Thứ Bảy, 2 tháng 4, 2022

Trần gian người đời 1

Trần gian người đời 1

CHƯƠNG 1
Chiến công đầu tiên của Ngô Quất bắt đầu bằng một phát minh độc đáo nhất thế kỷ này. Đó là một sáng kiến giết người rất ngoạn mục bằng cách treo cổ con người ta theo phương pháp "gầu sòng" để tiết kiệm đạn. Phương án "gầu sòng" được áp dụng rộng rãi trong vùng bởi nó mang một ý nghĩa sâu sắc về mục đích yêu cầu, tầm quan trọng của những cuộc xử tử những tên tội phạm. Nó thoả mãn được lòng căm thù, nó gây được ấn tượng mạnh khiến kẻ tử tù phải khiếp sợ. Loài người tất nhiên đã có rất nhiều phương pháp để trừng trị tội phạm, cho phạm nhân lên giàn hoả thiêu, hay theo phương pháp tùng xẻo thời trung cổ, "tùng" một cái "xẻo" một nhát theo nhịp trống. Như thế cũng đã ghê. Nhưng Ngô Quất cho rằng phương pháp "gầu sòng" của mình có hình ảnh nghệ thuật hơn, dữ dội hơn. Nếu chỉ đem bắn thì quá đơn giản lại tốn đạn: "Đòm" một cái là chết, chẳng đau đơn gì. Phương pháp "gầu sòng" của Ngô Quất cũng chỉ là phương pháp treo cổ, nhưng nó đặc biệt hơn. Người ta dùng ba cây tre đực chụm đầu lại, gốc choãi ra giống như kiểu cắm sào để tát nước gầu sòng. Dùng một cây tre đực nữa để nguyên cả ngọn dài, đặt lên chạc ba làm cần bật. Ngọn cây trên cần buộc sợi dây bỏ thõng xuống đất khi nào được lệnh giật thật mạnh, ngọn cây tre cần bật tung lên, lôi thốc cổ phạm nhân treo lơ lửng trên không trung. Điều đáng nói là cái sáng kiến của Ngô Quất lại được áp dụng để xử tử chính bố đẻ ra y. Dụng cụ "gầu sòng" được kéo rê từ làng Gồi qua làng Bao và cuối cùng tới làng Nguyệt Hạ. Đấu trường làng Nguyệt Hạ xử tội người con trai độc nhất của lão Kình được dựng trên đám ruộng khô cạnh ao đình.
Mới bảnh mắt trống đã thúc liên hồi. Người lớn trẻ con ùn ùn kéo đến như thể xem đấu vật. Có chen chúc nhau người ta mới nhận ra xử tử theo phương pháp gầu sòng thuận tiện hơn, an toàn hơn xử tử bằng súng vì tất cả người xem được vây kín xung quanh tên tội phạm chỉ cách chân "gầu sòng" ba mét. Nghĩa là vòng trong thì ngồi, vòng ngoài đứng ai cũng nhìn rõ mặt tên tội phạm. Hôm qua, thấy bố Lưỡng và chú Học, chú Bất dựng đấu trường "gầu sòng", cái Nga và mấy đứa trẻ trong xóm lại ngỡ làng sắp mở hội chơi đu. Lúc này cái Nga được ngồi vòng trong với mẹ, nó nhìn rõ thấy cái hố sâu người ta đào ngay dưới chân "gầu sòng". Nét mặt ai cũng có vẻ căng thẳng. Nhất là vợ chồng lão Kình, cô Bông và anh em thằng Bức là những người trong gia đình kẻ bị treo cổ được ngồi riêng ra một chỗ sát chân "gầu sòng" cạnh cái hố. Lúc này cái Nga mới mang máng nhận ra cái hố chính là lỗ huyệt để chôn kẻ phạm tội. Kẻ phạm tội chính là bác Mùa. Bác Mùa là con trai lão Kình, là chồng cô Bông, là bố của anh Lạnh, anh Mát, thằng Bức. Thằng Bức là con út, chúa láu cá. Đã mấy lần nó lừa, bảo Nga nhắm mắt lại, nhằng một cái nó đã giật quần của Nga tụt xuống quá gối rồi bỏ chạy. Bố cái thằng, khốn nạn vậy. Lúc này thì bố nó đã bị bố Nga dong ra đứng trước cái thòng lọng. Chiếc thòng lọng khẽ đong đưa. Mặt trời đã lên cao. Nắng cứ rừng rực trên miệng lỗ huyệt.
- Treo cổ nó lên.
- Giết chết nó đi.
- Đả đảo thằng bán nước
Mọi người xôn xao. Những tiếng hô căm phẫn vang lên. Bố cái Nga ngoắc chiếc thòng lọng vào cổ tên tội phạm rồi bước về phía chú Học, chú Bất đang bu vào sợi dây chuẩn bi tư thế chờ lệnh. Bố Nga vừa bám được vào sợi dây thì "tùng" một tiếng, trống lệnh vang lên. Bố Nga, chú Học, chú Bất vươn người bu vào sợi dây lấy đà giật thật mạnh, vít cây tre cần xuống. Trong tích tắc, chiếc thòng lọng xiết chặt lấy cổ tên tội phạm lôi thốc lên không trung theo sức bật của cây tre cần, giống y như người câu cá giật được chú cá khổng lồ bằng chiếc cần câu khổng lồ. Chiếc "cần câu" mềm dẻo bật lên rũ xuống theo quán tính, đầu tiên tội phạm nghẹo đi, cổ dài ra, người thẳng đơ nhún nhảy trên không được mấy nhịp bỗng dưng chiếc dây thừng trên tay bố Nga và chú Học, chú Bất bị đứt bịch một cái, cả ba người mất đà ngã ngửa ra đất. Cây tre cần tung gốc lên trời, tên tội phạm từ trên cao rơi uỵch xuống đất quằn quại bên lỗ huyệt. Tên tội phạm hồi tỉnh chợt đứng vụt dậy gào rú lên ôm choàng lấy thằng Bức. Thằng Bức hoảng loạn ôm lấy anh Lạnh và anh Mát.
Bà lão Kình, mẹ đẻ ra tên tội phạm nằm quay lơ ra đất miệng sùi bọt giống người lên cơn động kinh. Riêng lão Kình, bố của tên tội phạm là vững vàng hơn cả. Lão đứng trơ ra nhìn trân trân vào người con trai đang bị hành hình. Dân chúng xôn xao. Những gương mặt lấm tấm mồ hôi giấu kín cảm xúc trong vành nón che nghiêng lấp lóa dưới nắng. Bố cái Nga ra lệnh cho chú Học và chú Bất công kênh nhau lên nối lại đoạn dây bị đứt. Tiếng trống hiệu lại đánh "tùng" một cái, cuộc hành trình lại diễn ra như lần trước chỉ khác là tên tội phạm không còn đứng được nữa. Hắn nằm còng queo chết dí trên đất bỗng như sống lại, bay thốc lên trời. Nhưng lần này sợi dây trên tay bố Nga và chú Bất, chú Học bị đứt ngay lập tức. Xác tên tội phạm lại một lần nữa rơi bịch xuống. Có tiếng ai đó hét lên.
- Mẹ kiếp! Cả làng này không kiếm được sợi dây nào tốt hơn sao?
Mọi người nhận ra người vừa hét lên là Ngô Quất, người đã phát minh ra sáng kiến xử tử bằng phương pháp "gầu sòng" này.
- Rõ là rách việc, mất cả thời gian. Cứ đem dao rõ sắc "phéng" một nhát vào cổ là nhanh.
- Hắn ta vẫn chưa chết đâu.
- Có thế mới ngấm đòn. Đáng đời bọn phản động. Lần này thì chú Bất, chú Học có vẻ hăng máu hơn, không cần dùng dây, nhảy phốc lên vít cây tre cần xuống dạng háng ra giữ rịt lấy không thèm dập dềnh đánh đu như trước nữa. Tên tội phạm lần này cũng không còn nhún nhảy như trước mà chỉ khẽ đong đưa lơ lửng mãi trước mắt mọi người.
Không gian chợt lặng đi. Nắng vẫn rực lên và bầu trời cứ trong vắt. Nhìn cái xác treo lửng lơ, lơ lửng mãi, mọi người lại cảm tưởng như đã ngửi thấy mùi tử khí đang lan toả ra khắp mọi nơi. Bất chợt có tiếng quạ kêu khan một hồi từ cây đa đứng trơ vơ giữa cánh đồng làng Nguyệt Hạ...
Từ cái lần đi xem treo cổ bố thằng Bức về, đêm nào Nga cũng giật mình thon thót. Đêm nay Nga đang nằm ngủ bỗng thấy có người ôm cổ Nga hôn chun chút. Nga tỉnh dậy thì ra là bố. Bố Nga cúi xuống hôn Nga rồi quay sang hôn mẹ. Nga nghe rõ cả tiếng mẹ đang sụt sùi khóc. Sao mẹ lại khóc?
- Phải vậy thôi, không thể khác được - Tiếng bố Nga thì thào - Anh đi! Anh phải đi...
- Bố đi đâu? - Nga vùng dậy hỏi.
Mẹ Nga vội bịt miệng Nga vẻ hốt hoảng. Giọng mẹ lạc đi:
- Anh đi đi.
Bố lao ra cửa. Mẹ đứng ngẩn ngơ nhìn ra ngoài trời tối đen. Lát sau mẹ quay vào giường ôm ghì lấy Nga.
- Bố đi đâu hả mẹ?
- Cấm con không được nói với ai là bố đi đâu. Bố phải đi trốn con ạ, thời thế này không thể ở lại làng được. Thôi, con đừng hỏi nữa. Ngủ đi
Sáng ra, vừa thức dậy. Nga đã thấy có tiếng người chạy uỳnh uỵch ngoài ngõ. Nga bật dậy lao ra cửa. Mẹ đang nấu cơm dưới bếp. Nga hoảng hốt nhìn thấy lão Kình và anh Lạnh, anh Mát cầm dao hằm hằm bước vào.
- Thằng Lưỡng đâu, ra đây cho ông hỏi tội - Tiếng lão Kình rít lên.
Mẹ Nga từ trong bếp chạy ra run rẩy chắp tay lạy lão Kình.
- Nhà con không có nhà! Con lạy ông tha cho nhà con. Nhà con đâu muốn thế. Cũng vì cái chức tổ trưởng du kích bắt nhà con phải làm...
- Mẹ chúng mày! Nó bắt ăn cứt chúng mày cũng ăn chắc. Con ông nó sắm thuyền đi buôn đá về cho chúng mày lát đường cưới vợ cưới chồng, đi buôn trục về cho chúng mày trục lúa, buôn nồi về cho chúng mày nấu ăn. Chẳng qua nó thủ khẩu súng và mấy viên đạn đề phòng kẻ cướp. Vậy mà chúng mày vu oan nó làm gián điệp...
Lão Kình vừa sục sạo quanh nhà vừa chửi. Sục chán không thấy gì, lão khoắng con dao ra hiệu cho anh Lạnh và anh Mát đi theo lão ra ngõ. Nga còn đang hoảng loạn thì thấy Đô chạy sang bảo với mẹ Nga là bố Nga đã chết rồi.
Bố Nga đã thắt cổ chết treo trên cành đa giữa đồng. Mẹ dắt Nga chạy theo lối cừ giữa ra tới nơi đã thấy mọi người đứng lố nhố quanh gốc đa. Bố Nga đã tự trừng phạt mình bằng cách tự treo cổ mình trên cành đa y như lần bố Nga treo cổ bố thằng Bức trên cần "gầu sòng"
Mẹ Nga khóc rống lên:
- Ối anh ơi, anh đánh lừa mẹ con em. Đêm hôm qua anh bảo với mẹ con em rằng anh chỉ tạm trốn đi ít ngày rồi anh sẽ về  u u u...
Nga cũng bật khóc theo mẹ. Nắng sớm le lói trên những giọt sương long lanh.
Mọi người từ trong làng đổ ra. Con quạ đen trên cây đa hoảng sợ bay vút lên kêu "quạ quạ.. quạ quạ!"
Vào những ngày tang tóc này, người dân làng Nguyệt Hạ lại nghĩ tới câu chuyện đau thương của Đinh Tử Túc và Vũ Bách Thiên xưa.
Đinh Tử Túc và Vũ Bách Thiên giữ chức to nhất làng Nguyệt Hạ thời bấy giờ.
Đinh Tử Túc có hàng râu con kiến, cưỡi con ngựa bạch. Vũ Bách Thiên có bộ râu ba chòm cưỡi ngựa hồng. Người làng Nguyệt Hạ đã quen nhận ra cốt cách và tiếng vó ngựa của cả hai vị quan chức ở hai dòng họ to nhất làng Nguyệt Hạ gõ móng trên đường làng suốt mười năm trời  (Bính Thìn - 1256 - Bính Dần - 1266).Đến năm thứ mười một tháng ba năm Đinh Mão (1267) con ngựa hồng của Vũ Bách Thiên tung vó phi nước đại đến trước cửa từ đường họ Vũ, Vũ Bách Thiên xuống ngựa lao vào hậu cung từ đường dỡ cuốn gia phả ra xem. Bộ râu ba chòm rung rung, Vũ Bách Thiên rú lên một tiếng kêu "Trời!" giận dữ nhảy phốc lên mình ngựa phi tới nhà trưởng tộc.
- Ông là trưởng tộc mà mù - Vũ Bách Thiên quát vị trưởng tộc - Ông hãy mở mắt xem Đinh Tử Túc nó đang cho họ Đinh nhà nó đào ao trước cửa đình. Nó đào sân hun hút như vậy ông có biết nó nhằm mục đích gì không?
- Sao bảo nó đoán sang năm có hạn to.
- Không phải thế. Ôi cái thằng Đinh Tử Túc thật nham hiểm. Nó đào ao trước cửa đình nhằm triệt long mạch họ Vũ ta, ông hiểu chưa. Ngay đêm nay ông phải huy động cả họ mình phải đào ngay con cừ giữa đồng chạy thẳng vào phía sau hậu cung đình Nguyệt Hạ. Long mạch họ ta ăn theo chiều sâu, long mạch họ Đinh ăn theo chiều rộng, ông hiểu chưa. Nó chơi ta thì ta chơi lại, hè hè... Thế là cái công việc đào ao, đào cừ của hai dòng họ đã lôi cuốn cả làng Nguyệt Hạ.
Những bui tre làng Nguyệt được khẩn trương hạ xuống đan sọt làm quang gánh. Tiếng búa rèn cuốc ren mai đập chí chát hối hả cả đêm. Ngựa hồng ngựa trắng tung vó trên đường làng. Đêm đêm đèn đuốc sáng rực cả khoảng trời làng Nguyệt Hạ. Con người thật kỳ lạ, điên cuồng lồng lộn lên để làm cái công việc triệt tiêu long mạch tổ tiên. Họ mê muội hung dữ xả vào chân nhau, bổ cả vào đầu nhau. Mặc lúa má khô héo, sâu bệnh, mặc cả trẻ ốm đau, suốt ba tháng trời, dân Nguyệt Hạ mất ăn mất ngủ vì công việc đào ao đào cừ. Để rồi cuối cùng dân làng phải chứng kiến một cảnh tượng rùng rợn, một cơn ác mộng xảy ra trong ngôi đình làng Nguyệt Hạ. Đầu của Vũ Bách Thiên rời khỏi cổ mà  mắt vẫn mở trừng trừng nằm lăn lóc dưới chân cột đình, con dao còn cắm sâu ba tấc vào thân cột. Còn Đinh Tử Túc nằm giữa đình, bụng phơi ra một đống bùng nhùng gan ruột. Người bảo trời phạt. Người bảo hai kẻ đã tự trị tội mình. Người lại bảo hai kẻ giết lẫn nhau. Long mạch họ Đinh, họ Vũ bị triệt, vinh hoa phú quý hai họ đang nở rộ bỗng lụi tàn. Người làng Nguyệt Hạ chỉ còn nhìn thấy hai con ngựa trắng, ngựa hồng của hai dòng họ lọc cọc kéo hai cỗ xe ọp ẹp rít ken két trên đường làng Nguyệt Hạ. Năm ấy dân làng Nguyệt Hạ mất mùa, đói khát, bệnh tật chết chóc thảm thương. Bầu trời làng Nguyệt Hạ vắng bóng diều và im tiếng sáo. Dần dần dân Nguyệt Hạ phục hồi được tai biến. Sự anh minh cao quý chiếu sáng lên tư tưởng tối tăm của hai kẻ ác, dân Nguyệt hạ liền dỡ ngôi đình làng, lật hết gạch đá mang ra dòng sông Cái đóng bè bán cho làng Cao Chỉ để dân Nguyệt Hạ không bao giờ còn nhìn thấy vết chém hằn sâu trên cột đình, để không phải đặt chân lên những viên gạch nhuốm máu người. Hai năm sau một ngôi đình mới lại mọc lên to đẹp hơn trên nền ngôi đình cũ. Ao đình được nạo vét và trồng sen, quanh năm toả hương thơm ngát. Con cừ giữa được khơi thông ra dòng sông Cái để lấy nước tưới cho đồng ruộng. Bầu trời làng Nguyệt Hạ lại râm ran tiếng sáo diều. Qua biến cố, tai họa đói kém, bệnh tật khiến dân làng Nguyệt Hạ sợ hãi. Họ lao vào làm ăn cày cấy chăm chỉ và lại chơi diều. Họ làm cả những chiếc diều khổng lồ to bằng chiếc thuyền nan mang sáo "bi bi" to bằng bắp đùi buông vào những ngày lộng trời. Tiếng sáo diều xua tan đi bao nỗi đau buồn của lòng người làng Nguyệt Hạ như nhắc nhở đừng bao giờ làm điều ác. Tiếng sáo diều an ủi nỗi gian nan vất vả của công việc ruộng đồng. Tiếng sáo diều chính là tâm hồn thanh cao, bay bổng diệu kỳ nhất của người dân Nguyệt Hạ.
Vào những ngày thanh bình người làng Nguyệt Hạ lại nhớ tới câu chuyện huyền thoại của làng. Truyện rằng. Vào tuổi mười tám nàng công chúc Nguyệt Cầm đẹp như tiên. Gương mặt nàng buồn như cảnh sắc mùa thu. Tâm hồn nàng thật trong sáng và đa tình. Cả thời thơ ấu của nàng bị giam cầm trong hoàng cung không hề biết tới thế giới bên ngoài còn bao la rộng lớn vô cùng. Đến tuổi dậy thì nàng hay nghĩ vẩn vơ ngồi một mình xa lánh mọi người. Đêm đến nàng thấy bứt rứt khó ngủ. Vào một đêm nàng chợt thức giấc và nghe từ thế giới xa xôi nào đó vẳng lại âm thanh kỳ lạ vi vút như tiếng chim, như tiếng đàn, như một lời réo gọi. Từ đó đêm nào nàng cũng thức giấc và nhận ra chính những âm thanh ấy đã quyến rũ nàng, khiến nàng rạo rực, ham muốn... Nàng nhận thấy thân thể nàng đẫy đà ra, ngực nở nang hơn, và trái tim nàng hay xúc động mạnh cũng chính bởi âm thanh kỳ lạ ấy. Đến một đêm, không chịu nổi khao khát muốn biết rõ thứ âm thanh đó từ đâu tới, nàng trốn khỏi hoàng cung, ra đi. Nàng đi suốt đêm với tâm trạng vừa hồi hộp lo sợ, vừa háo hức bởi thứ âm thanh ấy mỗi lúc một rõ hơn, gần hơn. Bình minh lên, nàng ngỡ ngàng thấy đất trời hiện lên một khung cảnh hết sức lạ lùng chưa bao giờ nàng nhìn thấy. Một thế giới bao la đầy cây xanh của thôn xóm đồng quê, dòng sông, bến nước thanh bình, không có lính canh, không có thành luỹ, không có gươm giáo. Nàng sung sướng được nhìn thấy, được nghe thấy những âm thanh lạ của những con chim lạ mà người ta buộc dây thả nó bay lơ lửng trên bầu trời xanh ngắt. Nàng tung tăng đi dọc bờ con sông trong vắt và bất ngờ gặp một chàng trai có thân hình lực lưỡng, gương mặt thật vô tư, chàng dắt một con vật cũng lạ. Chàng đang ngước mắt nhìn lên con chim khổng lồ của mình bay trên trời. Con chim của chàng... đúng là con chim của chàng đang phát ra thứ âm thanh lạ lùng đã làm nàng thao thức bao đêm.
- Thưa chàng - Nàng ấp úng đến bên chàng trai.
- Nàng là ai? - Chàng trai ngơ ngác nhìn nàng. Ôi ánh mắt chàng mới hiền lành và trong sáng làm sao.
- Ta là công chúa Nguyệt Cầm - Nàng nói - ta muốn hỏi chàng về con chim mà chàng thả trên trời nó đang hót kia...
- Ôi! Nàng thật là ngây thơ! Nó không phải là con chim. Nó là cánh diều do chính tay tôi làm ra...
Qua lần gặp gỡ chàng nông dân, về tới hoàng cung, nàng bị vua cha quở mắng và ép gả nàng cho một hoàng tử nước láng giềng. Thế giới mới lạ của đồng quê đã quyến rũ nàng, hình ảnh chàng trai với cánh diều tiếng sáo đã lay động trái tim nàng. Trong ngày cưới nàng chỉ mơ tưởng tới cảnh gặp gỡ chàng trai. Trên bờ sông. Tiếng sáo diều của chàng lại văng vẳng như thúc giục nàng phải đến với chàng. Tiếng sáo lúc này nghe sao ai oán sầu muộn. Nàng lén từ biệt vua cha, từ biệt triều đình, từ biệt cảnh xa hoa náo nhiệt của đêm tân hôn. Nàng tìm đến chàng trai và tự nguyện trao tấm thân trinh trắng của nàng cho chàng giữa nơi đồng quê đầy hương thơm của đất trời, cỏ cây hoa lá. Và tiếng sáo diều vi vút trên nền trời đầy sao. Nàng cảm nhận rõ thân thể chàng và nàng trộn lẫn vào nhau sáng rực lên trong đêm. Nàng thấy chàng có sức mạnh phi thường đang gây nên cơn bão ham muốn dâng trào trong lòng nàng. Da thịt ngọc ngà của nàng râm ran và trái tim nàng bốc cháy vì hạnh phúc. Phút ái ân giữa nàng và chàng đang độ cuồng nhiệt thì đất trời bỗng quay cuồng. Tiếng vó ngựa rầm rập, tiếng trống dậy lên khắp bốn phương trời. Nàng Nguyệt Cầm hiểu rõ tai hoạ đang đến với nàng và chàng. Lính của triều đình đang rầm rập kéo đến.
- Chàng ơi, vậy là em và chàng phải chết. Đội quân của triều đình sẽ bắt chàng về xử tội. Chàng sẽ phải ngồi trên dàn hoả thiêu... Chàng hãy mang cánh diều của chàng lại đây cho em - Nàng Nguyệt Cầm đón sợi dây diều từ tay chàng nông dân. Cánh diều chao liệng, tiếng sáo rú lên. Lính triều đình gươm giáo vây kín xung quanh đôi trai gái.
- Chàng ơi! Em muốn chết cùng chàng ngay tại đây! Dưới dòng sông trong xanh kia - Nàng Nguyệt Cầm vừa nói vừa ôm ghì lấy chàng nông dân quay tròn đi mấy vòng cho sợi dây diều xiết chặt lấy hai thân hình chàng và nàng. Giữa giây phút đôi trai gái định nhảy xuống dòng sông tự vẫn thì một trận cuồng phong ập đến, cả chàng và nàng được cánh diều nâng bổng lên không trung. Tình yêu bất tử đã cất cánh, chàng nông dân và nàng Nguyệt Cầm đã được cánh diều đưa đi xa, xa mãi tới khi mặt trời bừng sáng. Gió nhẹ dần, nắng lung linh, cả chàng và nàng đều nhận ra một miền đất màu mỡ cỏ cây xanh tốt. Cánh diều thần tiên xuống thấp dần, thấp dần theo làn gió nhẹ đưa chàng và nàng đặt chân lên một dòng sông có bến nước trong vắt, có đồng cỏ non với những chú ngựa trắng ngơ ngác từ thế giới hồng hoang trong vắt của tình yêu - thế giới chưa hề nhuốm tội lỗi của con người.
Nàng Nguyệt Cầm và chàng nông dân lập nghiệp tại đây. Một năm sau nàng sinh con gái, đặt tên là Nguyệt Hạ. Nguyệt Hạ mười tám tuổi. Nàng Nguyệt Cầm kể cho con gái nghe câu chuyện tình cảm của mình. Nàng nhận ra ở con gái có đủ mọi tính cách hình dáng giống y như nàng năm xưa. Nàng hiểu rõ thế nào là tình yêu lứa đôi. Chỉ nhìn vào mắt con gái, nàng hiểu rõ nó đã yêu. Tình yêu của nó cũng như tình yêu cùa nàng khi gặp chàng nông dân. Nàng sợ con gái cũng sẽ bỏ đi giống như nàng bỏ vua cha. Nàng gọi con gái đến và bảo: Mẹ có một chiếc vòng duy nhất của vua cha cho mà mẹ còn giữ được và bây giờ mẹ trao cho con, con hãy giữ lấy và trao cho người mà con yêu... Miền đất này có được cái tên Nguyệt Hạ chính là tên của con gái nàng công chúa Nguyệt Cầm. Nó là biểu tượng của tình yêu bất tử, là kết quả của một đêm ân ái cuồng nhiệt giữa nàng Nguyệt Cầm và chàng nông dân trên bờ sông năm nào. Và tục lệ "trao vòng" của người dân có từ thời nàng công chúa Nguyệt Cầm. Chiếc vòng gia truyền do người phụ nữ giữ từ đêm tân hôn tới khi nào có con gái trưởng thành tới tuổi mười tám thì trao lại cho con gái. Người con gái hoàn toàn được tự do chọn lựa người yêu  để trao vòng. Người con trai nhận được vòng của người con gái thì được quyền mang lễ vật đến dạm hỏi. Người con trai phải bảo vệ giữ gìn chiếc vòng ấy tới đêm tân hôn thì trao lại cho vợ giữ tới khi nào con gái đến tuổi mười tám thì trao lại cho con. Chiếc vòng cứ lưu truyền hết đời này qua đời khác. Nếu gia đình nào có nhiều con gái thì phải sắm vòng cho chúng vào tuổi mười tám. Chiếc vòng sắm thêm phải đưa ra đình làm dấu thánh theo gia tộc, dòng họ thì mới thực sự có giá trị. Vòng gia truyền có thể bằng bạc hay bằng đồng hoặc bằng gỗ được gọt dũa theo quy định riêng của từng dòng họ. Tuy đơn giản nhưng nó có giá trị bằng phẩm giá của người phụ nữ. Đã trao vòng cho người con trai mà người con gái để mất trinh tiết thì phải bồi thường cho nhà trai năm chỉ vàng. Người con trai đã nhận vòng của người con gái mà bội ước thì cũng phải bồi thường năm chỉ vàng. Đó là những quy ước thật nghiêm ngặt mà người dân làng Nguyệt Hạ đã quen thực hiện từ bao đời nay. Chính vì có tục lệ "trao vòng" mà người làng Nguyệt Hạ luôn coi trọng danh dự, đàn ông cốt cách, đàn bà thuỷ chung. Đặc biệt người Nguyệt Hạ ham chơi diều. Cánh diều tiếng sáo là biểu tượng sự ấm no thanh bình của làng Nguyệt Hạ. Làng Nguyệt Hạ vắng bóng diều, im tiếng sáo là y rằng có chết chóc, mất mùa đói kém hoặc giặc giã hoành hoành... Người làng Nguyệt Hạ có lời thề nguyền không bao giờ làm điều ác. Nếu kẻ nào làm điều ác không tự trừng trị thì trời sai sét đánh đắm thuyền, vỡ bè hay lũ cuốn chết. Ấy vậy mà con người vẫn không sợ, thời nào cũng có kẻ phạm phải những sai lầm làm những điều ác độc ghê gớm...
CHƯƠNG 2
Gió mơn man trên đồng cỏ, thằng con trai choai choai vừa chăn trâu vừa thả diều, chiếc diều cánh cốc trắng muốt khẽ chao liệng, chấp chới trên nền trời xanh ngắt. Nắng chiều vàng rực tiếng sáo diều vi vu vi vu....
Thằng con trai vừa phát hiện dưới bến sông có đứa con gái đang rửa cọ làm trái tim nó bỗng rạo rực. Nó đã nhận ra, đứa con gái đó là Nga. Tên đứa con ái âm vang trong tâm trí nó từ bao giờ. Nó vừa thích thú vừa sợ hãi. Đã một lần nó mơ thấy nó và cái Nga đã nằm cạnh nhau, trong đình Nguyệt Hạ. Nó thấy xấu hổ về thói hư đốn quá thể của nó. Nó phân vân không hiểu bằng tuổi nó có đứa nào đã nghĩ đến chuyện đó sớm như nó. Nhưng rõ là mỗi khi nó đứng gần cái Nga, lòng nó thấy biến động khác thường. Nó có thể xông vào vật lộn với tất cả những đứa con gái cùng tuổi trong làng nhưng riêng cái Nga thì nó lại sợ. Chưa một lần nào nó dám nắm cổ tay cái Nga. Nó ngấm ngầm tự hào rằng trong tất cả cánh con trai cùng lứa chỉ có mỗi mình nó phát hiện ra cái Nga có gì bí ẩn đặc biệt hơn tất cả mọi đứa con gái khác. Mắt cái Nga đen lay láy, mày cong vút. Bàn tay mềm mại với những ngón tay thon nhỏ. Khổ thân thằng bé, mỗi lần nghĩ tới cái Nga nó lại nảy ra trí tưởng tượng ghê gớm.
Nó ngước mắt nhìn cánh diều trắng đang hát bài hát chỉ dành riêng cho nó và cái Nga nghe. Lúc này nó tưởng tượng nó và cái Nga là những nhân vật huyền thoại của làng Nguyệt Hạ mà bố nó ngày còn sống thường kể cho nó nghe. Nó mỉm cười cúi xuống gãi gãi vào ức con trâu, con trậu đang gặm cỏ bống ngửa cổ lên nhe hàm răng trắng bóng ra cười "thế nhé!''. Thằng con trai rỉ tai con trâu, tay thoăn thoắt thả hết đoạn dây còn lại trong khung dây ngoắc vào sừng con trâu, rồi nhảy phốc lên nằm bò trên mình trâu. Thằng con trai mơ màng nhìn xuống vệ sông. Mặt nước lấp lánh quanh đôi chân trần và bóng cái Nga lung linh, lung linh. Thằng con trai tưởng tượng nó và con trâu đang được cánh diều trắng, nâng bổng lên cao, cao nữa, cao mãi.
Thằng con trai giật giật dây cương lái con trâu cho nó tiếnn về phía vệ sông.
- Hãy nghe lời tao đi, hỡi "ngựa xanh" - Thằng con trai khẽ thủ thỉ. Con trâu thủng thẳng tiến gần tới chỗ đứa con gái. Cu cậu vừa lim dim mắt. Đứa con gái nhoẻn miệng cười rõ tươi, nheo nheo mắt nhìn mãi cánh diều trắng đang phát ra thứ âm thanh tuyệt diệu ro...ro....ro...ro...ro. Thằng con trai gai người thấy nụ cười trên môi đứa con gái chợt tắt. Nó đoán cái Nga đã nhận ra nó. Thằng con trai thấy vẻ bối rối của cái Nga, nó chữa thẹn bằng câu nói vu vơ:
- Cái diều đã lôi con trâu đến đây.
Không phải cái diều nó lôi con trâu đâu mà con trâu nó muốn tắm mát đấy.
Câu nói thật thông minh của cái Nga làm thằng con trai bật dậy ngồi nhong trên mình con trâu, miệng hét to, tay giật mạnh dây cương:
- Có thật thế không "ngựa xanh"? Mày muốn tắm hả.
Con trâu lao xuống sông bơi giống như chiếc thuyền lộng gió chở cả cánh diều trắng lẫn thằng con trai lướt trên mặt sông. Ro ro ro..ro ro ro, tiếng sáo âm vang. Lúc này thằng con trai đứng thẳng đơ trên lưng trâu kéo dây cương. Nước xăm xắp trên lưng trâu làm mát đôi chân thằng con trai. Gió lồng lên. Mặt đứa con gái rạng rỡ đứng bên đống cỏ cười rúc rích. Thằng con trai thấy lòng phơi phới nghe tiếng cái Nga reo lên trong gió:
- Tiến lên! Tiến nữa lên căng dây mũi hướng cho con trâu bơi xa ra giữa dòng. Càng ra xa  nước sông càng chảy xiết. Thằng con trai có cảm giác như nó đang đứng trên con thuyền vượt qua đại dương mênh mông. Nó đang làm được một việc kỳ diệu, trước một thử thách lớn lao vô cùng.
- Tiến lên! Tiến nữa lên - Thằng con trai khẽ động viên con trâu - Hãy dũng cảm lên "ngựa xanh", đừng sợ, đừng sợ...
Con trâu vểnh hai tai, cố nhô cao đầu lên khỏi mặt nước thở phì phì. Hai chiếc sừng con cong tít ngúc ngắc. Rõ là con trâu đã mệt và sợ. Dòng sông cái mênh mông rộng lớn và chảy xiết chưa một con trâu nào ở làng Nguyệt Hạ này vượt qua nổi. Bờ bên kia là cả thế giới xa lạ đối với tụi trẻ trâu làng Nguyệt Hạ. Chiếc khung dây diều ngoắc vào sừng trâu bỗng tuột ra lướt phăng phăng trên mặt sông. Tiếng sáo câm tịt. Cánh diều lộn nhào quay tít cuộn theo gió bay sang bờ bên kia. Con trâu lao vào bờ thản nhiên gặm cỏ. Thằng con trai lóp ngót từ dưới sông lên, quần áo ướt  sũng ngượng ngùng hết nhìn con trâu lại nhìn đứa con gái. Đứa con gái đứng ngẩn ngơ bên đống cỏ bối rối môi mấp máy muốn tìm lời an ủi. Thằng con trai vừa xấu hổ vừa tiếc ngẩn tiếc ngơ chiếc diều cốc trắng và cặp sáo "ro" nó đã mất bao công sức mới làm được. Nó cố tỏ ra bình thản để cái Nga khỏi buồn.
- Tớ sẽ làm cho một cái diều khác đẹp hơn và to hơn mang được sáo "bô bô" (người làng Nguyệt Hạ gọi sáo "ro ro" là sáo trẻ trâu, sáo "bô bô" là sáo thanh niên, sáo "bi bi", sáo "bì bì" là sáo các cụ già). Thằng con trai nói thế nhưng mắt nó vẫn nhìn sang bờ bên kia tiếc rẻ. Nó thấy buồn khi tưởng tượng ra chiếc diều trắng của nó sẽ phải phơi sương nắng đến ngày mục rữa ra. Những con dế chũi, con còng còng sẽ chui vào làm tổ trong ống sáo. Thằng con trai cởi phăng chiếc áo ướt sũng vắt kiệt, phơi lên mình con trâu rồi đến giúp đứa con gái rửa cỏ. Một lần nữa trái tim nó lại rung lên nhìn cặp đùi trắng lấp loá lấm lem bùn đất và khuôn ngực hơi nhú lên dưới lớp áo nâu bạc của đứa con gái. Nó cảm thấy chiều nay vừa may lại vừa không may. May là được gặp cái Nga, không may là để mất chiếc diều cánh cốc. Tất cả đó là hình bóng tuổi thơ dịu ngọt ngập tràn mơ ước và thế giới huyền thoại của nó.
Rửa xong cỏ, thằng con trai chạy lại lột tấm áo đã khô cong trên mình con trâu rồi bảo đứa con gái khiêng hai lồ cỏ chất lên mình trâu. Nắng chiều nhạt dần in bóng con trâu chở cỏ và bóng hai đứa trẻ trượt dài trên sông Cái. Thằng con trai vừa đi vừa kể cho đứa con gái nghe câu chuyện huyền thoại về sự tích làng Nguyệt Hạ. Bất chợt có tiếng gọi từ mặt đê vọng xuống.
- Đô ơi! Ơ Đô ơi...
Cả hai đứa trẻ nhận ra thằng Bức từ trên đê tâng tâng chạy xuống đứng trước mặt hai đứa.
- Mai đến phiên trâu nhà tao, mẹ mày nhờ tao đi nhận trâu sớm để mày về ngay, cả nhà mày đang chờ, nhanh lên....
Thằng Bức giật nhanh lấy nhợ trâu trên tay thằng con trai, mắt nó nhìn xoáy vào cái Nga.
- Cỏ của mày hả? - Thằng Bức cười toe toét tóm lấy cổ tay cái Nga giọng cợt nhả - Hé hé, e hèm, hãy trả công cho tao "tờ sớ" thì tao chở hai lồ cỏ này về tận nhà.
Mặt Nga đỏ bừng vì câu nói tục tĩu của thằng Bức. Thằng Đô rửa nhục cho cái Nga bằng quả đấm cật lực, tống vào giữa mặt thằng Bức. Thằng Bức nằm quay lơ ra đất, chới với giơ nắm tay doạ thằng Đô, miệng lắp bắp.
- Mẹ thằng Đô, mày sẽ biết tay ông.
Thằng Đô phốc lên mình trâu nhấc bổng hai lồ cỏ xuống đất. Nó lách nhách gánh cho cái Nga hai lồ cỏ về tới đầu làng rồi cắm đầu chạy. Vừa chạy nó vừa phấp phỏng không biết mẹ nó nhờ thằng Bức gọi nó về làm gì. Bóng chiều đỏ ối phía trời đông, mặt ao đình Nguyệt Hạ sẫm lại ngan ngát hương sen. Làng Nguyệt Hạ trầm mặc. Khói sương từ các mái bếp toả ra mùi thơm của cá nướng, vừng rang và bắp cải luộc. Thằng Đô vẫn còn mang tâm trạng rạo rực chạy về tới ngõ. Nó chợt đứng sững lại khi nhìn thấy trong nhà nó hôm nay sao lại có nhiều người thế, người nào cũng vận quần áo đẹp. Nó nhận ra mẹ nó bỗng nhiên hôm nay đẹp lạ thường. Trên ban thờ một mâm cỗ đầy xôi thịt, khói hương nghi ngút toả hương thơm ngát. Thằng Đô ngỡ ngàng, hôm nay đâu phải ngày giỗ bố. Gương mặt mẹ nó đang vui chợt thoáng buồn khi nhận ra nó đứng ngẩn ngơ giữa cửa. Mọi người giương mắt nhìn nó hơi ái ngại. Dì Thảo từ đâu chạy tới nhanh nhảu nắm tay nó kéo vào buồng. Lòng nó bỗng tan nát khi nhìn thấy người đàn ông tên là Quất làm công tác văn hoá xã thường hay đến nhà nó. Điều mà nó nghi ngại, nơm nớp lo sợ nay đã đến bất ngờ quá.
Mẹ đi lấy chồng. Tiếng dì Thảo vang lên bên tai nó.
- Cháu thay quần áo đi. Lấy bộ mới nhất mà mặc rồi chuẩn bị đi ăn cỗ. Ôi! Thằng cháu yêu quý của dì. Từ nay cháu có dượng Quất về ở hẳn đây với mẹ cháu. Phải ngoan, đừng làm điều gì phiền lòng mẹ và dượng Quất nhé cháu!
Dì Thảo vận áo hồng, quần láng đen, miệng nhai trầu đỏ thắm, khấp khởi bước ra khỏi buồng. Thằng Đô đứng lặng trong bóng tối nhờ nhờ của căn buồng nghe tiếng cười nói của mọi người. "Mẹ đi lấy chồng cháu lấy bộ quần áo thật đẹp mà mặc". Câu nói ấy lại âm vang trong tâm trí của nó. Người  đàn ông ở làng Gồi xa lạ bỗng nhiên nó phải gọi bằng dượng. Thằng Đô lúng túng mặc xong bộ quần áo mới. Nó muốn khóc nhưng cố tỏ ra là người lớn, bước ra nhà ngoài. Vẫn căn nhà quen thuộc mà lúc này nó thấy cô đơn lạc lõng với mọi người. Nó nhận ra ánh mắt của mẹ nó thỉnh thoảng lại liếc nhìn nó. Ánh mắt mẹ lâu nay là mặt trời luôn sưởi ấm trái tim nó. Vậy mà giờ đây ánh mắt của mẹ  bỗng trở nên lạnh giá đối với nó. Nó nhìn người đàn ông nó phải gọi bằng dượng, có nước da tai tái, mặt choắt đầu tháp bút, dáng mất cân đối quá thể. Chân dượng dài ngoẵng, lưng lại quá ngắn, khi ngồi trông ra dáng người lùn, khi đứng lại cao lênh khênh. Thằng Đô không hiểu tại sao mẹ lại lấy người xấu thế. Thằng Đô không tài nào đoán được tuổi của dượng Quất. Chợt nhìn thấy già khọm, nhìn lâu lại trẻ. Nhất là khi ông ta cười, nụ cười đần độn ngây ngô như con nít. Nhưng khi nghe ông ta nói lại đầy vẻ quyền uy.
- Mời các cụ xơi rượu đi, hôm nay là ngày hạnh phúc nhất đời tôi. Từ nay tôi về đây ở hẳn với mẹ con cháu Đô cũng bởi nhiều lẽ mà tôi đã nghĩ kỹ. Thứ nhất là vì công tác - tổ chức mới giao cho tôi trực tiếp lãnh đạo phong trào văn hoá của làng Nguyệt Hạ này. Thứ hai, cháu Đô còn nhỏ chả lẽ lại để mẹ cháu về làng Gồi... hà hà, cấp trên thật sáng suốt có phải không các cụ. Phong trào văn hoá mới xã nhà nói chung là tốt nhưng riêng Nguyệt Hạ ta còn phức tạp, còn cổ hủ lắm. Tôi là tôi quyết vực cho làng Nguyệt Hạ này đứng lên hàng đầu...
Thằng Đô thấy người hâm hấp sốt. Lợi dụng lúc mọi người đang nghe dượng Quất nói chuyện nó lỉnh ra đi lang thang trên đường làng. Vầng trăng trải vàng khắp thôn xóm. Tối nay gió đông về tiếng sáo diều râm ran, trời xanh ngắt đầy sao. Ngày bố Đô còn sống, những đêm như đêm nay, hai bố con thường ra bờ đê thả diều. Khi diều đã no gió, bố thường cho Đô dong về buộc vào gốc nhãn trước cửa nhà rồi nó mới lên giường nằm lắng nghe tiếng sáo diều vi vút. Thằng Đô chợt nhớ tới cánh diều trắng của nó lúc này đang nằm trơ trọi ở đâu đó trên bờ sông bên kia. Thằng Đô cắm đầu chạy ra bờ đê hy vọng nếu có ai nhặt được chiếc diều của nó, tối nay thế nào nó cũng nhận ra tiếng sáo diều của nó. Vừa chạy được một đoạn, nó sững lại nhận ra hai ông cháu thằng Bức đang nghêng ngang chiếc diều trên vai đi lên đê. Từ ngày bố Đô mất, danh hiệu vua diều dành cho ông Kình. Bóng hai ông cháu thằng Bức lồng lộng dưới trăng. Gió từ đồng cỏ thổi lên phơi phới. Thằng Bức đứng trên mô đất chới với giơ cánh diều lên đỉnh đầu.
- Bẩm ông cháu buông nhé!
- Buông đi!
Tiếng hai ông cháu thằng Bức tan trong không gian. Cánh diều từ tay thằng Bức bay lên chao liệng một lúc rồi lao vút lên cao, cao mãi theo vòng dây từ tay ông nó nới dài ra. Bi bi bi... bi bi bi. Tiếng sáo diều reo réo, thằng Đô chạy về phía bờ sông cái. Dòng sông cái lấp lánh ánh trăng. Đô đứng lặng trên bờ lắng nghe, nó cố nhận ra tiếng sáo diều của nó. Nó đứng mãi đứng mãi và thất vọng lững thững về làng. Tiếng trống chèo lung bung rộn lên trên sân đình Nguyệt Hạ. Thằng Đô đã nhận ra tiếng hát chèo trong vắt của cái Nga và cô Nghĩa. Cô Nghĩa là mẹ cái Nga diễn viên chèo nổi tiếng của đội chèo làng Hạ. Như mọi tối, thằng Đô đã chen vào ngồi cạnh cụ Kẹo xem đội văn nghệ tập chèo. Cụ Kẹo vừa là tay trống điêu luyện, vừa là đạo diễn, dựng vở trứ danh. Thằng Đô men theo bờ ao đình đứng nép mình dưới gốc cây gạo. Vầng trăng khẽ sóng sánh dưới cánh sen khiến bóng nó lẻ loi, cô đơn.
Lòng những nhớ ai í a ì a - thiết tha, lòng những người ai í a ì ạ - sầu cao như núi tình dài như sông. Tiếng hát chèo tha thiết từ sân đình vút cao, bóng cái Nga lấp loá dưới trăng. Cái Nga lúc này không phải là cái Nga rửa cỏ ban chiều. 
Thằng Đô mơ thấy nó và cái Nga cùng cưỡi "ngựa xanh" vượt qua sông cái sang bờ bên kia và nó tìm thấy chiếc diều cánh cốc trắng. Thằng Đô sung sướng bảo cái Nga giữ dây. Tiếng sáo "ro ro" vang lên. Nó chạy lại ôm chầm lấy cái Nga và kỳ diệu, huyền thoại nó đã kể với cái Nga lại ứng nghiệm ngay với nỗi ước mong của nó. Nó và cái Nga được cánh diều nâng bổng bay lên, bay mãi lên... Nó giật mình tỉnh giấc và nhận ra nó đang nằm trong đình Nguyệt Hạ. Nó sợ hãi nhận ra ánh mắt sáng quắc của Thành Hoàng đang nhìn nó. Lần đầu tiên trong đời, nó không ngủ đêm ở nhà. Đô vùng dậy chạy về nhà và ngạc nhiên thấy dượng Quất ngồi vắt vẻo trên chạc ba cây nhãn hý hoáy dựng một cây sào cao chót vót. Trên ngọn cây sào ấy dượng chăng một đoạn dây sang ngọn cây sào khác buộc ở nóc nhà. Đô chạy vào nhà trong đứng sững nhìn mẹ.
- Ôi! Con trai của mẹ! - Mẹ Đô khẽ thốt lên chạy lại ôm chầm lấy Đô - Đêm qua con ngủ ở đâu làm mẹ và dượng lo suốt đêm...
Đô nhìn thấy mắt mẹ đỏ hoe.
- Hợi ơi! Ra giữ cho anh cái thang.
- Con nó về rồi đây này, để nó ra giữ cho. Đô, con ra giữ thang cho dượng, mẹ đi dọn cơm.
Đô miễn cưỡng giữ thang cho dượng Quất.
- Anh cu về rồi đấy hả? - Dượng Quất vung dao chém phập một nhát vào cây nhãn. Những chiếc lá nhãn rung lên bần bật, lưỡi dao bám vào đầu chiếc thang, dượng Quất xoay người chổng mông lên nói chõ xuống.
- Lần đầu là tôi tha, lần sau mà thế là tôi trị thẳng tay. Tôi là tôi biết tỏng cái bụng anh cu rồi. Nào, giữ cho chắc vào. Anh cu là anh cu láu cá lắm đấy.
Thằng Đô cúi gằm mặt xuống đất, hai tay giữ chặt lấy chiếc thang không dám nhìn vào mặt dượng Quất, Dượng Quất xuống thang khi chạm đít vào đầu Đô thì nhảy xuống, vung tay nói:
- Thế là xong! Tối nay sẽ cho anh cu nghe người ta hát và đánh đàn ở trong đoạn dây chăng trên trời kia.
Đến tối, ăn cơm xong. Đô định ra sân đình xem cái Nga tập chèo thì nghe dượng Quất gọi giật giọng từ trong buồng:
- Đô ơi! Vào đây mau lên có hát rồi đây này.
Đô rụt rè bước vào buồng mẹ. Ngọn đèn dầu đỏ quạch hắt ánh sáng lên gương mặt háo hức ngây ngô của dượng Quất. Mẹ ngồi khâu áo bên cửa sổ. Dượng kéo Đô ngồi xuống giường, áp vào tai Đô cái gì giống như cái vung ấm.
- Hay tuyệt đấy! Nghe thật tinh vào. Có thấy gì không?
Đô nín thở. Có tiếng lạo xạo rèn rẹt và tiếng hát lí nhí lẫn tiếng nhạc khẽ reo reo từ đâu đó xa xôi quá.
- Mày nghe thấy người ta hát bài gì?
- Dạ không rõ.
- Sao lại không rõ.
Dượng Quất lại giật lấy cái "vung ấm"
- Mày điếc à? Đang hát đấy thôi. Đúng là tiếng đàn bà đang hát và tiếng sáo. Hình như có cả tiếng đàn nguyệt hay đàn tam thập lục gì đó.
Dượng Quất gắt lên chuyển cái "vung ấm" từ tai dượng áp vào tai Đô.
- Đã nghe rõ chưa nào.
- Dạ vẫn nhỏ
- Rõ là tai trâu.
- Không hay bằng tiếng sáo diều
- Hừ, thằng này láo quá thể. Thôi cút. Dám bảo bản nhạc của Đài tiếng nói Việt Nam không hay bằng tiếng sáo trẻ trâu của chúng mày. Từ nay là tao cấm tha thẩn chơi diều. Tao cấm...
Từ lần ấy, ngoài giờ lên xã, về tới nhà là Đô thấy dượng Quất say mê áp chiếc vung ấm vào tai vừa nghe vừa ghi chép nắm bắt mọi chủ trương chính sách và tình hình thời sự trong nước và quốc tế để khi nào có cuộc họp thôn, dượng lại mở quyển sổ ghi chép ấy ra phổ biến quán triệt cho mọi người dân làng Nguyệt Hạ.
Mọi nếp sống của làng Nguyệt Hạ được thay đổi theo yêu cầu của dượng Quất:
Thứ nhất: Cấm các đám tang trong làng được thổi kèn đánh trống cà rùng.
Thứ hai: Cấm không gia đình nào bán cứt. Ai bắt được bán cứt sẽ được thưởng năm mươi phần trăm số cứt bán được.
Thứ ba: Cấm tất cả mọi người chơi diều từ sáo "bô bô" trở lên. Với lý do kêu to mất ngủ, ảnh hưởng tới sản xuất.
Thứ tư: Đội chèo làng Nguyệt Hạ không được diễn các vở chèo cổ. Phải tập gấp những bài hát chèo đồng ca do dượng Quất tự biên tự diễn phục vụ trực tiếp phong trào chăn nuôi sản xuất.
Hồi này thằng Đô cũng được vào đội văn nghệ cùng với cái Nga. Dượng Quất ngồi thao thức thâu đêm sáng tác gấp những bài hát mới cho đội chèo tập.
Cụ Kẹo đội trưởng đội chèo cùng mấy ông già nữa kéo đến nhà phản đối dượng Quất.
- Chúng tôi bằng ngần này tuổi mà còn đứng hát đồng ca với tụi con nít sao? Tôi trả lại anh cái chức đội trưởng đội chèo.
- Tôi nói cho cụ biết, cụ thích thôi thì cụ cứ việc thôi. Đảng viên ở làng này còn nhiều. Sẽ có người xứng đáng hơn thay cụ lãnh đạo đội văn nghệ. Từ nay đội chèo sẽ đổi tên là đội văn nghệ làng Nguyệt. Lấy mỗi chữ Nguyệt thôi; bỏ chữ Hạ đi vì nó làm xấu chữ Nguyệt. Chữ Hạ... các cụ biết nó là gì không? Nó là cái "bộ hạ" hà hà thế mà từ xưa đến nay các cụ cứ gọi Nguyệt Hạ mãi mà không biết xấu hổ. Bây giờ ta phải đổi mới toàn diện cả nội dung lẫn hình thức.
Cụ Kẹo và mấy ông già ngồi lặng sững sờ nhìn dượng Quất rồi tự ái nháy nhau ra về. Mẹ Đô từ trong buồng bước ra mặt buồn rầu:
- Mình nói thế các cụ giận đấy.
- Làm cán bộ mà cứ lo dân giận thì sao làm được cán bộ.
- Nhưng mà mình mới về làng này mình không biết. Cụ Kẹo thạo chữ nho nhất làng này đấy. Từ bao năm cụ là ông trùm đội chèo, cụ thuộc làu làu các tích chèo. Cụ vừa đánh trống vừa là kép chính vừa là trưởng trò có tài. Không có cụ đội chèo làng Nguyệt Hạ có mà tan từ lâu.
- Mình chả hiểu gì thời cuộc - Dượng Quất gắt lên với mẹ - đã bảo thời bây giờ ai cần ba chữ nho ấy, ai cần những vở chèo cổ như "Quan âm Thị Kính" như "Kim Nham", như "Tống Trân Cúc Hoa", "Phạm Tải Ngọc Hoa" ấy, bây giờ là vứt, vứt hết. Còn thằng Đô - Dượng quay sang nhìn Đô giọng nghiêm lại - Kể từ nay mày phải chịu khó học hát. Tao vừa mới sáng tác được mấy bài đây.
Dượng móc trong túi dết ra đưa cho Đô mấy tờ giấy ghi bài hát rồi đứng dậy.
Như chợt nhớ ra điều gì, dượng lập cập chạy vào buồng áp cái "vung ấm" vào tai, sột soạt mở sổ ra ghi ghi chép chép một cách thận trọng. Đô vừa sợ vừa thương dượng Quất. Hồi này dượng gầy xọm đi, mặt choắt lại, trong làng này chưa có một ai say mê công tác như dượng Quất. Đô nằm ra giường bỏ mấy tờ giấy dượng Quất vừa đưa lẩm nhẩm học hát.
Bài thứ nhất: Tát nước đêm trăng.
(Đơn ca) theo điệu "lới lơ" vui nhộn, tự hào, tin tưởng: "Em đi í ì... đi tát nước - kìa là - tát nước à đêm trăng... Bóng í í a trăng... hì i i trăng soi tỏ bóng em trên đồng..."
Bài thứ hai: Ba cùng (tốp ca), vui nhộn, đoàn kết "Chị em chúng ta i hi i hi hì i i. Chị em chúng ta cùng nhau gánh đất, cùng nhau đào đất, cùng nhau vác đất..."
Bài thứ ba: Con trâu (đồng ca) theo điệu con gà rừng - mạnh mẽ, dũng cảm, quyết thắng. "Con trâu gì, con trâu già! Nó cày ruộng ta - nó cày ruộng ta - con trâu gìa! Tuy già nhưng còn khoẻ lắm - tuy già nhưng nó còn khoẻ lắm.... Xin chớ coi thường - con trâu - tùng tùng cắc - tùng tùng chát - xà xà lắc - xà xà líu...".
Ngô Quất từ xã về, lòng tưng tưng. Kế hoạch phá ngôi đình làng Nguyệt của Quất đã được xã nhất trí cho tiến hành vào sáng mai. Từ ngày về sống với dân làng Nguyệt Hạ này Quất mới thấy vai trò lãnh đạo của mình lớn lên nhiều. Cái dân làng này toán những đứa cứng cổ. Thái độ Quất không cương quyết cứng rắn là hỏng. Nếu phương án phá đình thành công thì chẳng việc gì mà Quất không làm được. Riêng việc phá đình, kể cả bí thư, chủ tịch cũng chờn. Quất biết tỏng tòng tong mấy bố trên xã vừa quyết vừa run vì sợ ngôi đình làng này có tiếng linh thiêng, dân làng Nguyệt Hạ không một ai dám đụng tới. Riêng Quất thì Quất chẳng sợ chó gì. Ở làng này Quất sợ mỗi lão Kình câm. Gặp Quất, lão trừng trừng nhìn Quất bằng ánh mắt căm thù. Lão căm thù Quất là có lý do của lão. Hồi cải cách, Quất đã đưa sáng kiến treo cổ thằng con trai độc nhất của lão bằng phương pháp "gầu sòng". Biết đâu giờ lão rình rập ở đâu đó, xông ra gõ vào đầu Quất một gậy thế là ngoẻo. Nghĩ tới lão Kình, Quất lại thấy sợ hãi. Quất ngoắc chiếc túi bạt vào cột nhà bước lại vuốt má vợ. Vợ Quất ngồi lặng bên cửa sổ khâu tã lót chuẩn bị cho đứa con sắp ra đời. Từ hôm Quất nóng nảy bạt tai thằng Đô một cái, Quất thấy thái độ của vợ có vẻ lạnh lùng. Cũng là cái tính đàn bà hay để ý vụn vặn bênh con. Nhưng lúc này Quất đang vui vẻ, Quất muốn an ủi vợ, Quất không muốn nhìn thấy vợ cứ buồn rười rượi trong những ngày sắp sinh con. Kế hoạch phá đình Nguyệt Hạ thành công. Quất sẽ cho xây ngay trên nền đình một sân khấu cho đội văn nghệ biểu diễn những tiết mục tự biên của Quất. Phong trào văn hoá văn nghệ làng Nguyệt sẽ đứng đầu toàn xã. Tiếng tăm của Quất chả vang lên tới huyện ấy chứ. Đời Quất được như bây giờ cũng là may mắn lắm. Như hai ông anh Quất, cù mì thế thì suốt đời không ngóc đầu dậy được. Quất đã có thái độ quyết liệt đấu tranh dũng cảm lắm mới tách được bản thân ra khỏi thành phần địa chủ của gia đình để đứng hẳn về phía những thành phần cốt cán chỉ tay vào mặt bố vạch ra cái tội làm giàu của ông ta. Ôi vạch tội người đẻ ra mình dễ mấy ai đã làm được. Cái kiểu làm giàu của bố mẹ Quất cũng lạ lùng lắm, thế gian ít người dám nghĩ đến. Nói ra thì xấu quá nhưng dù có xấu Quất cũng phải vạch ra âm mưu có tính toán ngay từ đầu của họ. Thật là không may cho số kiếp Quất lại sinh ra từ cái gia đình thối tha bẩn thỉu ấy. Cả cái làng Gồi của Quất ai mà không biết bố mẹ Quất, tức là vợ chồng tên địa chủ Cam giàu lên bắt đầu từ cái nghề gắp cứt. Ở làng Gồi người dân thường gọi nghề này là "mủi sung". Ở đâu chứ riêng dân làng Gồi dù có chết đói cũng không ai dám nghĩ tới chuyện sắm bồ đi làm nghề "mủi sung". Ấy vậy mà bố mẹ Quất dám coi thường phẩm giá gia đình đi làm cái việc nhơ bẩn ấy. Cũng bởi tại cái đói. Năm ấy trong làng đã có vài người chết đói... Thế là bố mẹ Quất phải liều. Lúc đó bố mẹ Quất còn ngại không dám đi công khai. Từ gà gáy hồi nhất, ông bà đã phải lục sục dậy bịt đầu bịt tai tay xách bồ lặng lẽ đi sang các làng lân cận lấy được đầy bồ phân rồi lại phải mang sang làng Bèo bán cho dân đồng màu lấy tiền ra chợ Gù đong gạo. Đong được gạo nhưng bố mẹ Quất phải chờ cho trời tối mịt mới dám len lén về làng. Bố mẹ Quất cứ đi lén lút mãi như vậy cuối cùng cũng bị lộ. Người làm lộ ra chính là Quất. Lý trưởng thấy bố mẹ Quất vắng nhà suốt ngày nên sinh nghi sang hỏi ba anh em Quất: "Có phải bố mẹ chúng mày đi theo Việt Minh?" Hai anh em Quất mới lên mười, thật thà bảo "Bố mẹ cháu đi gắp cứt". Vậy là mọi chuyện vỡ lở, lan ra khắp làng. Từ đấy ba anh em Quất đi đến đâu là trẻ con trong làng bịt mũi chạy. Vừa chạy chúng vừa nhổ bọt phì phì vừa la "Cam cứt - Quýt cứt - Chanh cứt - Quất cứt"... Rõ là cả nhà Quất làm ô danh làng Gồi. Thôi thì đã xấu thì cho xấu luôn. Bố mẹ Quất không cần bịt mặt nữa mà đi hiên ngang ngay trên đường làng. Nhưng cái nghề mạt hạng ấy lại kiếm ra tiền. Thôi đành cúi mặt chịu sự khinh rẻ của dân làng Gồi. Bố mẹ Quất sắm thêm hai cái bồ mới cho hai anh của Quất cùng đi. Riêng Quất còn ít tuổi nhất không phải đi nhưng vẫn phải chịu chung cái tiếng xấu xa ấy. Vậy mà chả bao năm sau dân làng Gồi thấy ông Cam có tiền tậu ruộng. Ruộng nhà ông bao giờ lúa cũng tốt nhất làng. Ruộng tốt ắt có nhiều thóc, ắt có  nhiều tiền. Có nhiều tiền, ông Cam lại tậu thêm ruộng. Từ một sào lên một mẫu, lên mười mẫu. Thế là ông Cam trở lên giàu có. Kẻ nghèo khó đến nhờ vả ông, ông bảo: "Về sắm bồ đi lấy cứt về, ông đổi thóc cho". Nghe ông Cam bảo vậy có người nghĩ ông nói xỏ. Nhưng mà ông nói thật. Ông mở lò chế biến phân bắc bón lúa, hành, đỗ lạc, khô ngoai. Đúng là giống phân bắc bón cây gì cũng tốt. Bón không hết ông chở xuống bán cho dân trồng màu làng Bèo. Ông khuyến khích dân làng Gồi ai lấy được nhiều phân ông đổi thóc với giá rẻ hơn. Với ý định nâng đỡ những người dám làm cái nghề bị coi là xấu xa như ông khá lên để chứng minh cho dân làng Gồi chớ có coi thường. Những người làm thuê cho ông phải trải qua ít nhất là một năm gắp phân. Ông vừa lao vào làm giàu vừa tìm giúp kẻ khó. Ông xây nhà, xây sân, đào ao thả cá, nuôi lợn, nuôi gà, nuôi trâu, giàu có nhất làng Gồi. Cũng bởi tại ông quá say mê công việc, tiếp xúc nhiều với phân tro nên vào tuổi bảy mơi, ông bị mù. Nhưng lúc này ông đã giàu của cải lẫn kinh nghiệm, nên chỉ việc ngồi chỉ huy cho vợ con làm ăn. Những kẻ được ông giúp trở nên khá giả hàm ơn ông, một nhời bẩm cụ, hai nhời bẩm cụ, giỗ, tết, mang rượu, bánh tạ ơn cụ. Giàu có là vậy mà cụ vẫn nói với mọi người số cụ còn khổ, chết phải bó chiếu chứ chả có ván mà chôn. Cụ nói thế chả ai tin. Của cải của gia đình cụ mấy đời con cháu ăn cũng không hết. Đúng thế có lẽ chính cụ cũng không thể tin, nhưng hồi còn bé người bố đẻ ra cụ lấy lá số cho cụ nói thế, ấy vậy mà thời thế xoay vần đúng theo lá số của cụ. Cụ chết chỉ được bó manh chiếu rách, không kèn không trống. Người ta xử tội cụ theo sáng kiến treo cổ cụ bằng phương pháp "gầu sòng" giống như người ta đã treo cổ con trai lão Kình ở làng Nguyệt Hạ. Ai chứ địa chủ Cam làng Gội bị tội chết thì đáng quá còn gì. Nhiều ruộng nhất làng Gồi, nhiều trâu nhất làng Gồi, ao to nhất làng Gồi, nhiều người làm thuê nhất làng Gồi lại thêm một tội buôn bán lớn nhất làng Gồi. Đúng thế! Buôn bán gì cũng có tội. Vì thế Ngô Quất khi đấu bố còn chỉ tay vào mặt bố, quát:
- Tên địa chủ già kia, mày có biết ai đang đứng trước mặt mày không?
- Bẩm ông, con bị mù không nhìn thấy nhưng nghe tiếng ông con nhận ra ông là ông Ngô Quất do chính con đã đẻ ra ông đấy ạ.
- Mày có chịu nhận tội đã bóc lột ông bà nông dân, tội buôn bán?
- Dạ bẩm ông con không bóc lột mà chỉ muốn là ông bà nông dân làm cho con để có gạo ăn khỏi chết đói thôi ạ. Còn cái chuyện buôn bán thì có. Đúng là con đã mua bán cứt, con có đổi thóc lấy cứt cũng là để ông bà nông dân có thóc ăn khỏi phải chết đói đấy ạ.
- Láo! Mày ngoan cố. Chính mày đã quá tham lam nên mới bị mù. Mày không thấy điều đó sao?
- Bẩm ông! Điều ấy thì ông nói đúng. Đúng là bây giờ con bị mù vì ngày xưa con đau mắt mà vẫn phải đi gắp cứt để bán lấy tiền đong gạo nuôi ông đấy ạ...
Đằng nào thì bố Quất cũng bị tội chết, bị tịch thu hết tài sản. Quất đã tỉnh táo nhận ra điều ấy nên dũng cảm đấu bố và kiên quyết ly khai thành phần gia đình mình. Đến bây giờ không ai còn dám nghi ngờ lập trường giai cấp của Quất. Quất thấy mình cứng rắn hơn  bao giờ hết. Cả chuyện Quất lấy được mẹ thằng Đô cũng là phúc đức may mắn lắm. Cái tạng lòng khòng xấu xí như Quất. Nếu không giữ địa vị trưởng ban văn hoá xã thì ế vợ đến già. Mẹ thằng Đô tuy là gái goá nhưng vẫn còn mỡ màng hơn cả những ả gái tân làng Gồi. Nếu không vì lý do đoạn tuyệt với gia đình, Quất sẽ dẫn vợ về làng thì ối kẻ phát ghen. Đúng là gái làng Nguyệt... Cái đêm động phòng Quất vẫn không tin là mình lấy được vợ, vợ làng Nguyệt, lại có cả nhà ở chẳng tốn kém gì...
Quất ngồi xuống giường nhìn bụng vợ cứ đầy căng lên dưới lớp áo gụ.
- Mình đừng buồn, thằng Đô nó còn nhỏ nó chưa hiểu lòng tôi nên mới hỗn láo chống tôi. Nhưng sau này nó khôn lớn nó sẽ hiểu. Mình biết không, kế hoạch phá đình của tôi đã được xã nhất trí phê duyệt.
- Đừng! Em van mình! - Mặt vợ Quất bỗng tái đi - Em đã bảo với mình bao nhiêu lần rồi, ngôi đình làng này linh thiêng lắm, mình không ở đây nên mình không biết. Từ bao đời nay dân ở đây coi ngôi đình làng là linh hồn của tất cả mọi người, ai mà làm điều ác phải chết nhục nhã.
- Mình đúng là lạc hậu - Quất cười xoa dịu - Mọi làng kháng người ta phá đình có ai làm sao, với lại mình nghĩ xem, tôi là trưởng ban văn hoá xã, ở làng này mà cứ để ngôi đình lững thững giữa làng chướng mắt lắm. Không làm được việc này họ sẽ đánh giá tôi là thằng kém năng lực, thằng nhu nhược.
- Anh Quất! Em lạy anh. Anh không thương lấy anh, không thương em thì anh hãy thương đứa con của chúng ta còn trong bụng đây. Anh hãy vì nó đừng làm điều ác.
- Mình chỉ nói nhảm nhí - Quất gắt - Đây không phải việc của cá nhân tôi. Đây là nhiệm vụ. Đây là cuộc cách mạng văn hoá.
Quất nghiêng nét mặt nhìn vợ, đưa tay cầm chiếc tai nghe áp vào tai.
- Em đã nói với anh...
- Im lặng. Đã đến giờ...
Quất nói như ra lệnh. Vợ Quất im thít. Quất nín thở, tiếng nhạc mười hai giờ vừa dứt, giọng quen thuộc của cô phát thanh viên khe khẽ: "Đây là Đài tiếng nói Việt Nam phát thanh từ Hà Nội thủ đô nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa".
CHƯƠNG 3
Bữa cơm sáng dọn ra. Không thấy thằng Đô về, Quất nhìn gương mặt vợ vẫn buồn rười rượi. Không hiểu đêm qua thằng Đô ngủ lang ở đâu. Cái thằng rõ mất dạy. Thế này là nó cố tình bêu riếu mình đây. Quất thấy tức giận thằng Đô, giận vợ, giận cả làng Nguyệt Hạ toàn những kẻ nhút nhát thấp hèn. Bây giờ thì Quất thấy cái tên Nguyệt Hạ cũng đúng với ý nghĩ của nó. Quất ăn qua loa rồi khoác túi lên xã. Đã thế Quất sẽ triệu tập những tay sừng sỏ ở làng  khác về. Cóc cần đến những ai ở làng này...
Quất rùng rùng đưa đội quân từ Uỷ ban xã về làng với đầy đủ xà beng, cuốc chim, dao búa lỉnh kỉnh. Điều làm Quất và đoàn quân đi phá đình ngỡ ngàng khi nhận ra khung cảnh náo động trên sân đình. Tiếng trống chuông rộn rã. Nhiều cụ già khú cũng lọc cọc chống gậy đến xem đánh cờ người. Hôm nay đâu phải là ngày hội đình? Quất thấy nóng ran cả người nhận ra mụ Nghĩa, mẹ cái Nga và mụ Bông, mẹ thằng Bức, con dâu lão Kình hôm nay lại được ngồi chỗm chệ trên bàn cờ tướng che lọng hồng có người hầu quạt. Đầu tướng đội nói ba tầm, chân đi hài mũi nhọn cong tít, mình mặc áo mớ ba (ba áo dài: trong áo đỏ, giữa áo xanh, ngoài áo lụa đen). Trên sân cờ là những chàng trai cô gái mười bốn mười lăm tuổi đứng làm quân. Con trai làm quân trắng đội ô trắng, trong mặc áo trắng, ngoài mặc áo đên áo chùng nâu, quần đen, đội khăn nhiễu, chân đi miệt đỏ. Quất chợt gai người nhận ra lão Kình tay cầm gậy múa may loạn bên cạnh lão Đăng hối hả đánh trống. Trong đình lão Kẹo mặc quần áo dài đỏ thẫm, đeo râu trắng phớ dài tới ngực, tay chống gậy hát: "í a í a - nay làng có giặc - í a í a - ta truyền lại cho các cháu lời ngọc của tổ tiên - a í a... " Quất sững người nhận ra cả thằng Đô và cái Nga từ trong hậu cung chạy ra. Cái Nga mặc áo đỏ thắt dải lụa xanh, thằng Đô hông thắt lụa đỏ mặc áo xanh. Cả hai đứa quỳ xuống trước mặt lão Kẹo tay dâng thanh gươm mắt đăm đăm ngước lên tượng thành hoàng cao giọng hát: "í a í a - chúng con lớp lớp cháu con à a nguyện suốt đời xứng danh đức hạnh theo lời tổ tiên... Bung, bung bung... bung bung...."
Lão Kẹo vừa thoáng nhìn thấy Quất, liền vồ lấy chiếc trống kẹp vào đùi gõ liên tiếp. Mẹ kiếp, cả làng này nó đang đóng kịch. Đúng là nó đáng vờ đóng kịch để chống đối chủ trương phá đình của xã. Lại trò lão Kẹo bày đặt ra lôi cả trẻ con vào cuộc. Lần này phải trị cho lão Kẹo một trận, lôi lão lên Uỷ ban cho lão chừa thói thâm thù nho nhe của lão. Ai cho lão tập trung tập diễn chèo giữa ban ngày làm ảnh hưởng tới sản xuất. Hôm nay đâu phải hội đình. Quất đưa mắt quan sát không có một đảng viên nào ở làng Nguyệt Hạ có mặt ở đây. Mấy dân quân trong đội xung kích đứng ngây như thể đi xem hát chứ không phải đi làm nhiệm vụ mà Quất quán triệt. Quất lừ mắt gườm gườm ra hiệu cho đội quân của mình lấy lại dũng khí. Các cụ ông cụ bà ăn vận quần áo tế lễ từ nãy vẫn ngồi trên sập gụ lúc này mới đứng cả dậy bê mâm quả trên thạp đồng đặt lên bàn thờ, tượng thành hoàng. Hương trầm đốt lên cùng một lúc, khói nhang bay nghi ngút. Nhìn cảnh tượng uy nghiêm kẻ vô thần như Ngô Quất cũng phải gai gai người. Quất ngước mắt nhìn lên vóm mái mênh mông với những hàng cột lim tròn đen nhánh vững chắc và kiên cố. Trên các cột cái đều treo hoành phi câu đối sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Trên các bửng cốn rường trụ, câu đầu đều được chạm trổ theo lối cổ đủ mọi hình thù kỳ dị, Quất không tài nào hiểu được ý nghĩa của nó.
Qua hình thù các con vật, Quất chỉ nhận biết kia là những con rồng phượng có cái mình dài cong lượn và những chiếc vây xếp vào nhau. Con dơi có hai cánh dang ra và cái đầu nhỏ tý, con hươu thì có cặp sừng cong tít. Và sự lạ lùng đối với Quất là tại sao các cụ lại khắc lên các bửng cốn cảnh con người đang giao cấu với nhau rõ thô tục...
Tiếng trống chèo lung bung làm đầu óc Quất cứ ong ong. Quất  đứng lặng một lúc trấn tĩnh để lấy lại tư thế, nháy mắt một lần nữa với đồng đội.
- Tất cả im lặng! Im lặng nghe tôi nói!
Quất hét lên nhưng thái độ mọi người vẫn đầy vẻ thản nhiên. Mấy cụ già ngồi trên sập gụ vẫn vái lia lịa. Lão Kẹo khua trống càng mạnh. Tiếng hát của cái Nga và thằng Đô càng hăng say. Ngôi đình như rung lên.
- Tất... tất... cả - im lặng! - Tiếng Quất chìm trong không gian huyên náo. Mặt Quất nóng ran, tức tối giật lấy khẩu súng trên vai của một dân quân quát lớn.
- Bắt trói lão Kẹo lại - Quất hối hả chạy ra cửa đình bắn ba phát chỉ thiên. Tiếng súng vang lên: Sân cờ nháo nhác.
- Tất cả im lặng, im lặng nghe tôi nói - Quất lật túi bạt lấy tờ quyết định của Uỷ ban đưa lên trịnh trọng đọc rõ.
Uỷ ban nhân dân xã.... Huyện...tỉnh....
Thực hiện tốt chủ trương chống tư tưởng phong kiến và mê tín dị đoan trong nhân dân, xây dựng đời sống văn hoá nghệ thuật quần chúng của xã nhà. Nếu ai cố tình chống đối sẽ bị xử lý theo pháp luật.
Ngày.........tháng........năm........
Chủ tịch: Nguyễn Cường
Quất đọc một mạch tờ quyết định rồi khẽ đưa mắt lên nhìn mọi người, bắt gặp mọi ánh mắt căm giận đang đổ dồn về phía Quất.
- Hôm nay không phải ngày hội - Quất hét lên lấy uy thế - đề nghị bà con giải  tán. Ai thắc mắc gì lên xã giải quyết - Quất nhét vội tờ quyết định vào túi, xông xuống bàn cờ tướng giật lấy chiếc nón ba tầm trên đầu mẹ cái Nga, quát.
- Chị muốn làm tướng lãnh đạo cả làng này nổi loạn hả. Mời chị lên Uỷ ban xã.
- Anh Quất - Mẹ cái Nga bình thản nhổ miếng bã trầu xuống sân, lấy gót miết xuống nền gạch, liếc cặp mắt sắc lạnh nhìn Quất - Anh là rể làng này, tôi khuyên anh nên ăn ở cho làng kính trọng. Chả lẽ anh lại cấm cả dân làng đánh cờ sao? Tôi chỉ làm tướng trên bàn cờ nên tôi chịu anh. Tôi mà làm tướng thật thì tôi đã lệnh cho chém đầu anh từ lâu rồi.
- A, chị này láo nhỉ? Dám chống đối lại người thi hành nhiệm vụ. Dân quân đâu, bắt trói chị ta lại.
Hai dân quân được lệnh của Quất xông vào trói mẹ cái Nga lôi ra khỏi bàn cờ tướng. Trong đình lão Kẹo đã bị trói giật cánh khuỷu tay, chân lão bước loạng choạng ra cửa đình, miệng lão vẫn hét lên: "Í a - làng này có giặc í a có giặc". Lão Kình vung gậy múa loạn xạ. Trống lại dậy lên liên hồi, sân đình người nhớn nháo. Những chàng trai cô gái cầm ô đứng ngơ ngác trên sân cờ nhìn nhau. Một cơn gió lộng lên thổi tung những chiếc lọng hồng, những chiếc ô trắng ô đen chao đảo. Mẹ cái Nga vừa bị bắt, một bà lão nhảy lên bàn tường ngồi chễm chệ nhai trầu vung tay ra hiệu cho quân cờ hãy đứng vào vị trí của mình. Tiếng trống vẫn dồn dập. Bất chợt có tiếng thét thất thanh. Cả sân đình bỗng lặng đi. Vợ Quất từ cổng đình lao vào xoã tóc rũ rượi leo lên bậc tam cấp ngửa mặt lên trời chắp hai tay vái lia lịa miệng lắp bắp.
- Con lạy ông trời cao đất dày, con lạy thánh thần linh thiêng hãy ngăn cản chồng con đừng làm điều ác. Bớ anh Quất ơi là anh Quất, tôi lấy anh tôi cứ tưởng anh thương tôi, thương bà con làng Nguyệt ai ngờ anh lại là kẻ dẫn người về phá đình làng.
Quất đứng trơ giữa đình, uất giận về thái độ điên cuồng của vợ. Quất không ngờ người chống đối quyết liệt nhất lại chính là vợ mình. Hành động của vợ làm Quất giận sôi lên vì mất thể diện trước dân Nguyệt Hạ. Một lần nữa, Quất lại muốn tỏ thái độ cứng rắn trước mọi người. Ngô Quất này không bao giờ làm nhụt chí khí, Ngô Quất không bao giờ để mất lập trường cách mạng. Quất giật lấy chiếc xà beng trong tay đồng đội, nhảy phốc lên cổng đình. Vòm cổng đình uốn con nối giữa hai trụ là một phiến đá xanh khắc chữ hán nôm "Đình Nguyệt Hạ" Quất lấy sức lao thật lực chiếc xà beng vào vòm cổng..
- Đừng! Đừng làm thế... Anh Quất! - Vợ Quất thét lên lao từ trên bậc tam cấp ngã úp mặt xuống sân đình, một dòng máu đỏ tươi từ miệng vợ Quất ứa ra. Mọi người xô lại kinh hoàng nhận ra đôi mắt của vợ Quất trợn trừng trắng dã vô hồn.
- Quất! Mày giết vợ mày, giết con mày rồi...
Quất nghe tiếng ai đó thét lên. Quất từ vòm cổng đình nhảy xuống lao tới ôm xốc vợ lên vai chạy.
- Ôi dượng ơi! Thật là ác, dượng đã giết mẹ tôi rồi. Dượng giết mẹ tôi rồi.
Thằng Đô vừa khóc vừa chạy theo Quất. Tiếng trống lặng đi, làng Nguyệt Hạ lặng đi, chỉ có nắng vẫn chói chang và bầu trời vẫn xanh ngắt.
 
Bé Hà vào tuổi cắp sách đi học, Hoàng Đô đã mười chín tuổi, bé Hà tuy cùng mẹ khác cha nhưng Đô lại dành cho đứa em gái cùng mẹ khác cha tình cảm đặc biệt yêu quý. Đô hiểu rõ nỗi buồn của bé Hà sớm mồ côi mẹ bằng chính nỗi buồn của anh sớm mồ côi bố từ nhỏ. Chính cái chết khủng khiếp của mẹ Đô, ngôi đình Nguyệt Hạ mới được giữ toàn vẹn cho tới ngày nay. Cũng chính từ cái chết đó của mẹ Đô, ngôi đình làng mới trở lên linh thiêng hơn. Xung quanh cái chết của bà, người làng Nguyệt Hạ tung ra bao nhiêu chuyện. Người bảo thành hoàng trừng trị Ngô Quất dám đưa quân về phá đình. Người lại bảo mẹ Đô đổi mạng sống của mình để ngăn chặn tội ác của chồng để cứu cả dân làng Nguyệt Hạ khỏi lâm vào thảm hoạ. Người lại bảo mẹ Đô qúa kinh hoàng về hành động của chồng... Ngày mới sinh, bé Hà được nuôi sống bằng sữa dì, em ruột của mẹ Đô và bằng tình thương của cả dân làng Nguyệt Hạ. Bé Hà càng lớn càng giống mẹ như đúc: mắt đen đượm buồn, nét buồn bẩm sinh ngay từ ngày còn nằm trong bụng mẹ. Cũng từ cái chết của mẹ, dượng Quất cũng thay đổi tính nết, bớt hung hăng và thực sự quý mến hai anh em Đô. Xuất phát từ lòng thương bé Hà, Hoàng Đô cư xử với dượng Quất tế nhị hơn, chịu đựng hơn. Đúng ra anh thương hại dượng Quất hơn là kính trọng. Hoàng Đô sớm nhận ra trên đời này chỉ có bé Hà là tình cảm ruột thịt duy nhất, còn Nga là người bạn gái láng giềng lại cực kỳ đẹp đẽ, trong sáng. Từ mấy tháng nay Hoàng Đô giành thời gian, giấu dượng Quất viết xong một hoạt cảnh chèo dựa theo câu chuyện truyền thuyết về làng Nguyệt Hạ để chuẩn bị cho hội diễn chèo toàn huyện thay cho hoạt cảnh "cánh bèo dâu" của dượng Quất.
Hoàng Đô nằm dài trên giường chăm chú đọc lại kịch bản chèo lần cuối để tối nay anh sẽ mang sang cho Nga đọc. Có tiếng chân dượng Quất bước vào cửa, Hoàng Đô vội giấu tập bản thảo xuống chiếu. Dượng Quất từ trên huyện về vai vác cây đàn ghi ta mới mua.
- Ha ha, còn ít quỹ tôi sắm cho các anh cây đàn ghi ta. Các anh chịu khó tập rồi dạy cả tôi nữa đấy. Cán bộ văn hoá mà không biết đánh đàn thì xoàng - Dượng nói rồi ngoắc chiếc túi bạt vào cột đưa ngón tay gẩy một cái rõ mạnh lên cả sáu dây đàn. Chiếc đàn rung lên cả sáu âm trầm bổng -Hà hà hay đấy chứ nhỉ. Trên phố huyện bây giờ là nó chơi toàn nhạc cụ mới hiện đại mà mình cứ ôm khư khư mãi cái nhị kò ke kí ke nghe buồn như có đám ma, mất cả khí thế.
- Con nghĩ tập được ghi ta càng tốt, nhưng làng mình là đất chèo truyền thống...
- Xì, anh trẻ mà lạc hậu hơn ông già. Thời đại văn minh lại cứ truyền thông mãi. Thế cái hoạt cảnh "Cánh bèo dâu" của tôi các anh tiến hành tập đến đâu rồi?
- Dạ còn thiếu vai bà Cần, cô Nghĩa không chịu nhận.
- Mụ Nghĩa là hay sinh chuyện, tao biết. Rõ dở hơi, đi hát không sướng lại sướng đi vác đất. Mày không thấy người ta đi cầy, đi cuốc được mười điểm, chúng mày đi hát được tám điểm chả sướng hơn sao. Thôi được, tao sẽ có cách. Nếu mụ ấy không nhận vai tao sẽ điều mụ ta đi dân công dài hạn. Ngữ ấy vác đất vài tuần là biết ngay.
Dượng Quất vừa nói vừa cầm lấy cây đàn ghi ta đặt vào lòng gẩy lên mấy tiếng rồi ngượng ngùng đưa những ngón tay sần sùi mò mẫm bấm lung tung lên các phím đàn tạo ra những âm thanh rối loạn.
- Mày nghe âm của nó kêu to đấy chứ hả?
Gương mặt bé choắt gân guốc đen xạm của dượng Quất ánh lên niềm vui bên cây đàn ghi ta bóng loáng.
Cơm tối xong. Đô nhét tập bản thảo vào bụng chuẩn bị sang nhà Nga. Đô muốn chia sẻ niềm vui này cho Nga. Nga sẽ đóng vai công chúa Nguyệt Cầm, anh sẽ giả đóng vai chàng trai thả diều... Đô mơ ước tới ngày nào Nga sẽ trao vòng cho anh...
- Anh Đô, cho em đi với.
- Hà phải ở nhà học bài - Đô ghé sát vào tai em gái. Tối nay anh sẽ có việc riêng không thể cho em đi được.
- À, em biết rồi, anh đi với chị Nga...
Bé Hà ngúng nguẩy chạy vòng quanh sân cười rúc rích. Như mọi tối tập văn nghệ. Đô thường cho bé Hà đi theo, nhưng tối nay vì anh muốn được ngồi với Nga... đọc bản thảo này Nga sẽ hiểu rõ lòng anh hơn. Anh yêu Nga, từ lâu lắm rồi. Hình bóng Nga chính là nàng công chúa Nguyệt Cầm. Nhưng điều làm cho Đô day dứt vì yêu mà chưa bao giờ Đô dám nói cho Nga biết những ý nghĩ sâu kín của mình. Nga thật gần gũi mà cũng xa vời quá. Nga cũng là nàng công chúa Nguyệt Cầm và anh chỉ là chàng nông dân nghèo. Nga đẹp quá. Ánh mắt Nga đen thăm thẳm, nụ cười sáng rực trên khuôn mặt thanh tú. Nga chỉ mặc đơn giản chiếc áo nâu Đô cũng thấy đẹp. Vẻ đẹp của dáng hình Nga như có phép màu hiện lên từ những động tác Nga khẽ vuốt tóc hay đôi môi khẽ mấp máy cười. Và lúc Đô nhận ra vẻ đẹp của Nga ở hàng cúc áo tròn tròn xinh xinh trước ngực, hay trước cặp tóc sáng lấp lánh trên mái tóc đen nhánh. Nga giống như con chim ríu rít quanh anh nhưng anh chỉ được nghe hót chứ chưa dám bắt. Anh giữ gìn nương nhẹ với Nga và tin tưởng rằng Nga là con chim hoạ mi anh đã nuôi từ lâu lắm.
Đô rạo rực đi trên đường làng. Sao đầy trời vời vợi, gió lao xao bên luỹ tre bên lối ngõ nhà Nga. Vào tới cổng, ấn tượng đầu tiên bao giờ cũng làm Đô xúc động, đó là thân cây cau cao vút đơn độc trước cửa nhà Nga. Đô lại linh cảm đó là hình ảnh của cô Nghĩa, mẹ Nga - Một người mẹ vừa nhân hậu, cô đơn, vừa khổ đau mà bền vững lạ thường. Từ chiếc ang sành đặt dưới gốc cau để hứng nước mưa, Đô nhận thấy có lẽ nó có từ lâu lắm rồi. Nó ở đấy và mãi mãi ở đấy... Đã bao lần Đô đứng bên ang nước mưa dưới thân cau này để nhìn Nga mà không dám gọi. Chẳng có lý do gì mà gọi. Đô chỉ cần thấy bóng Nga thấp thoáng qua ô cửa hoặc nghe tiếng Nga hát. Tiếng hát của Nga thì mãi mãi còn âm vang trong lòng Đô....
Và lúc này Đô đã đứng bên ang nước mưa. Hương cau ngan ngát và trăm ngàn ngôi sao trời nhấp nháy ánh lên niềm vui. Đô đã đứng một lúc mà vẫn không thấy bóng Nga đâu. Bên ngọn đèn, mẹ Nga đang mài dao đầu hè. Tiếng dao liếc xoèn xoẹt vang lên trong đêm tối nghe rờn rợn. Cách mài dao của mẹ Nga thật lạ, lúc hối hả lúc hững hờ, có lẽ vừa mài dao mẹ Nga vừa suy nghĩ điều gì đó thỉnh thoảng lại đưa lưỡi dao sáng loáng lên trước ngọn đèn dầu rồi lại hí hoáy mài một cách nhẫn nại. Hình ảnh mẹ Nga ngồi mài dao trong đêm tối cũng giống như dáng dấp của mẹ Đô xưa. Từ ngày mẹ mất, Đô luôn tưởng tượng ra hình bóng mẹ tối tối vong vóng ngồi trước cửa chờ Đô đi thả diều về. Đôi lần Đô mơ thấy cảnh mẹ chết ngã sấp mặt xuống sân đình máu ứa ra miệng. Tiếng mài dao xoèn xoẹt của mẹ Nga làm Đô bỗng thấy sợ. Chờ mãi không nghe tiếng Nga, Đô mạnh dạn bước vào.
- Cháu chào cô. Thưa cô, có Nga ở nhà không ạ?
- Hoá ra là anh! Anh làm tôi cứ ngỡ có đứa nào rình rập gì. Cái Nga nó đi so điểm.
- Vậy là cô mài dao để doạ trộm?
- Cũng không hẳn thế. Rỗi thì mài, thế thôi. Có mấy con dao cứ mài đi mài lại hết con này đến con khác. Các cậu thì chả hiểu được đâu. Nhà đàn bà con gái đôi khi phải thế. Hồi tôi còn trẻ. Có thế tôi mới đứng vững đến bây giờ chứ không thì cũng bước đi bước nữa như mẹ cậu - Mẹ Nga khẽ liếc mắt nhìn Đô - ấy là tôi nói cái chuyện ngày xưa. Cậu tính cái thân tôi bây giờ chẳng cần mài dao cũng chả có ma nào nó ngó nữa. Bây giờ tôi mài dao vì con Nga. Ở đời tài sắc là hay gặp nạn "chữ tài đi với chữ tai..." mà cậu. Cậu trông đây - mẹ Nga đưa lưỡi dao lật đi lật lại trước ngọn đèn - sợ không? Sắc như nước. Liều lên là phăng một nhát. Phận đàn bà chân yếu tay mềm phải phòng thân, cậu hiểu chưa. Mời cậu uống nước đi.
Đô ớn lạnh, anh nhìn lên gương mặt người đàn bà vào tuổi bốn mươi vẫn lưu lại vẻ đẹp của thời con gái. Ngày xưa chắc cô Nghĩa cũng đẹp như Nga bây giờ.
- Cô quá lo xa, bây giờ đâu còn như ngày xưa.
- Ôi, cậu mới vào đời còn nông nổi lắm. Con Nga cũng nghĩ như cậu. Thời nào mà chả thế. Con gái lỡ một tý là khổ một đời, cậu ạ. Tôi cứ suy đời mình ra thì thấy. Hồi trẻ nhìn điều gì cũng giản đơn dễ xúc động, năm mười tám tuổi tôi trao vòng cho bố con Nga, cậu biết tôi nghĩ gì không? Tôi nghĩ mình là người hạnh phúc nhất thế gian này. Thế rồi đùng một cái mất hết tất cả. Và bây giờ thì tôi còn mỗi mình con Nga. Trời cho tôi còn sống, con Nga phải được sung sướng. Đời tôi bây giờ coi như bỏ nhưng con Nga có quyền được hưởng hạnh phúc trên cõi đời này. Tôi cho nó vào đội văn nghệ bởi nó thích hát và bản thân tôi cũng thích được nghe nó hát. Mỗi lần tôi nghe nó hát là mọi chuyện đều tốt đẹp.
Ánh mắt mẹ Nga chợt rực sáng nhìn Đô như muốn nói với Đô điều gì đó nhưng lại thôi. Mẹ Nga ngồi thẫn thờ một lúc lật đi lật lại lưỡi dao sáng loáng trước ngọn đèn dầu, nét mặt trở nên u uất nghĩ ngợi về điều gì đó. Và câu hỏi bất ngờ làm Đô lặng người.
- Tôi hỏi thật cậu, có phải cậu với nó đã tìm hiểu nhau.
- Dạ... dạ. Không! - Đô ấp úng nói không ra lời.
- Ra thế... thế mà tôi ngỡ.... Vậy cậu có biết cậu Bức cháu ông Kình cũng đang săn đón con Nga?
- Thế ạ, vậy mà cháu không hề biết.
Đô nói như hụt hơi, mặt tái đi. Mẹ Nga lại cầm con dao gạt trên hòn đá mài mắt lơ đãng nhìn ra khoảng trời đêm mênh mông. Một thân cau lờ mờ đơn độc cao vút.
- Thật kinh khủng, kinh khủng! - Mẹ Nga rít lên đau đớn - Hẳn là cậu đã biết chuyện giữa gia đình tôi và gia đình cậu Bức... Tôi lo cho con Nga, nó có nghĩ tới được điều đó không. Ông Kình bây giờ tuy đã câm nhưng cái đầu ông não còn sâu sắc lắm. Cứ nhìn vào đôi mắt lúc nào cũng ánh lên nỗi căm giận, tôi đoán chắc ông lão chưa hẳn đã câm thật.
Câu chuyện của mẹ Nga gợi lại cái chết thảm thương oan nghiệt của bố thằng Bức và bố Nga hồi cải cách làm Đô rợn người. Đô nhớ lại cảnh bố Nga và ông Bất, ông Học bu vào sợi dây chão miệng hô "hai ba" lấy đà giật mạnh một cái thật lực, ngọn tre đực bật lên, chiếc thòng lọng xiết vào cổ bố Bức...
- Anh muốn gặp con Nga có việc gì?
- Dạ... Dạ cháu vừa viết xong hoạt cảnh chèo.
- Dào ơi! Tôi chán kiểu tự biên như cái loạt cảnh "Cánh bèo dâu" của dượng Quất anh lắm rồi. Anh về anh bảo dượng anh là từ nay tôi xin ra khỏi đội chèo dàng Nguyệt.
- Cô Nghĩa, cháu xin cô, cô hãy giúp cháu qua hội diễn năm nay. Nhân tiện cháu bàn luôn với cô chuyện này.
Đô đưa tập bản thảo ra trước mặt mẹ Nga với vẻ háo hức:
- Cháu tin là cô sẽ bằng lòng giúp cháu khi cô đọc xong hoạt cảnh chèo này. Cháu có ý định muốn cho đội văn nghệ tập gấp để kịp đi hội diễn thay thế hoạt cảnh "Cánh bèo dâu", của dượng Quất.
- Dượng anh đã đồng ý thế à?
- Không cô ạ. Dượng cháu sẽ không bao giờ đồng ý cho tập vở của cháu. Nhưng chúng cháu sẽ cố giữ bí mật. Nghĩa là chúng cháu sẽ tập trộm vở để đối phó với dượng Quất....
Vừa lướt qua hàng chữ "Huyền thoại làng Nguyệt Hạ", ánh mắt mẹ Nga đã sáng lên.
- Có đúng là anh viết?
- Dạ, chính cháu viết đấy ạ.
Mẹ Nga như không tin lời Đô, cô lật từng trang đọc một cách say mê. Đô thấp thỏm ngồi theo dõi nét mặt mẹ Nga thoáng hồng lên trước ngọn đèn dầu vẻ xúc động. Từ ngày dượng Quất cho Đô vào đội văn nghệ, Đô đã học ở mẹ Nga bao điều sâu sắc tinh hoa có trong nghệ thuật chèo. Trên sân khấu chèo, Nga được về mọi mặt, sắc đẹp, diễn xuất và chất giọng. Không, không bao giờ Nga yêu Bức. Đô tự an ủi mình. Chả lẽ bao kỷ niệm đẹp giữa Đô và Nga hồi bé tới giờ Nga không nghĩ được rằng Đô đã yêu Nga? Nghĩ tới chuyện đó, Đô thấy người nóng ran, anh đứng dậy lững thững đi quanh sân. Mẹ Nga vẫn chăm chú đọc tập bản thảo.Có tiếng bước chân ngoài ngõ và tiếng Nga khe khẽ hát. Đô bước ra gốc cau đứng nép vào ang nước mưa. "Ơi! Các chị nhiều ơi... ơi các bạn tình ơi... chứ đời tôi không giăng gió nay gặp người gió giăng... Thời ai gió giăng..."
- Suỵt! Nga ơi - Đô khẽ gọi. Nga đứng sững lại, câu hát tắt lịm giữa chừng. Nhận ra Đô, Nga bước lại gần, Đô thấy xao động. Trời đầy sao lung linh. Hương cau lẫn hương tóc Nga phảng phất. Bao giờ cũng vậy. Gặp Nga, Đô cảm nhận thấy mọi cái đều trở nên rực rỡ mà không sao nói thành lời.
- Anh viết xong hoạt cảnh chèo "Huyền thoại Nguyệt Hạ". Mẹ đang đọc.
- Mời anh vào nhà uống nước
- Nga, anh muốn hỏi em chuyện này đã.
- Chuyện gì hả anh.
- Anh vừa nghe mẹ hỏi anh là có biết chuyện Bức và em...
- Vậy anh có biết không?
- Không, anh không hề biết...
- Ôi! Thế thì anh ngốc ơi là ngốc, hí hí - Vừa nói Nga vừa tóm lấy cổ tay Đô lôi tuột vào sân - Mẹ. Mẹ ơi, con vừa so điểm mẹ được bảy mươi năm công, con được một trăm mười công "Ơi các chị nhiều ơi - này các bạn tình ơi..."
Nga vừa hát khe khẽ vừa rót nước mời Đô. Câu nói lửng lơ của Nga làm Đô khó hiểu. Mãi mãi Nga vẫn còn là một bí ẩn.
- Thật là hay quá, ha yquá - Mày đọc đi, cậu Đô thật là giỏi, giỏi hơn cả cụ Kẹo. Tôi sẽ giúp cậu. Tôi mà biết cậu tài thế, tôi sẽ kể để cậu viết về chuyện "Đám cưới đôi" của ông nội câu và ông nội con Nga rồi chuyện cái chết của mẹ cậu nữa.
- Cám ơn cô, cháu cũng đã nghĩ tới chuyện đó, nhưng cháu ngại dượng Quất...
- Cậu đừng sợ. Những người như Ngô Quất cứ phải thế cho đáng đời. Về cái chết của mẹ cậu thì cậu đã biết. Còn cái đám cưới đôi ở đình làng thì cậu không thể biết được. Hay lắm con ạ.
- Cháu cũng đã nghe cụ Kình kể tỷ mỷ. Rồi cháu sẽ viết.
- Ừ, thế thì viết đi cháu ạ. Mọi người sẽ thích lắm đấy.
Trên đường từ nhà Nga về, Đô quyết định sẽ viết về cái chết của mẹ, viết về ông nội Nga, cả hai người đều là con nhà khá giả ở thành phố kết thân với nhau bởi cả hai đều có máu nghệ sĩ. Một người tài thơ phú, một người chuyên vẽ tranh bán. Đất trời thiên nhiên đã lôi cuốn cả hai chàng trai trốn bố mẹ xuống thuyền buôn đi khắp mọi nơi tìm cảm hứng nghệ thuật. Và cuối cùng hai chàng trai đã đi trên con thuyền buôn đá tới làng Nguyệt Hạ. Tục lệ cổ xưa của làng, gái trai lấy vợ lấy chồng đều phải mua mười viên đá tảng lát đường (loại đá xanh 40 cm x 40cm). Các cụ muốn các ngả đường của làng Nguyệt Hạ phải lát đá xanh chứ không thèm lát gạch như các làng khác. Bởi vậy nên làng Nguyệt Hạ mới có một bến đá bên dòng sông cái. Dân buôn không chỉ chở đá về bán riêng cho làng Nguyệt Hạ mà còn chở mọi thứ đồ khác về bán cho dân khắp mọi nơi trong vùng này: Nào cối đá, lon đá, chày đá, trục đá... Con người cảnh vật làng Nguyệt Hạ đã thực sự làm trái tim hai chàng trai trẻ ở thành phố rung động. Dòng sông cái mênh mang khói sương bảng lảng, văng vẳng tiếng sáo diều. Trên bờ đê thấp thoáng bóng dáng những thiên thần đang cưỡi trâu. Đồng cỏ xanh ngắt. Trên bến hai chú ngựa đứng trước cỗ xe nôn nóng gõ móng công cốc trên mặt đường đá. Những người khuân vác lưng trần bóng nhẫy hối hả khuân lên xe ngựa đủ thứ mặt hàng đồ đá. Hai chàng trai thành phố vào tới đầu làng Nguyệt Hạ sửng sốt khi nhìn thấy ngôi đình có một vẻ đẹp khác thường bởi lối kiến trúc rất đẹp. Đẹp lạ kỳ. Hai chàng trai đứng lặng trước dòng chữ "Đình Nguyệt Hạ" nổi lên trên phiến đá xanh đặt giữa vòm cổng. Mái đình cong, trên nóc, hai con rồng nằm uốn mình châu đầu vào nhau kiêu hãnh vểnh bộ râu cong tít, mắt tròn xoe lấp lánh màu nhũ. Ông thủ từ đầu đội khăn sếp, áo chùng thâm chân đi guốc đỏ đứng lấp ló bên khuôn cửa lim tím lịm. Ông thủ từ đã nhận ra dáng nho sĩ ở hai chàng trai lạ đang chăm chú đọc những câu đối trước cửa đình và những vần thơ trên bia đá. Và câu chuyện huyền thoại làng Nguyệt Hạ ông thủ từ kể đã thổi bùng trí tưởng tượng của chàng văn sĩ. Chàng đã viết không biết bao nhiêu vần thơ ca ngợi cảnh sắc, tình người làng Nguyệt Hạ. Chàng đã nói lên bao điều tốt đẹp ẩn chứa ý tứ sâu sắc kín đáo trong câu chuyện huyền thoại về tục lệ "trao vòng" của người làng Nguyệt Hạ. Chàng hoạ sĩ thì say mê vẽ không biết bao nhiêu bức tranh ở đây và đem đi rao bán khắp vùng lân cận. Và một nguyên nhân cuối cùng, nguyên nhân quan trọng nhất giữ hai chàng trai thành phố ở lại làng Nguyệt Hạ suốt đời - đó là sắc đẹp mê hồn của hai cô gái làng Nguyệt Hạ. Giữa trời cao lồng lộng có hương thơm cỏ cây, có ánh mắt chị Hằng, có hơi thở của gió trên dòng sông Cái, hai cô gái đẹp nhất làng Nguyệt Hạ đã thề nguyền trao chiếc vòng gia truyền cho hai chàng trai thành phố lang thang. Lần đầu tiên cũng là lần duy nhất người trong làng Nguyệt Hạ được chứng kiến một "đám cưới đôi" tại sân đình do ông thủ từ thay mặt họ nhà trai đứng ra tổ chức. Tình thủy chung trọn vẹn của hai chàng trai thành phố tức là ông nội của Nga và ông nội Đô đã tô đậm thêm nét độc đáo về tục lệ trao vòng của dân Nguyệt Hạ.
CHƯƠNG 4
Hội diễn văn nghệ toàn huyện năm nay được tổ chức tại sân đình làng Nguyệt Hạ suốt bốn ngày đêm liền. Ngô Quất cũng được một chân trong ban giám khảo. Đặc biệt hội diễn năm nay còn có đại diện của Ty văn hoá tỉnh Đặng Xuân Tòng về dự. Tối nay đến lượt đội chèo làng Nguyệt Hạ trình diễn. Ngô Quất sung sướng nhận ra dân làng Nguyệt từ già đến trẻ háo hức kéo nhau đi xem. Tối nay Ngô Quất cố tình đến ngồi cạnh trưởng phòng văn hóa huyện và Đặng Xuân Tòng đại diện của Ty văn hoá tỉnh để dễ trao đổi và lắng nghe ý tứ của hai vị chủ chốt  này. Có thể nói, Quất chưa bao giờ tự hào với dân làng Nguyệt như tối nay. Quất đã phải bố trí một số dân quân bảo vệ trật tự thật chu đáo cho đêm biểu diễn đạt kết quả cao. Quất đề phòng cả những kẻ ganh ghét cố tình phá đám và không quên có chút quà lót tay cho người trông coi máy nổ và tay phụ trách ánh sáng. Một hồi trống vang lên báo hiệu giờ mở màn, Ngô Quất thấy lòng rạo rực. Trước tấm màn đỏ chói, với dáng mềm mại uyển chuyển và sắc đẹp rực rỡ, Nga bước ra cúi đầu chào khán giả. Một tràng pháo tay vang lên.
- Đội chèo làng Nguyệt Hạ có lời chào thân ái tới ban giám khảo, quý khán giả cùng bà con làng xóm...
Tiếng Nga trong vắt. Con bé lại quen miệng - Quất thoáng nghĩ - đã bảo mãi là đừng có gọi là đội chèo nữa. Phải gọi là đội văn nghệ làng Nguyệt. Bỏ chữ Hạ đi mà nó cứ gọi Hạ mãi.
- Đội chèo làng Nguyệt Hạ đêm nay ra mắt hội diễn với vở chèo "Huyền thoại tình yêu" sáng tác tự biên của trưởng ban văn hoá xã Ngô Văn Quất dựa theo câu chuyện huyền thoại làng Nguyệt Hạ. Sau đây là bảng phân vai.
Cụ Nguyễn Văn Kẹo trong vai vua.
Thu Nga trong vai công chúa Nguyệt Cầm.
Hoàng Đô trong vai chàng nông dân...
Ngô Quất tái mặt, sao lại có vở huyền thoại nào ở đây. Sao lại lão Kẹo, sao lại...? Bao câu hỏi rối lên trong tâm trí Ngô Quất. Và cuối cùng Quất đã hiểu cái thằng Đô xỏ lá, cả cái làng Nguyệt Hạ này xỏ lá. Nó đã lén tập cái vở huyền thoại chết tiệt này. Còn vở "Cánh bèo dâu" thì nó chỉ tập vờ vịt để che mắt mình. Nó còn cố tình cho mình đứng tên vở diễn để chặn họng mình đây. Thật là quá đáng! Cái Thằng Đô, thằng Đô và có thể đây là mưu mô của lão Kẹo định chơi xỏ mình? Quất tức sôi lên nhưng vẫn phải ngồi lặng trước những cặp mắt đang chăm chú theo dõi vở diễn. Ngô Quất lo lắng vừa để ý theo dõi thái độ của Ban giám khảo vừa theo dõi vở diễn xem chúng nó có định bày trò gì trên sân khấu nữa. Quất còn có ý ngầm so sánh giữa vở đang diễn và vở "cánh bèo dâu" của Quất. Nhưng rồi chính những gì đang diễn ra trên sân khấu đã cuốn hút tâm trí Quất. Quất nhận ra tất cả mọi thành viên trong Ban giám khảo và khán giả đều xúc động.
Với lời ca, giọng hát đầy truyền cảm, với nội dung sâu sắc ca ngợi tình yêu ca ngợi tục lệ trao vòng của làng Nguyệt Hạ, vở diễn đã thu phục được khán giả. Thế mà có dạo Quất đã ngăn cản, cấm đoán dân Nguyệt Hạ không được thả diều... Quất đã hiểu ra rằng tất cả dân làng đang nhìn Quất bằng ánh mắt căm giận. Quất là kẻ giết vợ, kẻ đớn hèn và bần tiện. Cái chết của con trai lão Kình, cái chết của bố con Nga và cái chết của bố Quất bỗng hiện lên làm Quất kinh hoàng. Hình ảnh bố mẹ và hai người anh Quất ngày xưa sớm tối lang thang đi chầu chực nhặt từng bãi phân rơi lại hiện lên ám ảnh trong tâm trí Quất. Những lời ca tiếng nói trên sân khấu lúc này đã thực sự thức tỉnh lương tri, lay động đầu óc u mê của Quất. Quất thấy trong lòng minh đang biến động dữ dội. Vở diễn đêm nay đã đánh trúng vào chỗ mong manh nhất, sâu kín nhất trong tâm hồn Quất. Quất bây giờ là kẻ không bố mẹ, không anh em không vợ và đi ở rể làng này.
- Thật tuyệt vời, chúc mừng anh! - Đại diện Ty văn hoá tỉnh Đặng Xuân Tòng ghé vào tai Quất thì thầm - Làng Nguyệt Hại của anh là một làng quê có nền văn hoá dân gian điển hình của làng quê Việt Nam. Tôi không ngờ anh lại viết được vở diễn độc đáo và hay đến như vậy. Anh có đội ngũ diễn viên chèo thật đáng quý. Nhất là cô gái đóng vai công chúa Nguyệt Cầm kia, cô ta có đường nét của tiên nữ và giọng hát thì đánh đổ được cả những diễn viên chuyên nghiệp.
Ngô Quất ngồi ngây ra bàng hoàng. Đại diện Ty văn hoá tỉnh véo vào đùi Ngô Quất:
- Này, anh cho cô ta đi với chúng tôi nhé. Trong nghệ thuật chèo được người như cô ta quý hơn vàng, để cô ta ở đất này phí.
Đại diện Ty văn hoá tỉnh Đặng Xuân Tòng nói đúng. Anh ta đã đi rất nhiều nơi, nhưng chưa bao giờ gặp một diễn viên nghiệp dư nào được như cô gái kia. Từ ánh mắt nụ cười đến gương mặt dịu hiền, với giọng hát chèo âm vang lôi cuốn của Nga đều làm anh ta say mê thực sự. Quất len lén rời chiếc ghế giám khảo đi vẩn vơ quanh sân đình. Ngôi đình làng Nguyệt Hạ lúc này bỗng trở nên linh thiêng trước mắt Quất. Tiếng trống chèo giòn tan, Ngô Quất cảm thấy như có gì đang tan rữa trong đầu Quất, Quất cứ đi quẩn quanh, quanh quẩn mãi bên cánh gà sân khấu ma không ai để ý tới Quất. Đầu óc Quất u mê khi bước chân của Quất lập cập bước lên sân khấu cùng với ánh mắt sáng ngời của tất cả các diễn viên trong đội chèo làng Nguyệt Hạ đang cúi đầu chào khán giả giữa tiếng vỗ tay vang dậy. Rồi Quất, với chức năng trưởng ban văn hoá xã, tác giả hờ của vở diễn, Quất phải lên nói điều gì đó, những điều thường ngày Quất vẫn nói...
Làng Nguyệt Hạ qua một tối náo nhiệt giờ chợt lặng đi. Ngô Quất dắt bé Hà về nhà lòng cứ xới lên bởi bao câu hỏi ngây ngô của đứa con gái.
- Bố ơi, con nghe dì Hồng bảo mẹ chết đi để cứu ngôi đình làng ta khỏi bị phá hả bố
- Ừ!
- Bố ơi, con nghe người ta bảo mẹ ngày xưa đẹp lắm phải không bố?
- Đẹp!
- Bố ơi, có phải ông nội ngày xưa là địa chủ hả bố.
- Ừ!
- Con đừng hỏi vớ vẩn. Khi nào con lớn con sẽ hiểu.
Về tới nhà, bé Hà lăn ra ngủ. Ngô Quất nằm thao thức chờ Đô về. Đô vừa bước vào cửa Quất đã ngồi bật dậy vừa hút thuốc lào vừa để ý thái độ thằng Đô. Vẻ háo hức mãn nguyện lộ rõ trên gương mặt nó làm Ngô Quất tức nghẹn cổ.
- Thật là hay ho đấy - Ngô Quất rít lên - Anh và cái lão Kẹo đã cố tình bày trò bêu riếu tôi.
- Dượng chả thay đổi được gì cả - Đô hạ giọng khẽ thở dài - Đây không phải là trò bêu riếu như dượng nghĩ. Đây là chuyện nghiêm túc - Dượng không thấy vở diễn hôm nay thành công và con tin có thể được giải nhất hội diễn năm nay đấy.
- Biết rồi, cái đó thì tôi biết rồi. Tôi muốn nói là các anh giấu tôi...
- Điều đó thì dượng tự nghĩ. Chúng con đâu muốn phải giấu dượng, đâu muốn phải lén lút tập ngày tập đêm khổ sở như trong vùng địch. Dượng không thấy từ bao nhiêu năm nay dân làng phải chịu khổ sở vì những điều dượng bày đặt ra. Con không muốn nói với dượng điều này nhưng dượng chẳng hiểu được gì cả. Dượng cứ tự làm khổ mình khổ mọi người.
Thằng Đô nói một chập rồi nhảy lên giường nằm. Ngô Quất ngồi lặng trước ngọn đèn dầu. Càng về khuya làng Nguyệt Hạ càng lắng lại. Khung cảnh trên sân đình lúc tối lại hiện lên ám ảnh tâm trí Ngô Quất. 
Vở chèo "Huyền thoại tình yêu" của Đô đoạt giải nhất hội diễn đã đẩy ngô Quất lên tới đỉnh của vinh quang với chức Phó phòng văn hoá huyện. Nhưng cái chuyện mượn danh mà hãnh tiến bị vỡ lở. Ngô Quất cuối cùng vẫn là Ngô Quất. Phải trả về xã, Ngô Quất thấy nhục quá. Mọi tham vọng bỗng tiêu tan. Ngô Quất làm đơn xin ra Đảng và công bố trước Đảng uỷ xã: "Tôi theo Đảng đến đây đủ rồi". Về vườn, Ngô Quất đóng cửa không thèm quan hệ với bất kỳ ai trong làng. Quất về vườn, một lần nữa làng Nguyệt Hạ lại thay đổi. Trẻ con, người già lao vào ham mê chơi diều. Tiếng sáo diều u u suốt ngày đêm làm Quất choáng váng. Tất cả là tại cái vở chèo tự biên của thằng Đô đã làm hại Quất. Đô! Mày đã làm hại dượng mày. Bây giờ ngồi ở xó nhà, tiếng sáo diều của anh em thằng Bức, cháu lão Kình lại hành hạ Quất. Ngày xưa Quất đã hung hăng đốt đi chiếc diều đại tướng mang sáo "bi bi" của ông cháu lão Kình nên bây giờ ông cháu nó mới có dịp trả thủ Quất. Lão Kình hồi này bỗng dưng lại khỏi hẳn bệnh câm nhưng hai mắt thì kém nhèm không đi lại được. Suốt ngày lão ngồi ru rú trên giường chỉ huy khích lệ hai anh em thằng Bức làm chiếc diều rõ to đeo sáo "bì bì", hễ có dông to hai anh em thằng Bức lại vác diều ra buông và điều chỉnh dây cho chiếc diều đứng vào giữa nóc nhà Ngô Quất mà réo. Quất tức mà không làm gì được đành chửi đổng. Bọn trẻ thấy vậy càng thi nhau thả diều vào nhà Quất. Có ngày Ngô Quất ngửa cổ lên trời thấy năm, sáu chiếc diều reo réo trên đầu. Cứ mỗi lần trời có gió lộng y rằng Quất phải lỉnh đi lang thang ở đâu cho yên thân. Về tới nhà là nghe tiếng sáo diều reo réo không sao chịu nổi. Đêm đến Quất uống thật nhiều rượu cho say khướt để ngủ đi mới yên. Ngủ đi là quên hết sự đời. Nhưng ngủ mãi, tan men rượu Quất lại thức. Đã thức lại phải nghe tiếng sáo diều ro ro, bi bi, bô bô loạn lên bên tai chỉ muốn vác dao chặt đứt phăng tất tật các dây diều trong làng. Nghĩ vậy nhưng Ngô Quất lại sợ cái thân hình lực lưỡng với bộ mặt lì lợm hung tợn của hai anh em thằng Bức. Chúng mà bắt được Quất chặt dây diều của chúng thì chúng tùng xẻo. Thời bây giờ Quất không còn được tung hoành như cái thời Quất đã phát minh ra sáng kiến xử tử bố thằng Bức bằng phương pháp "gầu sòng" để tiết kiệm đạn. Hết rồi. Thời của Ngô Quất đã hết, Dù sao lúc này Quất cũng thấy ân hận. Quất tợp một chén rượu nữa và tai Quất lại vang váng tiếng sáo diều. Thời tiết này lại có dông to mất thôi. Ăn cơm tối xong, Quất ngồi lặng giữa nhà xỉa răng nhìn con Hà thu dọn bát đĩa. Đô háo hức mặc áo quần chuẩn bị đi đâu đấy. Con mực đang nhai rau ráu mẩu xương thừa chợt lao ra ngõ sủa váng lên. Dưới bóng trăng Ngô Quất nhận ra bóng con Nga lấp ló bên gốc nhãn.
- Mày đi đâu đấy. Đô! - Giọng Quất rầu rầu hỏi.
- Dạ, con đi tập văn nghệ.
- Lại văn nghệ. Tối nào cũng văn nghệ. Mày nên nhớ rằng đời tao đã nhục về ba cái trò văn nghệ đấy.
Mặc cho dượng Quất nói, Đô lao ra ngõ. Đối với Đô và Nga, làng Nguyệt Hạ đêm nay lung linh mới mẻ khác thường. Mặt ao đình vẫn sóng sánh ánh trăng như buổi tối năm nào Đô đứng cô đơn bên gốc gạo nhìn bà Nghĩa tập chèo trên sân đình. Con cừ giữa, dấu tích của tội ác thời Vũ Bách Thiên và Đinh Tử Túc giờ đây như một dải  lụa bạc vắt qua cánh đồng. Gió cứ lộng lên. Trên mặt đê hai bóng người chấp chới. Đô và Nga đã nhận ra hai anh em Bức đang vác diều ra buông. Đúng là lộng dông thật. Hai đứa dắt nhau chạy xuống bến đá. Dòng sông cái lấp loáng ngập tràn ánh trăng. Những mảng bèo tây lềnh bềnh theo gió trôi dạt vào bến.
- Ôi! Đúng như chúng mình dự đoán. Nhiều lắm, tha hồ mà vớt đến sáng cũng không hết.
Đô reo lên, cởi phăng quần áo lao xuống sông. Những dây nước tung lên sáng bạc. Mặt sông khẽ chuyển động, nước trào lên bến đá lép bép. Đô dang hai cánh tay gạt những cánh bèo tây ôm vào lòng quăng lên bờ cho Nga chất thành từng đống.
- Ấy, khẽ chứ không ướt hết áo em rồi đây này.
- Tiếng Nga thánh thót trong đêm. Đôi trai gái háo hức vừa vớt bèo vừa nô giỡn ngắm nhìn nhau cười rúc rích. Gió cứ lộng lên, sóng lách rách vỗ vào bến đá. Trong làng, tiếng sáo diều vẳng lên. Và đố ai biết lòng ai cũng đang rộn rạo xốn xang. Đô thấy Nga lúc nào cũng tuyệt vời. Thân hình mềm mại của Nga cứ nhảy nhót trước mặt anh. Và Nga cũng thấy Đô thật kỳ diệu, bóng anh chờn vờn nhấp nhô trên mặt nước sóng sánh những cánh bèo tây lảng bảng trôi theo gió.
- Nga ơi! Xuống đây với anh?
- Em ứ xuống đâu, sợ lắm.
- Không sợ, đã có anh bảo vệ...
- Anh Đô ơi, có gió to đấy, về thôi, được nhiều lắm rồi, sáng mai mang xe cải tiến sang chở.Hôm nay mẹ bị ốm em phải về...
Hai đứa long tong về tới ngõ nhà Đô giữa giây phút bịn rịn Nga cầm lấy cổ tay Đô giọng như lạc đi:
- Anh Đô, về thay quần áo, sang em bảo cái này - Nga chưa nói hết câu đã bỏ chạy. Lòng rạo rực lâng lâng. Nga chạy về nhà.
- Con đi đâu về đấy, Nga?
Tiếng mẹ từ trong nhà vọng ra.
- Mẹ ơi, có dông to lắm, con tranh thủ vớt được bao nhiêu là bèo. Bèo tây nhiều vô kể, tha hồ mà vớt, mẹ đã đỡ chưa mẹ?
- Cũng thấy đỡ chút ít.
- Vậy còn một gói thuốc nữa, con sắc nốt cho mẹ uống nhé.
Nga vào buồng thay quần áo rồi khấp khởi xuống bếp nhóm lửa sắc thuốc cho mẹ. Ánh lửa loé sáng cả gian bếp làm mấy chú gà con khẽ rinh rích nép vào cánh mẹ. Nga đăm đăm nhìn vào ngọn lửa nhỏ tí tách cháy và tưởng tượng ra lúc này có lẽ Đô đang háo hức chuẩn bị đến với mình. Có lẽ anh đã ra đến đường làng, ngang ngõ nhà cụ Kẹo, sắp qua ngõ nhà anh Bức, nhà ông Đông... Biết đâu anh đã vào tới ngõ nhà Nga, có thể anh đang đứng ở gốc cau như mọi khi. Nga nghĩ thế và quay người ra sân. Ánh trăng vằng vặc lấp loá trên ngọn cây. Anh chưa đến. Có lẽ bây giờ anh mới bắt đầu ra ngõ... Và cuối cùng rồi Đô cũng đến. Nga không biết anh đến từ lúc nào đứng sững sau lưng Nga im lặng.
Sự im lặng lúc này thật kỳ diệu, cũng giống như ngọn lửa kia đang nóng bừng lên trong trái tim Nga.
- Em sắc thuốc cho mẹ.
Nga nói và nhìn vào mắt anh. Gương mặt anh hồng rực bên bếp lửa. Chiếc vòng bạc lúc nãy Nga bỏ vào trong túi áo bây giờ như có phép lạ làm trái tim Nga thổn thức. Toàn thân cô run lên. Nga liên tục cho tay vào túi vân vê chiếc vòng một lúc rồi rút tay ra, rồi lại cho tay vào túi áo. Cứ mãi như thế mà Nga không sao hiểu được cái điều muốn nói, cái điều mà Nga đã nghĩ kỹ. Nga đã nghĩ từ lâu lắm rồi. Chiếc vòng này, Nga chỉ dành cho anh.
Ngoài anh ra Nga không hề nghĩ đến ai khác. Ôi anh đến là ngốc... Sao anh lại ngốc đến vậy. Nga chỉ nghĩ đến anh. Nga chỉ dành cho anh. Nga lặng lẽ đưa chiếc vòng ra trước mắt anh Chiếc vòng bằng bạc, nho nhỏ xinh xinh sáng lấp lóa trước ánh lửa hồng. Nga run rẩy cầm tay anh. Bàn tay anh cũng đang run rẩy. Cô đặt nhẹ chiếc vòng vào giữa lòng bàn tay anh...
Hai đứa cứ ngồi lặng yên không nói được lời nào. Hạnh phúc lớn lao quá và thiêng liêng quá. Họ nhìn vào ngọn lửa cũng đang run rẩy trên bếp. Cần gì phải nói. Chiếc vòng đã nói lên hết tất cả...
Đêm làng Nguyệt Hạ trong veo, vi vút tiếng sáo diều.
CHƯƠNG 5
Vào tuổi chín mươi bảy, đầu óc lão Kình vẫn còn minh mẫn lắm. Lão chỉ mắc bệnh mắt kèm nhèm quá nên bây giờ phải ngồi ru rú trên giường suốt ngày suốt đêm. Người ta thấy lão bị câm mất một dạo, vác gậy đi lung tung khắp làng, lão câm từ ngày người con trai độc nhất của lão bị treo cổ theo phương pháp "gầu sòng" của Quất.
Lão đau đơn nhìn ba thằng cháu - thằng cả Lạnh, thằng Mát, thằng Bức mồ côi bố và người con dâu goá chồng tên là Bông. Mụ Bông goá chồng đã có ba đứa cháu gọi bằng bà rồi nhưng vẫn còn đỏm dáng lắm. Những lúc mụ mặc chiếc áo cánh trắng, đi đôi guốc, cặp mông còn nhún nhẩy. Đã có dạo mụ còn được chọn ngồi bàn tướng trên sân cờ cùng với mẹ cái Nga. Còn lão Kình bây giờ nghe mọi người chúc mừng lão khỏi bệnh câm. Lão vờ câm bởi lão coi khinh thời cuộc - Cái thời nhiễu nhương mở miệng ra phí lời. Lão ngồi ru rú trên giường vậy mà uy quyền của lão trong gia đình này còn lớn lắm. Lão như con ma xó ngồi góc nhà mà biết mọi chuyện trong làng ngoài xã. Lão ngồi đấy mà tưởng tượng ra rõ mồn một cái thế giới này, thế giới loài người mà lão sống và đúc kết được bằng cả cuộc đời lão. Từ thuở lên mười xa xưa lão đã biết mơ mộng, ham muốn mọi thứ, say mê mọi chuyện. Nét độc đáo nhất ở lão là thú chơi diều. Lão có thể đứng hàng giờ liền ngửa cổ lên trời nhìn ngắm cánh diều của mình. Bây giờ mắt lão kém, có người lại bảo lão ngắm diều nhiều quá. Cứ như lão, cái sướng nhất của con người ta sống trên đời này là khi ngủ với vợ được nghe tiếng sáo diều và khi chết được nghe tiếng kèn và tiếng trống cà rùng. Lão thường phân tích cho con cháu hiểu rõ mọi âm thanh của tiếng sáo diều các loại. Diều nhỏ, sáo nhỏ, diều lớn, sáo lớn. Sáo "ro ro" nghe thánh thót trong những ngày gió nhẹ. Sáo "bì bì" nghe trầm vang như tiếng cồng. Lão được phong chức " vua diều " trong ngày hội thi diều của làng Nguyệt Hạ. Năm ấy lão làm chiếc diều 12 thước to như con thuyền ngoài sông cái. Cánh diều phất bằng một lớp vải màn ở giữa hai lớp giấy bản, bên ngoài nhuộm nâu tím lịm, lão khoét sáo bì bì to bằng bắp đùi. Các lão làng bái phục nghệ thuật khoét sáo diều của lão. Nhìn bộ sáo lục thanh (sáu âm) của lão là cả một công trình điêu khắc tài hoa. Trong các vụ diều, lão chỉ gờm mỗi bố thằng Đô. Nhưng khi bố thằng Đô mất thì lão giành chức vô địch mấy năm liền. Lão đánh thó được bí mật khoét miệng sáo của bố thằng Đô. Nghĩa là muốn đoạt chức vua diều phải nắm vững mấy yếu tố cơ bản: Trọng lượng của diều và dây phải nhẹ, không thấm nước. Lão làm miệng sáo bằng gỗ vàng tâm vừa nhẹ vừa dai, tiếng lại ấm. Ống sáo lão tước hết cật cho nhẹ. Dây diều lão vót bằng tre, tròn như chiếc đũa, vừa bền vừa không thấm nước, lão Kình còn có tài nghe tiếng sáo diều đoán được thời tiết, đoán được trời đổi gió. Cái thú vị của nghệ thuật chơi diều là như vậy. Vinh quang của lão Kình đoạt chức vua diều lẫy lừng như thế, đùng một cái, tiên sư thằng Ngô Quất lại ban ra cái lệnh cấm người sống chơi diều, cấm người chết không được nghe trống cà rùng. Đã thế Ngô Quất còn đốt của lão chiếc diều 12 thước - chiếc diều đem lại vinh quang cho đời lão.
Bây giờ thì lão hả dạ vì Ngô Quất đã thất thế. Lão sướng rên vì chính trò chơi diều mà lão trả thù được Ngô Quất, lão khuyến khích ba thằng cháu cứ nhằm giữa nóc nhà Ngô Quất mà thả diều. Trả thù như thế mới sướng, trả thù bằng nghệ thuật thả diều mới  đau hơn hoạn. Dù có trả thù được Ngô Quất nhưng lão Kình vẫn thấy tiếc cái thời gian hoàng kim của lão. Bây giờ thì lão đã quá già không sao dựng lại cái thời của lão, mà các cháu thì kém cỏi quá. Lão ca thán rằng đất cát ngày một xấu đi, con người ngày một hư hỏng. Thánh thần mất linh thiêng. Ma quỷ cũng sinh ra lười biếng hèn nhát, lão thắc mắc không hiểu con ma chuyên trừng phạt kẻ ác hồi này cũng biến đi đâu mất, sao không về trị tội tay Ngô Quất. Buồn cho giống người hình như mỗi ngày một bé đi, quắt queo lại và ngu dốt quá thể, lười biếng quá thể. Trong tâm trí lão bây giờ luôn hình dung ra lớp cụ tổ làng Nguyệt Hạ xưa ai cũng to cao lực lưỡng, tính cách mạnh mẽ, trung thực và tình yêu cũng đam mê mãnh liệt...
Càng nghĩ lão Kình càng uất ức Ngô Quất và thương thằng con trai độc nhất của lão bị chết oan nên nhà lão mới bị tiêu gia bại sản. Nhà lão Kình xưa cũng phong lưu lắm chứ. Lão có hẳn một con thuyền do thằng con trai lão cầm lái đi buôn đồ đá, trục đá, cối đá và tảng đá tròn lót chân cột nhà, cột đình, cột chùa, đá tảng vuông bán cho các đám cưới làng Nguyệt Hạ mua và lát đường theo tục lệ. Có dạo thằng con lão buôn toàn đồ sành: Ang sành, vại sành, chum sành. Có dạo lão lại toàn buôn đồ đất: Nồi đất, ấm đất. Cũng tại cái thời thế nhiễu nhương lắm cướp trên sông, nên thằng con lão mới thủ một khẩu súng và một băng đạn trên thuyền, bị Ngô Quất bắt được quy tội làm Quốc dân Đảng và bị treo cổ. Thằng con lão mà sống thì bây giờ gia đình lão chả đến nỗi thua kém bất cứ một gia đình nào ở làng Nguyệt Hạ.
Lúc này lão ngồi rung đùi trên giường nghe tiếng sáo diều vang lên phía nhà Ngô Quất, đầu óc lão minh mẫn hẳn lên. Lão đoán thời tiết này có dông to. Lão quay sang hỏi vợ lão cũng đang ngồi thu lu ở giường bên cạnh:
- Bà thấy thằng Bức đi đâu rồi?
- Cu ơi... cu! - Bà lão cất tiếng gọi, đứa con lớn của thằng cả Lạnh long tong từ đâu chạy về khoanh tay cúi đầu đứng trước bà lão.
- Bẩm cụ gọi cháu có việc gì ạ?
- Chú Bức mày đi đằng nào hả?
- Bẩm cụ, chú Bức đang đánh gốc tre ngoài ngõ ạ.
- Gọi nó về đây cho cụ ông gặp. Mau lên.
Thằng bé lại long tong chạy ra cửa. Loáng sau Bức đã trần trùng trục lưng bóng nhẫy mồ hôi bước vào khoanh tay trước lão Kình:
- Bẩm ông gọi cháu ạ?
- Nóc nhà tay Ngô Quất hôm nay có mấy diều hả?
- Bẩm ông có bốn chiếc ạ. Hai chiếc "bì bì", "bô bô" của nhà ta, hai chiếc "ro ro" của nhà Tường nhà Mộc ạ.
- Này, ông bảo trời này có dông to đấy, sang bảo nhà Tào, chuẩn bị diều buông...
 
Cả cuộc đời, nay là lần đầu tiên Ngô Quất thực sự thành tâm tin vào những điều bí ẩn của thánh thần mà trước kia y cho là nhảm nhí. Mấy năm nay cứ đến ngày giỗ bố, lòng Quất lại thấy nhói lên khi nghe tin hai ông anh ở làng Gồi làm giỗ bố to lắm mà hắn không dám về. Nhưng đến ngày giỗ bố năm nay thì Quất phải về... Quất sẽ phải quỳ phục dưới chân hai ông anh mà xin van hãy đón nhận lấy Quất, một đứa con tội lỗi lạc loài khốn khổ được về lạy vong hồn xin bố hãy tha tội cho Quất. Quất run run cắm ba nén hương vào bát hương trên ban thờ mà Ngô Quất mới lập từ ngày rời khỏi cơ quan huyện. Quất đứng trang nghiêm đăm đăm nhìn ba nén hương đang cháy. Quất thấy trong cõi linh thiêng nhấp nhoáng hiện lên một ảo ảnh làng Gồi xa xưa nghèo đói xơ xác, bóng bố mẹ Quất khoác áo tơi tay xách bồ đi lang thang như những bóng ma trên các gò mả nhặt từng bãi phân về bán lấy tiền nuôi Quất. Quất vụng dại quá, Quất ngu dốt quá. Vào tuổi này rồi mà Quất vụng cả việc khấn vái. Thì cả đời Quất đã bao giờ khấn vái ai. Quất lẩm nhẩm khấn lung tung:
- Con tên là Quất, họ Ngô, sinh ở làng Gồi, bây giờ là rể làng Nguyệt. Con đã có tội, tội to lắm. Tý nữa con sẽ đi chợ sắm lễ xin phép hương hồn bố mẹ cho con được về Làng Gồi thắp nén hương trên bàn thờ gia tiên, nam mô a di đà phật...
Ngô Quất khấn xong, đứng lặng một lúc rồi vào buồng lục hòm còn vài chục bạc nhét vào túi áo. Ngô Quất cảm thấy yên tâm, cuộn chiếc túi bạt cắp vào nách, khoá cửa, lập cập bước ra đường làng. Từ ngày thôi sinh hoạt Đảng, Quất chả ló mặt đi đến đâu. Quất vừa ngượng vừa buồn, vừa tức vừa đau khổ. Gặp người trên đường Quất không dám nhìn vào mặt ai. Vào chợ, Quất mua hương, trầu cau và một chai rượu với hai cân gạo nếp cho cả vào trong túi rồi lập tức bước ra khỏi chợ. Lòng thấy nôn nao khi Quất bước  tới con đường về làng Gồi. Từ lâu lắm Quất không về làng, cây cối nhà cửa khác lạ hẳn. Hồi còn công tác, bất đắc dĩ có công việc Quất mới phải về làng nhưng vẫn cố tình tránh gặp người trong gia đình mình. Mấy đứa cháu con hai ông anh, Quất cũng không biết mặt. Đã một lần Quất về làng gặp một thằng con trai, Quất nhìn nó, nó vênh váo nhổ toẹt một cái rồi bỏ đi. Lúc ấy Quất mới giật mình và hiểu ra chính nó là con ông anh cả. Lúc này Quất đã tới cổng nhà mình mà vẫn ngập ngừng ngỡ như nơi nào đó xa lạ. Vẫn  mặt ao bèo loang lổ ngày nào ba anh em Quất thường nhảy ùm xuống lặn ngụp đuổi bắt nhau. Vẫn lối ngõ xưa Quất thường hờn dỗi bắt hai anh tối tối dắt đi đón bố mẹ về muộn. Chính nơi đây, nơi của tình thương yêu máu thịt, nơi người mẹ đã mang thai chín tháng mười ngày đẻ ra Quất. Và chính nơi đây cũng là nơi hận thù chồng chất, nơi Quất đã gây nên những tội ác khủng khiếp với dân làng, với bố mẹ anh em. Quất bỗng trào lên nỗi tủi hổ xót xa...
Trong nhà, ngoài sân người trong gia đình Quất đi lại tấp nập khói hương thơm ngát. Trên nền ngôi nhà cũ xưa, các anh Quất đã làm lại ba gian nhà tranh, tường trình bằng đất nom thấp tè. Dấu tích một thời vàng son của gia đình Quất chỉ còn lại bức tường dậu đổ nát trước cửa, rêu phủ loang lổ và cái bể nước bị sập nắp trống hoác nứt nẻ chứa đầy lá rụng.
Ngô Quất đứng lặng đi trước ánh mắt ngạc nhiên của tất cả gia đình họ mạc. Ông anh cả của Quất tóc đã bạc trắng da xạm đen, nỗi cực nhọc hiện rõ trên khuôn mặt khắc khổ. Từ hốc mắt hõm sâu của ông phóng về phía Quất một cái nhìn sắc lạnh ghê người. Mọi ý nghĩa trong đầu Quất bay biến. Ông anh thứ hai từ trong bếp ra đứng sững lại một lúc rồi bước tới trước mặt Quất với vẻ dửng dưng, giọng sắc như dao cứa.
- Xin lỗi, ông là ai? Ông cần gì?
- B...ác... Bác tha lỗi cho em. Hôm nay là ngày giỗ bố....
Quất líu lưỡi nói không ra hơi.
- Ông lầm nhà rồi - lại cũng giọng sắc lạnh của ông anh cả cất lên - Gia đình tôi, họ tộc nhà tôi không có người nào như ông. Bố mẹ tôi cũng không đẻ ra người con nào như ông. Gia đình nhà chúng tôi hôm nay có việc, mời ông đi cho... đi khỏi đây ngay bây giờ, đi đi, đi...
Lời xua đuổi vang lên. Mọi ánh mắt ghẻ lạnh chiếu thẳng vào mặt Quất. Người Quất co rúm lại. Quất hoảng loạn bỏ chạy. Con chó vàng đang nằm ở cạnh bếp giật mình phóng ra ngõ đuổi theo Quất. Quất vừa chạy vừa ngoái lại giơ chiếc túi bạt lên doạ chó. Con chó vàng nhảy chồm chồm ngửa cổ lên sủa váng một góc làng Gồi.
Về tới nhà Quất bật luôn nút chai rượu tu ừng ực. Mọi vật ngả nghiêng quay cuồng. Tiếng sáo diều vang váng nhức nhối bên tai Quất. Quất lục sục đi tìm con dao. Con dao phay Quất mới mài hôm qua còn sắc lẹm, lưỡi sáng loáng gài trên vách liếp. Quất rút con dao đánh soạt một cái, đẩy cửa bước ra đứng giữa sân ngửa mặt lên nhìn trời, một, hai, ba, bốn, năm, sáu chiếc diều lấp loá chao liệng réo réo giữa đỉnh đầu Quất. Mặt trời chói chang loé lên trăm ngàn tia sáng lấp lánh. Nắng rừng rực, người Quất chếnh choáng. Vác dao lần theo đường dây diều đi tắt qua các vườn sang nhà lão Kình, Quất nhìn thấy hai vợ chồng lão Kình ngồi thu lu mỗi người một giường như hai bóng ma. Bà lão vừa nhìn thấy Quất chợt kêu rú lên. Quất xông tới giường lão Kình tóm chặt lấy cổ tay lão.
- Đồ đểu! - Quất hét vào tai lão Kình.
Lão Kình cười khà khà vờ như điếc ghếch cặp mắt kèm nhèm lên nhìn Ngô Quất.
- Anh Quất đấy phỏng, hì hì, mời anh ngồi xuống đây. Tôi cũng đang muốn nói chuyện với anh đây.
- Vậy là hồi này ông khỏi câm rồi hả?
- Lão khỏi rồi, lão đang ngứa miệng thích nói đây. Lão muốn nói bù cho những ngày lão câm không nói được. Đừng tưởng lão mù mà coi thường lão. Lão mù  mà lão lại biết hết mọi chuyện, hà hà.
- Lão biết gì? Lão già rồi mà còn chơi đểu. Lão trả thù tôi. Này, tôi nói thật cho lão biết nhá, thằng Quất này không chịu nổi bởi những âm thanh nheo nhéo suốt ngày đêm của lão đâu nhé. Thằng Quất này sang đây cốt để trị tội lão...
- Ấy, anh đừng nóng. Câu ấy, lẽ ra anh phải để cho lão nói anh mới đúng. Ai, ai có tội hả Quất? Ai - Lão Kình bỗng hét lên - Ai đã giết con tao? Ai đã làm thằng Lạnh, thằng Mát, thằng Bức không có bố, ai đã làm cho đời con Bông goá bụa? Ai, hả Quất? Từ bao năm nay tao đã phải câm lặng không thèm hỏi tội mày mà bây giờ mày còn dám vác mặt sang đây hỏi tội tao. Rõ là ngược đời, há há, ngược đời đấy.
Lão Kình nửa cười nửa khóc. Cặp mắt kèm nhèm của lão ngân ngấn nước có những cục gỉ đùn quanh mí mắt. Lão đưa tay nắm chặt lấy bàn tay Quất, giọng lão dịu lại.
- Anh Quất này, lão cũng chẳng muốn nhắc lại chuyện cũ làm gì. Những gì đã qua, lão cho qua. Anh đã đến đây thì ngồi lại đây lão có câu chuyện hệ trọng muốn nói với anh. Đã bảo là lão tuy mù nhưng lão biết rõ mọi chuyện. Lão biết rõ những ý nghĩ của anh. Anh đang buồn khổ, đang cô đơn, có đúng thế không nào?
Quất giật tay ra khỏi bàn tay lão Kình.
- Ấy, anh Quất, lão nói vậy không đúng sao. Lão muốn cứu giúp anh, lão đang có ý định giúp anh thật mà...
- Lão suốt ngày ngồi xó nhà này thì có giúp gì được ai?
- Hu hu hu! - Lão Kình ho khan một hơi rồi nói - anh lại coi thường lão già này rồi. Lão nói cho anh biết, lão sống sắp tàn cuộc đời rồi, nhưng lời lão nói chỉ có đúng. Hãy nghe lão hỏi đây. Nhưng anh phải trả lời thành thực.
- Lão cứ việc hỏi.
- Đến giờ phút này, anh đã thấy anh ngu chưa?
- Đúng, tôi ngu.
- Chính cái ngu của anh đã làm đời anh khổ?
- Đúng thế.
- Bây giờ anh có muốn sướng không?
- Làm người ai chả muốn sướng.
- Bây giờ anh có muốn khôn ra không? - Lão Kình chộp lấy tay Quất - Lão sẽ làm  anh sung sướng và khôn ra. Anh không tin sao? Đây, lão có cái này... Chỉ có thứ này mới làm cho con người ta khôn ra, chỉ có thứ này mới làm cho người ta sung sướng.
Lão Kình vừa nói vừa vén áo lấy từ trong cạp quần ra một túi nhỏ giơ lên ngang mặt xóc xóc, tiếng kim loại rộn rạo. Lão Kình cười nhăn rúm cả khuôn mặt già xọm.
- Anh có biết cái gì đây không? Tiền đấy. Tất cả là bảy trăm đồng. Lão đã tiết kiệm cả đời lão mới được ba trăm đồng, còn bốn trăm đồng là tiền của thằng con trai lão đi buôn đồ đá, đồ sành, đồ đất mà lão còn giữ được. Lão không dám tiêu một xu, mặc dù nhà lão đôi khi còn phải ăn cháo. Thằng Lạnh, thằng Mát, thằng Bức vẫn phải đi đào gốc tre để bán.
Lão Kình tóm lấy bàn tay Quất đặt đánh chát gói tiền vào giữa lòng tay Quất.
- Đúng bảy trăm đồng không thiếu một xu. Tôi tin là anh sẽ sung sướng và khôn ra khi có trong tay những đồng tiền này.
- Lão cho tôi? - Mặt Quất nghệt ra ngây ngô nhìn lão Kình.
Lão Kình cười phá lên, nước mắt nước dãi ứa ra. Tiếng cười của lão Kình lạnh như tiếng cười của ma quỷ làm Quất bối rối.
- Đã được cầm đồng tiền trong tay mà anh chả khôn ra được bao nhiêu - Lão Kình lại quờ quạng tìm bàn tay Ngô Quất - Anh ngu lắm, mãi mãi là thằng ngu. Ở đời chẳng có ai cho không ai cái gì đâu nhá, nhất là tiền. Những đồng tiền đây lão phải đổi bằng mô hôi nước mắt, đổi bằng xương máu của thằng con trai độc nhất của lão mới có được.
- Vậy lão cần gì ở thằng Quất này. Lão không biết thằng Quất này đã mất hết, mất hết tất cả, cả quyền chức, danh dự, gia đình.
- Hà hà hay lắm! Thế là anh đã khôn ra được tý đấy. Lão mách cho anh biết rằng anh còn một thứ quý hơn vàng.
- Thứ gì?
- Chiếc vòng bạc của thằng Đô. Có đúng là con Nga đã trao vòng cho thằng Đô. Đúng không? Hãy bán cho lão. Chiếc vòng đó chỉ đáng giá bảy chục nhưng lão mua tới bảy trăm. Anh biết lão mua để làm gì không? Trước hết là vì anh đấy. Anh có biết cái nguyên nhân mà anh ghẹo con mụ Nghĩa bị nó lu loa lên không. Chính vì con Nga nhà nó yêu thằng Đô nhà anh nên nó phải từ chối anh. Nó vờ mài dao soàn soạt cả đêm để dọa anh. Nó vờ lu loa ra vẻ ta là người tiết hạnh. Thực ra nó cũng khoái anh bỏ mẹ. Gái goá  lâu ngày ngứa nghề phải biết. Bây giờ anh cứ bán béng chiếc vòng cho tôi để tôi cưới con Nga cho thằng cháu Bức nhà tôi thì mọi chuyện đều tốt đẹp. Anh sẽ dễ dàng lấy được mẹ con Nga. Con Nga sẽ về làm dâu nhà này. Thằng Đô nhà anh sẽ có tiền cưới vợ. Người như thằng Đô thiếu gì đứa trao vòng cho nó. Lão tính thế có lí phải không nào. Lão biết thừa lúc này anh đang cô đơn. Con Nga đi lấy chồng thì con mẹ nó cũng cô đơn. Ôi, cả hai kẻ cô đơn mà tìm đến nhau thì tuyệt vời.
Tôi nói để anh biết rằng không phải ai cũng nghĩ ra được chuyện này đâu. Anh nghĩ kỹ xem, nếu thằng Đô cưới con Nga về thì trước sau anh cũng phải cuốn xéo khỏi căn nhà ấy. Anh nên nhớ rằng anh chỉ là thằng ở rể. Ngôi nhà ấy là của bố mẹ thằng Đô, nó có quyền đuổi anh ra đường. Ôi anh không thể tưởng tượng thằng cháu Bức nhà lão nó mê con Nga đến nhường nào. Đấy, lão chỉ nói có vậy thôi. Lão thấy anh ngu thì lão dạy để anh khôn ra. Không tin anh cứ cầm lấy gói tiền này anh sẽ thấy.
Lão Kình lại vồ lấy gói tiền trên tay Quất nhét vào túi Quất. Quất lặng lặng đứng dậy. Quất liếc mắt nhìn vợ lão Kình, lão Kình vẫn ngồi lặng câm như một bóng ma trên giường, hai dòng nước mắt nhoè lên hai gò má nhăn nheo xương xẩu. Quất bước ra đường làng, bỏ quên cả con dao ở nhà lão Kình. Gió lộng lên phơi phới. Gói tiền lọc xọc trong túi áo làm Quất tỉnh ra thật.
Đúng là lão Kình phải tiết kiệm cả đời mới com cóp được chừng này xu. Mỗi ngày một trinh, mười ngày một xu, một trăm ngày mới góp được một hào, ái chà chà. Quất lẩm nhẩm và nghĩ rằng lão Kình cũng rõ ngu, lão cũng hão huyền như Quất. Lão mua danh mua vợ cho thằng cháu út mà phải bỏ ra những bảy trăm đồng. Ngô Quất bỗng thấy rạo rực. Đúng là trong tay sẵn có đồng tiền, Quất thấy đầu óc minh mẫn hẳn. Điều này lão Kình nói rất đúng. Lúc này Ngô Quất lại tưởng tượng ra thân hình mẹ con Nga vẫn còn mây mẩy hứng tình ra phết. Đàn bà góa đứa nào chả thế. Mẹ thằng Đô xưa lúc đầu mà chả cành cao cành thấp mãi. Kể ra hôm ấy mẹ con Nga không cầm dao thì Quất cũng ấn được mu ta xuống giường rồi. Giống đàn bà vẫn thế, cương còng đến đâu khi lưng đã xuống giường là êm hết. Hôm ấy Quát hơi nhát gan, nhìn lưỡi dao sáng loáng trên tay mẹ con Nga mà chân tay Quất đã run lên bần bật. Vừa đi Quất vừa tưởng tưởng tới cái đêm  Quất mò sang ghẹo mẹ con Nga. Về tới sân Quất ngửa mặt lên trời. Những cánh diều vẫn chao đảo nghiêng nghiêng trên đỉnh đầu. Quất bỗng nhận ra tiếng sáo diều lúc này lại êm ả dễ chịu đến vậy. Lão Kình nói đúng, thằng Đô mà cưới con Nga về nhà này thì có ngày chúng sẽ đuổi mình ra đứng đường. Quất chỉ là thằng ở rể làng này. Lão Kình nói đúng, con Nga sang làm dâu nhà lão Kình, Quất sẽ dễ dàng chiếm được trái tim của mẹ nó... Ngô Quất phấp phổng vào buồng lục trong hòm lấy ra chiếc hộp nhỏ bên trong có chiếc vòng bạc. Chiếc vòng nhỏ như đồ chơi của trẻ con chả có ý nghĩa gì đối với Quất. Vậy mà lão Kình trả những bảy trăm đồng. Ngu! Lão Kình rõ ngu trong chuyện này, chính lão ngu chứ không phải Quất. Quất nhét chiếc vòng vào túi tấp tểnh bước ra ngõ. Tiếng sáo diều vi vu bên tai Quất.
CHƯƠNG 6
Trăng đêm nay thật là sáng, bà Nghĩa, mẹ Nga trải chiếu ra hè ngồi hóng mát. Từ cái lần Ngô Quất uống rượu say mò sang gạ gẫm trăng hoa, đêm đêm bà cứ phải mài dao soàn soạt. Lưỡi dao sáng loáng sắc lẹm, gương mặt bà đanh lại. Nhưng tối nay bà thấy vui vì biết Nga đã trao vòng cho Hoàng Đô. Bà thôi không phải mài dao doạ Ngô Quất nữa. Sau trận ốm dậy, Nga thấy mẹ gầy rộc đi, đôi mắt luôn ánh lên nỗi âu lo. Lúc này Nga ngồi hý hoáy khâu gối trong nhà lắng nghe mẹ khẽ khẽ hát. Từ ngày mẹ bị ốm, nay Nga mới lại được nghe mẹ hát câu hát quen thuộc: "Ai làm cho bướm lìa hoa í i - cho chim xanh lỡ bay qua vườn hồng í i - Ai đi muôn dặm non sông để ai chứa chất sầu đong vơi đầy..." Câu hát của mẹ đã gieo vào lòng Nga nỗi buồn da diết suốt cả quãng đời thơ ấu. Nga thấy mẹ cứ đeo đẳng câu hát này mãi suốt cả cuộc đời. Bỗng tiếng hát tắt lịm giữa chừng. Dưới ánh trăng vằng vặc, Nga ngỡ ngàng nhận ra cô Bông mặc áo cánh trắng, đi guốc, đầu đội một thúng nặng ưỡn ẹo bước vào sân, theo sau là ba người con trai của cô Bông, anh Lạnh, anh Mát và Bức.
- Mấy mẹ con em có lời chào bà Nghĩa - giọng cô Bông như hót lên. Anh cả Lạnh đỡ chiếc thúng trên đầu cô Bông đặt xuống thềm - thật là may mắn cho mẹ con em tối nay ra ngõ gặp trai. Bà chị biết mẹ con em gặp ai không! Thằng cu Tũm hí hí... nhà thằng Tũm mấy năm nay làm ăn lên như diều. Cô Nga đi đâu hả bà?
Cô Bông vừa đi vừa liếc mắt vào trong nhà. Nhìn thấy Nga giọng cô Bỗng như reo lên:
- Ối ối! Cô Nga kín tiếng quá, mẹ con tôi có lời chào cô. Mời cô ra ngồi cho mát để mẹ con tôi thưa câu chuyện. Thưa bà chị, thưa cô Nga, đúng là trời hôm nay rất trong, trăng rất sáng, mẹ con em sắm cái lễ sang dâng tổ tiên nhà ta xin phép bà chị, xin phép cô Nga cho thằng cháu Bức nhà em được làm con cái gia đình ta đây...
Mẹ Nga ngồi lặng, ngơ ngác. Nga sửng sốt nhìn ba anh em Bức đứng trơ giữa sân. Hai ông anh Bức, cao lớn vênh vang ngửa mặt lên trời ngắm trăng nhìn nhau cười, Bức có vẻ e thẹn khép nép đứng bám lấy người anh cả thỉnh thoảng lại len lén nhìn Nga. Nga quăng mảnh áo gối đang khâu dở xuống giường chạy ra cửa, đứng sát bên mẹ. Vầng trăng tròn chơi vơi. Những ngôi sao trên trời cứ loé lên run rẩy.
- Mẹ! - Nga thảng thốt kêu lên - Mẹ hãy nói gì với người ta đi mẹ. Con đã trao vòng cho người khác rồi.
- Thưa bà và ba anh - Mẹ dè dặt nói - đúng là cháu Nga nhà tôi năm nay cũng đã tới tuổi lấy chồng. Dù sao thì gia đình tôi cũng phải giữ phong tục trao vòng của làng ta có từ ngàn xưa, tuy thời bây giờ có đổi mới nhưng đã có ai trong làng Nguyệt Hạ này dám bỏ đâu ạ. Dù cuộc sống của mẹ con tôi có gặp trăm nỗi long đong nhưng tôi vẫn còn giữ được chiếc vòng gia truyền. Tôi đã trao cho cháu Nga hai năm nay để cháu tự chọn lựa bạn đời. Tôi ngẫm thấy cha ông ta nghĩ ra cái tục lệ trao vòng ấy thật là hay đấy bà nhỉ. Nó vừa giải phóng cho con cái tự do tìm hiểu, vừa khuyên răn lòng thuỷ chung son sắt nghĩa tình.
- Bà chị nói thật chí tình chí lý đấy ạ - Mẹ Bức cười rõ tươi, ba anh em Bức cũng cười rõ tươi - Em cũng thấy là cái tục lệ của cha ông ta đặt ra là đúng lắm chứ ạ. Các cụ dạy là cấm có sai điều nào. Em mời bà chị xơi trầu đi - Mẹ Bức đặt cơi trầu vào tay mẹ Nga, cao giọng gọi - Bức đâu? Con hãy đem trình bà Nghĩa chiếc vòng cầu hôn mà cô Nga đã trao cho con. Con hãy quỳ xuống và nói lời thề ông con đã dạy. Đừng ngại, quỳ xuống đi con. Thế thế...
Bức run rẩy lấy từ trong túi ra chiếc vòng bạc quỳ xuống trịnh trọng đưa hai tay dâng lên trước mặt mẹ Nga chiếc vòng bạc sáng bóng. Dưới trăng suông, chiếc vòng bạc loé sáng lấp lánh. Nga rùng mình nhận ra những chiếc răng trong khoé miệng của mẹ Bức, cả hai người anh trai Bức cũng sáng loé lên. Đúng là chiếc vòng này Nga đã trao cho Đô bằng cả tấm lòng, bằng cả tình yêu của một đời người con gái trinh trắng....
- Không! Không phải thế. Không phải....
Nga khiếp đảm thét lên cắm đầu lao ra đường làng. Bóng trăng loang loáng. Vẫn vầng trăng trong chới với đuổi theo bóng Nga. Nga chạy sang nhà Đô. Con mực đen chũi trong nhà xông ra xù lông nhảy chồm chồm nhe bộ răng trắng nhởn sủa ông ổng. Nga đứng khự lại giữa sân nhìn con mực căm giận. Trong nhà Ngô Quất ngồi xếp bằng giữa giường uống rượu với thịt gà nghếch cổ lên cho tay vào miệng cạy mẩu thịt gà giắt vào kẽ răng. Nghe tiếng chó sủa dữ dội, Ngô Quất lè nhè chửi.
- Mẹ đứa nào quấy rầy gì đấy hả?
- Con đây, con là Nga đây.
Ngô Quất chập choạng bước ra cửa dậm chân bành bạch đe chó. Con mực cụp đuôi nằm xuống ngếch mõm lên nhìn Nga gầm gừ. Vừa nhìn thấy Nga, Ngô Quất chợt sững lại một lúc rồi phá lên cười. Tiếng cười man dại vang lên trong đêm trăng nghe rờn rợn...
- Con Nga đấy à, mày còn sang đây làm gì. Thằng Đô nó không dám về nhà nữa đâu, nó xéo rồi. Trông đợi nó làm gì cho uổng cái tuổi xuân. Hà hà... còn mày, mày cứ vui vẻ về làm dâu nhà lão Kình cho sướng cái thân. Thằng Bức là út, giàu con út khó con út. Đời nó thế đấy con ạ. Thằng Đô nhà này nó sẽ kiếm đứa khác, làng này thiếu gì con gái...
Ngô Quất đứng trước cửa lè nhè nói mãi. Nga không hiểu lão nói gì. Cô đau đớn bật khóc. Đất trời quay cuồng.
- Mày định ăn vạ tao đấy hả - Ngô Quất quát lên - Cút đi, cút! Mày làm ông uống bữa rượu mất cả ngon.
Con mực hiểu ý chủ, nó chồm dậy sủa khan một hồi. Nga chạy ra ngõ nhìn thấy cái Hà, em gái Đô đang ôm mặt khóc.
- Chị Nga ơi, chị hãy tha tội cho bố em, tha tội cho anh Đô.
Nga bước liêu xiêu trên đường làng khóc âm thầm. Ông trăng trên trời cao không hiểu thấu lòng Nga. Ánh trăng dư thừa hào phóng soi rọi khắp thế gian. Đêm làng Nguyệt Hạ lặng thinh. Hình bóng Đô lởn vởn đâu đây. Mới đêm nào anh còn ngồi với Nga bên bếp lửa Nga cảm động trao vòng cầu hôn cho anh, chiếc vòng bạc, linh hồn của em...
Về tới ngõ, Nga nhìn ngôi nhà mình chông chênh lặng ngắt trong đêm. Nga chao đảo bám hai tay vào thân cau khô ráp thẳng đứng giữa trời đêm. Nga cứ ngỡ nó đã chết đứng từ bao giờ. Nga ngửa cổ lên nghe rõ tiếng chim non khẽ rích rích kêu khan trên ngọn cau. Có lẽ chim mẹ đã bỏ lũ chim con đi đâu? Trong nhà, mẹ Nga đứng chong chong trước bàn thờ bố. Nga chạy vào đứng sau mẹ, nghe rõ tiếng mẹ lầm rầm khấn vái. Lễ trầu cau bên nhà Bức mẹ đã nhận đặt bầy trên bàn thờ, hương khói nghi ngút. Nga ôm lấy mẹ khóc tấm tức. Buồng cau xanh với những trái cau tròn mẩy đầy u lên bên những chồng bánh mật chất đầy trên ban thờ.
- Thôi, đừng khóc nữa con ạ. Vòng cầu hôn của mình người ta đã nắm trong tay - Tiếng mẹ đau như dao cứa - Tục lệ tôn nghiêm của tổ tiên quy định thế. Phải vững vàng mà sống con ạ. Không nhận lễ, mẹ con mình làm cả đời cũng không đủ tiền bồi thường danh dự cho gia đình người ta đâu.
Nga lao lên giường vật vã. Mũi kim dính trên chiếc gối Nga đang khâu dở đâm nhói vào cánh tay Nga như điềm xấu báo cho Nga biết trước về số phận bất hạnh của mình.
Việc gia đình Nga nhận trầu cau của gia đình Bức như một sự kiện lớn loang khắp làng. Hai ngày sau lão Kình cho mua luôn mười viên đá xanh lát đường. Những viên đá xanh được đặt tiếp lên mặt đường làng. Theo tục lệ, người đầu tiên được đặt chân lên những viên đá mới phải là cô dâu và chú rể. Điều ấy mang một ý nghĩa sâu sắc như một nền móng vững chắc cho con đường hạnh phúc của cặp vợ chồng trẻ. Việc cô dâu chú rể dắt tay nhau đặt bước chân đầu tiên lên những viên đá mới, xưa kia còn được hai họ tổ chức thành một nghi lễ long trọng. Cô dâu phải chọn hai cô bạn gái giống như phù dâu, chú rể chọn hai chàng trai giống như phù rể. Cô dâu tay cầm liềm sóng đôi với chú rể vai vác cuốc đi trước, theo sau  là hai cặp phù dâu phù rể. Khi đặt chân lên viên đá mới, chú rể hỏi: "Cô cắt một ngày được bao nhiêu gánh lúa" cô dâu trả lời "Em cắt một ngày được một trăm gánh lúa". Cô dâu lại hỏi chú rể: "Anh cuốc một ngày được mấy sào ruộng" chú rể trả lời: "Anh cuốc một ngày được mười sào ruộng". Nghi lễ rườm rà này mấy năm nay dân làng Nguyệt đã bỏ. Nhưng thủ tục cô dâu chú rể dắt tay nhau bước lên những viên đá mới vẫn được duy trì. Bởi thủ tục này cũng đơn giản như một cuộc hẹn hò của cô dâu chú rể trước ngày cưới. Chỉ còn một ngày nữa, Nga phải bước chân về nhà chồng. Lòng Nga tan nát. Nga ngồi nhà cứ giật mình thon thót nghe tiếng lợn kêu, tiếng dao thớt, tiếng giã giò bên nhà trai vang lên. Bạn bè, Nga không mời ai, Nga để mặc mẹ phải long đong lận đận lo toan mọi việc với họ tộc. Sự đã tới nước này Nga đành nhắm mắt đưa chân. Nga đang nằm thượt trên giường thì chàng rể Bức xuất hiện ở cửa. Ngày còn là trẻ chăn trâu, Bức láu lính, hư đốn nghịch ngợm như quỷ, bắt nạt gây sự với tất cả những đứa trẻ trong làng. Chính Nga cũng đã bị Bức túm tóc đánh mấy bận. Nhưng không hiểu sao, càng lớn Bức càng trở nên lầm lỳ, ngô ngố. Có lẽ do Bức bị khuất phục bởi sự rèn cặp rất nghiêm khắc của lão Kình. Gia đình lão Kình xưa nay có tiếng là nề nếp. Tất cả mọi người trong gia đình từ lớn đến bé đều phải răm rắp làm theo mọi mệnh lệnh của lão. Dưới ánh mắt mọi người, lão là một thủ lĩnh tài ba - một ông vua quyền thế. Quả là lão có cái đầu cực kỳ sâu sắc sáng suốt, tinh khôn, nhìn xa trông rộng. Lão sành sỏi nhạy cảm với mọi công việc trong mọi lĩnh vực làm ăn, quan hệ đối nội, đối ngoại, nhận định thời cuộc một cách chính xác. Ấy vậy mà chàng Bức lại chẳng học được điểm nào của ông nội. Bức có một thân hình lực lưỡng giống như anh cả Lạnh và anh Mát. Bức làm mọi công việc một cách dẻo dai theo sự xếp đặt của lão Kình. Ông bảo đi cày, hắn đi cày, ông bảo đi đào gốc tre hắn đi đào gốc tre, ông bảo đi thả diều hắn thả diều. Và lúc này có lẽ hắn đi sang đây cũng là do ông bảo. Bức cứ đứng ngây đuỗn ở giữa nhà nhìn Nga. Nga nhìn Bức. Có lẽ đây là lần đầu tiên Nga nhìn kỹ vào khuôn mặt người chồng sắp cưới của mình và thấy ớn lạnh. Gương mặt trơn lỳ của Bức không biểu hiện một xúc cảm nào. Nga có cảm tưởng Bức giống như một phiến đá rắn chắc vô hồn. Không đoán được Bức sang đây có việc gì. Nga ngồi bật dậy hỏi.
- Anh cần gì?
- Ông bảo tôi và cô phải dắt tay nhau bước lên những viên đá mới! Cô nên nhớ đây là tục lệ của làng.
Lời nói của Bức cũng rắn như đá khiến Nga không nghĩ ra được câu nào chống đỡ. Nga lặng lẽ bước theo Bức. Ra tới đường làng, trẻ con rồng rắn theo sau Nga và Bức. Không hiểu ai đã dạy hay bọn trẻ tự nghĩ ra những câu vè, vừa đi chúng vừa hát rống lên: "Ve vẻ vè ve - đặt một bài vè - chị Nga anh Bức - giữa mùa nóng nực - cưới nhau vội vàng - Họ hàng nhà nàng - Chẳng ai thèm đến.."  Bức quay lại lừ mắt khiến chúng sợ hãi nín bặt. Đường làng lát hai hàng đá thẳng tắp nhẵn bóng. Bầu trời trong xanh râm ran tiếng sáo diều. Giữa giờ phút này nếu là Đô anh đã nắm lấy bàn tay Nga... và nếu là Đô thì cuộc đời Nga đã tốt đẹp biết bao nhiêu. Gần tới đoạn đường lát những viên đá mới, Bức đứng lại chờ Nga bước lên. Bức tóm cổ tay Nga. Những ngón tay thô ráp cứng như gọng kìm xiết chặt lên da thịt Nga. Vẫn gương mặt trơn tuột. Vẫn ánh mắt lạnh băng. Bàn chân Nga đã đặt lên những viên đá mới:
- Cô cắt một ngày được bao nhiêu gánh lúa?
Giọng Bức vang lên bên tai Nga. Nga im lặng. Mặt Bức vẫn tỉnh bơ. Những ngón tay Bức càng xiết chặt lấy cổ tay Nga. Nga lặng người.
- Cô cắt mỗi ngày được bao nhiêu gánh lúa?
- Trăm gánh! - Nga nói.
- Còn tôi cày mỗi ngày được mười sào ruộng.
Bước qua đoạn đường lát đá, Nga vùng khỏi tay Bức chạy về nhà. Từ mấy ngày nay Nga đã nghĩ cách trốn khỏi làng. Nga có thể đi bất cứ đâu nhưng còn mẹ. Nga thương mẹ. Nếu không vì mẹ, Nga đã vào đoàn chèo chuyên nghiệp của tỉnh theo yêu cầu của Đặng Xuân Tòng, cán bộ phong trào của Ty văn hoá tỉnh. Ôi nếu Nga nghe lời Tòng thì bây giờ đâu đến nỗi này. Nga thấy ân hận nuối tiếc và đau khổ...
Nhưng rồi cái gì đến vẫn cứ đến. Nga vẫn phải làm đúng bổn phận một nàng dâu mới. Trong ngày cưới, bạn bè quây quần lấy Nga mà lòng Nga vẫn cô đơn. Nga làm theo mọi lời chỉ bảo của bạn bè như một cái máy. Nga mơ màng thấy người ta ùn ùn kéo đến đưa Nga về nhà chồng. Toàn những gương mặt quen thuộc của người làng Nguyệt Hạ mà lúc này Nga cảm thấy xa lạ. Nga cứ ngây ra khi tiếng pháo đón dâu nổ dậy ngoài ngõ. Những tiếng cười nói rổn rảng. Những gương mặt nửa say nửa tỉnh. Tất cả, tất cả cứ nháo nhào quay cuồng trước mắt Nga. Còn mẹ Nga, Nga cảm thấy mẹ cũng chẳng khác gì Nga. Gương mặt mẹ đờ dẫn ngơ ngác. Nga bỗng thấy thương mẹ. Chưa bao giờ Nga thấy thương mẹ như lúc này. Giữa giờ phút nhốn nháo này Nga lại nhận ra chính cái Hà, em gái Đô lại gần gũi và hiểu được Nga hơn cả. Nó quấn lấy Nga suốt ngày. Về tới nhà chồng, Nga nhìn thấy Ngô Quất ngồi gật gù bên lão Kình trên giường, mặt đỏ phừng phừng. Đám cưới tan, Ngô Quất còn ngồi lại đánh chén với lão Kình bữa thứ hai. Nhá nhem tối Ngô Quất ngất ngưỡng ra về đến rỉ tai Nga: "Tao đã bảo mà, mày về làm dâu nhà này chả sướng... khà, khà kha... còn mày mà lấy thằng Đô nhà tao làm chó gì có cỗ to thế này. Khà... khà khà".
Đêm tân hôn, căn buồng hạnh phúc lạ lẫm lờ mờ trước mắt Nga. Chiế giường gỗ xoan cũ kỹ kê bên ô cửa sổ. Ngọn đèn dầu lù mù đỏ quạch. Mọi thứ không có gì mới, từ chiếc chăn chiên đến chiếc gối sờn cũ toả ra mùi mồ hôi lạ. Nga nằm chơ vơ chẳng nghĩ ngợi gì nữa. Mọi ý nghĩa đã cạn kiệt. Nga lơ đãng nhìn Bức cởi áo. Tấm thân trần lực lưỡng cơ bắp săn chắc, Bức vươn người qua Nga đóng kín hai cánh cửa sổ. Đêm tân hôn của đời Nga, tiếng côn trùng kêu rả rả, tiếng lão Kình ho khan. Và gương mặt Bức vẫn lầm lỳ lặng băng trơn tuột như phiến đá. Bức ngồi trên giường thổi "phù", ngọn đèn dầu phụt tắt. Căn buồng tối bưng. Bóng tối đen ngòm bủa vây xâm chiếm tâm hồn Nga. Nỗi hoảng sợ tiếc nuối chợt bùng lên. Nga tiếc tấm thân trinh trắng và mối tình đầu đẹp đẽ của mình đã không được trao gửi cho Đô, người mà mình yêu. Những ngón tay Bức rờ rẫm hàng khuy áo Nga, lặng lẽ mà háo hức. Bức bóc trần thân thể Nga trong bóng tối. Nga co dúm người khi cơ thể hừng hực sức sống của Bức ôm ghì lấy Nga. Không biết ai đã dậy Bức cách thức kích động sinh lý một cách thô tục. Nga chợt thấy nhói đau và cảm giác toàn thân rã rời. Bức lóp ngóp dậy bật lửa xoèn xoẹt thắp đèn. Thì ra Bức kiểm tra giọt máu trinh tiết của vợ. Nga nhìn tấm lưng trần bè bè, hai vai Bức u lên đen nhánh. Bức đã thoả mãn ý nguyện quay lại nhìn Nga cười. Mãi tới lúc này Nga mới được nhìn thấy Bức cười. Bức nhào bổ vào Nga hôn hít vuốt ve một cách điên cuồng.
- Mình, mình vẫn còn - Bức nói - thế mà tôi cứ ngỡ...
Bức cười hể hả lấy chiếc vòng cầu hôn trao lại cho Nga theo đúng tục lệ. Nga chợt bàng hoàng. Chiếc vòng linh thiêng, biểu tượng của tình yêu chung thuỷ đã nhuốm màu mua bán tráo trở lừa lọc của thế gian ô trọc này.
Buổi sáng đầu tiên Nga chính thức là thành viên tham dự vào đời sống nhà chồng. Thoáng nhìn thấy Nga, anh cả Lạnh bảo:
- Sáng nay thì miễn, từ mai thím út phải dậy sớm nấu cơm.
Nồi cơm to lớn nặng quá sức tưởng tượng của Nga, vùi giữa bếp, Nga ì ạch bê nồi cơm lên nhà trên. Hai chồng bát cao ngất trên chiếc mâm đóng bằng tre đặt ở giữa gian nhà giống như chiếc chõng cao lênh khênh dài tới hai mét. Nga cứ ngỡ ngàng về mọi sinh hoạt của cái gia đình to lớn này. Tất cả là mười hai người. Cao tuổi nhất là vợ chồng lão Kình, ít tuổi nhất là hai đứa con nhỏ của vợ chồng anh cả và anh thứ còn ngậm vú mẹ. Mười người lớn nhỏ ngồi kín xung quanh mâm cơm trừ hai vợ chồng lão Kình ưu tiên ngồi mỗi người một giường. Thằng cu lớn nhà anh cả làm nghĩa vụ bê cơm cho vợ chồng lão Kình.
- Bẩm cụ xơi cơm ạ - thằng cu đặt bát cơm độn lổn nhổn khoai ngô đầy ú trước mặt lão Kình.
- Cơm hôm nay có gì? - Lão Kình hỏi.
- Bẩm cụ rau luộc và cá kho ạ.
- Từ mai vợ thằng Bức phải bê cơm cho tao - Lão Kình nói, hai hố mắt mờ đục sâu hoắm cứ trừng trừng nhìn vào đâu đó hư vô - Phải thế mới đúng, phải là con gái thằng Lưỡng bê cơm cho tao mới đúng.
Nga giật thót người khi lão Kình nhắc tới tên "Lưỡng" tên người bố đẻ ra Nga đã phải treo cổ chết trên cành đa giữa đồng.
- Thôi thôi! Tôi xin ông - Bà lão Kình nói, hai tay run run đặt bát cơm xuống giường - Trời đánh còn tránh miếng ăn.
- Tôi cấm bà! - Lão Kình cầm đôi đũa gõ "cách" vào vai giường giận dữ quát - Bà để cho tôi dạy con dạy cháu tôi. Chúng phải nhớ đời, phải nhớ đời, hiểu chưa. Chúng phải nhớ và khắc ghi vào lòng cái chết oan uổng của bố chúng mày. Bố chúng mày còn sống thì đời ta và đời chúng mày không phải khổ thế này. Bố chúng mày còn sống thì bây giờ không thèm buôn nồi đất nữa, mà chỉ cần đi ba chuyến thuốc lào lên mạn ngược là đủ xây nhà to. Còn thằng Bức, phải nhớ rằng cái nhà này phải góp tới đồng xu cuối cùng mới mua lại được từ tay thằng Ngô Quất chiếc vòng cầu hôn của con Nga. Thế đấy, chúng mày hãy nhớ điều ấy. Nhớ rằng tại sao mày phải mua chiếc vòng cầu hôn của con gái thằng Lưỡng.
Lời nói của lão Kình chứa đầy máu và lòng thù hận. Mọi người trong nhà này vẫn thản nhiên ngồi ăn xì xụp chan húp, muôi thìa bát đĩa lanh canh. Anh cả Lạnh và anh mát nhìn vợ tủm tỉm cười. Bà Bông, mẹ chồng Nga từ đầu bữa vẫn lặng câm thản nhiên ngồi ăn, khác hẳn với cái đêm bà đội trầu cau sang nhà Nga. Nga nhìn lên gương mặt chồng vẫn không mảy may biến đổi, vẫn cái vẻ lầm lì ngu si trì độn vĩnh cửu. Trong cái đại gia đình to lớn này Nga không sao tìm được ánh mắt cảm thông. Thằng cu lớn nhà anh cả Lạnh cũng gườm gườm nhìn Nga như thể chính Nga là kẻ đã làm cho gia đình này khánh kiệt, khổ sở đói kém đi. Nó cố tình lựa hết những hạt cơm bao quanh những miếng khoai khô cho vào miệng, trong bát của nó còn trơ ra toàn khoai thâm sì. Đã thế thằng cu còn lấy muôi chan đầy canh vào bát khoai, khoắng đi khoắng lại trước mắt Nga, Nga ái ngại nhìn hai người chị dâu, hai người đàn bà này vẫn thản nhiên ngồi xúc cơm bằng thìa, một tay vạch vú cho con bú. Hai đứa trẻ miệng ngậm vú mẹ, mắt thao láo nhìn Nga không chớp. Nga cúi gằm mặt xuống không dám nhìn vào mặt ai, cố ăn cho hết bát cơm độn khoai.
Từ bữa cơm đầu tiên ấy, dù không quen, Nga vẫn phải lao vào guồng máy hoạt động răm rắp suốt từ năm giờ sáng tới chín giờ đêm của cả gia đình chồng, dưới sự chỉ huy chung của lão Kình. Bà Bông chỉ huy khâu hậu cần, anh cả chỉ huy công việc đồng áng. Thằng cu lớn nhà anh cả Lạnh đi bắt được giỏ cua bán được một đồng hay đi đánh đáo thắng cuộc được dăm hào cũng phải mang về nộp tất cho lão Kình.
Ngoài giờ làm đồng, về vứt cày vứt cuốc bên góc sân là cả ba anh em nhà này xoay trần ra nhào xuống ao lặn ngụp móc bùn đổ lên mảnh vườn sau nhà. Những ngày mưa rét không lấy bùn thì ba anh em lại đi lùng sục khắp nơi đào gốc tre về chất đống chờ bữa nào nắng đem phơi khô, tới phiên chợ Diêm Điền ba chị em dâu lại gánh đi bán cho dân vùng biển. Tối đến cả nhà, kể cả thằng cu nhà anh Lạnh cũng phải lao vào chẻ cói đan quài, đan bị dệt chiếu cậm cạnh đến chín, mười giờ đêm thì vợ chồng con cái ai về buồng nấy ngủ. Bảy gian nhà lợp rạ dài dằng dặc được ngăn ra làm năm. Ba cặp vợ chồng, cả Lạnh, hai Mát và vợ chồng Nga, mỗi cặp một gian. Bà Bông một gian là bốn. Còn lại ba gian nữa để ăn cơm và kê hai chiếc giường cho vợ chồng lão Kình.
Những lúc cả nhà đi làm thì vợ chồng lão Kình cởi áo ngồi bắt rận. Hai vợ chồng già phơi ra hai tấm thân trần trụi nhăn nheo xương xẩu. Cả hai vợ chồng lão Kình đều cạo đầu trọc lốc trắng nhởn. Hai núm vú của bà lão teo lại còn một dúm da nhăn nheo bám trên khuôn ngực khô đét. Cả hai vợ chồng lão Kình mắt đều đã mờ nên phải dùng những ngón tay sờ lần run rẩy tóm những con rận kềnh cho vào mồm cắn đôm đốp. Lão Kình có tính nóng như lửa. Tính nóng của lão thường biểu lộ trên nét mặt cau có và cử chỉ mạnh mẽ. Có lúc lão kéo căng đường chỉ khâu trên áo đặt lên vai giường lấy dộng dao miết đi miết lại nhiều lần, miệng lầm bầm chửi. Lão chửi những con rận đã hút máu lão. Bằng những động tác miết dao, lão quyết tâm tiêu diệt cả những cái trứng rận nhỏ tí lặn sâu vào đường chỉ mà tay lão không sờ thấy. Có lúc lão tức điên lên vì những mối giáp của đường chỉ và những chỗ vá chằng vá đụp lão không miết được dộng dao, lão đành giơ dộng dao đập lia lịa, miệng rít lên: "mày phải chết, phải chết! Máu tao chứ có phải nước lã đâu..." Những ngày nắng to, lão Kình lại lò dò ra cửa cởi áo phơi trên nền gạch nóng. "Mẹ kiếp! Ông cho chúng mày say nắng một bữa". Lão ngồi bó gối giữa cửa cười khoái trí vì đã nghĩ ra cách trừng trị lũ rận một cách hữu hiệu nhất. Lão ngồi chán lại lò dò vào trong giường ngồi không quên dặn đi dặn lại thằng cu con anh cả Lạnh tinh mắt trông gà khỏi ỉa vào áo của lão. Thằng cu con cả Lạnh nghịch như quỷ sứ nhưng ở nhà vẫn một phép nghe lời lão Kình. Được lão Kình giao nhiệm vụ, nó cầm chiếc roi rõ dài ngồi nhăn nhó phơi cái đầu trọc lốc ra nắng trông gà khỏi ỉa vào áo lão Kình. Lão Kình bắt thằng cu nhà anh cả Lạnh cạo trọc đầu. Lão bảo để tóc là cơ hội tốt cho lũ chấy làm tổ. Lão lấy chứng cớ là cuộc đời của lão gần trăm tuổi mà vẫn khoẻ vì đã không để bất cứ con chấy con rận nào hút máu mình. Nói có sách mách có chứng, lão Kình nói điều gì cũng đúng. Cả nhà sợ lão hơn sợ cọp. Không ai dám cãi cọ đôi co trước mặt lão. Vợ chồng anh cả Lạnh, anh hai Mát có xích mích xung đột cũng chỉ im lặng bóp cổ nhau trong buồng riêng. Người bóp cổ cũng không dám quát, người bị bóp cũng không dám kêu. Trẻ con có biết cũng im thít. Anh cả Lạnh tức vợ đá "bụp" vào mông vợ một cái, chị vợ ôm mặt chạy tít ra đường mới dám khóc. Lão Kình nghe tiếng anh cả Lạnh đá đít vợ liền hỏi "cái gì đấy" anh Lạnh bảo: Bẩm ông con đánh rơi cái mẹt. Về hình dáng ba anh em trai nhà này đều giống nhau về thể lực to, cao, mắt hơi xếch, lông mày anh nào cũng dày, mũi hơi tẹt, lưng to bè bè nhưng tính thì khác hẳn nhau. Anh cả nóng nảy hung hăng gần giống lão Kình, anh thứ có vẻ sâu sắc nhưng lại nhát gan sợ vợ. Còn Bức thì lầm lì ít nói nhưng cục cằn. Trước mặt mọi người Bức không bao giờ tỏ ra thân mật vui vẻ với vợ. Kể cả Nga cũng không bao giờ được phép xởi lởi cười đùa với chồng trước mặt mọi người.
Nga và chị dâu cả giã gạo cậm cạnh dưới nhà bếp. Bầu trời làng Nguyệt Hạ hôm nay tắt lặng tiếng sáo diều bởi làng có đám ma lão Quỳ. Suốt từ hôm qua tiếng kèn đám ma cứ tru lên ai oán. Lão Kình từ sáng tới giờ cứ ngồi trên giường chửi đổng "Mẹ cha nó! Chết chỉ có tiếng kèn mà không có tiếng trống cà rùng, sống bằng phí..." Bức đi đào huyệt chôn lão Quỳ xong vác cuốc về, mặt còn đỏ gay vì men rượu. Vừa quăng chiếc cuốc vào góc bếp, chị dâu cả đã bảo Bức.
- Chú Bức giã gạo với thím, tôi đi đằng này tý. Bức nhảy phốc lên bàn cối đứng sau vợ. Chưa bao giờ Nga thấy Bức háo hức như lúc này... Bức nhún nhảy chồm chồm sau lưng Nga một cách quá trớn. Bức hà hơi vào gáy Nga nóng hôi hổi và nồng nặc mùi rượu.
- Mình! Đúng là đẹp thật đấy - Bức thì thào. Đẹp như tiên.
- Bây giờ anh mới thấy tôi đẹp sao?
- Thì sáng nay mấy thằng cùng đi đào huyệt với tớ nó bảo thế. Nó bảo mình đẹp nhất làng này.
Từ ngày về làm vợ Bức. Chưa bao giờ Nga thấy Bức nịnh và khen Nga một câu. Bỗng nhiên hôm nay Bức lại tý tởn rửng mỡ vừa giã gạo vừa cố tình đẩy cái "của nợ" ấy vào mông Nga, giọng tán tỉnh một cách ngu ngốc và thô thiển.
- Nga này, chúng nó còn tán bậy lắm. Nó hỏi tới mỗi đêm chiến đấu mấy lần. Chúng nó hỏi vậy bố ai mà dám trả lời. Tớ chỉ cười, chúng nó lại hỏi, trước khi mình về đây có còn trinh không. Tớ bảo, còn! Chúng nó không tin bĩu môi cười với nhau khùng khục bảo tớ đi mua lại của thừa của thằng Đô. Mẹ kiếp, chúng nó đoán sai bét cả. Tớ tức điên choảng cho chúng một trận nhừ tử. Bức vừa nói vừa cười khùng khục vẻ khoái trí. Bất chợt anh cả Lạnh từ đâu xộc vào mặt gườm gườm nhìn Bức rổi bỏ đi. Bức im thít. Cái nhìn của anh cả Lạnh đã làm bức thức tỉnh trở lại, lầm lỳ như mọi khi. Giã xong cối gạo, Bức nhào ra cửa. Sàng xong cối gạo, Nga ra cầu ao vớt bèo nghe tiếng uỳnh uỵch trong chuồng trâu, Nga nhón chân bước tới gần, đứng nép vào tường thấy anh cả Lạnh túm cổ áo Bức giọng rít lên khe khẽ.
- Mày là thằng nhu nhược, nhu nhược. Mày, mày đã quên mất lời ông dặn. Mày mày... Mặt anh cả Lạnh hằm hằm căm giận giơ tay tống một quả thật lực vào giữa mặt Bức - lần này tao chỉ cảnh cáo nhẹ, lần sau còn vi phạm tao đâm thủng bụng.
Nga bước vội ra cầu ao. Gió lộng lên. Những con cá cờ nhởn nhơ ngoe nguẩy giương đôi vây hồng lượn lờ trong làn nước xanh rêu. Nước mắt Nga bỗng dưng ứa ra. Nga cứ nghĩ mãi về thân phận mình bỗng dưng lại rơi vào gia đình này. Một gia đình kỳ cục, vừa âm thầm vừa huyên náo, vừa hiền lành vừa dữ dội. Những gương mặt lạnh băng, những mảng lưng trần đen bóng, những cái đầu trọc lốc suốt ngày đập vào mắt Nga, ám ảnh Nga trong cả giấc mơ. Nga càng kinh ngạc thấy Bức mặt tím bầm mà thái độ của tất cả mọi người trong gia đình vẫn thản nhiên không ai hỏi Bức một lời. Đêm đến, Bức mò vào giường, Nga hỏi:
- Trán làm sao thế.
- Mẹ kiếp! Bị trượt chân ngã đấy.
- Thôi đi, anh chỉ là đồ hèn. Chính mắt tôi nhìn thấy anh cả Lạnh đánh anh.
- Xuỵt, tôi cấm cô. Đấy là chuyện riêng của anh em tôi.
- Chuyện riêng à, anh em nhà anh là đồ quỷ sứ.
- Câm! Đã bảo là cô câm ngay - Bức rít lên có vẻ hoảng loạn.
- Tôi không câm - Nga vùng dậy - Anh hèn lắm. Đàn ông mà hèn. Đến cả chuyện ngủ với vợ cũng phụ thuộc vào người khác.
Bức bỗng đờ người. Trong đêm tối, Nga cảm nhận rõ sự biến động trong con người Bức. Bức nghiến răng ken két. Bất thình lình, Bức lùa cả hai bàn tay vào ngực Nga một cách thô bạo xoắn hai đầu vú làm Nga hoảng sợ. Bức đè sấn lên người Nga quằn quại như con thú trúng thương.
- Im đi, đồ ngu - Bức ghé sát vào tai Nga rít lên - Tao phải chịu đựng như thế này là vì mày, mày hiểu chưa. Tao phải chịu đòn thay cho mày mà mày không hiểu gì cả. Mày nói đúng. Tao yếu hèn. Tất cả bởi tao yếu hèn. Mày biết tại sao tao yếu hèn không? Tất cả bởi vì mày đẹp. Mày thu hết hồn tao. Mày đã chiếm được trái tim tao.
Bức vừa thở hồng hộc vừa nói vừa dứt phăng hàng khuy áo của vợ như kẻ cuồng dâm. Trong cơ thể Bức đang có điều gì đó rất hệ trọng sắp bùng nổ. Bức vừa tự hành hạ mình vừa trút lên thân thể Nga cơn giận dữ ghê gớm, Bức bấu véo khắp thân thể vợ.
- Anh Bức, anh làm trò gì thế. Điên à?
- Ừ, tao điên. Tao điên vì không thể chịu nổi nữa rồi.
Bức dũi đầu vào ngực Nga, giọng bỗng dịu lại và thay đổi cách xưng hô với vợ.
- Mình là người đàn bà vô tâm. Mình không hiểu gì sất. Tôi là kẻ phản bội lại ông bà bố mẹ anh chị tôi... tôi hu hu hu - Bức khóc ty tỷ.
- Anh làm gì mà phản bội gia đình.
- Tôi đã bị mình... bị chính sắc đẹp của mình lôi cuốn. Tôi đã yêu mình thật rồi.
- Từ trước tới giờ anh không yêu tôi.
- Không! - Giọng Bức có vẻ thành thực - đúng hơn thì mình phải là kẻ thù của tôi, kẻ thù của gia đình tôi. Mình chẳng hiểu gì cả. Không phải bỗng dưng mà gia đình tôi phải bỏ ra những bảy trăm đồng để mua lại chiếc vòng cầu hôn của mình. Trong lúc cả nhà này phải chịu ăn đói, phải chịu khổ để cho tôi có vợ là mình. Mục đích cưới được mình về là để được hành hạ mình... để trả thù, mình hiểu chưa... Một mối thù muôn đời muôn kiếp. Gia đình tôi không bao giờ quên cảnh bố mình đã bu vào sợi dây bên chân "Gầu sòng" treo cổ bố tôi lên. Những người như ông tôi thì mình đã biết đấy. Ông tôi không bao giờ tha thứ. Bảy trăm đồng mồ hôi nước mắt của cả gia đình tôi phải được đánh đổi bằng chính mồ hôi nước mắt và sức lực của mình, bằng cả cuộc đời mình. Cả nhà tôi và bản thân tôi thừa biết mình không bao giờ yêu tôi, và lúc đầu tôi cũng không bao giờ dám nghĩ rằng tôi yêu mình. Tôi chỉ làm mọi việc theo kế hoạch của gia đình để thực hiện được ý đồ to lớn. Nhưng bây giờ thì tôi đã phản bội lại ông bà, bố mẹ và các anh tôi. Tôi... tôi đã yêu mình, sẵn sàng chịu hình phạt của gia đình để bảo vệ mình để được yêu mình.
Bức ôm xiết lấy thân thể Nga. Nga giãy giạu quằn quại trong vòng tay Bức.
- Ôi, thật là kinh khủng và khốn nạn - Nga rên lên.
- Im. Im ngay! - Bức cuống cuồng đưa tay bịt miệng Nga, giọng Bức xúc động lo sợ - Đừng, tôi van mình đừng làm ầm lên như thế. Tôi thật lòng với mình mà nói thế cũng chỉ vì tôi yêu mình. Tôi đã vứt bỏ mọi thứ, dám chịu đựng mọi chuyện để giữ cho mình được sống yên ổn trong ngôi nhà này. Chúng ta sẽ là vợ chồng thực sự. Lâu nay tôi đã làm khổ mình. Bây giờ tôi sẽ làm tất cả vì mình. Chính tôi cũng không chịu nổi, ở đây tôi không được quyền tự do yêu. Ở đây chính tôi cũng bị hành hạ, chính tôi cũng khổ sở không kém gì mình. Mình sẽ cùng tôi đi khỏi nơi này.
- Tôi không phải đi đâu hết. Tôi còn có mẹ tôi.
- Nhưng ở đây cả tôi với mình đều khổ. Cả nhà sẽ không để tôi với mình sống hạnh phúc. Mình nghĩ đơn giản lắm. Họ đã phải bỏ ra những bảy trăm đồng không phải để được nhìn thấy cảnh tôi và mình yêu nhau. Giờ đây tôi yêu mình, mỗi lần nằm cạnh mình tôi muốn quên đi mọi chuyện để được yêu mình. Ngày ngày tôi cứ phải mang vẻ mặt lạnh nhạt với mình, tôi khổ lắm...
Bức nói mãi, nói mãi rồi thiếp đi. Nga dậy khẽ mở cửa, trời đã sang xuân gió se lạnh, mưa lất phất hắt lên khuôn mặt người đã thấm đầy nước mắt. Nga chạy. Đêm tối bưng, lối ngõ đá trơn truội - Những viên đá... nền móng của hạnh phúc... Nga ngã dúi xuống nền đá ướt lớp nhớp, chân tay run rẩy nhưng vẫn cố gượng dậy chạy về nhà mẹ đẻ. Tiếng kèn đám ma khóc hờ hương hồn lão Quỳ vẫn vang lên trong đêm.
23/6/2015
Dương Hướng
Theo https://vnthuquan.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...