Biên Hòa - Từ màu
men xanh đồng trổ bông
Từ cầu Bình Triệu, rẽ phải nơi góc đường Quốc lộ 13 - Kha Vạn
Cân, tôi nhắm Biên Hòa thẳng tiến. Con đường tôi đang đi tiếp giáp với Biên Hòa
theo hướng Quốc lộ 1K qua cầu Hóa An. Theo đó, sẽ đi về phía Bắc thành phố, nơi
có những công trình cổ, những dấu vết văn hóa, những nét sinh hoạt của cư dân
trong các không gian công cộng và như thế có thể sẽ giúp tôi hiểu về nơi này
hơn. Còn nếu theo hướng Quốc lộ 1A về phía Nam, sẽ qua những khu công nghiệp,
những con đường chỉ đông đúc vào giờ chuyển ca. Hai hướng tiếp cận nói trên
cũng chính là hai mặt của thành phố, mà có thể thấy rõ qua trang web chính thức
của UBND thành phố Biên Hòa http://www.bienhoa-dongnai.gov.vn
Chuyến đi của tôi thực ra đã xuất phát rất lâu từ trước, bắt
đầu từ những tìm hiểu về gốm Biên Hòa và những thắc mắc về loại men “xanh đồng
trổ bông” [1]. Lần theo sự hiếu kỳ, tôi được chỉ dẫn đến với những phù điêu gốm
ở các cổng của chợ Bến Thành, mà mỗi tượng trưng cho một ngành hàng: phù điêu
“bò và cá trê”, “bò và heo”, “cá đuối” ở cửa Nam (cửa chính nhìn ra vòng xoay
Quách Thị Trang); “vịt và nải chuối”, “vịt”, “nải chuối” ở cửa Bắc; “cá đuối và
nải chuối”, “cá đuối và cá trê”, “nải chuối” ở cửa Tây và “bò và vịt”, “bò và
heo”, “heo và vịt” ở cửa Đông. Theo lời kể lại, những tấm phù điêu là sản phẩm
từ trường Mỹ nghệ Biên Hòa và do những người thợ của HTX Mỹ nghệ Biên Hòa trực
tiếp thi công lắp dựng. Vì phải tách thành từng miếng nhỏ để tạo hình, cộng với
các lò nung bấy giờ dùng chất đốt bằng củi, “hỏa biến” [2] đã tạo nên những sắc
độ màu sắc trên từng mảnh gốm. Khi bức phù điêu được ghép hoàn chỉnh thì thành
chỗ đậm nhạt khác nhau. Kỹ thuật làm gốm Biên Hòa nói chung là sự kết hợp của kỹ
thuật gốm từ người Hoa (vùng phía Nam Trung Quốc), người Khơ me và người Pháp.
Trải qua nhiều biến đổi, gốm Biên Hòa mới có được danh tiếng về một loại gốm
mang những sắc thái của dân tộc Việt Nam.Phù điêu "Cá đuối và nải chuối" cửa Tây chợ Bến
ThànhQua cầu Hóa An, rẽ bên tay trái vào đường Huỳnh Văn Nghệ, chạy
xe khoảng 30 phút, tôi rẽ phải vào con đường sạch sẽ, thoáng mát và đầy cây
xanh, để đi đến Văn Miếu Trấn Biên. Bên kia đường, có một công viên rộng dành
riêng cho người đi bộ, thấy dấu vết xây dựng còn mới. Như tên gọi, Văn Miếu Trấn
Biên có cách bố trí các công trình tượng tự như Văn Miếu Quốc Tử Giám, Hà Nội,
khiến trí óc tôi không khỏi quay lại những ngày đi thi Đại học và cái khoảnh khắc
sờ đầu cụ rùa đội bia để lấy thêm chút tự tin cùng may mắn thi cử.
Ngay phía sau cổng vào là một chòi lớn có mái che, bậc tam cấp
bằng đá xám. Loại ngói lợp mái chòi là ngói xanh, bên dưới được tráng vữa vuông
vức. Mái ngói vì thế, mang nhiều tác dụng trang trí hơn là đem đến sự ấm áp hay
mát mẻ. Chòi che cho tấm bia đá cao độ 2m khắc chữ 2 mặt một bài thơ 8 khổ phỏng
theo “Bình ngô đại cáo” kể về truyền thống đấu tranh và tinh thần quật cường của
nhân dân Đồng Nai từ ngày khai phá vùng đất, qua chiến tranh, đến phát triển
công nghiệp ngày nay. Một bài thơ khích lệ tinh thần dân tộc tạc trên bia đá có
lẽ được tạo nên từ loại đá được khai thác từ mỏ đá Hóa An. Tôi cứ ảm ánh mãi cụm
từ “xây nền dân chủ” ở cuối khổ 4, đến nỗi mất một lúc mới nhận ra nhóm 3 cô
gái diện đầm ngắn đang thử tạo dáng các kiểu trước anh thợ chụp hình và mấy cặp
trai gái đang trò chuyện rôm rả trên lầu Khuê Các gần đó.Mái ngói Văn MiếuCác cô chú bảo vệ và lao công đang to tiếng gì đấy về chuyện
có ai đó chốt cửa bên trong một căn nhà vì ngờ có người vô tiểu bậy. Các căn
nhà khác cũng đóng cửa im ỉm. Chỉ có tòa chính điện thờ tượng Bác Hồ cùng các
danh nhân đất Việt và nhà truyền thống là mở rộng cửa. Tôi lang thang một lúc
thì đến “Văn Vật Khố” là cái kho chứa những sản phẩm mỹ nghệ truyền thống mang
nhiều ý nghĩa lịch sử của vùng đất Đồng Nai. “Văn Vật Khố” được xây dựng nên từ
những vật liệu tách ra từ phòng trưng bày sản phẩm của trường Mỹ nghệ Biên Hòa
xưa. Phòng được hiệu trưởng trường lúc bấy giờ, ông bà Balick, xây dựng từ năm
1933 [3]. Đến năm 1999, phòng được di chuyển và xây dựng lại tại Văn Miếu như
ngày nay. Với lối kiến trúc đồng nhất trong cả Văn Miếu, phải để ý đến vẻ cũ kỹ
của cánh cửa gỗ chạm hoa mai sáu cánh, đến hai bức phù điêu “hoa và chim” gần
sát chân tường, đến hàng cột ốp gạch gốm màu xanh chen tím trang trí hoa lá
cách điệu, mới nhận ra căn nhà có nhiều khác biệt so với xung quanh.Phù điêu ở Văn Vật Khố 2Đoán chừng, có lẽ tôi đã nhìn được tận mắt, sờ tận tay những
mảnh gốm Biên Hòa xưa với lớp “men xanh đồng trổ bông”. Nhưng để cho chắc chắn,
tôi lại tiếp tục lần mò xem xét những công trình bằng gốm ở những nơi khác. Lần
này, tôi tìm đến với “Đài kỷ niệm”, một công trình không hề xa lạ với người dân
Biên Hòa, bởi nằm ngay ngã tư trung tâm, đường Nguyễn Ái Quốc và đường 30/4, mà
muốn đến đó, buộc phải chạy ngược ra lại về phía cầu Hóa An.Công viên Thư việnBiên Hòa không thiếu cây xanh và công viên, nhỏ to đủ cả. Chạy
dọc theo con đường Nguyễn Ái Quốc, tôi đôi lần chứng kiến trẻ con đá bóng trong
những công viên nho nhỏ cạnh đường. Ngay tại vị trí “Đài kỷ niệm” cũng có một
công viên như vậy. Ngay gần “Đài kỷ niệm” có một công viên rộng, bên trong là Bảo
tàng và thư viện thành phố, cũng là nơi diễn ra các hoạt động sinh hoạt cộng đồng.
Tôi gửi xe ở trong công viên, nhằm vào cuối giờ chiều mát mẻ. Góc này là quán
cà phê cóc với vài chiếc ghế nhựa, góc kia có hai chú bé đang chơi cầu lông bên
cạnh anh chàng đang ngủ một cách vô tư trên ghế đá mặc kệ già trẻ lớn bé đi bộ
thể dục xung quanh. Dưới cây cổ thụ, hai bàn cờ, bên già, bên trẻ đang chăm chú
say sưa với xe pháo mã. Cạnh chỗ gửi xe, hai cô gái đang chuẩn bị cho xe cá
viên chiên để bán vào buổi tối. Ít giờ nữa, khi vòng đu quay sáng đèn, ở đây lại
tấp nập trẻ con người lớn, giờ vẫn còn sớm lắm.
Về kiến trúc “Đài kỷ niệm” phỏng theo “cửa Ngọ Môn” (Huế)
trên đỉnh có chạm nổi biểu tượng âm dương, phía dưới có 3 chữ tiếng Hoa “Chiến
sĩ đài” nên còn có tên khác là “Đài chiến sĩ”. Nhìn qua dễ hiểu nhầm là một cổng
chào, nếu không chú ý đến tấm bia khắc 4 chữ Hán “Vị quốc vong khu” đặt trong
Đài và bát lư hương phía trước. Hai bên đài, trên bậc tam cấp có 2 bức tượng kỳ
lân màu xanh ngọc đậm. Dưới chân là 4 tượng rồng nhìn về 4 hướng đã ít nhiều bị
mài mòn, đứt râu, kèm theo tấm biển nhắc nhở “không va chạm làm ảnh hưởng đến
hiện vật”. Về phía xa sau lưng “Đài tưởng niệm”, có một “đài tưởng niệm” khác,
nhỏ hơn, hình quyển sách, trích hai trang lời của Bác Hồ (lúc bấy giờ vẫn lấy
tên là Nguyễn Ái Quốc) đại ý nói về việc tội ác của thực dân Pháp đã đem người
dân Đồng Nai ra chiến trường Châu Âu để chiến đấu bảo vệ mẫu quốc. Pháp cho xây
“Đài kỷ niệm” vào năm 1923 như một cách để ghi công “tưởng niệm người Việt trận
vong”. Chuyện lịch sử ai đúng ai sai như thế nào, quan trọng hay không, rồi có
lúc người đời cũng có câu trả lời. Chỉ biết khi ông cụ đang dỗ dành cho đứa
cháu nhỏ ăn miếng cháo tươi cười với tôi thì “Đài kỷ niệm” này thực đã đi vào đời
sống hằng ngày của người dân Biên Hòa rồi.
Nếu tiếp tục xuôi theo con đường Nguyễn Ái Quốc, đến
lúc gặp đường Cách Mạng Tháng Tám chạy dọc sông Đồng Nai, sẽ thấy một đài phun
nước nhỏ tên “Quảng trường sông Phố”. Tượng đài phun nước là một dĩa gốm lớn,
kê trên 3 chú “Cá hóa long”, mình cá đầu rồng được hoàn tất từ năm 1970. Đây
cũng là sản phẩm của thầy trò trường Mỹ nghệ Biên Hòa. Tương truyền, trường đã
tổ chức thi tuyển để chọn ý tưởng và chọn những thợ gốm lành nghề nhất để thực
hiện công trình này. [4]
Nhìn qua bên kia đường, thấy biển đề “Nhà văn hóa thiếu nhi tỉnh
Đồng Nai”, tôi gửi xe đi vào. Được biết, với khuôn viên vừa phải đây từng là
dinh của tỉnh trường Biên Hòa, sau là tư dinh tướng tư lệnh vùng III, nay là nơi
người dân sinh hoạt, bách bộ thể dục, chơi bóng rổ… Cũng gần tới giờ nhà văn hóa
đóng cửa, tôi vừa quan sát các hoạt động xung quanh, vừa tìm một công trình gốm
khác là “Trụ rồng” nghe nói được thực hiện trước năm 1945. Phía sau, tượng đài
nhỏ tạc hình chị Võ Thị Sáu, là một trụ hoa văn màu xanh. Thì ra, phía này mới
là cổng chính của Nhà văn hóa. Trụ gốm xanh ngọc tạc hình ba con rồng quay đầu
về ba hướng, đỡ một quả cầu lửa - mây sử dụng kỹ thuật nắp nỗi, chạm lọng. Nhìn
gần, có những đốm “bông” lốm đốm của loại men “xanh đồng trổ bông” mà giờ đây
tôi có thể chắc chắn rằng mình đã được thấy tận mắt. Đây đó có những chỗ nứt vỡ,
được trám lại bằng xi măng mà có thể dễ dàng nhận ra vết dấu. Tò mò, cô bé con
cũng được mẹ cho bắt chước tôi sờ tay lên chiếc mũi rồng bóng loáng, quá bóng
so với toàn bộ công trình nhuốm màu bụi bặm đặt trong một bồn nước cạn khô này.Men xanh đồng Biên Hòa Vert de Bien HoaRời nhà văn hóa, tôi xuôi đường Cách Mạng Tháng Tám về phía
Cù lao phố, nơi những người Hoa và người Việt di cư đã phát hiện khi tiến hành
khai thác trên quy mô lớn vùng đất Đồng Nai; cũng là thương cảng sầm uất một thời
vì có vị trí thuận lợi cho giao thương miền xuôi miền ngược và là một trong những
trung tâm thủ công nghiệp xưa [5]. Khác với những nhận định ban đầu, Cù lao tuy
chưa thoát hẳn khỏi vẻ thôn quê, đã có nhiều dấu hiệu của sự đô thị hóa. Sự đô
thị hóa không chỉ làm thay đổi bộ mặt Cù lao mà còn kéo theo đó nhiều sự thay đổi
về cơ cấu kinh tế khi mà nguồn nguyên liệu làm gốm cũng là nguồn nguyên liệu
dùng sản xuất các sản phẩm phục vụ xây dựng. Khu vực xung quanh cầu Hiệp Hòa và
con đường chạy mới xuyên Cù lao, nhà cửa mới xây dựng nhiều, những quán cà phê,
cửa hàng không thiếu. Tôi lần theo con đường lổn nhổn gạch đá cắt ngang con đường
mới trên, tìm đến với đền thờ cụ Nguyễn Hữu Cảnh. Đập vào mắt ngay cổng chính
đi vào là tấm bia đá lớn trong chòi lợp ngói xanh. Bia khắc những dòng thơ kể lịch
sử của đền và ca ngợi công đức của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Đồng Nai. Hàng ghế
đá san sát với dòng chữ “Đơn vị thanh niên khối dân chính Đảng” trên lưng ghế
chạy dọc hai bên lối dẫn vào chòi và đền thờ chính bên tay phải, chạy ra khu vực
đặt tượng cụ Nguyễn Hữu Cảnh bên tay trái và ra cả bờ sông Đồng Nai thấp ở bên
dưới. Dưới tấm biển lớn đỏ chói chắn tầm nhìn ra phía Cầu Gành “Từ thuở mang
gươm đi mở cõi, ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long” dựng trên những cọc thép,
anh bạn trẻ đang giỗ giành cô người yêu giận dỗi. Trước chòi, một bác đang chạy
vòng vòng thử chiếc mobylette, trong khi những người khác tựa rào quan sát
quang cảnh bên trong. Cách đó, cũng bên kia hàng rào về phía sông Đồng Nai, mấy
chiếc ghế bố đôi hướng ra bờ sông chưa có người ngồi vì có lẽ quán cà phê chưa
tới giờ đông khách. Tôi ra về ngay lúc những bóng đèn huỳnh quang trong chòi được
bật lên. Nhìn lại, đền thờ chính thờ cụ Nguyễn Hữu Cảnh vẫn đóng cửa, ánh sáng
từ những bóng điện đường hắt lên mái ngói khung gỗ ánh màu vàng vọt.Bản đồ đường đi đến các địa điểm tại TP Biên HòaVòng tròn
màu xanh ghi chú những điểm dừng chân.Chú thích:
[1] Còn có tên gọi khác là “Vert de Bien Hoa” do kết hợp những
kỹ thuật gốm Hoa, Khơ Me và Limoges của Pháp cùng với nguyên liệu địa phương tạo
thành. Tham khảo thêm tại link
http://khanhhoathuynga.wordpress.com/. Về gốm có thể đọc thêm ở nhiều tài liệu và diễn đàn khác như
http://www.phongluuqb.com
http://www.luanvy.com/ hoặc
tìm đọc “ThS. Dũng, Phan Đình, Thông, Nguyễn Văn, Tri, Nguyễn Yên, GỐM BIÊN
HÒA, NXB Đồng Nai - 2004”
[2] Hiện tượng sản phẩm gốm biến đổi màu men dưới ảnh hưởng
khác nhau của nhiệt độ khi nung trong lò, phụ thuộc vào vị trí của sản phẩm
trong lò và khả năng khống chế lửa của người thợ. Vì các lo nung xưa theo cách
thủ công nên tỷ lệ thành phẩm thành công sau khi nung, màu men biến đổi như ý
muốn thường thấp. Với phương pháp hiện đại hơn, như dùng lo nung ga, áp dụng
các công nghệ điều chỉnh, đo lường nhiệt độ lò, ngày nay, tỷ lệ thành phẩm đạt
chất lượng và “hỏa biến” theo ý muốn đã tăng cao lên rất nhiều.
[3] Ông Balick, hiệu trưởng trường Mỹ nghệ Biên Hòa năm, trưởng
Ban Đồng. Bà Mariette Balick, vợ ông, là trưởng Ban Gốm. Ông bà đã ở Việt Nam
trong khoảng thời gian năm 1923 - 1944. Dưới sự điều hành của ông bà, trường Mỹ
nghệ Biên Hòa đã có những thành tựu nổi bật, sản phẩm được khách hàng các nước
Pháp, Nhật ưa chuộng. Chính bà Balick đã sáng tạo ra loại men nổi tiếng trên.
[4] Theo “Anh, Nguyễn Minh, Công trình xưa gốm Biên Hòa” thì
Đài phun nước “Cá hóa long” được thực hiện với mục đích chỉnh trang lại Công
trường Sông Phố theo yêu cầu và đơn đặt hàng của tỉnh Đồng Nai cho trường Mỹ
nghệ Biên Hòa năm 1968. “Phác thảo bằng đất ba con cá hóa long đang đỡ cái mâm
(đĩa) của giáo viên điêu khắc Đặng Văn Tứng, học trò ông được chọn. Mẫu con cá
này nhà trường đã thực hiện để trang trí chợ cá Biên Hòa trước năm 1945. Sau
khi sữa chữa và được tỉnh chấp thuận, ông bắt đầu cho triển khai lớn theo thiết
kế. Một số giáo viên và nghệ nhân tham gia thực hiện: cái mâm lớn được làm bởi
“vua xoay” của làng gốm Biên Hòa - Hai Bồi, hoa văn trang trí xung quanh mâm lớn
được thực hiện bởi đại diện cuối cùng của kỹ thuật nắn bộng - Ba Thọ, men gốm
là bởi hai nghệ nhân gốm Ba Trầm và Hai Trâm...”
[5] Theo
http://vi.wikipedia.org/, Cù lao Phố là vùng đất
quan trọng gắn với lịch sử phát triển của vùng đất Biên Hòa, Đồng Nai.
12/8/2012 Đinh Lê Na
12/8/2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét