. Kéo giận Lý, nó tưởng anh xúc phạm đến chị Nhị của nó. Lý chẳng nghĩ đến điều nầy, cứ kiếm chuyện nói chơi chung chung cho vui: 
- Tao cho máy bay đảo chậm chậm và ngồi sát bên chị mày. - Lý choàng tay qua cổ Kéo, vuốt vuốt tóc nó - Tao sẽ âu yếm và hôn chị mày thế nầy... 
Thằng nhỏ xô bật Lý ra. Hai tay Lý choãi ngược, không may chống hụt xuống miệng công sự. Lý chới với, bật mạnh người, cắm đầu vào bụi tre gai. Bụi tre gai từ thời “Gia Long còn làm hương sư” tới giờ chưa ai dọn dẹp, mạng nhện dày đặc tựa bùng nhùng kẽm gai. Lý mắc kẹt nửa người, chổng mông kêu la inh ỏi. 
Bình ngồi công sự bên kia vỗ tay cười ngặt nghẹo : 
- Hoan hô! Chó chui lỗ vách. 
Thằng Kéo còn đầy nư giận, mũi nó khục khịch, gầm gừ từng tiếng: 
- Hên đó! Hôn đi! Đút đầu vô bụi mà hôn. Đừng đụng tới Kéo - chịu - chơi nầy. 
Nói xong, Kéo bậm môi, mặt hất tới như ngầm bảo Lý phải nhớ đời lấy việc cảnh cáo ấy.
Bị mắc nhùng nhằng trong bụi tre gai không thụt lui được, Lý nổi quạu tuôn ra “nho chùm” bất kể văn hóa: 
- Mẹ kiếp! Rồng cạn bãi bầy tôm giỡn mặt, hùm sa cơ lũ chó ngoắc đuôi. Cái thằng Bình-công-tử-bột vui sướng chi mà há miệng, lắc đầu trông như bà bóng rỗi vậy? 
Tuy la lối bậm trợn nhưng Lý cũng đành chịu trận chổng mông vào bụi tre gai. Bình bị Lý chọc đúng vào chỗ kiêng cữ, mặt cậu đỏ bừng, chỗm tới định tống thêm một đạp vào mông cho Lý tọt vào bụi tre gai. Nhưng Bình vụt sựng lại, vội quày về công sự vì tiếng nổ lớn, cây cối rung chuyển ào ào. 
- Ô-buýt! 
Lý bật người ra như cần bẫy vuột mấu, phóng nhanh lại miệng công sự của mình. Chỉ có cách đó mới gỡ rối cho Lý nhanh nhất, nên Bình phải la lớn mà báo động như vậy. Thằng lính pháo binh nào đó hợp đồng cũng khá ăn khớp. Tiếng nổ nghe tròn và bốc lên. Lại không nghe tiếng nổ đầu nòng, nhất định là không phải đại bác của địch bắn. Họ còn đang phân vân suy nghĩ. Bỗng phía đội hình cánh Năm Hoa có tiếng người la lối lao xao. Bình đứng lên bảo: 
- Không phải đạn B.40 nổ tôi cùi lở mình cho. Điệu nầy thám báo giặc mò vô, bị cánh Năm Hoa nện cho rồi. 
Minh cho Kéo chạy ra sau, chỗ tiểu đội nữ của Nhị đang bảo vệ khu giấu hàng, bảo chị em căng ra công sự sẵn sàng chiến đấu.
- Nói với Thanh với Hà gài trái xuống những chỗ quy định, bảo Nhị lên đây anh bàn chút việc nghe Kéo! 
Kéo mang khẩu CKC lệt bệt nhảy qua mương. Vóc dáng nó nhỏ thó nhưng khuôn mặt già khăn; tuổi đã lên mười lăm mà trông chừng mười ba. Nhiều nếp nhăn từng trãi hằn lên vầng trán của thiếu niên gian khổ và bất hạnh ấy. 
Nhị vừa lên tới thì có một người của đơn vị Năm Hoa chạy lại, anh ta bảo Minh đến ngay, có việc khẩn cấp! Minh quay lại bảo Lý vác khẩu B.40 ra bờ “râu tôm” tăng cường cho nhóm Lý Sên vì hướng đó là yếu hầu của phân đội. Lý Sên là một cán bộ phân đội phó đang chỉ huy tiểu đội hai giữ mặt cánh đồng ngoài ấy. Lý vác súng đi. Minh cùng Nhị theo cậu liên lạc đến  chỗ Năm Hoa. 
Đến Nơi, Minh thấy Sơn Nâu đang và mấy người hì hụp mò tìm những mảnh thi thể của một chiến sĩ vừa bị trái nổ văng ra. Năm Hoa, người chánh trị viên phó đại đội ngồi hút thuốc bên cạnh mấy chiến sĩ bị thương trên một tấm lá chầm. Thấy Minh và Nhị, Năm Hoa ném tàn thuốc đưa tay xoa chiếc cằm trọi như nắm tay, cau mày, giọng nói gừ gừ trong ngực: 
- Anh em đang ngồi ăn cơm, thằng Mậu ấy mà, còn đi hái thêm nắm rau. Đã bảo thôi, không nghe. Rõ ràng là trời xui đất khiến. Nó càn ngay... Thật là vô ý thức không còn chỗ nói. Càn chi vô chỗ chết người vậy ? Đầu đạn có kíp gạt của trung đội ba hôm qua gài chưa gỡ. Bảo đừng, cũng lội vô cho kỳ được... Lâu nay đại đội đã hao hụt quân số quá chừng, giờ lại hao thêm. Chết thì chết hoài, ngữ nầy đánh đấm nỗi gì? Đồng chí Ba Minh ở lại tự lực liệu lấy trận địa. Cánh tôi phải rút ngay để làm công tác thương binh tử sĩ. 
Minh còn ngơ ngác. Năm Hoa chợt nhìn qua Nhị, anh vội nhướn đôi mày rậm và ngắn ngủn lên cho gương mặt sáng sủa ra. Năm Hoa gượng cười: 
- Chắc tôi phải nhờ cô Nhị một tay... 
Năm Hoa nín lại. Minh biết anh ta muốn nói chuyện riêng với Nhị, nên bỏ đi lại đầu mương, ùm xuống mò tử thi với Sơn Nâu. Trên bờ, Nhị và Năm Hoa trao đổi nhau chuyện gì rất lâu, chắc có lẽ khác nhau về quan điểm nên có lúc thì thầm, có lúc lớn tiếng và gay gắt. Chốc sau, họ to tiếng không cần giữ bí mật gì nữa : 
- Lo cho thương binh và tử sĩ là một chính sách lớn, tôi đang lên cơn sốt nhiều. Bởi nó là một gánh nặng, tôi thấy cô cần phải rứt ra, đi chỉ huy thay tôi. Tôi giữ vai trò chánh trị viên thôi. 
- Bảo vệ hàng là một gánh nặng, nên tôi không đành trút hết lên vai các đồng chí của tôi mà trốn chạy... 
- Cô đừng có lý tưởng cuồng, bướng quá rồi ân hận. Phải nghĩ tới mình một chút chớ. Người với hàng cái nào nặng hơn? 
- Một khi nghĩ đến chạy trốn về phần mình thì tôi cảm thấy xấu hổ lắm. Là lính vận tải, hàng xem trọng hơn mình. 
Năm Hoa nổi trận lôi đình, đứng lên phủi đít, gọi sang Minh: 
- Đồng chí Ba Minh nầy, có thể phân công cô Nhị dẫn đường cho chúng tôi đến trạm quân y huyện được không? 
Từ dưới mương Minh đáp lên: 
- Có quá chớ.
- Việc đưa đường đến quân y huyện thì hãy cử Long đi. - Nhị phản đối ý kiến của Minh - Đồng chí ấy thông đường hơn tôi. Lại nữa tôi đã xuống trái nổ gài khắp khu vực của mình, không thể bỏ lại cho người khác được. 
Minh trèo lên bờ, đứng rũ nước quần áo: 
- Nhị đã bảo vậy, đồng chí Năm Hoa thấy thế nào? 
Năm Hoa chần chừ một chút rồi bảo dứt khoát: 
- Thôi thì... Tôi phải đi gấp. Các đồng chí tính sao cũng được. - Giọng Năm Hoa trở lại gay gắt - Đồng chí Minh nầy! Đồng chí đừng tưởng trong tay mình nắm trọn một phân đội vận tải độc lập là đã vượt khỏi sự lãnh đạo của phòng hậu cần tỉnh đội nghe! Xin đồng chí lưu ý cho điều nầy vậy. 
Minh nổi sùng, nhưng anh cố giữ giọng ôn hòa: 
- Tôi nào có hành động vô tổ chức bao giờ, thưa đồng chí chính trị viên phó đại đội? 
Năm Hoa trước đây tên là Năm Dương, ở đơn vị bảo vệ tỉnh ủy, vì yêu cô Hoa cấp dưỡng nên anh lấy tên người yêu đặt cho mình. Nhưng sau đó trắc trở thế nào mà hai đàng “nhả khằn” nhau, Dương đành chịu mang cái tên Năm Hoa vì người đời đã gọi quen miệng. Lúc Nhị còn công tác ở Tổng trạm, Năm Hoa chuyển ra hậu cần, anh có đặt vấn đề tìm hiểu để đi đến xây dựng hôn nhân với cô. Không biết từ ấy đến nay tiến thoái thế nào mà chưa thấy xuống mối. Chuyện chưa ra sao, các cô ở phân đội cứ theo trêu Nhị: “Bao giờ chị Nhị cho phép anh ấy sửa tên một lần nữa?”. Năm Hoa được đề bạt lên cấp đai đội bậc phó đầu đọt Tổng tấn công Mậu Thân, lúc nầy anh vẫn còn theo đuổi Nhị. Về chuyện đánh đấm gian khổ Năm Hoa nhường phần cho người  khác, nhưng chuyện chức cấp và quyền lợi thì anh rất là “xung phong gương mẫu”.
Minh phân công Long, một chiến sĩ trong phân đội, ra đi với cánh Năm Hoa, và cho Sơn Nâu dẫn tiểu đội lên tăng cường mặt nầy, phối hợp với mấy chiến sĩ của đại đội hậu cần còn lại. Xong đâu đó, Minh và Nhị trở lại vị trí của mình.
Riêng Nhị, cuộc tiếp xúc với Năm Hoa vừa qua làm cho tình cảm cô mất thăng bằng. Tại sao có những chuyện lôi thôi nầy xảy ra cùng lúc như vậy? Năm Hoa hành động như vậy có ý gì? Theo lời một cậu chiến sĩ cho đội hậu cần vốn đã quen thân và gọi Nhị bằng chị nuôi, thầm thì báo riêng với cô là Năm Hoa nói về trường hợp nổ trái không đúng với sự thật. Cậu ta không biết anh ấy làm và bảo vậy là có ý gì. Vì chính mắt cậu ta thấy Năm Hoa bảo thằng Mậu  càn vô ngay chỗ đó hái thêm đọt cây chòi mòi phụ làm rau ăn cơm. Trái nổ, Mậu chết. Một số người bị thương. Năm Hoa vội vã rút quân bỏ trận địa, lại còn tìm cách lôi kéo Nhị theo. Hàng của phân đội đã chôn giấu tại đây rồi, không thể móc lên mà chuyển chạy theo đội hậu cần của Năm Hoa được, và Nhị không thể một mình viện lý do dẫn cánh tải thương của anh ta ra đi, bỏ mặc đồng đội ở lại được. Nếu thật đúng như vậy là Năm Hoa cố ý bố trí tạo cái cớ để có lý do cho cánh mình rút chạy và cài phân đội Minh lại kẹt tại khu vườn tam giác nầy. Đầu óc Nhị choáng váng, nhưng cô không làm sao cô nghĩ ra nổi đâu là sự thật. Một người như Năm Hoa cũng đã từng được rèn luyện thử thách, mặc dù anh ta có hơi nhúc nhát trong chiến đấu nhưng không lẽ đến nhẫn tâm bố trí giết chiến sĩ để tạo cớ thoát thân cho mình? Đó là tâm địa của thằng giặc thôi chứ đồng chí ta thì nhất định không được nghĩ về họ như vậy. Nhưng tại sao? Lại một câu hỏi lớn hơn tiếp tục đặt ra. Tại sao giữa trận địa mà Năm Hoa lại đặt ra vấn đề ấy... và có tính chất thông báo rất tỉ mỉ như vậy. Mặc dù việc nầy cũng đáng nói ra, nhất là khi anh ta còn đeo đuổi mình - Nhị suy nghĩ - còn hy vọng rồi mình sẽ chấp nhận lời đề nghị kết hôn. Nhưng dù sao đó cũng là một việc riêng, trước tình hình chiến sự căng thẳng thế nầy lại đi đề cập nó thành vấn đề quan trọng? Nhất định Năm Hoa cũng có dụng ý trong việc riêng tư nầy nữa... Nhị lại thở ra. 
Xuất thân từ lớp nghèo thành thị, tính tình và tâm hồn Nhị cũng có đôi chút bị ảnh hưởng tiểu tư sản, Nhị dễ xúc động trong những trường hợp éo le, đột xuất chứ không như những cô gái nông dân cần cù, chất phát khác. Quả là vừa rồi trong chớp nhoáng Năm Hoa đã đánh vào Nhị hai đòn, làm cho cô phải bần thần. Nhị cứ suy nghĩ liên miên hết chuyện nầy đến chuyện khác, không đâu ra đau, không kết luận hay giải đáp một ý  rạch ròi: “Không lẽ Năm Hoa tổ chức giết đồng đội để tạo cớ cho thoát khỏi nơi nguy hiểm?...”. Nhị lại liếc nhìn trộm Minh - “Chưa bao giờ mình nghe anh ấy nói đến điều nầy. Nhưng mình lại quá khờ khạo rồi đó. Ai đời con trai lại đi nói với con gái về một người bạn mà đã từng thân thương nhau từ thơ ấu và đôi bên gia đình cũng có ý định... Không! Không ai lại đi nói... Nhất là đi nói với một người con gái đang... “để ý” mình. Thôi mặc! Sao thì sao chuyện của họ... mình có can cớ gì? Nhưng kể như là “có” đi nữa, mình là kẻ đến sau kia mà.” Nghĩ đến đây Nhị nghe mình muốn khóc, và cô lại thở ra. 
Dọc đường, Minh nghe Nhị thở dài mấy lần. Biết rằng lúc nãy Nhị với Năm Hoa có “đá động” với nhau chuyện gì rất quan trọng. Mặc dù nghe lòng mình có cái gì đau đau nhưng vì sĩ diện của một thằng con trai buộc Minh không tiện hỏi tới. Chốc sau, Nhị lên tiếng nghe như người bị bệnh uất tim: 
- Thuở nhỏ gia đình ở Thanh Mỹ anh có thường về quê nội bên Bình Minh không? 
- Thỉnh thoảng cũng có. Nhị hỏi chi? 
- Hỏi thử xem anh có biết bác Tư Lẹ không? - Nín một chút, Nhị tiếp - Bác ấy có cô con gái tên Hiền hả anh? 
- Nhớ mang máng dường như xứ ấy cũng có nhà bác Tư Lẹ, nhưng gia đình có mấy con thì đành chịu. Thế nào? Nhị có quen biết nhà bác ấy à? 
- Không. 
- Hay Nhị có gặp cô Hiền ấy ở đâu? 
- Cũng không... - Nhị phân vận một chút rồi cô cố nói một điều gì xem chừng rất khó nói - Anh không quen gia đình cô Hiền ấy thật à? 
Nghe Nhị hỏi vặn, Minh ngạc nhiên quạy lại nhìn và khổ sở, đáp: 
- Chúng ta sống gần nhau mấy năm trời rồi, Nhị có bắt gặp lần nào anh nói dối ai  không? 
- Thế mà gia đình mẹ ở nhà đã định làm lễ ăn hỏi cô Hiền ấy cho anh rồi, Năm Hoa vừa nói đây. Nếu có thật thì... Phân đội xin chúc mừng cho anh... 
Minh ngạc nhiên đến sững sờ. Anh bàng hoàng một lúc và lắc đầu khó hiểu. Hôn nhân gì mà bày đặt éo le vậy? Quả là Năm Hoa vẽ chuyện tầm phào cốt gây cho Nhị hoang mang. Anh phải thanh minh sao với Nhị đây? Không phải Minh muốn nói quanh về một việc gì khuất lấp của mình, đằng nầy anh không đủ lời lẽ để nói tốt cho mình nhất là những lời êm ái với một người con gái. Nhưng trông mặt Nhị khổ dàu dàu, Minh cảm thấy xót xa, anh chân thật, chặc lưỡi hơi khó chịu: 
- Làm sao có chuyện nầy kìa? Đành rằng mấy năm nay mẹ anh có tản cư về quê nội, nhưng vấn đề xây dựng hôn nhơn cho con ở thời buổi nầy chẳng lẽ mấy bà lại... 
Từ phía thị xã Rạch Giá có tiếng nổ đầu nòng của loại pháo 155 ly. Minh và Nhị xoay người qua một bụi chuối. Hai người không tiếp tục thêm câu chuyện được nữa. Một quả pháo nổ ầm ngoài đồng cách họ vài trăm mét, dựng lên một nấm khói và lửa màu hung. 
- Pháo cân điểm đó, chạy nhanh về công sự! 
Minh hô. Hai người cùng vượt qua mương. 
Trận pháo bắn rãi đều trên khu vực của phân đội Minh năm mươi quả rồi thôi. Mặt trời lên dần đến đỉnh đầu. Ánh nắng trong xanh của những ngày đầu mùa mưa. Chi đoàn xe lội nước của địch đã lùi xa về phía Mỹ Lâm, tiếng hụ của chúng chỉ còn nghe văng vẳng rồi tắt. Có tiếng tàu sắt từ phía Rạch Giá phát máy vọng vào. Vùng trời vẫn im ắng và trong veo. Trên mù cao có một phi đội máy bay B.52 không rõ xuất phát từ đâu đang bay về hướng chánh bắc, phía sau chúng nổi lên ba đường xích cầu vòng bằng mây xám. Rồi từ đó về sau cứ im lặng. Cái không khí căng thẳng của một quả lựu đạn đã rút nhíp chờ tiếng nổ.
Lúc sau, một chiếc máy bay “đầm già” từ phía thị xã bay thẳng theo hướng kinh xáng. Lên tới khoảng kinh Tư, chiếc máy bay vụt cụp đầu quành lại. Nó bay dọc lên xuống ba lần, rất thấp, tiếng kêu nhè nhẹt, rồi lại cất cao, thả xuôi về về Cái Sắn. Khi chiếc máy bay “đàm già” chỉ còn bằng một chiếc chữ thập đen, thì từ hướng đông có tiếng máy bay B.57 vọng lại. Loại máy bay cánh dơi nầy chỉ mang toàn bom nặng nửa tấn. Lúc bắt mục tiêu, chúng bay thật cao nhưng đánh rất chính xác. 
Minh đứng chỗ bụi tre gai. Ngoài kia máy bay B.57 cắt bom. Bốn trái bom cỡ lớn lao xuống một lượt, hơi nổ quật Minh cắm đầu xuống mương nước. Khi bườn lên, Minh thấy bờ chuối lơ thơ chỗ tiểu đội Lý Sên bị hất bay mất một đoạn khá dài. Anh định chạy ra xem. Bình không cho. Minh nôn nóng đành đứng nhìn “con dơi” thứ hai vừa đến, bay xé không khí xè xè, nghe ấm ức. Chiếc máy bay nầy bay thấp hơn chiếc trước, với tốc độ vừa phải. 
Trên ngọn cây ổi bên kia bờ, Bình báo qua là Lý Sên dắt tiểu đội xuất công sự chạy bung ra đồng để tránh đợt bom vừa rồi, vẫn còn đi lơi khơi chưa chịu bám trở lại. Bình bảo thêm: 
- Họ chạy bày lưng như vậy không chịu trở lại bám vào công sự cho nhanh, chiếc máy bay nầy rãi bom bi xuống sẽ lãnh đủ. 
Nghe Bình phân tích chí lý, Minh sinh lúng túng. Cho người chạy ra truyền đạt mệnh lệnh ư? Không. Thêm một tấm lưng đưa ra để chúng nện, có ích gì? Làm thế nào đây? Tại sao Sên và Lý quá khờ khạo như thế? Chắc chắn họ sẽ hiểu và xử lý tình huống ngay thôi. Đúng như Minh dự đoán, bên kia Bình đã báo qua: 
- Lý dẫn đầu, Sên đoạn hậu, cả đám chạy vắt giò lên cổ để bám về hầm. 
Kéo từ chỗ tiểu đội nữ hào hển chạy đến báo với Minh là Nhị cần gặp anh ngay. 
Hai người vội đi. Kéo bảo:
- Chị Nhị nghi tàu sắt địch đang thả trôi về phía mình. Chị ấy không có ống dòm nên nhìn không kỹ. 
Minh lần gỡ chiếc ống dòm bọc vải mủ đeo bên hông. Vị trí của Nhị ở góc thước thợ của kinh Đường Tắt và kinh xáng Tân Hội, nơi có nhiều bờ liếp hoang rậm. Chung quanh các mặt chính, Minh đã bố trí các tiểu đội nằm chắn giữ. Nhị ở phía sau trận địa. Hàng giấu giữa một “bãi lửa” cũ mà lâu nay địch vẫn chưa càn vô tới. 
Thằng Kéo đang chạy khơi khơi phía trước, bất thần cỏ dưới chân nó rung lên một bựng, và Kéo đã bay xuống mương mất hồi nào Minh không để ý. Chép môi sau tiếng nổ, Minh thở ra:
- Trái N.10 của Nhị! 
Nhưng Kéo lại từ dưới mương trồi đầu lên, nó nhe răng cười toe toét: 
- May là trái M.26 chứ thứ khác là toi mạng rồi. Nghe bật nhíp cái “chách”, em phóng xuống mương liền. 
Ra đến đầu doi chỗ Nhị đứng, vừa nâng ống dòm lên, Minh thấy ngay hai chiếc tàu sắt loại nhỏ của địch đang ghim mũi để đổ quân lên bờ. Phía sau có hai chiếc tàu “mặt dựng” thả trôi theo nước. Minh đưa ống dòm cho Nhị xem. Xem xong, Nhị nhìn Minh, lo âu! Đôi mắt hơi lộ của Nhị càng lộ thêm. Vành mi màu chì cộng thêm nét băn khoăn chuyển thành màu xám tạo nên một vẻ chờ đợi khắc khoải. Trông Nhị hơi hoảng, Minh rất thông cảm. Lâu nay việc chỉ huy tác chiến Nhị hay ỷ lại vào Minh, cô chỉ lãnh vai trò trung tâm đoàn kết, chăm sóc, giáo dục chiến sĩ là chính. Nhị là người gây ra sự ấm cúng, kính mến cho đơn vị chứ cô thiếu vai trò bình tỉnh và cương trực như Minh. Có Nhị, chiến sĩ sẽ thấy như có một người chị hiền bên cạnh họ, được chăm sóc từ miếng ăn, giấc ngủ, manh quần tấm áo, nhưng họ thiếu an tâm trong những tình huống chiến đấu với quân thù. Minh thì ngược lại, chiến sĩ ít ai thích anh, nhưng họ tin tưởng anh là một người chỉ huy dũng cảm, gương mẫu và lãnh đạo họ vượt mọi gian nguy. Bây giờ Nhị đã mất bình tỉnh vì tình huống thay đổi ngoài dự kiến; vì giặc đã dùng tàu biệt kích đánh tập hậu vào khu vực giấu hàng. Nhưng Minh càng lầm lì, bình tĩnh. Không chịu nổi thái độ trông như thờ ơ của Minh nữa, cuối cùng Nhị hỏi:
- Anh xử lý thế nào? - Nhị ngước đôi mắt tròn vo nhìn Minh, thăm dò - Có thể đưa tổ tiền tiêu ra bờ sông chớ? 
Chiếc máy bay B.57 nãy giờ quần đảo và đã đến lúc rãi bom bi xuống đồng. Một loạt tiếng nổ giật ngược nghe như trời gầm. Minh xuống bứt một nắm lá nga cúi xuống cào bớt mớ bùn nhão đóng trên ống quần để tranh thủ thời gian suy nghĩ. Rồi từ từ nhìn thẳng vào Nhị. Minh thấy đôi mắt cô ẩn nhẫn một sự chờ đợi căng thẳng. Trông tội quá, Minh bỏ ngay kiểu ung dung bên ngoài ấy: 
- Yên chí! Mõm doi nầy lâu nay là một bãi lửa địch đã từng biết, chúng không dại gì càn vô, nếu ta chưa bị một tên gián điệp nào chỉ điểm. Ý đò chính của giặc là thọc tàu vô bên nầy để thị uy cho đám ngoài đồng đánh chiếm đội hình của đại đội hậu cần tỉnh, nơi mà ba ngày nay chúng từng mang nhục. Nhị thấy có đúng không? 
Đang cắn môi theo dõi từng câu nhận định của Minh bị anh hỏi bất ngờ, Nhị giật mình: 
- Nhưng... - Nhị cắn môi, chau mày - cánh quân từ dưới tàu đổ lên sẽ bắt tỉa với cánh từ trên đồng đánh xuống, chừng ấy ta sẽ bị chúng chà ngang qua đầu. 
- Ta sẽ bắt tụi dưới tàu dừng lại tại doi nga nầy, tụi trên đồng dừng lại chỗ bờ liếp kia, hai đằng bắt tay bằng cách gọi nhau vừa nghe tiếng. Thằng giặc mà, nhiệm vụ đánh giáp tay ngần ấy là đủ thỏa mãn cho chúng lắm rồi. Còn ta, chỉ “mượn” lại ba bốn bờ liếp ở giữa là đủ bảo vệ hàng hóa và lực lượng. Nhị thấy sao? 
Nhị còn phân vân chưa tin tưởng hẳn vào sự phân tích tình hình của Minh. Minh gọi Thanh đến: 
- Thanh dắt một tổ, đem chất nổ cài cho dày chung quanh đây, chỉ chừa một con đường bí mật để anh em rút vào. “Vòng lửa” quay thành chữ O, rõ chưa? Bảo Hà ra truyền đạt yêu cầu tác chiến với anh em ngoài ấy: Đánh cầm chừng, bắn thật thưa, giả vờ bỏ chạy như lối đánh của một nhóm du kích còn non. 
Thanh mang khẩu AK cũng Hà vác lựu đạn ra đi. Minh quay sang bảo Nhị: 
- Nhị ra công sự cạnh gốc cây còng ngoài đầu doi canh chừng địch, anh trong nầy rào dày thêm bãi lửa.
Nhị xách súng đi. Kéo nhìn theo Nhị rồi nhìn lại Minh, cặp mắt nó bật ra những tia bất bình: 
- Anh! Để chị Nhị đi một mình à? 
Minh biết Kéo rất thương Nhị, nếu phải chết thay cho Nhị nó cũng không từ chối. Kéo cứ đứng nhìn theo Nhị, rồi nhìn trở lại Minh, nó uất ức. Kéo đang phản đối ra mặt cách Minh phân công cho Nhị. Bỗng nhiên Minh thấy khó chịu với sự ảnh hưởng tình cảm của Nhị trong những con người ở đơn vị nầy. Nhị đã độc quyền chiếm cứ của anh trên lĩnh vực nầy rồi. Trước mặt Minh, Kéo cứ giằng dai, lỳ lợm. Cố lắm Minh mới khỏi quát tháo: 
- Kêu Mai vác thêm lưu đạn ra đây. Ở đó nhăn nhó gì? 
Minh bò luồn theo những bờ liếp rậm giăng thêm chất nổ, giữa lúc tàu sắt địch đổ quân lên đánh với một đơn vị nào của ta, rất gần. Chi đoàn xe lội nước từ hướng Mỹ Lâm cũng quay trở lại, giáp trận, chúng thả bộ binh xuống. Như thế là hai phía địch đều giáp mặt tham chiến. Hôm nay, phân đội của Minh đối đầu với cả tiểu đoàn bộ binh giặc vì có cả tàu sắt, xe bọc thép yểm trợ. Tiếng động cơ gầm rú, tiếng xé trời của nhiều cỡ thuốc nổ làm cuộn sóng không gian. Khu đất tam giác trên bờ kinh Đường Tắt hôm nay rùng minh, nín thở. 
Ngoài đầu doi, chỗ gốc cây còng, Nhị đã nổ súng. Minh ra đứng tựa một cây dừa cụt đọt cạnh bờ liếp, nâng ống dòm lên xem. Nhị đang bắn từng loạt đạn ngắn vào tốp bộ binh địch, có lẽ bọn nầy được tàu sắt đổ lên lúc nãy, chúng bị một đơn vị nào của ta đánh bạt qua đây. Trước Nhị chừng năm mét, cong kinh xáng chắn ngang, tốp giặc còn bên kia kinh. Chốc sau chúng kéo tạt mũi qua vườn, bỏ Nhị. Nhị thôi bắn. 

Mấy chiếc tàu sắt dưới kinh lại khai hỏa vào Nhị. Đạn không giật 57 ly, đạn tiểu pháo 20 ly cày đất ùng ục, cỏ bay guộn thành giồng. Ban đầu Nhị còn đứng nép mình sau cây còng, lúc sau có nhiều nhánh còng tấp vào đầu vì trúng đạn, buộc cô phải tuột xuống công sự, ló nửa người lên. Bụi đất tung phủ người Nhị, cô mọp đầu tránh né gật gù trông tựa một thằng say. Minh vừa thấy buồn cười cũng vừa thấy thương. Bỗng một trái ĐK cắm ầm vào cây còng trên đầu Nhị vài mét. Nửa thân cây đổ sập. Khói vừa tan, Minh thấy Nhị bườn lên khỏi công sự. Cây súng AK quàng ngược ra sau lưng. Nhị toài người ra bờ. Cây súng bên trên cứ ngún nguẩy như một cái đuôi. Nhị lọt xuống mương, bườn về phía Minh. Đeo chiếc ống dòm ra sau lưng, Minh chạy đến đón Nhị. Anh nắm tay cô lôi lên khỏi mương. Đầu tóc Nhị đầy bèo tai chuột. Lúc nầy đại bác và tiểu pháo địch ngưng bắn. Nhị ngồi bẹp trên bờ, thở dốc. Minh với tay gỡ mấy tai bèo trên tóc Nhị, nói đùa: 
- Đời xưa Bà Triệu “bẻ cơn gió mạnh, đạp đường sóng dữ, chém cá tràng kình”, đời nay con cháu hóa thân làm cá nược đội lục bình, long mương liếp. 
Định nói chơi cho vui, chẳng ngờ Minh bị Nhị hất tay ra, trợn mắt, sừng sộ:
- Được? Đồng chí khỏi thóa mạ tôi. 
Nhị đứng lên, xốc súng. Minh hoảng hốt, nắm tay Nhị lôi lại. Nhị hất tay Minh ra và hất luôn ánh mắt uất ức vào mặt Minh. Lùi lại một bước, Minh cúi mặt lúng túng. Đôi mắt Nhị trợn trừng, hai tròng đen nổi cộm lên, hơi run. Nhị sắp bật khóc. Minh lấp bấp:
- Nhị! Anh chỉ nói chơi thôi... 
- Người chỉ huy giữa trận địa không được phép nói chơi. Để tôi trở lại vị trí. Một chiến sĩ bỏ công sự trước khi có lệnh là sai. Tôi biết... 
- Biết là thế nào? Cứ cái thói ào ào, khó chịu. Đã bảo là nói chơi không đúng chỗ, thấy khuyết điểm rồi, còn đòi sao nữa? 
Minh xốc đến bên Nhị, hầm hầm. Nhị xuống nước, cười: 
- Em cũng phải trở ra ngoài ấy chớ? 
- Được. Nhưng khoan đã. - Quay ra sau, Minh gọi - Kéo! Bảo chị Mai lên ngay, có việc. - Trở sang Nhị - Chiếc công sự ấy có một miệng à? Còn xài được không? 
- Chỉ cần dẹp nhánh còng đổ. 
- Để Mai cùng ra đó với Nhị. Mặt ấy có lẽ tạm yên rồi. 
Nhị khoát nước mương rửa mặt, và cô móc túi lấy chiếc lược con ra chải xuôi lại mái tóc. 
Lúc hai người chờ Mai đến, có tiếng ai la lối ở bìa vườn phía vị trí của Lý Sên. Minh chồm lên một gốc cây dừa đổ, nâng ống dòm nhìn ra. Anh thấy Thanh đứng múa may chỉ đường cho Lý và một số anh em kéo vào. Lý Sên đang nằm oằn oại trên vai Lý, có lẽ anh ấy bị thương nặng lắm. Lý đi lạng quạng vì sợ vướng chất nổ. Thanh ra dẫn họ vào. Minh báo tình hình ấy cho Nhị hay. Nhị liền khoát súng, bảo: 
- Để em ra ngoài ấy trước, con Mai sẽ ra sau. 
Nhị đi. Mai tới. Mai, một cô gái trạc hai mươi, người hơi thấp, mặt lấm tấm rỗ hoa, có đôi mắt xéo và cặp chân mày lá răm. Người con gái miệt cù lao Quới Thiện nầy được bổ sung vào đơn vị sau đợt Tổng tấn công Mậu Thân. 
Thấy Mai không đeo súng AK theo, Minh hỏi: 
- Ra tiền duyên mà cầm mỗi một cây súng bắn ruồi, thật giống cán bộ trung đoàn hử? 
Mai liếc mắt nhìn nghiêng vào Minh, tay cô đưa khẩu K.54 lên, hếch mũi, cười: 
- Mỗi viên đạn là một quân thù chớ, đồng chí! 
- Tôi muốn biết khẩu AK của cô đâu kìa? 
Minh hơi bực, càu nhàu. Mai ấp úng: 
- Em tưởng... anh kêu ra dặn chuyện gì rồi trở vô. 
- Thôi gấp lắm rồi. - Minh lôt khẩu AK của mình đưa cho Mai - Mai ra với chị Nhị chỗ gốc cây còng đó. Nhiệm vụ quan sát địch là chính, tránh đánh nhau. Cứ liệu lượng mà rút, bảo Nhị như thế, khỏi phải chờ lệnh. 
Mai “dạ” một tiếng rồi khoác súng lên vai, đưa trả khẩu K.54 lại. Minh khoát tay bảo: 
- Anh còn bận ra điều chiến thương. Đem theo có khi cần. 
- Cho em nhắn với Lý Sên là - Mai nói lui - có chết trước thì cũng “mạnh giỏi”, bảo ráng chờ ít bữa có dịp em ghé thăm. 
Nói xong, Mai bật cười thích thú. Minh cũng cười theo:
- Cái con nhỏ nầy... Bá láp! 

Minh long mương ra, gặp Lý và Thanh kè Lý Sên vào. Hai tay Sên bị căng ra, còn hai chân anh cứ chòi đạp xồn xộn trên mặt nước. Đôi mắt Sên trợn trừng, miệng phun bọt và luôn là hét hoảng loạn. 
- Một viên bi trúng ngay mái tóc, - Lý báo cáo - chắc chạm não. 
Minh vén tóc Sên lên xem. Có một vết tím hơi rịn máu nhỏ bằng đầu chiếc đũa ăn cơm nằm chếch về phái trái. Anh lo lắng, trường hợp nầy đã có người hy sinh. Viên bi tròn và rất trơn cứ chạy tuồn tuột vào màng não, nguy hiểm. Đôi mắt Lý Sên lòi ra, ửng nhiều tia máu đỏ lừ. Sên la lối, giẫy giụa quá sức làm cho Lý phải mệt nhoài. Mặt Sên bầm tím, sương húp. Đôi mắt anh thâm quầng, lờ đờ không còn sức sống, cánh mũi đã xám khói đèn. Anh cứ la hét. Minh đỡ Sên trên tay Lý. Lý và Thanh quay mặt chỗ khác, dường như họ sợ trông vào mặt của Sên dễ thấy xót xa mà bật khóc.
Tiếng giặc la ó vang dội hầu như khắp bốn phía. Chúng đang xiết chặt vòng vây tựa đám người dậm cù bắt chuột. Nguy hiểm nhất là đám quân từ phía kinh xáng đánh vào. Chúng rất ít bắn đạn nhọn, cứ la hét rồi dùng súng phóng lựu, súng M.79 nã vào cày xới cho tan nát địa hình để càn vô. Tiếng nổ, tiếng hô hào mỗi lúc một nhích gần vào khu vườn tam giác. 
Góc trận địa chỗ tiểu đội Sơn Nâu, súng bộ binh cũng đã nổ rộ. Chỗ Bình, xe lội nước cũng xáp vào xả súng trọng liên dữ dội. Ngại nhất là phía chỗ Nhị và Mai. Hai cô đang đánh nhau với tàu sắt ngoài ấy. Súng bộ binh và cả súng lớn của tàu địch đang uy hiếp hai cô một cách ác liệt! Bây giờ khắp bốn phía địch đang xáp chiến để cố chiếm lĩnh trận địa của ta. Tiếng nổ của súng các cỡ, tiếng của bộ binh địch la hét, tiếng tàu sắt hụ, tiếng xe lội nước rú đến đinh tia nhức óc. Phía ta, súng tiểu liên chống trả gượng gạo. Ruột gan Minh cồn cào như bị gà bươi. Phía Nhị và Mai, chỗ chôn giấu hơn bảy tấn hàng quân sự chiến lược, tuy đã gài trái dày đặc để bảo vệ, nhưng tình hình nầy cần phải chi viện để đảm bảo hơn. 
Minh giao Sên lại cho Lý, anh gỡ lấy khẩu B.40 và ba trái đạn của cậu ta đang đeo. 
- Hỏi thằng Kéo lấy khẩu AK của con Mai đâu đó, mà dùng. 
Minh nói lui, rồi đi ra khỏi vườn. Ba chiếc tùa sắt địch đang cặp vào bờ bên nầy, chúng xả súng bắn vào lưng Nhị. Chúng tập trung hỏa lực bắn có chủ điểm, quyết ghìm đầu Nhị và Mai cho bọn bộ binh phía sau vườn đánh ngoặt trở lại. Như thế là hai cô đã lưỡng đầu thọ địch rồi ! Minh nhanh chóng cắp súng B.40 lạn người qua một hố bom vĩ để lội dọc theo con mương nhỏ về phía ba chiếc tàu sắt địch. Đến vừa tầm, Minh phóng liền một quả đạn. Chiếc tàu đậu gần nhất phụt lửa. Nó rống lên như bò bị mưa rào, lui ra khỏi dòng nước, thả trôi dập dềnh. Khói và lửa trên thân nó vọt lên rung rinh tựa một bụi tre đỏ. Minh di chuyển. Anh tìm một tử giác khác, phóng thêm một quả đạn B.40 vào hai chiếc tàu còn lại. Cả ba chiếc tàu đều lùi ra, thả trôi theo dòng nước mỗi lúc một xa trận địa của Nhị. Chúng tấp qua bên kia kinh xáng và hướng hỏa lực áp chế tối đa về phía Minh. Anh phải ém mình vào một bậc đất không tài nào ngóc đầu lên nổi... 
Lý và Thanh ở lại trong khu vườn chăm sóc cho Lý Sên. Nói đúng hơn là hai người kềm chế đừng cho Sên quây quạng, kêu la. Bộ mặt Sên sưng vêu lên một cách nhanh chóng. Tiếng la hét điên loạn của anh mỗi lúc một thưa ra nhưng lại lớn lên vang dội: “Óa tả lứ xị! Óa tả lứ xị...”(Tao đánh chết mày! Tao đánh chết mày...). Lý Sên là một người Vệt gốc Hoa. Từ cách mạng Tân Hợi (1911) ông bà nội bồng cha của anh từ xứ Triều Châu sang Việt Nam, đến Mỹ Tú làm nghề buôn bán ve chai, đồng nát. Sau đó họ dựng lên một tiệm chạp-phô. Vốn liếng khá khấm và dần dần họ mở rộng một cửa hiệu bách hóa lớn nhất nhì chợ quận. Chín năm kháng chiến chống Pháp, thị xã Mỹ Tú được giải phóng, cửa hàng bách hóa của nhà anh bị suy thóa nhiều. Chánh quyền Ngô Đình Diệm dựng lên, sự nghiệp buôn bán mỗi lúc một thịnh vượng trở lại. Bấy giờ cửa hàng do cha mẹ Sên làm chủ, anh là đứa con một, nên được nuông chìu. Đã hơn hai mươi tuổi Sên không chịu lấy vợ, mặc dù cha mẹ bắt ép nhiều phen. Anh mải mê thú chơi đá gà nòi và đánh đóa lạc. Một hôm đang say sưa đỏ đen, Sên bị ông cha dùng gậy đập cho nhừ tử tại bồ đá gà. Uất ức vì bị xỉ nhục, Sên bỏ đi vào vùng giải phóng, tham gia kháng chiến. Gian truân nhiều nơi, chìm nổi lắm phen nhưng Sên quyết chí một đi không về. Hơn một năm trước, từ cương vị trung đội phó của bộ đội chủ lực, trong đợt tổng tấn công Mậu Thân, đơn vị tấn công vào Cần Thơ, anh bị thương. Sau hai tháng điều trị anh được bổ sung về phân đội "Sáu Mươi" nầy, làm phân đội phó. Cũng như Sơn Nâu, phát âm còn cứng giọng Khơ Me, Lý Sên vẫn còn phưởng phất hơi hớm Hoa kiều chưa dứt. Trong những cuộc liên hoan vui vẻ, anh hay hát những bài dân ca Trung Quốc. Và bây giờ trong cơn mê sảng, Lý Sên thét lên những tiếng cội nguồn của mình. 
Không thể để cho Sên kêu thét  như vậy được, vì có một mũi bộ binh địch đã đánh sát vào rồi, Lý dùng khăn choàng tắm tóm lại một đầu, xảm cứng vào miệng Sên. Không được la hét, Sên càng vùng giẫy, ấm ớ quyết liệt. Hai tay anh đấm vã lung tung vào người Lý và hai chân quậy nước xồn xộn không ngừng. Tiếng giặc la hét gần quá, dường như cách đây chừng vài ba con liếp. Thanh bảo với Lý : 
- Để em ra đánh, dẫn mũi chúng đi chệch hướng khác mới được. 
Lý chưa kịp đồng ý thì Thanh đã biến mất sau một con liếp rậm. Lý cứ loay hoay với Sên, không để ý Thanh có đụng nhau với giặc ngoài kia không. Súng nổ thì nơi đâu cũng có, hướng nào cũng điếc tai. Nhưng Lý chợt giật mình ngẩng lên, vì có tiếng người la ó và đuổi chạy ào ào trên một bờ liếp gần bên. Lại tiếng văng tục loạn xạ. Đúng! Bọn địch đang chạy về phía anh và Sên đang ẩn úp. Sên lại chòi đạp, hai chân quậy nước lên xồn xộn. Kiểu nầy là vô cửa tử. Địch vào đây chúng sẽ phát hiện được chỗ giấu hàng. Không được! “Người chiến sĩ giao thông vận tải xem tài - cán của Đảng trọng hơn xương máu mình”. Lý nhìn chăm vào Sên, anh thầm thì: “Mầy thương tao không Sên. Thương thì làm ơn im một chút đi!”. Nhưng Sên càng quậy quạng hơn. Lý lại nghiến răng thì thầm: “Sên ơi! Mày sống khôn thác thiêng, đừng nghĩ bậy bạ về tao nghe! Tại cực chẳng đã, Sên ơi!” 
Bọn giặc ở bờ liếp bên kia cứ chạy tới ào ào. Sên bên nầy cứ vùng vẫy ấm ớ và chòi đạp. Lý cắn răng, nín thở và lắc đầu. Anh câu một tay vào cổ Sên lặn sâu xuống lòng mương, chui tọt vào lớp  cỏ và sậy ngã phủ dày đặc bên trên. Hai người đã ở trong lòng nước, dù cho Sên có giẫy giụa, chòi đạp thế nào cũng không gây ra tiếng động được. Một tay Lý bơi đi, một tay anh lôi Sên theo. Anh lặn mãn một hơi dài, hai người lọt thỏm vào bên dưới một lớp cỏ dày đặc. Cứ kiếm chỗ cỏ thưa để ngoi lên, nhưng Lý không tài nào vùi đầu qua được. Mệt gần đứt hơi, anh đành phải buông Sên ra, dùng sức mạnh cả hai tay vạch cỏ thưa để ngoi lên. Vì mệt quá anh sặc nước mấy cái liền. Máu mũi và tai của anh trào ra. Toàn thân Lý mắc kẹt bên dưới, chỉ có cái đầu ló lên được trên mặt lớp cỏ. Anh ngất lịm, không còn đủ sức cựa quậy nữa... 
Còn Nhị và Mai, hai người xuống công sự, Nhị bị Mai dồn vô trong vì chiếc công sự chỉ có một miệng. Bây giờ cái trận địa nhỏ bé trên mảnh đất hình thước thợ nầy mặc sức cho bọn giặc bốn phía áp lại giần giã. Nhị đứng lom khom phía trong, cô bực mình cố cựa quậy, nhưng vẫn vô hiệu. Nhị theo dõi tình hình diễn biến bên trên qua thái độ của Mai. Khuôn mặt rỗ hoa của Mai cứ căng lên, kéo dài ra, xỉa về phía trước. Không biết cơ man nào là tiếng nổ. Và súng của Mai cũng nổ. Nhị chồm tới với cử chỉ âu yếm, cô vuốt ve người Mai. Bỗng Nhị chạm khẩu K.54 của Mai giắt ở lần yếm đạn. 
- Chà thủ trưởng oai quá hử? - Nhị rút súng lục giắt vào lưng mình - Để em chuyển bớt vũ khí về phía sau thủ trưởng nghe!
Mai không đáp. Mặt cô cứ hướng về phía có tiếng giặc la lối, ghìm súng. Một cô gái miệt cù lao ra đi đến tận cùng vùng đồng nước nầy mà chiến đấu, quê hương của cô tan hết bóng giặc rồi sau? Không phải Mai chê con đường giao liên chỉ có qua bến Mỹ Trinh rồi sang đò Quới Thiện ở quê nhà ngắn ngủi chẳng dang rộng được bao “cánh chim không mỏi”. Khi Tổ quốc gọi, cả nước lên đường. Nơi nào cần, tuổi trẻ xung phong đến, nơi nào khó, tuổi trẻ quyết lao vào. Một đêm sang bến Mỹ Trinh, mây vẫn vũ mưa, nhiều tia chớp vạch ngang lưng chừng trời. Người con trai có nước da màu phù sa ngậm ngùi cầm chèo quấy nước tiễn người yêu qua bên kia bờ sông Hậu để tập trung đi chiến đấu nơi cuối đất cùng trời theo lời Bác gọi. Người con gái để lâu bàn tay mình trong lòng tay anh nóng bỏng - người yêu cũng là người trạm trưởng - mà lắng nghe nhịp tim đổ dồn trong ngực. Anh không được lên chiến trường xa vì nơi quê hương Đảng đang cần anh ở lại gánh vác một trách nhiệm nặng nề hơn. Một loạt súng địch ré lên xé tan giấc ngủ trẻ thơ trên bờ sông Quới Thiện. Họ buông tay nhau, người ở đứng tần ngần trong bóng tối, người đi cố không ngoảnh lại nhưng đôi chân cứ lấp vấp mặt đường, cô gái mang theo của anh một vuông khăn màu trắng tinh khiết có gói bên trong hai mảnh vỏ nghêu của miệt đất cồn... Trận xáp chiến của hai cô gái và một đại đội bảo an địch lại tiếp diễn. Súng nổ! Nổ! Dữ dội! Mai chồm lên, bắn. Đôi vai Mai run giật. Tai Nhị điếc đặc những thứ âm thanh rào rào, vo vo. Những tiếng nổ chấn động mặt đất như núi đổ. Tiếng giặc la hét quần quạc tựa bầy chó đang cắn nhau. Mai đứng thẳng người lên, gác súng ngang thành công sự. Tiếng nổ! Tiếng nổ! Và tiếng nổ! những tiếng nổ ê đầu như sét đánh. Đất hai bên hầm rúm lại rồi giãn ra, rúm lại rồi giãn ra. Đất trên nắp hầm sụp lở. Một bầu trời bày ra đục lờ mờ khói và bụi. Nhị nghe Mai ngã mạnh vào ngực mình. Thân thể Mai mền nhũn. Nhị cắn môi, chồm tới. Cây súng AK của Mai văng đâu mất. Cây súng AK của  Nhị cũng bị vùi tận đáy công sự, tìm mãi không ra. Bị đất lấp không tài nào cựa quậy được, Nhị với với đôi tay nhưng vẫn không níu được vào đâu. Nỗi uất ức sục lên nghẹn cổ, Nhị cắn chặt vành môi, mặc cho hai dòng nước mắt ràn rụa. Tay trái đỡ Mai cho tựa vào mình, tay phải đè lên bá súng K.54 bên hông, Nhị cứ ngồi như vậy chẳng biết rồi sẽ làm gì. Mắt mở đầy đom đóm, tai ù đặc và răng Nhị cứ cắn chặt môi đến tứa máu.
 

Đám bộ binh địch từ góc chéo kinh Đường Tắt ào ạt tràn qua như bầy bò điên. Nhị nhắm mắt lại cho đỡ hoa và phấp nháy để ráo đi dòng nước mắt. Mặc! Nhị cứ ngồi úp mặt vào lưng Mai. 
Một tên giặc chồm tới bên thềm công sự, bỗng nó sựng lại, đứng ngây người. Nhị đã hé mắt thấy nó. Sắc lính áo vàng: bọn Bảo an tỉnh. Trong một thoáng nghĩ, Nhị ngỡ đây là địa ngục, một lũ bò vàng hung ác sắp dày xéo thân xác mình kia! Tên “bò vàng” ấy thở khì khịt, dùng mũi súng M.16 vít cằm Nhị lên, có lẽ hắn định xem cô gái nầy còn sống hay đã chết. Nhị nắm nòng súng của tên giặc xô qua một bên, lắc đầu, bảo: 
- Khoan đã! 
Nhị từ từ đẩy xác Mai về phía tên giặc. Hắn cúi xuống lôi lên. Một tên nữa chồm tới, Nhị đưa tay mình cho nó nắm. Nhị cố vùng lên cho đất quanh người tuột bớt ra. Cô nghe gân cốt mình giãn ra răng rắc. Lợi dụng sức kéo của tên giặc, Nhị lấy đà vọt lên, đứng được trên thềm công sự. Hai tên giặc liếm mép, ngửa cổ cười sằng sặc. Trong lúc ca hai cái miệng còn đầy răng, bỗng cả hai thằng nhảy dựng lên, lộn đầu xuống mương vì hai phát đạn K.54 của Nhị bắn ngay vào giữa giọng cười khả ố của chúng. Hai tên giặc khác cũng vừa long mương trườn tới, chẳng hiểu gì, cứ ló đầu lên giương mắt ếch nhìn ngơ ngác. Nhị cũng cho chúng lãnh hai phát đạn vào giữa hai cái trán còn chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra giữa chiến trường ấy... 
Sự bức chế của ba chiếc tàu sắt lơi dần, chỉ còn một trái đạn B.40 trong ống phóng, Minh vội long theo con mương nhỏ để quay về chi viện cho Nhị và Mai. Vừa vào đến đầu bờ liếp, cũng vừa lúc Minh thấy Nhị đang nhảy phóng người qua những con mương, đạp bừa lên đầu lũ “bò vàng” mà chạy. Nhị nhảy qua vài con mương liếp nữa, phía sau giặc đã hoàn hồn, chúng chồm lên đuổi nà theo định bắt sống. Không một phút chần chờ, Minh liền “đè đầu” chúng xuống bằng một phát đạn B.40 cuối cùng. Rốt cuộc, Minh và Nhị gặp nhau tại một góc mương liếp mé khu vườn, sau thân cây dừa cụt đọt. 
Nhị gục vào vai Minh khóc ấm ức. Minh dỗ dề Nhị như mọt đứa em nhỏ. Anh gỡ những tai bèo đóng trên tóc cô. Lần nầy, Minh không bị Nhị hất tay ra, cô cứ áp mặt vào ngực anh, chốc chốc nấc lên một tiếng làm rung cả đôi vai. 
Minh chợt nhớ Lý Sên còn quằn quại trên tay Lý trong kia, anh vội dắt Nhị quay vào. Trên đường đi, Nhị thì thào: 
- Vái trời, chúng đừng chở xác Mai về Rạch Giá, tội nghiệp... 
Minh ra lệnh cho các tiểu đội rút vào vòng bãi lửa đúng vị trí của mình mà “chém vè” cố thủ. Từ ấy đến chiều, những cánh quân của địch không tiến sâu vào trung tâm khu vườn tam giác được. Chúng liên tục bị mìn nổ, chập chựng đến tối và buộc phải rút lui. Có lẽ chúng cho rằng chỉ đánh vào một căn cứ không đáng kể của du kích xã Tân Hội mà thôi.
Chương 4 
Đêm ấy phân đội chôn cất Lý Sên và Mai tại khu vườn Đường Tắt rồi Minh ra lệnh bốc hàng, quay trở lại khu vực Lung Sình. 
Sáng ra, Minh đến kiểm khu vực đóng quân của tiểu đội nữ, nơi đang nhốt tên giặc lái Mỹ vừa bắt được hôm qua. Đến nơi Minh ngơ ngác nhìn những chiếc võng, những khẩu súng máng lung tung trên cành cây. Họ bỏ đi đâu? Tình hình nầy mà chủ quan địch sẽ xóa quân số cho ngay. Có tiếng cười bên kia chiếc hầm đắp nổi. Minh vòng qua xem. Trên sàn vạc, các cô đang làm trò gì mà cười nghiêng ngửa. Cô thì quát tháo, cô lại dậm dọa. Lớn tiếng nhất là thằng Kéo, tiếng nó gầm gừ xen với giọng ậm ự của tên giặc lái Mỹ. Đám nầy không kỷ luật gì cả. Minh bực mình, bước tới bảo: 
- Có im giùm một chút được không? 
Thằng Kéo thản nhiên như không hay biết gì đến sự có mặt của Minh. Nói đúng hơn, nó vẫn biết nhưng cố khiêu khích. Nư giận tràn hông, Minh chẳng biết phải làm gì với thằng ương bướng nầy. Bao nỗi bực bội anh đổ dồn hết vào Nhị: 
- Cũng tại cô hết thảy... 
Nhị ngần ngừ một lúc rồi ngước mắt nhìn Minh một cách hối lỗi. Cô quay qua gọi khẽ: 
- Kéo! 
Thằng Kéo vội buông tên giặc lái Mỹ, phóng con lê xuống đất, riu ríu bỏ đi. Thấy thế Minh càng nổi sùng. Uy tín của anh đối với phân đội nầy đã dồn hết cho Nhị rồi ư? dù sao Nhị cũng là thuộc cấp của anh kia. Anh là cấp trên, anh có quyền tại sao lại không có uy? Nhị mền dẻo, ôn hòa hay nhu nhược, theo đuôi chiến sĩ? 
- Nhị! Tại sao... 
Nghe giọng hỏi gay gắt và bỏ lửng của Minh, Nhị nhìn lên, lúng túng, chờ đợi. Minh tiếp: 
- Cô chủ trương cho nó làm cái trò gì đó? 
Có lẽ chưa lấy lại sự bình tĩnh trước Minh, Nhị ấp úng: 
- Em thấy... nó nói cũng có lý. Nếu không nhét giẻ vô miệng thằng Mỹ thì biết đâu lúc máy bay “cán gáo” tới, thằng Mỹ lại không kêu đồng bọn của nó đáp xuống cứu đi? 
Tuy trong lòng cũng thừa nhận ý kiến của thằng Kéo là đúng, nhưng Minh không dễ gì gật đầu ngay lúc nầy. Làm thế hóa ra thằng nhóc kia được nước, hí hửng trước mặt anh à? Anh là chỉ huy, nó muốn gì phải thông qua anh. 
Bước đến bên tên giặc lái Mỹ, Minh nhìn tận vào mặt nó. Bộ mặt nầy có khác những bộ mặt của mấy tên lái ngồi trên chiếc máy bay bay nghênh ngang trên trời đâu ? Cũng mũi lõ, mắt đục, miệng móm và đôi má bự như mông bò, thế thôi. Có điều hơi khác nhau là ở chỗ thần sắc. Những tên ngồi trên máy bay đi tìm vạch mục tiêu gây tội ác, bộ mặt chúng hồng hào, đầy tự tin và hiếu chiến, còn mặt tên tù binh nằm đây thì nhợt nhạt, thiểu não và đầy thảm bại. 

Thấy Minh đến gần tay có cầm súng, tên giặc lái Mỹ há họng, trợn mắt nhìn trân trối, tuồng như anh là một sinh vật từ tinh cầu nào rớt xuống. Ánh mắt chết khiếp của nó không còn một chút hào khí của gã đàn ông. Hai tay nó choãi ngược ra trước, mặt hơi ngước lên, cổ rống ra những tiếng ồ ồ và nước mắt tuôn ràn rụa. Quanh chiếc miệng móm như hang ếch của tên giặc lái Mỹ tứa đầy máu vì thằng Kéo đã nại răng hắn xảm giẻ vào, gây những vết trầy xước. Tên Mỹ được ngồi trên mép sàn, hai chân xuôi về trước, chiếc đùi gãy được cặp nẹp bằng mấy thanh củi. Nó mặc sơ mi sọc và quần đùi bê bết bùn. Bộ đồ bay của nó đã bị mấy cô lột bỏ hôm qua. Minh dùng mũi AK đập nhẹ vào vai nó. Tên giặc Mỹ run bắn người, khiếp đảm đến chết lịm. Nó không còn đủ sức để van xin, khóc lóc nữa. Minh bảo Nhị mang giẻ đến và anh nắm tay ra dấu bảo thằng Mỹ hả họng ra. Nó ngoan ngoãn tuân theo. Nhét giẻ vào họng thằng Mỹ, Nhị bảo là cho nó ăn sô-cô-la kiểu Mỹ! 
Làm xong, Minh định quay về chỗ tiểu đội một. Nhưng lúc ấy có tiếng máy bay “đàm già’ từ hướng Mỹ Lâm sè sè đến. Các cô chạy đi thu xếp đồ đạc. Minh và Nhị bước ra bìa đám tràm để xem xét. Chiếc L.19 bay thật thấp, không đảo tròn, cứ xắt thành ô trên không phận của phân đội đang ở. 
Minh cúi xuống xít xoa dấu trầy ở dưới bàn chân, lầu bầu: 
- Chưa tìm ra tung tích, chúng dễ để yên. Mất một L.19, một đại úy Mỹ, một thiếu tá ngụy là chuyện đâu phải chơi. 
Nhị xem vết thương bàn chân Minh, cô ngước mắt lo âu: 
- Sao thế nầy? 
- Đạp lưỡi dao cùn chỗ túp chòi đổ, hôm qua. 
- Bị đứt bằng những mảnh sắt rỉ hay nhiễm trùng phong đòn gánh, nguy  hiểm! - Nhị  nhìn Minh, phân vân - Trở vô em rửa ráy và băng lại! 
Minh định nghe lời Nhị. Nhưng anh chợt nhớ trong ấy còn thằng  Kéo. Bỗng có cái gì nhói trong ngực, Minh lắc đầu: 
- Nhị à... 
- Sao anh? 
Nhị nhìn Minh chờ đợi. Minh lúng túng không biết nói gì. Nói gì đây? Mà tại sao mình đòi hỏi Nhị phải gần gũi, chăm sóc mình nhiều hơn các chiến sĩ khác kia chứ? Làm vậy hóa ra: “Lạy ông, chúng tôi đang có tình cảm riêng tư đây nè”. Và tại sao mình không tìm thấy những dấu hiệu âu yếm trong ánh mắt của Nhị cố biểu hiện sự che giấu tình cảm một cách tế nhị kia? Tiếng nói bằng ánh mắt nó chân thật bằng gấp trăm ngàn lần lời lẽ ở đầu môi... Minh thở ra, lắc đầu vu vơ. Và cuối cùng anh lặng thinh, theo Nhị vào trong. 
Trên trời bây giờ có đến năm chiếc máy bay L.19 quần đảo, nhào lộn. Tiếng động cơ vang rào rào làm cụm tràm rung lá tê tê. Một vùng không khí đặc sệt âm thanh nhòe nhọet. Lúc sau lại có thêm nhiều loại máy bay bu đến. Tiếng hù hụ và vùn vụt của loại máy bay “F”, hơi bay nặng nề và lì lợm của loại máy bay “B”, tiếng kêu phành phạch, vo vo của các loại máy bay lên thẳng...
Chiếc L.19 nào đó phóng rốc-két hơi gần. Minh và Nhị đi nhanh vô cụm tràm. Chị em đã dọn đồ đạc xong xuôi. Họ xúm quanh chỗ tên giặc lái Mỹ trên sàn vạc mà đùa giỡn nữa. Các cô và thằng Kéo gom bổi khô, cành củi chất đầy chung quanh người thằng Mỹ, định thiêu sống hắn. Minh bước tới ra vẻ tươi cười : 
- Làm cái giống gì vậy? 
Họ dừng lại và có ý lo ngại bị phê bình khi nghe Minh hỏi. Nhưng có lẽ sau đó thấy ánh mắt vui vẻ của Minh, thằng Kéo nhe răng cười: 
- Tụi em ngụy trang cho nó. Để lát nữa mình ra lung “chém vè”, bỏ nó nằm trong nầy trống trải lạnh lưng tội nghiệp. 
Minh gật đầu, rồi anh khoát tay ra hiệu cho chị em cất giấu đồ đạc. Sau đó, tất cả đều ra lung nước.
Mặt trời đã lên cao. Nắng trong. Nước phản chiếu lấp lánh. Từng đám cỏ mỏng xanh rêu xen lẫn trong màu sáng bạc. Những dãy rừng chồi, từng cụm tràm xông lên quây tròn trông như nhiều mảng cù lao nổi lềnh bềnh trên mặt biển phẳng lặng. Có những cụm tràm bị ánh nắng phản quang, đầu rừng cây còn hơi mù nhẹ. Giữa khung cảnh nầy, nếu không gian không bị các loại máy bay đan lượn thì những chiếc võng treo vắt vẻo qua các tán cây tràm, con trai, con gái dễ bật lên những trận cười giòn tan qua câu chuyện nói vui của Bác Ba Phi từ Cà Mau tràn lên hoặc trầm bổng vài bài ca vọng cổ xen trong giọng hò Đồng Tháp kéo dài du dương. 
Đến lúc có những loạt đạn bay vút qua tai chiu chíu, những chùm rốc-kết nổ nhích lại, đến đưa tay nắm bắt được từng nhúm bùn bắn vãi, thì các cô gái mới chịu trầm mình xuống nước. Minh ra lệnh nghiêm ngặt, mỗi người chỉ được quyền ló lên cái đầu, và đầu cũng phải nấp kín sau một gốc cây nào đó. Các cô trêu Minh nhát gan bằng cách nói trớ rằng anh có tinh thần “cảnh giác tối đa”. 
Qua một loạt pháo gần nhất của hia chiếc “cá lẹp” vừa lao xuống phóng chếch bên cánh phải, Minh đứng lên nhìn về cánh trái, nơi có Nhị và Thanh đang nấp. Bất chợp anh thấy chỗ cụm tràm đang nhốt tên giặc lái Mỹ có một đám khói bốc lên. Nãy giờ chúng chưa phóng rốc- kết vào đó, khói lên là thế nào? Minh ngẫm nghĩ, bỗng anh sực nhớ thằng Kéo bày trò chất bổi khô ngụy trang cho tên Mỹ, liền hỏi Nhị và Thanh: 
- Thằng Kéo nấp đâu? 
- Nó mượn ống quẹt lúc nãy, - Thanh đáp - chắc lén đi hút thuốc đâu đó. 
Qua một loạt pháo hơi xa, Minh thấy Kéo vừa chạy vừa bò về đến. Nhìn vẻ mặt nó ẩn giấu một cái gì, Minh hỏi:
- Mày bỏ về đằng ấy để làm gì? 
- Em... - Kéo ngập ngừng, đỏ mặt, ngước nhìn Nhị cầu cứu - Em về thăm thằng Mỹ... 
- Thăm thằng Mỹ là làm sao?

Ngoảnh nhìn ngọn khói bốc lên hiu hiu đằng kia, Kéo đáp: 
- Nó sắp bị máy bay bọn nó phóng pháo... 
- Nói dóc! - Minh cười mũi - Bò về đốt chết thằng Mỹ rồi phải không? 
- Không. Em chỉ đốt khói lên gần đó để mượn “các đồng chí” của nó bay đến ném lựu đạn vào. 
- Chi vậy? 
- Cho nó được nếm mùi “cán gáo” của chính bọn nó mà biết cơ cực với đời. 
Thằng nhóc nầy lý luận cừ thật, Minh thấy tức và cũng buồn cười. Lợi dụng lúc phi đội “cán gáo” bâu vào đánh chỗ có khói, Minh đến bên thằng Kéo, điểm tay vào mặt nó: 
- Mày quá lắm! Ai ra lệnh cho mày làm việc đó? 
Sau câu hỏi, bất thần Minh sựng người, vì thằng Kéo đứng bật dậy, trừng mắt nhìn thẳng vào mặt anh sẵn sàng nghinh chiến. Nó mang đôi mắt của một con mèo lúc bị con chó rượt đuổi cùng đường: 
- Bộ thằng Mỹ đó có bà con với anh sao? Anh đừng binh nó rồi trợn trạo với tôi, hổng sợ đâu. 
- Để nó sống giải về trên, mày không được quyền trái lịnh, biết chưa? 
- Lịnh? Hai tiểu đội nam, thằng nào cái lưng cũng bằng tấm thớt, sao anh không lịnh cho họ giữ? Trăm thứ cứ đổ dồn lên đầu chị Nhị. 
- Như vậy có nghĩa là... mày cố đốt chết thằng Mỹ để cho Nhị được rảnh rang chớ gì? 
- Vậy rồi sao? Tôi không phải ăn hiếp phụ nữ như anh đâu. 
Giận run người, Minh định tát tai thằng Kéo một cái cho hả. Nhưng anh cảm thấy không tiện. Đứng cãi lẽ giằng co với nó, càng lời qua tiếng lại anh càng thất thế thôi. Minh lườm mắt sang chỗ Nhị cố ý “mắng vốn” với cô rằng: mọi sự cũng tại Nhị bao che để đưa thằng Kéo đến bất trị như vậy. Nhị cau mày khó chịu: 
- Kéo! Cứ cãi lẫy son sỏn như vậy, em đúng lắm phải không? 
Nhị vừa rầy dứt, thằng Kéo ngồi bẹp xuống nước, òa lên khóc. Nhị khoát nước kỳ cọ những vệt bùn bám hai bên cạnh tai cho nó. Minh cau mày, bỏ đi nơi khác. 
Đám máy bay đã về hầu hết, chỉ còn vài chiếc quần đảo xa xa. Minh mang súng đi dần về chỗ giam tên giặc lái Mỹ. Vết thương ở bàn chân anh có lẽ nhiễm trùng, sưng lên và nóng giần giật. Thấy Minh khập khiểng, Nhị lội theo: 
- Chân anh đau lắm à? 
- Ngâm lâu trong bùn làm như bị tê dại. 
Anh lượm một khúc cây làm gậy. Nhìn anh chị em quây quần chung quanh, Minh nghe ấm ấp một thứ tình cảm gia đình, máu thịt thân thương quá! Những con người chung quanh cứ tung tăng vui nhộn. Minh nghĩ: “Họ là nhóm tế bào nhỏ trong cơ thể cách mạng lớn, thật đáng tự hào! Cuộc đời thật đáng quý biết bao! Tình người thật đáng yêu biết bao! Cuộc sống đẹp biết bao! Sao tâm hồn mình chật chội?” Tâm trạng bực bội của anh tan dần ra trước một cánh đồng bao la đầy ấp nước. 
Ánh sáng đưa lên cao khi mặt trời chui vào vầng mây xám dày đặc nằm chếch phía đông. Ngay trên vòm cao lỗ chỗ những đốm xanh màu lá mạ sâu vời vợi. Tất cả những cụm mây xám mốc hình thù khác nhau nhưng chung quanh mép rìa đều mang hình răng cưa, đều được dát màu nắng bạc. Chúng ken lại rồi giãn ra trông tựa những kiện bông  hay những tảng đá dữ dội biết di động. Phía sau đám người là đồng nước mênh mông. Trước mặt là một dãy rừng chồi cắt ra, tạo tầm nhìn thở thành một con sông nhỏ. Ngay sát bên kia bờ sông trở đi là một dãy rừng sầm uất, những vạt tràm bị xe lội nước của địch càn đổ, những lùm sậy âm u mù mịt. Bên phải, xa hơn phía bắc, nhiều cụm tràm xanh xen trong cánh đồng xám mốc chạy mút đến chân trời. Lưa thưa, những cụm rừng chồi đứt đoạn, với những đường nét xám vàng của chòm hoa điên điểm, những bóng dáng trắng xám chập chờn của vùng bông sậy, và những hình dáng gì đó chập chùng, xao xác. Và xa hơn nữa, toàn cảnh cánh đồng nước mênh mông cứ xôn xao lay động. Đó là một cung đường hành lang vận tải cuối cùng phía nam Tổ quốc. Cung đường mang tên “C1”. 
Về đến nơi, Minh thấy tên Mỹ vẫn còn sống. Nó nằm ngoẻo đầu rên khừ khừ bằng đường mũi. Đôi mắt nó chứa đựng lênh láng sự khủng khiếp, cứ trợn trừng trắng dã. Chính nó lại sợ đồng bọn của nó đến táng đởm như thế ư? Minh nghĩ bụng: “Nếu tên giặc nầy còn sống, sau đó truyền đạt lại hết nỗi sợ hãi của nó đối với chiến hữu chúng nó thì như thế nào! Và rồi nó sẽ trở thành một con người có kinh nghiệm và thấm thía bậc nhất về tính năng tác dụng của các vũ khí và các phương tiện giết người hiện đại mà chính nó có phần góp công nghiên cứu và thực hiện”. 
“Bọn giặc về ăn cơm”. Anh em thường gọi đùa những lúc nầy là như vậy. Lúc đến chúng hùng hùng hổ hổ, vội vội vàng vàng, quần đảo bất tận. Lúc về, chúng lơ lơ lãng lãng bỏ mặc cánh đồng vắng lặng lại chim loài chim cúm núm mặc sức gù, cho lũ nhái bầu mặc sức rên than. Sau những loạt điên loạn âm thanh mặt đồng trở lại im ắng đến cô quạnh. Anh chị em bung ra, kẻ đi hái rau, người đi bắt chuột, câu cá cải thiện đời sống. Họ thường gọi đó là giác “tan phèn”, có nghĩa đen là chất chua, chát trong nước được kết tinh váng màng màng, sau nửa buổi nắng lên, lượng ôxy trong nước được bốc nhẹ, nước trong sạch lại. Còn nghĩa bóng là đã qua thời gian hung sát, đến giờ khiết thịnh. 
Tiểu đội nữ cùng thằng Kéo dắt đi đâu hết, chỉ còn lại Nhị và Thanh ở cụm tràm trên gò cát bên sàn vạc giam tên giặc lái Mỹ. Nhị căng võng cho Minh. Cô lầm bầm như nói với chính mình: 
- Vết thương mưng mủ, nhiễm trùng uốn ván là nguy! 

Sau câu nói của Nhị, Minh định bảo: “Ăn nhằm gì?”, nhưng anh thấy chiếc võng đã căng, gió hất lên bồng bồng lên như quyến rũ. Nghe xương sống đâm mỏi nhừ, mặt nóng ran, Minh thèm nằm một cách kỳ lạ! Có lẽ Minh sắp lên cơn sốt. Đôi mắt anh lờ đờ, nặng trịch, quai hàm uể oải không muốn nói chuyện. Không cần phải kiểu cách, Minh máng súng qua đầu võng, ghé người ngồi lên. Chiếc võng căng thẳng nhún xuống theo độ cong của hai cây tràm, Nhị còn làm gì lục đục đằng kia? Thanh cầm cục xà bông cà quanh chiếc bình toong Mỹ có đựng nước, để nấu. Làm như thế sau khi nấu rồi sẽ chùi sạch ngay, khói không ám vào thân bình. Rồi Thanh trao chiếc bình lủng lẳng trên một nhánh tràm và kê nắm chà khô có đầu lửa cháy, đốt vào đít bình. 
Minh nằm ép má vào mép võng, nghe làn vải ni lông êm êm. Dường như chung quanh anh có vẩn chút không khí mền mại vào âu yếm. Cảm giác nầy làm cho Minh nghe lòng ngây thơ lại đôi chút. Nhiều ý nghĩ vẩn vơ trong anh cứ đặt ra lộn xộn... Anh đang sợ chết vì một vết trầy nhỏ ở bàn chân đây? Anh đang lên cơn sốt. Có phải vết thương đã nhiễm trùng phong đòn gánh rồi? Chết thì uổng lắm: giả sử như Nhị chưa mang đồ tới vực dậy, không biết nằm ì một lúc nữa Minh còn nghĩ thêm những trò quái quỷ gì? 
Minh phụng phịu như đứa trẻ hay tủi thân lúc Nhị sờ vào trán và cổ anh: 
- Mặt mày đỏ nhừ, lòng mắt láng ngời, độ sốt không thấy đâu. 
Thấy Nhị lo âu, Minh bật cười, ngồi dậy nói đùa: 
- Sốt cao đến băm bảy độ “xê” phải không bác sĩ? 
Nhị nguýt Minh bằng đôi mắt đen huyền hơi lồ lộ và cô cười. Lý thường  bảo rằng: “Bọn con gái có những cái nhìn tàn bạo. Đôi mắt họ là hai hườn thuốc mất ngủ của lũ con trai”. Có phải cái nhìn và đôi mắt của Nhị hôm nay đúng thế không? Minh lấy làm xấu hổ. Tại sao mình lại để ý đến những việc như vậy? 
Thanh đem bình toong lại đổ ra chiếc ca Mỹ. Nhị bắt tay làm việc. Bàn chân Minh sưng húp nặng trịch, nóng ran. Nhị dùng lưỡi lam gọt bỏ những mảnh da tưa tải chung quanh vết thương cho Minh, rồi cô cào bùn và rỉ sét xảm trong ấy ra. Những giọt máu nâu ri rỉ. Thanh cầm chéo khăn nhúng nước nóng chặm vào vết thương. Có lẽ Thanh chưa quen việc mổ xẻ, cô lúng túng đáng tội. Nhị thì làm rát tỉnh táo. Thanh lo lắng thúc cánh chỏ vào Nhị: 
- Nhẹ tay chút chớ, bà! Da thịt người ta làm như gỗ mục vậy. Ác ôn lắm! 
- Ác đâu? Sách có câu: “Lương y như từ mẫu” mà. 
- Bà thì “ác mẫu” nói dễ nghe.
Nhị làm dỗi, đưa mảnh lưỡi lam cho Thanh: 
- Có nóng ruột thì làm đi! Nịnh thủ trưởng thì cũng vừa phải thôi, nịnh quá khó coi. 
Thanh xô vai Nhị, cô gục đầu cười rũ rượi:
- Chút xíu vậy mà bà nầy nổi máu... ta ơi! 
Minh nhìn lảng lên ngọn tràm cười bâng quơ và anh cứ giữ nguyên nụ cười trên khuôn mặt nhợt nhạt của mình. Nhị xé mảnh khăn choàng tắm băng vết thương lại cho Minh. 
Minh chép môi: 
- Về chuyến sau Thanh cố gắng đến phòng dược xin một số băng cá nhân và thuốc thông thường, nghe! 
Thanh: 
- Sau nầy em đề nghị băng của ai nấy giữ. Phải cất kỹ. Cứ nhét bừa vào yếm đạn, hết lội lung lại ”chém vè” hư hết. Ở chiến trường nầy mà... 
Thanh nín im. Vì cô không muốn lập lại câu nói của Lý thường bảo: “Ở chiến trường nầy, lính ta nổi hắc lào từ lỗ chiếm đến đỉnh đầu ruồi”. Mà thật vậy, lính ta ở đây tìm nhiều kiểu nói để châm chọc nhau nghe đến đau lòng! Lý thường bảo: “Ở chiến trường đồng nước nầy có mười thằng lính thì hết chín thằng lác, chẵn chục đứa lang beng, tròn trèm năm cặp ghẻ ngứa”. Bình, cậu tiểu đội phó tiểu đội một thì bảo: “Các cô gái giao thông vận tải đi trên gió cách hai cây số đã nghe “thơm nước”. Có lần Lý bảo Thanh, cô tiểu đội phó tiểu đội ba, người yêu “giò quốc” của cậu ta rằng: vừa xin được mớ thuốc xức lác hay đại tài. Lý bảo Thanh với thẳng hay cánh tay lên xem coi mặt lác gì, để trị cho. Thanh ngỡ thật, đến khi hạ tay xuống, Lý lắc đầu bảo: “Lác nầy quá với rồi, hãy cắt đem vô Mỹ Lâm bán cho người ta dệt chiếu ắt được nhiều tiền, chừng ấy sẽ mua một đôi bò về cày cho trốc củ hủ, xức thuốc vô mới công hiệu”. Thanh thua Lý một keo quá nặng, cô đâm ra giận người yêu suốt một tuần lễ, gặp mặt không thèm nói chuyện... 
Minh trở lại cái ý còn bỏ dở của Thanh: 
- Vấn đề quan trọng là chỗ ý thức bảo quản, giá gì có một cuộn băng. Sao không chống mắt xem thằng Bình kìa? Từ cái chung đến cái riêng, bao giờ nó cũng tươm tất. 
Nhị cười, cướp lời Minh: 
- Thủ trưởng khen lính ra mặt coi chừng không có lợi. Ông bà thương nói: “Có yêu con thì hôn chúng trong lúc ngủ”. 
- Thật mà! - Minh thật thà cãi bướng - Nó làm việc có sút ai đâu? Hàng lên vai thì cây đàn măng-đô-lin day trước ngực. Cái thằng... tôi mà có em gái là gả cho nó liền. - Và anh cười, gõ tay vào vai Thanh, nói tiếp - Bây coi xếp nhỏ có đứa nào ưng thằng Bình, tao gả cho. Con Thế ham theo đoàn văn công khu mà bỏ thằng Bình là một điều chúa dại. 
Nhị rầy: 
- Giỡn hoài, để người ta băng nhanh cho mà. 
Nhị cột vải băng gút cuối cùng. Trong lúc khom đầu cắn bỏ mối dây, cô hỏi: 
- Nếp sống thằng Bình ngăn nắp vậy sao anh không học cho thiên hạ nhờ? 
Bị thọc đúng chỗ nhược, Minh xấu hổ, ngoéo ngón chân vào cô: 
- Tại mang tật bầy hầy nó quen rồi. 
- Hứ! Cứ ấm ớ. - Nhị ngẩng lên, cú nhẹ vào lưng bàn chân Minh - Quen không nổi rồi à. 
Chịu một cú đột tuy nhẹ, nhưng chân đau, Minh phải cắn răng, nhíu mày. Thấy thế, Nhị hối hận, xoa xoa bàn chân Minh ý xin lỗi. Nhị làm vậy, Minh càng muốn khóc. Thanh ngồi bên, hất mặt ngang nhìn Nhị. Trong cặp mắt nhỏ và tròn xoe ấy lóe lên những tia tinh nghịch. Mỗi chút Thanh bám trêu chọc Nhị cho kỳ được: 

- Chừng nào hai người có con đùm đề với nhau rồi bà cũng phải ráng chịu cho quen thôi. 
- Ơi, cái con nhỏ nầy... 
Nhị thét lên, xô Thanh chúi nhủi. Thanh cười ngặt nghẹo rồi bỏ chạy ra đằng xa. 
Tên giặc lái Mỹ nãy giờ nằm lim dim đôi mắt, chợt nhe tiếng họ đùa giỡn, mở trừng mắt ra, ngơ ngác. Minh liếc thấy không thèm đếm xỉa tới. Vì anh đang cầm bàn tay Nhị để xem những ngón tay bị nước ăn lở lói rớm đầy máu. Do cọ rửa trong nước nóng để chăm sóc vết thương cho Minh nãy giờ, Nhị bị ghẻ hành, than rát. Những ngón tay thon thon, đầu móng trắng hông vừa sần sùi, kẽ tay rin máu qua làn da nham nhở. Minh vói ngắt mấy lá tràm non, nhai nát, xát vào tay Nhị. Phương thuốc trị bệnh nước ăn duy nhất của họ là như thế. Ở đây không có cả lọ nồi, dầu trong và phèn xanh, thì biết lấy gì làm thuốc xức ghẻ ngứa khác hơn được? Có lẽ bị chất chát của lá tràm làm rát da, những ngón tay Nhị run rẩy, mặt cô phụng phịu vừa chịu đựng và nũng nịu. Minh bảo: 
- Ráng chút sẽ đỡ ngay! 
Minh xít xoa tỏ vẻ thông cảm. Thanh trở lại xem, chặc lưỡi động viên thêm. Nhị nhìn Thanh và Minh, cô ngạc nhiên, rồi bậu môi, cười giễu cợt:
- Làm như người ta bị thương không bằng. 
Nhị rụt tay. Minh và Thanh cố giữ, nhưng vẫn tuột ra. Nhị vả vào tay hai người. Cả ba cười om. 
Trên sạp vạc, tên giặc lái Mỹ cất tiếng rên mỗi lúc một lớn. Thật là nó không biết mắc cỡ, lúc người ta đang vui cười thì nó lại khóc. Đến lúc tên giặc Mỹ cất tiếng ằng ặc như uất nghẹn, Minh mới chịu nhìn lại. Nó khóc vì uất ức chuyện gì chính Minh cũng đoán không ra. Minh nhìn đích tận bản mặt tên giặc cướp nước nhưng anh không thể nào hiểu nổi tâm địa của nó. Quả lộ hầu của nó nhúc nhích như có ai buộc dây trì kéo. Thấy Minh nhìn nó có vẻ dò xét, tên giặc lái Mỹ quay mặt chỗ khác. Nó xấu hổ hay nó sợ anh đọc được cái tâm địa vừa tàn ác vừa đê tiện của nó? Đôi vai nó mỗi lúc một giật mạnh, nhưng tiếng nấc dần dần tắc nghẹn. Tên giặc lái Mỹ chỉ còn ngửa mặt lên trời, hả họng, nước dãi, nước mắt tuôn ra ràn rụa. Minh nhìn Nhị và Thanh, dò hỏi. Nhưng Thanh lại suy đoán: 
- Có lẽ nó nó đang nổi cơn ghen. 
- Ghen gì? 
- Ghen trước hạnh phúc của đối phương của nó. 
Thanh nói nghe cũng xuôi tai. Trước cảnh vui đùa thân mật của tình đồng chí bên nầy làm cho tên Mỹ chạnh nhớ lại tình “chiến hữu” của nó; cái mối quan hệ “chết ai nấy chịu” ấy. Giờ nầy các bạn nó, đứa thì ngồi bên mân rượu ê chề, đứa thì tắm mát và ung dung nằm nghỉ trên chiếc giường sạch bóng trong hậu cứ. Còn nó, chỉ riêng mỗi mình nó, nằm đây, nằm để ngẫm nghĩ mọi hậu quả của một cuộc chiến tranh xâm lược. 
Minh gật đầu bổ sùng lời nhận xét của Thanh: 
- Có lẽ thằng Mỹ vừa ghen vừa tức cũng vừa tủi thân. 
Riêng Nhị thì lắc đầu, cãi lại: 
- Quân cướp nước, giống giết người ấy làm gì có lương tâm mà ghen với tủi. 
Có lẽ vì lòng căm thù cao độ của Nhị đối với bọn xâm lược Mỹ, cô sinh ra thiên kiến chăng? Minh nhìn Nhị phân vân: 
- Có những động vật tuy là người nhưng chúng độc ác gấp ngàn lần thú dữ, ngược lại có những động vật đi bốn chân, đôi lúc chúng có tình người. Trong bọn xâm lược, cũng có tên còn đôi chút lương tâm chứ. Vì nó cũng có cuộc đời.
Lúc nầy có tiếng trực thăng phát máy phành phạch ở hướng Rạch Giá, họ ngừng lại, không tranh luận nữa. Minh chợt thấy đống bổi khô nấu nước lúc nãy còn bốc khói, anh kêu: 
- Chết, nguy rồi! Dập đống lửa! 
Nhất định nãy giờ bọn giặc thấy ngọn khói nầy. Từ sáng đến giờ khói bốc lên một chỗ hai lần, chúng sẽ áp xuống đánh ngay. Nhị xáp lại dập tắt lửa. Thanh dẫn chị em chạy ra lung nước. Minh khập khiễng chạy ra bìa rừng. Anh thấy hai chiếc trực thang từ phía kinh xáng đang lao thẳng vào trông như hai cái đầu tròn vo tựa hai quả bóng đen. 

Nhị dập tắt lửa, vội chạy theo Minh. Vừa tới, cô thấy tình huống nguy kịch vội thét lớn gần như lạc giọng:
- Nằm xuống! 
Minh còn lúng túng vì bàn chân đau và mảnh vải băng đã tuột ra. Nhị nhảy bổ tới xô anh té nhủi. Đầu hai chiếc trực thăng phụt khói. Hằng chục trái rốc-két chín mươi ly và mấy loạt đạn đại liên quét xối xả vào cụm rừng có nhốt tên giặc lái Mỹ. Minh và Nhị còn loay hoay ở bìa rừng để băng lại vết thương. Họ ước lượng khoảng trống chạy tới lung nước, nhưng không kịp, đành dắt nhau quày lại chiếc hầm đắp nổi cạnh sàn vạc cột tên giặc lái Mỹ. Một loạt rốc-két nữa nổ ầm ầm nhưng hơi chồm về phía trước. Minh và Nhị chui tọt vào hầm. Sau loạt pháo Minh ló ra dòm chừng tên Mỹ. Nó vẫn còn nguyên. Vẻ mặt đang cực kỳ khủng khiếp ! Hai mắt nó láo liên, đảo ngược lên trời tựa một người bị chẹn họng. Toàn thân nó run bắn lên. Vì hãi quá nên tên Mỹ quên kêu khóc, nó chỉ rên khừ khừ. Bộ mặt nó bợt ra không còn một thần sắc, thịt hai bên má tím bầm và chảy xệ trông tựa hoại thư. Tên giặc Mỹ không ngớt lầm bầm nguyền rủa cái gì? Nguyền rủa hay khấn vái? 
Hai chiếc trực thăng vũ trang bung ra đảo vòng rộng. Minh gọi Nhị xem coi thằng Mỹ đang làm gì. Nhị bảo: 
- Nó đang cầu Chúa đó. Nếu hai tay không bị trói, anh sẽ thấy nó làm dấu thánh. 
- Có đúng vậy không? - Minh nhìn Nhị mỉm cười hoài nghi. 
- Hồi còn ở thị xã thấy hoài. Có lần em bưng rổ rắn và rùa mời một thằng Mỹ mua, nó giật nẩy người, đưa  tay làm dấu chữ thập trên trán, trước ngực, qua trái, qua phải. 
Minh cùng Nhị dùng dao găm cắt dây trói cho tên giặc lái Mỹ, họ è ạch lôi nó vào hầm. Mấy dây đại liên cùng vài trái pháo từ trên máy ba quét xuống, hơi xa. Hai người bỏ tên Mỹ nằm trong hầm, họ tốc chạy ra lung nước với các bạn. Ngang đống tro lúc nãy Minh còn thấy một sợi khói phất phơ, anh dừng lại dẫm cho thật tắt. Minh nhớ một lần nghe một anh cán bộ quân sự cao cấp bảo: “Lúc mặt trời vừa lên, không khí còn trong, những tên giặc ở trong một tháp canh nào đó xa bằng mười cây số, chúng bỏ ống dòm nhìn thấy những sợi khói thuốc của anh em mình đang hút trên cánh đồng nước nầy. Và thấy những con quạ bay chấp chới đi tìm mồi, chúng sẽ ghi nhận đó là vùng có “Việt Cộng” đang ăn ở”. 
Hai chiếc trực thăng vũ trang không quần đảo tìm mục tiêu ngoài lung nước. Chúng quày lại cụm tràm có chiếc hầm nổi nơi tên giặc lái Mỹ đang trú ẩn. Đống tro có than lửa bị Minh dập vẫn chưa chịu tắt, gặp hơi gió, một làn khói lại bốc lên. Từng cụm khói xanh lam bay lên, bay lên tựa những chùm bông sậy được gió bốc lộng. Hai chiếc trực thăng đang bay nhanh lỡ đà vụt quay trở lại. Rồi chỉ nửa vòng đảo, chúng đã nghiêng mình đúng tọa độ, và chúc đầu xuống bơi bơi cái đuôi chổng ngược. Hơn một chục quả rốc-két chín mươi ly của hai chiếc trực thăng cắm đúng vào cụm tràm có chiếc hầm nổi. Đất và cành, lá cây tung lên như một quả núi hư ảo hiện lên rồi tan biến. Cụm tràm trông xác xơ thảm hại. Mùi khói thuốc đạn, mùi bùn và mùi lá non bị vò nát trộn vào nhau, theo gió bay lan lan ra tận ngoài lung nước. Nó cứ xộc vào mũi những người ở đây nghe tanh tanh lờm lợm. 
Mấy chiếc trực thăng đã trở về căn cứ. Minh và chị em tiểu đội ba trở về cụm tràm của họ. Chiếc hầm nổi đã sụp đổ trộn vào cây lá trở thành một bãi bùn nhàu nhoẻn ngổn ngang. Tên giặc lái Mỹ tất nhiên hòa chung những kí lô xương thịt vào đó. Xác của hắn không ai tìm thấy đâu. Nhưng cũng chẳng ai tìm làm chi. Thế là đủ. Những chiến hữu của hắn đã tống táng giùm một cách mồ yên mả đẹp cho hắn. Mẹ cha, vợ con hắn có biết không? 
Minh ngao ngán thở ra. Anh nghe trong người lại bắt đầu lên cơn sốt nữa. Nhị căng cho anh chiếc võng qua mấy cây tràm còn lại. Minh nằm. Có lẽ cơn sốt lên cao, anh cảm thấy đầu óc choáng váng, mắt lờ mờ, chốc chốc một cái gì đó dường như bị sụp xuống, chới với, bừng lại trí nhớ rồi tuột nhanh qua. Và lúc bấy giờ, thậm chí trong chốc lát, Minh quên mình đang ở đâu. Từng khớp xương mỗi nhừ nhức nhối, mỗi lần anh cử động như nó sắp sút rời ra. Lớp da lưng ê ẩm, lạnh toát, bên trong có nhiều hạt cát châm chít xót xa. Minh nằm vùi trên võng, tay bấu chặt vào một thân cây tràm có lớp vỏ sù sì, nhám mặt lại để khỏi gặp cái nhìn của thằng Mỹ nằm trên sàn bên cạnh. 
Đến lúc nghe một bàn tay lạnh toát đặt trên trán, Minh mới cố mở mắt ra. Nhị khe khẻ bảo: 
- Để em xông vết thương cho anh! 
Minh từ từ ngồi dậy. Vì lúc nãy nghe Lý bày cách xông vết thương bị sét rỉ nhiễm trùng bằng chai trét xuồng, Minh hỏi: 
- Chai trét xuồng ở đâu mà có? 
- Ra chỗ giấu xuồng, em kéo lên mỗi chiếc cạy một mớ. 
Minh thở dài, chíp môi : “Ra chỗ giấu xuồng? Phải lội qua hai con lung sâu tới cổ, dường như hằng cây số, thế mà Nhị... “ 
Minh nghe lòng rưng rưng, mặt nóng bừng, đôi mi rân rấn. Nhị cứ vì mọi người mà chẳng nghĩ đến gia khổ của mình. Da thịt của Nhị đã bị nước ăn mà vẫn dầm nước suốt. Nhưng biết làm sao được, một khi phải đứng chiến đấu ở cung đường quá khắc nghiệt nầy, nó đâu chiếu cố trai hay gái. Đồng nước ở đây mỗi năm có đến chín tháng mùa nước. Tuần trăng, các cô gái bị tối ngày ngâm mình dưới nước, cô nào cũng sinh ra sốt lạnh, đau lưng và nhức đầu. 
Minh không dám nhìn vào Nhị nữa sợ mình quá cảm kích mà bật khóc đi. 
Nhị tìm đâu ra được một cái vỏ lon sửa bò móp méo và cắt sẵn mấy lá chuối nước có khoét lỗ đậy lên trên. Minh lại chép môi: 
- Nếu có một nùi tóc rối nữa là đúng phương thuốc gia truyền của Lý. Nhưng thôi, ta cứ thử xông chai trước xem sao. 
Nhị mò túi lấy nữa mảnh lưỡi lam, vừa cười vừa nói: 
- Tóc chưa rồi thì ta vò cho nó rối, có khó gì? 
Minh chưa đáp, anh thấy Nhị tự cắt xuống một mớ tóc của mình. Anh giật mình kêu hoảng. Nhưng đã muộn. Nhị vò mớ tóc cho rối đi. Minh nghe quai hàm mình bóp cứng, muốn mở miệng mà không thốt ra lời. Có thứ nước cay cay ngồn ngột đang ứa ra mắt và mũi anh. 
Nhị cắt vải băng cho Minh và nhồi chai vào tóc. Cô ngồi tựa vai vào một bên chân anh. Chiếc áo vải lin-prang màu xám mốc đã sờn nát được mạng vá lại kỹ lường từng đường kim, mụn vải, bọc lấy đôi vai tròn rỉnh và ngấn cổ rám nắng của Nhị. Mái tóc của Nhị hoe hoe dãi dầu sương nắng nhưng lúc nào cũng được chải gỡ suông sẻ. Không có dầu xức, tóc cứ khô cháy, cứ bồng bềnh và gãy rụng, trông tội làm sao! Nhị kềm bàn chân Minh cho vết thương để ngay lỗ thủng của lá chuối nước đậy trên miệng lon. Mớ chai nhồi với tóc của Nhị trong lon đang bén lửa cháy xèo xèo. Hơi ấm của lửa từ dưới xông lên, hơi ấm của bàn tay Nhị từ trên áp xuống. Minh nghe bàn chân mình mỗi lúc một nhẹ nhàng dễ chịu. Sự dễ chịu nầy từ trong lòng anh tràn ra hay từ ngoài tay Nhị thấm vào? Minh tự hỏi, và nghe dễ chịu hơn. Ráng lắm, Minh mới cất lên được giọng nói rung run: 
- Tại sao Nhị cứ hay thương người lắm vậy? Nhị cứ đem chia xớt bớt cho tất cả mọi người mà chẳng dành riêng cho mình chút nào? 
Câu nói ấy làm cho đôi má Nhị chín ửng, và cô mỉm cười: 
- Cũng có chớ... 

Ngoài trời đang có tiếng máy bay OV.10 quần đảo làm cho Nhị không nói thêm nữa. Nhị đứng lên. Vô tình Nhị mang luôn tay trái đang buông thỏng của Minh. Còn Minh, lúc ấy cũng quên rằng mình đang mơ màng chuyện gì. Nhị quay người lại đối mặt với Minh, cầm gọn bàn tay anh, nóng bỏng. Nhị nhìn sâu vào mắt Minh, nửa như âu yếm, nửa như hoảng sợ. Mặt Nhị na xám, môi run run và dường như đôi mắt râm rấm. 
- Anh! 
Sau tiếng thuốc lên nghe nhe tiếng kêu ấy, Nhị từ từ hạ bàn tay Minh xuống và buông ra. Trên trời, hai chiếc OV.10 đảo thấp và xiết nhặt vòng. 
Minh vẫn còn bần thần với một thứ tình cảm êm đẹp trong lòng, nhưng anh cố lời đi: 
- Chẳng biết Long đưa cánh Năm Hoa đến trạm quân y huyện thế nào mà giờ cũng chưa thấy về? 
Nhị nhìn thẳng vào Minh, nói sang ý khác: 
- Không phải lo chuyện ấy nhiều. Phân đội ta đang bị vây khốn, không còn gì để ăn, phải tính việc nầy trước đi!
Minh vỗ tay vào trán suy nghĩ. Anh nhìn về phía núi Cô Tô. Nơi đó mấy hôm nay giặc chỉ để lại một số lính bảo vệ chỉ huy sở sư đoàn 9 ở lại, còn bao nhiêu bủa vây ra các mạch để ngăn đón chuyến hàng của ta dưới đồng nước nầy. Nơi ấy có đồng bào. Ban ngày không gặp, đêm ta bám ra các xóm có thể vận động ra lương thực. Anh em phân đội mệt mỏi quá rồi. Nghĩ vậy, Minh nói:
- Lôi lên hai chiếc xuồng nhỏ để chuyên chở chút ít đồ đạc cần thiết, còn bao nhiêu cứ giấu lún lại đây. Chúng bảo ta lên núi nghỉ quân, để cho thằng địch vây chặt cái cung đường trên cánh đồng nước mênh mông nầy đi. Bao giờ chúng thỏa mãn, thừa sơ hở, chúng ta trở xuống nhanh chóng chuyển hàng đi. Nhị thấy sao - Anh lại tiếp - Cứ bám đấy, đi không lọt, ở cũng không xong.
19/12/2004
Anh Động
Theo https://vanchuongviet.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tiếng gọi đêm cuối năm

Tiếng gọi đêm cuối năm Đêm hai mươi sáu Tết, chị đứng trên ban công tầng bốn, lặng lẽ đưa đôi mắt u buồn nhìn xa xăm xuống đường phố. Hai ...