Bửu Chỉ,
người đứng trên miệng núi lửa
Tháng cuối năm, nỗi buồn mênh mang khó tả. Chênh vênh giữa
ngày tháng cũ đã qua và ngày khởi đầu của một năm mới sẽ đến. Chính giữa cái
tháng Chạp, với màu trời xám chì và gió, gió từ đâu tới, thổi ngược từ sông
Hương lên đến cái góc quán cà phê mang tên Thiên Đường… Bắt đầu từ
đó, sau đó, Bửu Chỉ đã ra đi vĩnh viễn, tám năm, rồi sẽ qua chín năm, mười năm… Không còn gặp nhau, ở Huế, ở Sài Gòn hay Hà Nội nữa, nhưng những kỷ
niệm cùng bạn thì còn in dấu chưa phai.NGƯỜI ĐỨNG TRÊN NÚI LỬA, SƠN DẦU TRÊN BỐ. BC 2OOOHuế, căn nhà xưa của thân sinh. Chỉ vẫn vậy. Bàn thờ gia đình
ở căn phòng rộng phía trước, bàn thờ Chỉ ở bên trái, còn để cặp kính tròn gọng
bạc, cặp kính mà Hoàng ngọc Biên đã mua ở tiệm bán đồ xưa cũ tặng tôi năm mới
qua ở Utah, Chỉ rất thích, và tôi đã tặng lại. Mỗi lần về Huế đều ghé về
thắp nhang, khi nào cũng có Vy và các cháu tiếp ở bộ salon bên góc mặt, trên tường
còn treo nhiều tranh của Cụ Ưng Thuyên, thân phụ Bửu Chỉ, những bức tranh rất
hiếm quý ấy theo màu thời gian đã hư hao nhiều. Tranh Chỉ thì còn để rất nhiều
bức khổ lớn bên phòng phía trái. Vy chăm sóc kỹ vì sợ bị ẩm mốc. Vy đi về giữa
hai nhà trong Thành Nội và Vỹ Dạ. Guitare, tên ở nhà của cháu nội nay đã lớn. Chỉ rất mê đàn guitare và hát rất hay, say sưa, những bản nhạc tiền chiến, nhạc
Phạm Duy và nhạc của người bạn mà Chỉ luôn thương quý, vẽ nhiều tranh và
dessins đẹp: Trịnh công Sơn.
Nhớ lại, những năm cuối thập niên 60, đầu 70, Bửu Chỉ còn rất
trẻ, đang là sinh viên trường Luật - Huế, nhưng lại rất say mê hội họa, và
trong các phong trào sinh viên tranh đấu ở Huế và Sài Gòn lúc đó, Bửu Chỉ được
xem như là một nghệ sĩ chiến sĩ (artiste militant) bởi sự dấn thân trong cuộc sống
lẫn nghệ thuật, dù chính giai đoạn sau này Bửu Chỉ mới đi vào con đường sáng
tác thật sự. Theo dõi những chặng đường tìm tòi và sáng tác của Bửu Chỉ, có thể
thấy từng giai đoạn khá rõ nét trong tranh của anh.
Giai đoạn đầu (70-74) là giai đoạn “đen”, hay dùng chữ như Huỳnh
Hữu Ủy - hội hoạ trước nghịch cảnh - giai đoạn anh sáng tác những bản
vẽ bằng bút sắt mực nho, mạnh mẽ, đau nhói. Chất liệu này thích hợp cho phong
trào đấu tranh mà anh là chứng nhân, là người chiến đấu. Tranh ở giai đoạn này,
theo Bửu Chỉ: ’’… Nếu cần dùng một danh từ để tạm định nghĩa khuynh hướng sáng
tác của tôi, tôi xin dùng chữ Biểu tượng xã hội (Expressionisme Socialiste).HẢI ĐƯỜNG, SƠN DẦU TRÊN BỐ 80X100CM. BC 1981Giai đoạn tiếp theo từ năm 1975 là giai đoạn “trầm
tĩnh”. Huế sau 75 cũng như nhiều thành phố khác đang trong những ngày đầu
nhiễu nhương… Bửu Chỉ với tâm hồn nhạy cảm của một nghệ sĩ và một
trái tim nhiều ưu tư của người trí thức, vẫn đương đầu, vẫn dấn thân trước một
khung cảnh đổi mới không mấy tốt đẹp. Và ta bắt gặp ở anh sự trầm tĩnh - thái độ
cần thiết để nhìn lại và nhìn suốt vấn đề con người bằng tất cả lương tâm của một
con người, một công dân… Vì vậy dễ dàng bắt gặp ở anh cái thế giới bàng bạc những
nỗi niềm, những tình cảm và suy nghĩ khát khao được bày tỏ. Chính từ đó, Bửu Chỉ
đã hình thành một quan niệm riêng về nghệ thuật. Nhà thơ Trần Hoàng Phố (Bửu
Nam, người gần gũi bên giòng họ Bửu Chỉ) đã nhận xét rất chí lý: “Không gian
vô cùng tận của vũ trụ, nơi nhật nguyệt mang mang soi tỏ, ở trong đó con người
vừa nhỏ bé, vừa kỳ vĩ, nhỏ bé trong thân phận và kỳ vĩ trong khát vọng và suy
tưởng muốn ôm choàng tất cả sự sống và nỗi đau - nỗi sầu muộn và niềm hy vọng
kiếp nhân sinh, hóa thân thành sự đam mê sáng tạo nên các tác phẩm nghệ thuật
như là sự chống trả với bước đi tàn bạo của thời gian”. (Thế giới
tranh và phong cách Bửu Chỉ - Diễn Đàn, Paris số 125/ 1-2003).ĐINH CƯỜNG - BỬU CHỈ, CAFÉ LIỄU QUÁN HUẾ 1975Ám ảnh về thời gian thấy rõ trên những con số La Mã và hai
chiếc kim đồng hồ, con người hay hóa thân của người nghệ sĩ treo lơ
lửng trên sợi giây đen trong rất nhiều tranh sơn dầu của anh. Bửu Chỉ không chọn
trước cho mình một trường phái nào. Chính khát vọng muốn bộc bạch mọi điều với
cuộc đời quyết định cho anh một ngôn ngữ tạo hình mang đầy cá tính và
bản sắc Huế - đó cũng là phong cách của anh - và tất nhiên, anh cũng
đã tìm cách vươn tới một ngôn ngữ hội họa có tính quốc tế. Tên tuổi anh đã được
ghi nhận trong rất nhiều sách, báo của những nhà phê bình nghệ thuật uy tín.
Giai đoạn sau cùng có thể nói là giai đoạn “tâm
linh“, suy nghiệm nhiều về triết lý của đạo Phật, anh phát biểu: “Sáng tạo
nghệ thuật là nổ lực tạo lập thế cân bằng tâm linh cho con người khi cuộc sống
vốn ngắn ngủi và chông chênh“ (Catalogue triển lãm tranh Trịnh công Sơn
- Bửu Chỉ - Đinh Cường tại Tự Do Gallery, Saigon từ 20.8 đến 7.9.2010).
Tiềm năng và tiềm tính trong tranh sơn dầu Bửu Chỉ càng thăng
hoa, anh đã đi bước đi ngàn dặm. Tranh anh mang tính triết lý và thơ mộng, thường
dùng bố cục có suy tính (composition raisonnée), chú trọng cách xếp đặt, về những
đường lực thế nào cho nhịp nhàng, mạnh mẽ và tạo dáng bằng những đường viền chắc
chắn, không gian tranh được đắp dày rất kỹ. Anh cũng sử dụng ánh sáng như một
phương tiện diễn đạt tư tưởng, cảm xúc, có thể quan niệm như lối chói sáng trên
sân khấu, và thường chú tâm đến khối thể (volumes), cũng vì thế tranh của Bửu
Chỉ rất gần với điêu khắc.
Bửu Chỉ, bằng nghệ thuật suy ngẫm, khám phá cho ta thấy rằng,
từ những nụ hoa hải đường hồng tía đến những cây đèn dầu thô sơ, những bình
vôi, ly cà phê đổ, que diêm tắt, từ chim bồ câu cho đến chân dung
Chúa, Phật… đều hiện xuống tác phẩm của anh đầy quyến rũ. Riêng tôi, còn thấy Bửu
Chỉ như một hóa thân của “Người đứng trên miệng núi lửa” (*), một sức sáng
tạo mãnh liệt đã bị tro than cuốn đi. Bửu Chỉ mất lúc 2 giờ 34 phút chiều
14.12.2002 tại Huế, 54 tuổi.
(*) Một trong những tác phẩm sau cùng của Bửu Chỉ.
14/12/2010 Đinh Cường
14/12/2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét