Từ kỹ thuật và ma thuật đến nghệ thuật và
tác lực qua
góc nhìn của Alfred Gell
Kỹ thuật và ma thuật cùng với Nghệ thuật và tác lực [1] là những tác phẩm cuối cùng được
Alfred Gell viết trong thập niên trước lúc qua đời vì bệnh ung thư ở tuổi
51. Kỹ thuật và ma thuật được xuất bản trong Tạp chí Nhân học
ngày nay năm 1988 và Nghệ thuật và tác lực được xuất bản sau
đó 10 năm ngay sau khi ông mất. Sự ra đi của ông trong khi tài năng đang độ
chín đã khiến cho giới khoa học xã hội và nhân văn châu Âu và Mỹ bàng hoàng.
Hàng chục tờ báo với nhiều bài bình luận của các học giả, các nhà báo và bạn
bè, đồng nghiệp đã viết về ông trong hơn mười năm qua. Cá nhân tôi mới chỉ được
tiếp cận với các công trình khoa học của ông từ năm 2008 khi đang du học ở Hoa
Kỳ nhưng góc nhìn của Alfred Gell dường như đã giúp mở ra cánh cửa trước mắt
tôi khi nhìn vào thế giới nghệ thuật huyền ảo lung linh nhưng vô cùng bí ẩn.
Tôi viết bài này nhân 15 năm ngày mất của ông như một lời tri ân đối với một học
giả bậc thầy với những trước tác quan trọng còn ít được giới khoa học ở Việt
Nam biết tới.
Từ kỹ thuật và ma thuật đến nghệ thuật và tác lực của nó là một
bước tiến dài trong hành trình phát triển hàng triệu năm của loài người. Nói
cách khác, kỹ thuật và ma thuật là những yếu tố văn hoá đã được hình thành từ
giai đoạn sơ khai của loài người, trong khi nghệ thuật và tác lực của nó chính
là những thành tựu đỉnh cao mà loài người đã đạt được trong lịch sử văn minh của
mình. Với sự nhạy cảm khoa học và hệ thống kiến thức phong phú có được trong
lĩnh vực nghiên cứu của mình (nhân học), Alfred Gell đã kết nối các vấn đề lịch
sử văn minh của nhân loại với khoa học và nghệ thuật chỉ gói gọn trong thuật ngữ: Nhân
học nghệ thuật (anthropology of art). Theo ông, “nhân học nghệ thuật tập
trung vào bối cảnh xã hội của việc chế tác, lưu hành, tiếp nhận nghệ thuật hơn
là đánh giá những tác phẩm cụ thể” vì “công việc đánh giá đó là chức năng của một
nhà phê bình” (Gell, 1998) [2]. Với nhân học nghệ thuật, Gell đã giúp
các nhà nghiên cứu có thể phân biệt được giá trị của các sản phẩm kỹ thuật hay
nghệ thuật mang tính ma thuật của thổ dân khác với các tác phẩm nghệ thuật của
các nghệ sĩ như thế nào. Xa hơn, nhà nghiên cứu có thể đi sâu tìm hiểu giá trị
của tác phẩm nghệ thuật trong đời sống xã hội mà ông gọi đó là tác lực [3] của nó.
Trước Gell, các nhà khoa học xã hội và nhân văn hàng đầu trên
thế giới đều đặt sự quan tâm đặc biệt đối với mối quan hệ xã hội giữa ma
thuật, khoa học và tôn giáo. Đã có tới hàng chục công trình “kinh
điển” mang nội dung ma thuật, khoa học và tôn giáo... của
Tylor (1871), Frazer (1900), Mauss (1902), Durkheim (1012), Leeuw (1933),
Evans-Prichard (1937), Malinowski (1948) Tambiah (1984),... ra đời chủ yếu
trong nửa đầu thế kỷ XX [4]. Nhưng thật đáng ngạc nhiên, các nhà
khoa học xã hội và nhân văn hàng đầu đó lại rất ít đề cập trực tiếp đến nghệ
thuật, đặc biệt là nghệ thuật đương đại, như cách làm của Gell. Một số công
trình nghiên cứu căn bản của các nhà nhân học biểu tượng như Turner, Geertz,
Schneider,... cũng chỉ chủ yếu xoay quanh việc phân tích các yếu tố nghệ thuật
mang tính biểu tượng và ma thuật của các bộ lạc đang sống trong nền văn minh tiền
công nghiệp hoặc tìm hiểu tính biểu tượng của hệ thống thân tộc trong xã hội...
Hầu như chưa có một công trình nào của họ khả dĩ có thể được sử dụng như một
công cụ lý thuyết để tiếp cận đối với nghệ thuật hiện đại và đương đại. Có lẽ
vì những lý do đó mà các công trình nghiên cứu của Gell ra đời trong những năm
cuối cùng của thế kỷ XX đã nhận được nhiều sự quan tâm và cả sự tranh luận của
giới khoa học. Các tác phẩm của Gell, nổi bật là Nghệ thuật và tác lực,
đã tạo nên một hiện tượng khoa học gây tác động mạnh đối với các nhà khoa học
xã hội và nhân văn, đặc biệt là với giới nghiên cứu nghệ thuật trong những năm
đầu thế kỷ XXI.
Kỹ thuật và Ma thuật
Trên thực tế, Kỹ thuật và ma thuật chỉ là một
bài viết ngắn của Gell với vỏn vẹn 4 trang, từ trang 6 đến trang 9 ở Tạp
chí Nhân học ngày nay (trong tập 4, số 2, tháng 4/1988). Vì vậy, rất khó để
có thể đặt nó lên ngang hàng cùng với Nghệ thuật và tác lực là một
cuốn sách dày gần 300 trang được xuất bản sau đó 10 năm. Tuy nhiên, ý đồ của
tôi khi chọn các công trình nghiên cứu này để giới thiệu ở đây chính là cái
nhìn xuyên suốt thời gian và không gian của Gell đối với nghệ thuật dưới góc
nhìn nhân học nghệ thuật. Kỹ thuật và ma thuật là những thành tố văn hoá đã được
con người sử dụng ngay từ buổi bình minh của nhân loại. Thậm chí, Gell cho rằng
khả năng kỹ thuật không chỉ có ở loài người mà còn tồn tại ở nhiều loài khác
như vượn người, tinh tinh,... và ông không chấp nhận giả định về việc sử dụng
công cụ như một yếu tố duy nhất chỉ loài người mới có (Gell, 1988). Cái
nhìn xuyên thời gian của Gell đã được chứng minh bởi trong sự phát triển của
khoa học công nghệ hiện nay, kỹ thuật vẫn là một yếu tố then chốt trong đời sống
văn hóa của con người trong thế kỷ XXI. Không chỉ có cái nhìn xuyên suốt lịch sử
hàng triệu năm tiến hoá của loài người như đã nêu, Gell còn cho chúng ta một
cái nhìn khái quát về không gian dưới góc độ nghệ thuật: Từ các hình vẽ ma thuật
của các tộc người tiền sử đến các tác phẩm kinh điển trong nghệ thuật Phục Hưng
và nghệ thuật hiện đại; từ những hình minh hoạ của thổ dân châu Phi và châu Á -
Thái Bình Dương đến các tác phẩm hội họa ở các trung tâm nghệ thuật ở châu Âu,
thậm chí là ngôn ngữ biểu tượng trong các chương trình quảng cáo bia và xe
hơi... Tất cả các sản phẩm nghệ thuật đó đều đã và đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời
sống của con người thông qua tác lực của chúng. Có thể nói, cái nhìn xuyên thời
gian và không gian dưới ánh sáng của lý thuyết nhân học nghệ thuật, trước Gell,
chưa một ai dám “đụng” tới vì đặc tính trừu tượng và tính chất phức tạp của biểu
tượng.
Sự tách bạch về mặt thuật ngữ của Gell giữa kỹ thuật và ma
thuật với nghệ thuật và tác lực có ý đồ sâu xa bằng một
cái nhìn mang tính hệ thống. Trong Kỹ thuật và ma thuật ông gọi đó
là “hệ thống kỹ thuật” với ba trọng tâm là kỹ thuật chế tác, kỹ thuật sản
sinh và kỹ thuật mê hoặc.
Bằng việc tìm hiểu hệ thống kỹ thuật từ kỹ thuật chế tác đến kỹ
thuật mê hoặc trong quá trình phát triển văn minh của nhân loại, Gell đã
tìm ra mối quan hệ đặc biệt quan trọng giữa kỹ thuật và ma thuật. Mà theo ông,
ma thuật là, hay đã từng là một yếu tố trong mỗi kỹ thuật đã nêu ở trên nhưng
điểm khác biệt là ma thuật có tính biểu tượng, và “ma thuật với tư cách là một
phần phụ thêm vào quá trình kỹ thuật, tiếp tục tồn tại bởi vì nó như là những mục
đích mang tính ‘biểu tượng’... Suy nghĩ mang tính ma thuật hình thành và mã hoá
các yếu tố cấu trúc của hoạt động kỹ thuật, áp đặt vào nó một bộ khung tổ chức
điều chỉnh mỗi giai đoạn tiếp nối trong một quá trình phức tạp” (Gell, 1988).
Đây chính là điểm khác biệt lớn nhất giữa Gell và các nhà nhân học biểu tượng
như Turner, Geertz, Schneider,... trong các công trình nghiên cứu nhân học biểu
tượng. Các nhà nhân học biểu tượng nói trên đã tiếp cận các biểu tượng bằng việc
diễn giải chúng (đó cũng là lý do nhân học biểu tượng còn được gọi là nhân
học diễn giải), trong khi Gell tiếp cận các biểu tượng bằng một cái nhìn hệ thống
từ yếu tố kỹ thuật đến ma thuật. Ông cho rằng, ma thuật “tạo ra một tiêu chuẩn
lý tưởng, không phải để đạt được trong hiện thực, mà hướng tới những hành động
kỹ thuật mang tính thực hành nhưng có thể định hướng được”(Gell, 1988).
Góc nhìn này của Gell dường như có thể khai thông được sự bế
tắc mà các nhà nhân học biểu tượng đã vấp phải khi họ bị “cuốn” theo việc diễn
giải các biểu tượng, các hành vi biểu tượng và các hệ thống biểu tượng. Việc diễn
giải các biểu tượng dù là diễn ngôn của nhà khoa học hay “nhìn qua vai” của chủ
thể (như Geertz đã thực hiện), thậm chí là triệt để tôn trọng chủ thể (thông
qua phỏng vấn trực tiếp hay quan sát tham dự) vẫn có thể dẫn dắt chúng ta lạc
vào “rừng biểu tượng” (thuật ngữ của Turner). Căn nguyên của tình trạng này
chính là do đặc tính đa nghĩa và trừu tượng của biểu tượng. Sự bế tắc đó là một
trong những nguyên nhân dẫn đến thoái trào của nhân học biểu tượng vào cuối thập
kỷ 80 tới đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Theo cách nhìn của Gell, nhà khoa học
không nên quá lệ thuộc vào việc diễn giải ý nghĩa các biểu tượng, đặc biệt là đối
với ma thuật. Bởi một khi yếu tố kỹ thuật mang tính biểu tượng biến thành ma
thuật thì mục tiêu căn bản của nó vẫn chỉ là để phục vụ ý tưởng của chủ thể tạo
ra nó. Nếu nhà khoa học bị “cuốn” theo những ý tưởng đó thì vô hình trung họ lại
bị ma thuật chinh phục, và khi đó, tính khách quan của khoa học sẽ không còn.
Thuật ngữ ‘ma thuật’ trong cách dùng của Gell không chỉ là các vật biểu tượng,
hành vi biểu tượng, nghi lễ biểu tượng,... được tạo bởi chủ thể như các vị thầy
cúng mà các nhà nhân học biểu tượng trước ông đã nghiên cứu mà còn là mọi loại
kỹ thuật mang tính biểu tượng được tạo ra để phục vụ cho chủ thể của nó. Theo
ông: “Những nhà tuyên truyền, những người chụp ảnh và những nhà lý luận về nền
văn minh kỹ thuật là những người tạo nên ma thuật, và nếu họ không cho đó là thế
lực siêu nhiên thì chỉ vì bản thân kỹ thuật đã trở nên mạnh đến mức họ không phải
làm điều đó. Và nếu chúng ta không còn thừa nhận ma thuật một cách rộng rãi nữa
thì đó là vì kỹ thuật và ma thuật, với chúng ta là một và như nhau” (Gell,
1988).
Nghệ thuật và tác lực
Ở trên, chúng ta đã lướt qua những nét khái lược nhất mang
tính tiền đề để đến với một hệ khái niệm mới mẻ hơn, phức tạp hơn, nhưng cũng
quan trọng hơn trong nghệ thuật. Tôi cho rằng nó quan trọng hơn là vì trước
Gell chưa có một nhà nhân học nào đề cập đến nghệ thuật và tác lực của nó như
cách nhìn của ông trong Nghệ thuật & tác lực. Trên thực tế lịch sử
nghệ thuật, nếu tính từ giai đoạn sơ khai của loài người, đã có tuổi hàng vạn
năm nếu không nói là xa hơn. Nhưng nghiên cứu nghệ thuật thì có tuổi
đời “trẻ” hơn nhiều và dĩ nhiên nó nó phải ra đời sau khi có chữ viết. Nghiên
cứu nghệ thuật là một loại hình công việc học thuật mang tính hàn lâm nhằm
tìm hiểu giá trị của các tác phẩm nghệ thuật trên nhiều khía cạnh như bản
thể luận nghệ thuật (ontology of art), mỹ học (easthetic), mỹ
học môi trường (environmental easthetic),... và tất nhiên không thể thiếu lịch
sử nghệ thuật (art history) và phê bình nghệ thuật (art
criticism). Nếu coi lịch sử nghệ thuật là cách tiếp cận theo chiều dọc và phê
bình nghệ thuật là chiều ngang thì việc tìm hiểu các khái cạnh còn lại của các
tác phẩm nghệ thuật chính là chiều thứ ba mà nhà nghiên cứu phải hướng tới,
và nhân học nghệ thuật theo hướng tiếp cận của Gell nằm trong chiều
kích thứ ba này.
Mặc dù nhân học nghệ thuật của Alfred Gell mới chỉ ra đời hơn
một thập niên tính từ thời điểm Nghệ thuật và tác lực được xuất bản
tới nay, nhưng hướng tiếp cận này của ông ngay lập tức nhận được nhiều sự quan
tâm của giới nhân học nói riêng và các nhà nghiên cứu nghệ thuật nói chung. Vậy
nhân học nghệ thuật là gì? Gell định nghĩa: Nhân học nghệ thuật là nghiên
cứu mang tính lý thuyết về các mối quan hệ xã hội diễn ra quanh các hiện vật (Gell,
1998. tr. 7). Nhưng như thế nào là ‘mối quan hệ xã hội’ theo quan niệm của Gell?
Trong Nghệ thuật và tác lực, ông đã chỉ ra tám loại quan hệ dạng này,
khởi đầu bằng chỉ báo (index) một thuật ngữ được Charles Sanders
Peirce [5] sử dụng trong lý thuyết Ký hiệu học
từ những năm đầu thế kỷ XX [6]. Dường như Gell đã có ý chọn lý thuyết
ký hiệu học để tạo nền tảng cho nhân học nghệ thuật của mình, nếu quả như vậy,
đó sẽ là một hướng đi khôn ngoan sau giai đoạn thoái trào của nhân học biểu tượng.
Các mối quan hệ xã hội tiếp theo mà ông đã chọn bao gồm: Quy gán (abduction,
có dịch giả sử dụng là quy kết), tác nhân xã hội (social
agent), nghịch biện loại suy (paradox elimination), tác nhân và
đối tượng (agents and patients), nghệ sĩ (artist), người
thưởng thức/thụ hưởng (recipient), và cuối cùng là nguyên mẫu (prototype).
Tất cả các mối quan hệ xã hội này đều diễn ra quanh các hiện vật/chủ thể
(objects).
Xuyên suốt lý thuyết nhân học nghệ thuật được đề cập
trong Nghệ thuật và tác lực là hai thuật ngữ chỉ báo (index)
và quan hệ nghệ thuật (art nexus). Gell đã dành trọn chương 3 để tìm
hiểu các mối liên hệ giữa hai khái niệm này với các cặp phạm trù giữa: tác
nhân với đối tượng; chỉ báo với nghệ sĩ; chỉ báo với người
thưởng thức; chỉ báo với nguyên mẫu; nghệ sĩ với chỉ báo;
người thưởng thức với chỉ báo; nguyên mẫu với chỉ báo.
Thông qua các mối liên hệ này ông cho rằng các thành tố trọng tâm của chỉ báo
chính là tính logic của tiền tố và hậu tố giữa tác nhân và đối tượng (agent
and patient). Trong ba chương tiếp theo của cuốn sách (4,5 và 6), Gell tiếp tục
đề cập đến sự kết nối phức tạp giữa chỉ báo với các mối quan hệ nghệ thuật, bản
chất của chỉ báo và các vấn đề của chỉ báo (Gell, 1998. tr.51-94). Ông cho rằng
đã có sự gắn kết trật tự đối với mối quan hệ đặc biệt của cặp phạm trù tác
nhân và đối tượng. Theo đó, Một cặp phạm trù tác nhân và đối tượng này
sẽ là tiền đề để nó hình thành một cặp mới mà cặp cũ sẽ là tác nhân của
cặp phạm trù mới. Sự thay thế đó được ông mô hình hóa như sau:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét