Thứ Năm, 20 tháng 6, 2024

Cuộc tình buồn 2

Cuộc tình buồn 2

Chương VI
Thật kỳ lạ, Thérèse chỉ nhớ lại những ngày tiếp sau hôm Anne và ông bà La Trave ra đi như một thời kỳ hôn mê. Ở Argelouse, coi như mặc nhiên nàng phải tìm cách giải quyết thỏa đáng việc buộc anh chàng Azévédo buông tha cô bé, lại chỉ thấy nàng thong dong hết ăn rồi ngủ. Bernard đồng ý không ở nhà mình mà qua nhà Thérèse, tiên nghi hơn, lại có bà cô Clara, khiến họ khỏi phải lo những việc lặt vặt. Người khác thì dính líu gì đến Thérèse? Họ cứ lo liệu lấy. Chẳng có gì khiến nàng thích thú hơn là cứ giữ trạng thái ngây dại này cho đến khi được giải thoát. Sáng nào, Bernard cũng nhắc việc nàng hứa gặp Jean Azévédo, khiến nàng nổi xung. Thérèse sừng sộ với anh, nàng bắt đầu cảm thấy khó mà chịu đựng nổi anh. Có thể do tình trạng thai nghén, như Bernard vẫn tưởng, nên sự cáu gắt chẳng có gì lạ. Chính anh lúc đó cũng chớm bị tác động bởi nỗi ám ảnh chung của cả dòng họ, dù rằng ít khi nó hiện ra trước năm ba mươi tuổi: nỗi sợ chết nơi một thanh niên vạm vỡ cường tráng thoạt tiên khiến người ta kinh ngạc. Nhưng nói thế nào khi anh cả quyết:
- Mấy người không biết tôi cảm thấy điều gì đâu…? Thân thể những kẻ ăn nhiều, thuộc tầng lớp nhàn rỗi và quá dư thừa, chỉ có bề ngoài là khỏe mạnh. Cây thông trồng trên đất màu mỡ tất nhiên tăng trưởng nhanh, nhưng ruột cây mục ruỗng rất sớm, tuy đang lúc tươi xanh, vẫn phải đốn bỏ.
- Bực thật!
Người ta nói với Bernard, nhưng anh cảm thấy rõ cái tì vết ngay ở bản chất của sự rạn nứt đó.
Thế rồi thật không tưởng tượng nổi, anh không ăn nữa, anh không biết đói.
- Sao anh không thử đi khám xem?
Anh nhún vai, làm ra vẻ dửng dưng. Thực ra, sự mơ hồ dù sao cũng không đáng sợ bằng một phán quyết tử hình, có lẽ vậy. Ban đêm, đôi khi một tiếng rên khò khè khiến Thérèse giật mình tỉnh dậy. Bernard nắm lấy tay nàng, áp lên ngực trái mình cho nàng nghe hơi thở anh ngắt quãng từng cơn. Nàng đốt ngọn nến, đứng lên, rót một ít valérinate[7] vào ly nước. Tình cờ nào xui khiến thứ thuốc trộn này công hiệu! Sao nó không gây chết người? Chẳng có gì xoa dịu, ru ngủ thực sự bằng một giấc ngủ ngàn thu. Kẻ hay kêu rên kia, sao anh lại quá sợ hãi cái điều giúp mình mãi mãi nguôi đau?
Anh ngủ lại trước nàng. Làm sao nằm chờ giấc ngủ bên cái thân xác to lớn, mà tiếng ngáy đôi khi gợn nỗi kinh hoàng? Nhờ Trời, anh không gần nàng nữa. Hình như đối với anh, trong mọi thao tác, làm tình là nguy hiểm cho tim anh hơn cả. Gà gáy sáng đánh thức các trang trại. Trong gió đông, chuông cầu kinh từ nhà thờ Saint Clair đổ liên hồi, cuối cùng Thérèse cũng thiếp đi. Một lần nữa, gã đàn ông trở dậy. Anh mặc vội quần áo, theo lối nhà quê, chỉ vục đầu cho qua loa trong nước lạnh. Rồi như con chó, anh lẩn nhanh xuống bếp, vốn khoái thức ăn thừa trong chạn, anh đứng thẳng lưng ăn vội mẩu đùi gà, lát thịt chín giầm mỡ, thêm chùm nho và miếng bánh mì xát tỏi, đấy là bữa ăn ngon duy nhất trong ngày của anh. Anh vứt xương cho Flambeau và Diane nhai trèo trẹo. Sương mù phảng phất hương mùa thu. Giờ này, Bernard không còn đau nữa, mà cơ thể anh lại như tràn trề nhựa sống thanh xuân. Lát nữa đàn chim cu sẽ bay qua, phải lo mấy con chim mồi, làm mờ mắt chúng. Đến mười một giờ, anh về, lúc đó Thérèse vẫn còn ngủ.
- Thế nào? Còn gã Azévédo kia? Em biết là ở Biarritz, mẹ đang mong ngóng tin tức qua hòm thư lưu trữ chứ?
- Thế còn tim anh thì sao?
- Đừng nhắc đến tim anh. Chỉ nghe nói tới là anh lại cảm thấy nhói đau. Tất nhiên, như thế là quá kích động. Em cũng nghĩ là anh bị kích động phải không?
Chưa bao giờ nàng đáp đúng ý anh:
- Ai biết được. Chỉ có anh mới rõ mình cảm thấy thế nào thôi. Đâu phải vì lẽ cha anh chết do viêm phổi… nhất là vào tuổi anh… Cố nhiên bệnh tim là điểm yếu của dòng họ Desqueyroux. Điệu bộ sợ chết của anh nom buồn cười quá! Bernard ạ! Có bao giờ anh cảm thấy thấm thía như em về cái vô tích sự của mình không? Không à? Anh không nghĩ rằng cuộc sống của những người như chúng ta, chẳng đã giống cái chết một cách kinh khủng rồi sao?
Anh nhún vai. Nàng làm anh nghẹn họng bởi mớ ý tưởng ngược đời của nàng. Ra vẻ tài trí thì có khó gì: cứ vơ hết những gì trái với lẽ thường. Nhưng nàng sai lầm to, anh tiếp, với anh cần chi phải lắm lời, tốt hơn nên dành đến lúc gặp mặt gã Azévédo.
- Em biết là gã sẽ rời khỏi Vilméja vào giữa tháng mười chứ?
Ở Villandraut, ga xép cuối cùng trước khi đến Saint Clair, Thérèse nghĩ: “Nói sao cho Bernard hiểu mình không hề yêu gã thanh niên đó? Chắc tại anh tưởng là mình say mê gã. Như tất cả những ai chưa từng yêu tha thiết, anh nghĩ rằng tội ác mà người ta gán cho nàng, chỉ có thể là vì tình mà thôi”. Bernard phải hiểu, là dạo đó, nàng không hề ghét bỏ anh, dẫu cho anh thường quấy rầy nàng, nàng không tin là một người đàn ông khác có thể giúp được nàng điều gì. Xét cho cùng Bernard đâu đến nỗi tệ. Nàng ghét cay ghét đắng những nhân vật khác thường được mô tả trong tiểu thuyết, mà ta chẳng bao giờ gặp ngoài đời.
Người đàn ông cừ khôi duy nhất mà nàng được biết, đó là cha nàng, dù nàng có tô vẻ thêm đôi nét cao quý cho người đảng viên cấp tiến bướng bỉnh và đa nghi đó. Ông hoạt động trên nhiều lãnh vực: là nhà công nghiệp, ngoài một trại cưa ở B, ông còn tự khai thác nhựa của mình và của phần đông họ hàng trong một cơ xưởng ở Saint Clair. Là kẻ đầu cơ chính trị, đối với những ai bị thiệt hại vì thái độ đanh thép của ông; nhưng rất được lòng ở tỉnh. Và hết sức khinh thường phụ nữ! Kể cả Thérèse, vào cái thuở ai cũng khen nàng thông minh sắc sảo. Nhất là từ khi xảy ra thảm kịch.
- Tất cả nếu không ngu xuẩn, cũng đều mắc bệnh cuồng trí.
Ông nói với viên luật sư. Kẻ chóng giáo hội đó, lại rất dễ cả thẹn. Dù đôi khi cũng ngâm nga một điệp khúc của Béranger, ông không chịu nổi việc người ta động đến một số vấn đề kín đáo, lúc đó, mặt ông đỏ rần như cậu bé mới lớn. Qua ông de la Trave, Bernard được biết rằng ông Larroque lúc cưới vợ hãy còn tân!
Từ khi góa vợ, vẫn mấy vị ấy bảo, chưa thấy ông có tình nhân bao giờ. “Cha em đúng là một người kỳ dị!
Vâng, đó là một kẻ kỳ dị. Nếu ở xa, nàng tạo ra cho mình một hình ảnh tươi đẹp về ông, thì khi đến gần, Thérèse lại chán ngán cho sự hèn hạ của ông. Ông ít khi về Saint Clair, thường ghé Argelouse hơn, vì ông không thích gặp ông bà La Trave. Trước mặt họ, dù bị cấm bàn chuyện chính trị, cuộc tranh luận ngớ ngẩn ấy vẫn nổ ra lúc ăn cháo và chẳng mấy chốc đã trở thành gay gắt. Thérèse thấy xấu hổ nếu phải xen vào, nàng tự hào đã không hé môi, trừ phi người ta đụng đến vấn đề tôn giáo. Lúc đó, nàng xông vào tiếp cứu ông Larroque. Ai cũng lớn tiếng, đến nỗi cả bà cô Clara cũng nghe ra vài câu lõm bõm, thế là bà lao vào cuộc cãi vã. Và với thứ giọng ghê rợn của người điếc, bà tha hồ biểu lộ nhiệt tình của một bà già cấp tiến “biết rõ những gì xảy ra trong các tu viện”. Kỳ thực, Thérèse nghĩ, bà mộ đạo hơn bất kỳ ai trong dòng họ La Trave, nhưng luôn khai chiến với đấng chí tôn đã bắt bà phải điếc và xấu xí, để bà chết mà chưa hề được yêu, chưa một lần ân ái.
Từ lúc bà La Trave đứng dậy rời khỏi bàn ăn, người ta nhất trí nhau nên tránh những lý luận trừu tượng, Vả lại, chính trị không thôi cũng đủ khiến người ta nổi khủng, dù tả hay hữu họ đều đồng ý cái nguyên tắc cơ bản: quyền sở hữu ruộng đất. Nhưng có nên hay không, khoanh đám cháy lại? Và nếu người ta cam chịu, thì trong chừng mực nào? Thérèse, người “có ý thức sở hữu trong máu” muốn rằng vấn đề phải được đặt ra, nhưng nàng ghét cái thói giả dối bề ngoài, mà hai gia đình Larroque và La Trave khoác lên tham vọng chung của họ. Khi cha nàng tuyên bố:
- Mãi mãi trung thành với nền dân chủ!
Nàng ngắt ngang:
- Bà ơi! Không cần đâu, ở đây chỉ có hai cha con mình thôi mà.
Nàng nói rằng trong chính trị cái cao cả nhất cũng khiến nàng ghê tởm, nàng không thể hiểu nổi cái bi thảm của cuộc xung đột giai cấp, trong một xứ sở mà kẻ nghèo nhất cũng là nghiệp chủ, chỉ mong được giàu thêm, nơi mà sở thích chung về đất đai, săn bắn, cái ăn uống, đã tạo ra giữa mọi người, dù tư sản hay nông dân, một tình nghĩa anh em gắn bó. Hơn nữa Bernard có học thức, thiên hạ nói là anh đã chui ra khỏi hang. Cả Thérèse cũng lấy làm sung sướng thấy anh là người có thể chuyện vãn được:
- Tóm lại, khá hơn đồng bạn nhiều…
Nàng nhận xét anh thế đó, cho đến ngày gặp gỡ Jean Azévédo.
Đó là khoảng thời gian mà cái mát mẻ ban đêm còn đọng lại dến suốt buổi sáng hôm sau. Và ngay lúc dùng bữa ăn nhẹ, dù trời nóng bức thế nào, từ xa, một chút sương mù đã báo hiệu hoàng hôn. Những con chim cu đầu tiên bay qua. Và Bernard chỉ trở về lúc chiều tối. Tuy nhiên, ngày hôm ấy, sau một đêm khó ngủ, anh đi thẳng một mạch lên Bordeaux, để khám bệnh.
“Bấy giờ, tôi không ước ao gì cả - Thérèse nghĩ. – Tôi đi dạo trên đường khoảng một giờ, vì một phụ nữ có mang cần phải đi lại đôi chút. Tôi tránh các khu rừng, cứ mỗi lúc lại phải dừng chân vì các bẫy lưới chim cu, huýt gió, chờ đến khi gã thợ săn lên tiếng cho phép mình đi tiếp. Nhưng có khi, một tiếng huýt dài đáp lại: Một bầy chim vừa sà xuống rặng sồi; buộc mình phải ẩn núp. Rồi tôi quay về nhà; ngồi mơ màng trước lò sưởi hay bên bếp lửa, tất cả đều do bà cô Clara phục dịch. Như một vị thần không thèm nhìn kẻ phục sự mình, tôi không mảy may chú ý đến cô gái già lúc nào cũng lải nhải bằng giọng mũi, hết chuyện bếp núc đến điền trang; bà nói, nói mãi để khỏi phải nghe. Hầu như bao giờ cũng là những giai thoại đau thương liên quan đến những tá điền bà săn sóc, chăm lo với sự tận tâm sáng suốt, các cụ già lâm cảnh đói khát, suốt đời lam lũ, người tàn tật bị bỏ rơi, phụ nữ ở đợ phải làm việc nặng nhọc quá mức. Với vẻ hân hoan, bà cô Clara kể lại, qua thứ thổ ngữ ngây ngô, những lời nói hung ác nhất của họ. Thực ra bà chỉ thương mình tôi, thế mà tôi chẳng buồn nhìn thấy bà quì dưới chân, tháo giày ra, cởi vớ, xoa nắn, sưởi ấm bàn chân tôi trong đôi tay nhăn nheo của bà.
“Balion đến nhận lệnh mỗi khi có việc phải đi Saint Clait vào ngày hôm sau.
“Bà cô Clara lập danh sách những thức cần mua, gom các toa thuốc của các bệnh nhân ở Argelouse.
“Trước tiên, hãy đến hiệu thuốc, Barquey không có nhiều thì giờ để bào chế thuốc trong ngày đâu…”
Lần đầu tiên tôi gặp Jean… Tôi phải nhớ lại từng tình tiết. Đến đó, tôi chọn chỗ lưới bẫy chim cu bỏ phế, nơi cách đây chưa bao lâu, tôi cùng Anne ăn bữa quà chiều và tôi biết cũng chốn này, từ dạo đó, cô thường hẹn gặp Jean Azévédo. Không, trong tâm trí tôi, đây chẳng phải là một cuộc hành hương, Nhưng những cây thông phía này phía này, quá cao lớn nên người ta khổng thể ngồi rình lũ chim cu: tôi sẽ không quấy rầy các thợ săn. Cái bẫy lưới đó không còn sử dụng được nữa, vì khu rừng chung quanh che khuất chân trời, những ngọn thông cao vút, cách xa nhau không còn chừa khoảng trời thênh thang để người rình nhìn thấy đàn chim xuất hiện. Em có nhớ, mặt trời tháng mười vẫn còn gay gắt, tôi lê từng bước khó nhọc trên lối đi ngập cát, ruồi cứ vo ve bên tôi. Cái bụng sao mà nặng nề! Tôi ước mong được ngồi trên cái băng mục nát trong lều. Tôi vừa mở cánh cửa, một thanh niên đầu trần bước ra; nhác thấy, tôi đã nhận ran gay Jean Azévédo. Thoạt tiên, tôi ngỡ mình vừa phá đám một cuộc hẹn hò, bởi mặt anh có vẻ ngượng nghịu. Nhưng tôi muốn tháo lui mà không xong, cũng lạ là anh ta cứ muốn cầm giữ tôi lại.
- Ồ không, mời bà vào, thưa bà. Tôi xin thề là bà chẳng làm phiền gì tôi cả.
Tôi ngạc nhiên chẳng thấy ai trong túp lều tôi vừa vào, theo lời khẩn khoản của anh ta. Có thể cô mục đồng đã lẻn trốn ngõ khác chăng? Nhưng không một cành cây lay động. Anh ta đã nhận ra tôi, và cái tên Anne de la Trave được nhắc đến đầu tiên. Tôi ngắm nhìn, qua lớp áo tussor, cái chỗ tôi đã xuyên thủng bằng kim găm: đó là sự tò mò tự nhiên chẳng gợn chút đam mê nào. Anh ta có đẹp trai không? Một vầng trán phẳng. Đôi mắt nhung của dòng giống anh. Đôi má bầu bĩnh mà điều tôi vẫn gớm nơi những thanh niên lứa tuổi anh là mụn, dấu hiệu biến động của máu, tất cả những gì mưng mủ, và gan bàn tay hâm hấp, mà anh ta vừa lấy khăn lau trước khi bắt tay tôi. Nhưng cái nhìn nóng bỏng, tôi thích cái miệng rộng lúc nào cũng hé ra, để lộ hàm răng nhọn: mõm của con chó nhỏ hứng tình. Thế còn tôi thì sao? Thân thiết như người nhà vậy. Tôi còn nhớ chưa chi tôi đã lên giọng kẻ cả với điệu bộ trịnh trọng, tố cáo anh ta “đã mang đến sự xáo trộn và chia rẽ giữa một nơi tôn nghiêm”. A! Hãy nhớ lại vẻ sửng sốt không hề giả vờ, giọng cười trẻ trung của anh ta:
- Thế ra bà ngỡ tôi muốn cưới cô ấy sao? Bà ngỡ là tôi khao khát cái hạnh phúc đó ư?
Trong một thoáng, tôi kinh hãi nhận ra cái vực thẳm ngăn cách không cùng giữa nỗi đam mê của Anne và sự hờ hững của chàng trai. Anh ta bào chữa quyết liệt, dĩ nhiên làm sao anh khỏi bị quyến rũ trước một cô gái tuyệt vời như thế? Anh có bị cấm vui chơi đâu, và chính vấn đề hôn nhân không thể đặt ra giữa họ, nên trò chơi đối với anh vô hại. Có thể là anh đã vờ chia sẻ những mơ ước của Anne… chỉ đến khi tôi giận dữ cắt ngang, anh ta mới thành khẩn phân bua rằng chính Anne có thể làm chứng là anh đã biết tự đè nén không dám đi quá xa. Ngoài ra, anh tin chắc là nhờ anh mà tiểu thư de la Trave được biết những phút yêu đương chân thật duy nhất trong cuộc đời buồn tẻ của mình.
- Bà nói cô ấy đau khổ ư? Nhưng thưa bà, thử hỏi nàng còn có gì đẹp hơn để mà chờ đợi nơi số phận mình, ngoài nỗi đau khổ ấy? Tôi đã nghe tiếng tăm bà, tôi biết có thể trao đổi với bà chuyện này vì bà không giống những người ở đây. Trước khi nàng sang ngang, dấn thân vào quãng đời sầu thảm làm dâu một gia đình cố cựu nào đó ở Saint Clair, tôi đã trang bị cho Anne chút vốn cảm giác và mộng mơ – những gì có thể giúp nàng thoát khỏi tuyệt vọng, và dù thế nào đi nữa, khỏi u mê! Tôi không còn nhớ vẻ tự phụ quá mức và tình cảm lai láng đó, có khiến mình bực dọc không, hay tôi lại vì thế mà bàng hoàng?
Thực ra, anh ta nói nhanh đến nỗi lúc đầu tôi không kịp hiểu ra, nhưng sau đó, trí óc tôi quen dần với sự liến thoắng đó:

- Có thể tin rằng tôi mơ ước một cuộc hôn nhân như vậy sao? Neo chân trong vũng cát lầy này, hay đèo bồng một cô gái giữa Paris? Tất nhiên tôi gìn giữ và tôn thờ hình ảnh Anne mãi mãi. Và bà bắt gặp tôi ở đây, đúng vào lúc tôi đang nghĩ đến nàng đấy. Nhưng làm sao người ta có thể tự ràng buộc mình được, thưa bà? Mỗi phút đem đến một niềm vui riêng – một niềm vui khác hẳn mọi niềm vui đã qua.
Vẻ háo hức của con thú non, sự hiểu biết của một người, điều ấy lạ lùng quá khiến tôi chăm chú lắng nghe, không dám ngắt lời. Vâng, đúng là tôi bị mê hoặc rồi! Trời ơi! Sao mà dễ dàng! Nhưng quả là tôi đã bị mê hoặc. Tôi còn nhớ tiếng giậm chân, tiếng lục lạc leng keng, tiếng la hét cộc cằn của bọn mục đồng, từ xa báo hiệu đàn cừu sắp đến gần. Tôi nói với chàng trai rằng, ngồi với nhau thế này trong lều chắc trông dị hợm lắm nhỉ, tôi mong anh đáp là miễn mình đừng gây tiếng động, cho đến khi đến đàn cừu qua hết, tôi sẽ vui hưởng phút yên lặng bên nhau, sự đồng lõa vô tình này (cả tôi nữa, tôi cũng khao khát, và mong ước mỗi phút giây phải mang đến cho tôi cái gì để sống). Nhưng Jean Azévédo lẳng lặng đến mở cửa lều, rồi lẩn ra ngoài, điệu bộ hết sức kiểu cách. Chỉ đến lúc biết chắc tôi chẳng còn thấy gì trở ngại anh mới dừng bước không đưa tôi về tận Argelouse. Chuyến về, có vẻ quá nhanh đối với tôi, dù người bạn đồng hành vẫn có đủ thời gian đề cập đến bao nhiêu là chuyện. Anh đổi mới một cách kỳ lạ nhiều điều tôi ngỡ có biết qua chút ít. Thí dụ về vấn đề tôn giáo, khi tôi lặp lại những gì tôi vẫn quen nói trong gia đình, anh liền cắt ngang:
- Vâng, có thể là thế… nhưng rắc rối hơn nhiều…
Quả nhiên, trong cuộc tranh biện, anh làm sáng tỏ nhiều điềm thật kỳ diệu. Nhưng chúng có thật kỳ diệu đến thế không?... Tôi tin là bây giờ, tôi đã chán mứa cái giọng cầu kỳ ấy: anh nói đã từ lâu, anh tin tưởng chẳng có gì đáng kể, ngoài sự kiếm tìm, lần theo dấu vết Thượng đế:
- Xuống tàu, ra khơi, trốn biệt như trốn thần chết, những kẻ tin chắc đã tìm thấy, rồi yên vị, dựng thành trì để ru ngủ mình trong đó; đã từ lâu, tôi khinh bỉ bọn họ…
Anh hỏi tôi có đọc quyển “Cuộc đời của cha Foulcauld” của René Bazin không và vì tôi giả bộ cười, anh bảo rằng quyển sách ấy đã đảo lộn tâm trí anh:
- Sống nguy hiểm liều lĩnh theo cái nghĩa sâu xa, anh tiếp, có lẽ chẳng phải là tìm kiếm hay bắt gặp Thương đế, và khi đã tìm thấy, lại nằm mãi trong quỹ đạo của người.
Anh mô tả:
“Cuộc phiêu lưu bi tráng của những kẻ thần bí” than vãn rằng thể chất mình không cho phép anh thử dấn thân.
Nhưng kỷ niệm dù trôi xa, anh không nhớ là mình đã rất trong sạch…
“Thật khiếm nhã biết bao cái lỗi thổ lộ tâm tình đó, nó biến đổi cái tính e dè của tỉnh lẻ, sự kín tiếng mà mỗi người ở đây gìn giữ cho cuộc sống riêng tư”. Chuyện soi mói ở Saint Clair chỉ mới đụng chạm bên ngoài: những cõi lòng chẳng bao giờ chịu phơi mở. Thực ra, tôi biết gì về Bernard? Nơi anh, mãi mãi chẳng có gì khác hơn bức ký họa mà tôi rất hài lòng khi cần hình dung ra anh? Jean nói, còn tôi lặng thinh, chỉ ậm ừ vài câu tranh luận quen thuộc trong gia đình. Cũng như ở đây, những chiếc xe đều “rập khuôn”, có nghĩa là khá rộng để bánh xe khớp với vết lún của xe bò. Mọi tư tưởng của tôi, cho đến nay, đều “rập khuôn” với cha tôi và bố mẹ chồng.
Jean Azévédo để đầu trần, tôi thấy lại, qua chiếc áo hở khuy, một bộ ngực trẻ con, cái cổ no đầy. Tôi có bị quyển rũ bởi vẻ đẹp thể xác không? A! Lạy Chúa, không! Nhưng anh là người đàn ông đầu tiên tôi được gặp và với anh, trên hết, chỉ có đời sống tinh thần là đáng kể. Những mẩu chuyện hay sách vở của thầy anh, bạn bè anh ở Paris, mà anh luôn nhắc đến, khiến tôi không thể xem anh như một người lập dị. Anh là thành viên của một tầng lớp ưu tú, “những kẻ đang tồn tại”? Anh nói. Anh kể ra những tên tuổi, không hề nghĩ là tôi có thể chưa biết và tôi giả vờ như chẳng phải nghe lần đầu.
Khi cánh đồng Argelouse hiện ra ở khúc quanh con đường.
- Đến rồi ư?
Tôi kêu lên. Khói cỏ chay vương vất trên mặt đất khô cằn, từng nuôi sống lúa mạch đen, qua một khe hở bên bờ dốc, đàn cừu lừ lừ trôi đi như dòng sữa bẩn và có vẻ như chúng đang gặm cát. Jean phải băng qua cánh đồng để về Vilméja. Tôi nói với anh:
- Tôi sẽ đưa anh đi; những vấn đề này làm tôi say mê.
Nhưng chúng tôi chẳng tìm ra điều gì để nói với nhau nữa. Những cọng lúa bị cắt len qua giày, đâm vào gót chân khiến tôi nhột nhạt. Tôi có cảm giác anh muốn về một mình, để có thể nhởn nhơ theo đuổi một ý nghĩ vừa đến với anh. Tôi lưu ý anh là chúng tôi chưa bàn gì về Anne cả. Anh cho rằng chúng ta đâu thể tự do chọn lựa đề tại mạn đàm, hay thậm chí trầm tư mặc tưởng:
- Nếu không, anh tiếp, giọng kiêu kỳ, ta phải khép mình tuân theo phương pháp do những kẻ thần bí bày ra. Những người như chúng ta luôn luôn bị cuốn theo những trào lưu, tuột heo những cơn lốc…
Thế là anh lại qui hết vào những gì anh đọc được hồi ấy. Chúng tôi hẹn gặp lại nhau để quyết định một kế hoạch hành động về chuyện Anne. Anh nói với vẻ lơ đãng. Và không trả lời một câu hỏi của tôi, anh cúi xuống, bằng một cử chỉ thơ dại, anh trỏ tôi xem chiếc nấm vừa ngắt được và đưa lên môi hôn.
Chú thích:
[7] Thuốc chỉ thống, làm dịu cơn đau.
Chương VII
Bernard, bên ngưỡng cửa, chờ Thérèse về.
- Anh không sao cả! Anh không sao cả!
Anh reo lên, ngay khi thấy áo nàng hiện ra trong bóng tối.
- Em có tin là, vạm vỡ như anh mà lại thiếu máu không? Thật khó ngờ, thế mà đúng đó, nhìn bề ngoài mà lầm chết, anh sẽ được điều trị… theo phương pháp Fowler, ấy là arsenic[8]; điều quan trọng là anh ăn biết ngon.
Thérèse nhớ là thoạt tiên nàng không hề giận, những gì đến từ Bernard ít tác động tới nàng hơn lệ thường (như chuyện từ đâu rất xa). Nàng không nghe anh nói, tâm hồn và thể xác nàng hướng về một vũ trụ khác, nơi đó những con người đầy khát vọng đang sống, và chỉ mong được hiểu, được biết – và theo một câu Jean vẫn hay nhắc lại với vẻ vô cùng tâm đắc; “trở thành chính họ”.
Cuối cùng khi ngồi vào bàn ăn, nàng mới nói đến cuộc tiếp xúc của mình.
Bernard gắt ầm lên:
- Sao nãy giờ em không nói? Em thiệt lạ lùng! Thế nào? Em và gã quyết định ra sao?
Nàng vẽ ngay cái chương trình dù sao cũng được thực hiện. Jean Azévédo nhận viết một lá thư cho Anne với lời lẽ dịu dàng để xóa tan mọi hy vọng của cô. Bernard cười ồ khi Thérèse quả quyết là gã thanh niên không hề nghĩ đến chuyện cưới xin. Một kẻ thuộc dòng họ Argelouse mà không thiết cưới xin Anne de la Trave ư?
- Kìa, em có điên không? Chỉ vì gã chẳng làm nên trò trống gì, hạng người đó chẳng bao giờ dám liều khi biết chắc sẽ thất bại. Em còn ngây thơ lắm, cô bé ạ.
Vì bầy muỗi, Bernard không muốn châm đèn, bởi thế anh không trông thấy ánh mắt Thérèse “Anh đã biết thèm trở lại” như anh nói. Vị bác sĩ ở Bordeaux đã trả lại sự sống cho anh.
“Tôi có thường gặp Jean Azévédo không? Anh đã rời Argelouse vào cuối tháng mười… Chúng tôi đã dạo chơi với nhau năm hoặc sáu lần gì đó; tôi chỉ nhắc riêng cái lần chúng tôi cùng soạn thảo lá thư cho Anne. Chàng ngây ngô tin vào những lời an ủi mà đọc thoáng qua tôi đã thấy hãi hùng, song chẳng nói gì với anh hết. Những lần rong chơi cuối cùng nhòa lẫn trong tôi thành một kỷ niệm chung. Jean Azévédo miêu tả tôi nghe về Paris, về tình bằng hữu, và tôi hình dung một vương quốc mà qui luật là “trở thành chính mình”.
- Ở đây bà buộc phải dối trá suốt đời.
Những lời như thế, anh thốt ra với dụng ý gì? Anh nghi ngờ gì tôi? Cứ theo lời anh, không thể nào tôi chịu đựng nổi cái tình trạng ngột ngạt này.
- Bà hãy nhìn kia, anh nói với tôi, mặt băng bao la ảm đạm níu giữ bao sinh linh nơi đây; thỉnh thoảng một khe nứt hé lộ dòng nước đen ngòm; ai đó vùng vẫy rồi biến mất tăm; mặt băng hững hờ khép lại... bởi mỗi người, ở đây cũng như nơi khác, đều sinh ra với nghĩa vụ riêng. Ở đây cũng như nơi khác, mỗi số kiếp đều cá biệt, vậy mà vẫn phải phục tùng cái vận mệnh chung buồn thảm ấy. Vài kẻ chống đối, từ đó gây ra những thảm kịch mà các dòng họ bao giờ cũng ỉm đi. Như người ta thường nói ở đây: Cần phải im lặng
- A! Ðúng thế.
Tôi kêu lên. Ðôi khi tôi có thắc mắc về một ông chú, một bà cô mà hình ảnh đã biến khỏi mọi tập an-bom, nhưng không bao giờ nhận được câu trả lời, trừ một lần, tôi nghe thú nhận: “Ông ấy đã mất tích..., người ta muốn cho ông ấy mất tích”.
Có phải Jean Azévédo lo ngại cho số phận của tôi. Anh cam đoan là với Anne anh chưa bao giờ nảy ra ý nghĩ bàn về những vấn đề này, bởi chưng, dù có mê đắm đến đâu, cô ấy vẫn là một tâm hồn dung dị, hơi bướng bỉnh một chút, nhưng sẽ bị khuất phục ngay.
- Còn bà! Tôi cảm nhận trong những lời nói của bà một nỗi khát khao thành thực…
Nên kể hết những chuyện ấy cho Bernard nghe không? Có điên mới mong anh hiểu được gì! Dù thể nào đi nữa, anh phải biết là tôi không ngoan ngoãn đầu hàng đâu. Tôi nhớ đã phản đối chàng trai, rằng anh ta chỉ khéo tô vẽ cho cái kiểu suy đồi hèn hạ nhất. Tôi đã phải viện dẫn đến những bài học luân lý mà người ta giảng trong trường trung học “Là chính mình?” Tôi lặp lại, “nhưng chúng ta chỉ tồn tại trong chừng mực mà chúng ta tự tạo” (Không cần khai triển, nhưng có lẽ nên khai triển cho Bernard). Azévédo cho rằng tự chối bỏ mình là một kiểu suy đồi tệ hại nhất. Anh khẳng định không một vị anh hùng hay bậc thánh nào lại chẳng hơn một lần nhìn ngắm lại chính mình, chẳng đạt tới mọi giới hạn của mình trước tiên.
- Phải tự vượt mình để tìm thấy Thượng đế.
Anh nhấn mạnh. Và nói thêm:
- Chấp nhận mình, điều đó buộc những kẻ tài hoa nhất ta phải đương đầu với chính họ, nhưng trực diện, trong một trận đấu minh bạch. Bởi thế cho nên thường xảy ra việc những kẻ phóng túng lại hay tìm đến một tôn giáo nghiêm ngặt nhất.
Đừng tranh cãi với Bernard về cái lý vững chắc của thứ đạo đức ấy - mà thừa nhận với anh đó là những lời ngụy biện vụng về. Miễn anh hiểu. Anh cố gắng hiểu một phụ nữ như tôi có thể bị xúc phạm đến đâu và điều gì tôi cảm thấy, buổi chiều trong phòng ăn Argelouse. Bernard trong góc bếp cạnh đó, tháo giày ra, nói lăng nhăng đặc sệt giọng quê mùa về số chim hạ được trong ngày. Những con chim cu giãy giụa làm căng phồng cái bị quẳng trên bàn. Bernard ăn thong thả, sung sướng đã ăn biết ngon trở lại, say mê đếm từng giọt nước “Fowler”:
- Sức khỏe đấy.
Anh nói. Lửa cháy ngùn ngụt và vào lúc ăn tráng miệng, anh chỉ cần xoay chiếc phô tơi, duỗi thẳng đôi chân mang giày dạ ra hơ. Đôi mắt lim dim khép lại trước tờ “Gironde[9] nhỏ”. Đôi lúc anh ngáy, nhưng cũng lắm khi, tôi không nghe cả tiếng thở của anh nữa. Đôi giày cà tàng của Balionte còn lê lết dưới bếp; sau đó bà mang nến lên. Rồi thì im lặng, cái im lặng của Argelouse! Những người chưa đến vùng đầm lầy hẻo lánh này, không thể biết thể nào là im lặng, nó bao trùm ngôi nhà, như đông cứng trong cái khối dày đặc của rừng, nơi chẳng còn sự sống, ngoài tiếng khi thảng thốt của một con cú mèo (tưởng chừng chúng tôi nghe, trong đêm tối, tiếng nấc từ lâu nén lại của mình).
Nhất là sau ngày Azévédo lên đường, tôi mới càng thấm thía sự im lặng đó. Ngày nào tôi biết sáng ra mình còn gặp lại hắn, sự hiện diện của anh khiến cho bóng tối bên ngoài không còn đáng sợ. Giấc ngủ gần gũi của anh làm đêm tối, rừng cây hết cô quạnh, trống trải. Ngay khi anh chẳng còn ở Argelouse, sau lần gặp cuối cùng anh hẹn năm tới sẽ về.
Anh nói. Hy vọng là lúc đó tôi đã biết tự giải thoát (đến bây giờ tôi vẫn chưa biết anh nói bâng quơ hay là có dụng ý nữa. Tôi nghĩ là gã dân Paris này, hết chịu đựng nổi sự im lặng, cái im lặng của Argelouse, và anh quý mến tôi chỉ vì tôi là kẻ duy nhất chịu khó nghe anh nói).
Ngay khi từ biết anh, tôi ngỡ như mình chui vào con đường hầm vô tận, tiến sâu vào bóng tối ngày càng thêm mịt mờ và đôi lúc tôi tự hỏi biết rồi cuối cùng mình có kịp hít thở không khí tự do nước khi chết ngạt không. Cho đến ngày sinh nở, vào tháng giêng, đã chẳng có gì xảy ra.
Tới đây, Thérèse ngập ngừng, nàng cố gắng xua đi những ý tưởng quẩn quanh về những gì xảy ra trong ngôi nhà ở Argelouse, mấy hôm sau, ngày Jean ra đi: “Không, không, nàng nghĩ, việc đó chẳng dính líu đến những gì lát nữa đây mình phải giãi bày với Bernard. Tôi không thể mất thời giờ vì những điều vớ vẫn, chẳng đưa tới đâu cả. Nhưng dòng ý nghĩ cứ ngang bướng, nó rẽ ngả nào làm sao ngăn được: Kỷ niệm buổi chiều tháng mười ấy sẽ không nhạt nhòa trong tâm trí Thérèse.
Trên tầng gác, Bernard thay quần áo.Thérèse đợi đến khi củi đã cháy hết mới ra gặp anh - sung sướng được ngồi một mình trong giây lát. Giờ này Jean Azévédo đang làm gì nhỉ? Có thể anh đến uống rượu trong cái quán nhỏ mà anh đã kể với nàng; có thể (bởi đêm yên ả xiết bao), anh ngồi xe dạo chơi với người bạn trong rừng Boulogne hoang vắng. Có thể anh đang làm việc trước bàn và Paris gầm gừ phía xa. Sự im lặng, chính anh tạo ra nó, chinh phục nó từ cái huyên náo của thiên hạ, anh không bị nó đề nặng từ bên ngoài như cái im lặng đang làm Thérèse ngộp thở, sự im lặng đó là công trình của anh, không lan xa hơn ánh sáng ngọn đèn, hay những ngăn kệ đầy sách...
Thérèse miên man nghĩ ngợi và rồi tiếng chó bỗng sủa ầm lên, kêu hừ hừ, và một giọng nói thân quen một giọng nói mệt mỏi, từ phòng ngoài, khiến nàng yên lòng. Anne de la Trave đẩy cửa vào. Cô đi bộ từ Saint Clair về trong đêm, giày vớ bết đầy bùn. Trên gương mặt ủ ê, đôi mắt cô long lanh. Cô quẳng chiếc nón lên ghế, hỏi ngay:
- Anh ấy đâu?
Lá thư viết xong và đem bỏ bưu điện Thérèse và Jean tưởng rằng sự việc đã kết thúc, không hề nghĩ rằng Anne có thể không bỏ cuộc - làm như người ta dễ dàng nhượng bộ lẽ phải, nghe theo những lập luận khi vấn đề liên quan đến chính cuộc đời mình. Cô ấy đã tìm cách thoát khỏi sự canh chừng của mẹ, để leo lên một toa tàu. Trên con đường Argelouse tối mịt, khoảng trời sáng giữa những ngọn cây dẫn lối cho cô đi. “Tất cả chỉ để gặp lại chàng, nếu cô gặp được chàng, chàng sẽ bị chinh phục lại, nhất định phải gặp lại chàng.” Cô loạng choạng, lê chân theo vết bánh xe, vì quá vội về Angelouse. Thế mà bây giờ Thérèse nói với cô là Jean đã ra đi, anh ấy hiện ở Paris. Anne lắc đầu nói không, cô không tin, cô cần không tin nàng để khỏi phải quị xuống vì mòn mỏi và tuyệt vọng.
- Chị nói dối như vẫn từng nói dối.
Và bởi Thérèse cãi lại, cô tiếp:
- Phải rồi chị có tinh thần gia tộc. Chị làm ra vẻ là người phóng khoáng... Nhưng từ khi thành hôn, tức khắc chị trở nên một phụ nữ nề nếp con nhà... Vâng, vâng, đồng ý: chị ngỡ làm như thế là phải, chị cứu vớt tôi bằng cách phản bội tôi hả? Chị khỏi phải phân trần gì cả.
Có ấy bước lại mở của. Thérèse hỏi cô định đi đâu.
- Sang Vilméja, đến chỗ anh ấy.
- Chị nhắc lại, từ hai ngày này, anh ta không còn ở đó nữa.
- Em không tin chị.
Cô ấy đi ra. Thérèse bèn châm ngọn đèn lồng treo ở phòng ngoài và đến gần cô.
- Em lạc đường rồi, cô bé Anne ơi. Em đi về hướng Biourse. Vílmeja ở lối này.
Họ băng qua vùng sương mù từ đồng cỏ tỏa ra. Bầy chó vụt thức dậy. Kia là rặng sồi Vilméia, ngôi nhà chẳng phải đìu hiu mà như hoang phế. Anne đi vòng quanh cái nhà mồ trống vắng ấy, giơ nắm tay đập vào cửa liên hồi. Thérèse đặt ngọn đèn lồng lên cỏ, đứng im lìm. Nàng nhìn cái bóng mờ ảo của cô bạn áp sát vào mãi cửa sổ tầng dưới. Chắc hẳn, Anne gọi mãi một cái tên, nhưng không réo to lên, biết rằng cũng vô ích thôi. Có lúc, ngôi nhà che khuất cô, rồi cô hiện ra, quay lại cửa chính, ngồi bẹp xuống thềm, đôi cánh tay ôm quanh đầu gối, giấu mặt vào trong đó. Thérèse nâng cô đứng dậy, dìu cô đi.
Anne lảo đảo, thầm thì:
- Sáng mai, em sẽ lên Paris. Paris chẳng rộng lớn gì mấy, em sẽ tìm thấy chàng giữa Paris...
Nhưng với giọng của một cô bé không còn đủ sức chống cự và đã buông xuôi. Bernard tỉnh giấc do những tiếng nói lao xao, khoác áo ngủ ngồi chờ họ ở phòng khách. Thérèse đã lầm to khi gạt khỏi ký ức cảnh tượng xảy ra giữa ông anh và cô em gái. Người đàn ông có thể phũ phàng nắm chặt cổ tay cô gái nhỏ rũ rượi mệt lả, lôi xềnh xệch đến tận một căn phòng trên tầng hai, khóa trái cửa lại, chính là chồng mày đó Thérèse ơi, cái gã Bernard, hai giờ tới đây, sẽ là quan tòa xét xử mày. Tinh thần gia tộc thôi thúc anh ta, nên anh ta sẽ không do dự. Trong mọi trường hợp, anh ta luôn biết phải làm gì để phục vụ cho lợi ích của dòng họ. Dằn vặt, âu lo, nàng chuẩn bị những lời biện hộ dài dòng, tiếc thay chỉ những người vô nguyên tắc mới bị thuyết phục bởi lý lẽ xa lạ ấy. Bernard sẽ chế giễu những luận cứ của mày: “Tôi biết tự phải làm gì”. Anh luôn luôn biết anh phải làm gì. Thảng hoặc, cô dụ dự anh nói: “Chúng tôi đã bàn luận kỹ trong thân tộc và chúng tôi xét thấy..." Sao mày có thể nghĩ là anh ta chưa sẵn sàng một bản án? Số phận mày đã được định đoạt vĩnh viễn. Tốt hơn là hãy cứ đi ngủ.
Chú thích:
[8] Thạch tín
[9] Một tỉnh của vùng sông Gironde bên Pháp, tỉnh  Bordeaux.
Chương VIII
Sau khi ông bà La Trave mang cô Anne đã thua cuộc về Saint Clair, Thérèse, cho đến gần ngày sinh nở, không hề rời khỏi Argelouse. Nàng đã thực sự biết thế nào là im lặng, suốt những đêm dài khác thường của tháng mười một. Một lá thư gửi cho Jean Azévédo không có hồi âm. Chắc anh cho rằng người đàn bà tỉnh lẽ này không đáng cho anh bõ công trao đổi thư từ. Trước tiên, một phụ nữ có mang làm sao lưu lại một kỷ niệm đẹp được. Có lẽ, ở xa, anh nhận thấy Thérèse nhạt nhẽo, vô duyên, cái gã ngờ nghệch đã bị mê hoặc bởi dáng điệu và cung cách phức tạp giả tạo. Nhưng liệu anh có thể hiểu được gì qua vẻ bình dị phỉnh phờ, qua cái nhìn thẳng thắn, qua những cử chỉ đường hoàng? Kỳ thực, anh ngỡ nàng cũng như cô bé Anne kia, chỉ cần một lời đường mật là có thể bỏ hết để theo anh. Jean Azévédo e ngại những phụ nữ đầu hàng quá sớm, trước cả khi kẻ tấn công kịp phá vòng vây. Anh không e ngại gì cả, sự chiến thắng cũng như thành quả của chiến thắng. Dù thế, Thérèse cố sống trong vũ trụ của chàng trai ấy, nhưng mấy quyển sách mà Jean ca ngợi và nàng nhờ mua từ Bordeaux, đều có vẻ khó hiểu đối với hàng. Quả là nhàn rỗi đến chán chường!
- Không nên bắt nó may tã lót, chẳng phải việc nó.
Bà de la Trave nhắc nhở. Ở nông thôn, nhiều bà chết lúc sinh nở. Thérèse làm bà cô Clara khóc ngất, khi quả quyết là cuối cũng nàng cũng sẽ như mẹ thôi, nàng biết chắc không thể nào thoát khỏi. Nàng không quên nói thêm:
- Dẫu có chết cũng chẳng sao.
Dối trá! Chưa bao giờ nàng thèm sống đến thế, cũng như chưa bao giờ Bernard lại tỏ ra ân cần với nàng đến thế! Chẳng phải anh lo lắng cho mình đâu mà cho giọt máu mình đang mang trong bụng. Mặc cho anh lải nhải với cái giọng dễ sợ:
- Thử dùng lại món khoai nghiền đi... Em đừng ăn cá. Hôm nay, em đi khá nhiều rồi đấy...
Tôi chẳng vì thế mà xúc động hơn một chị vú nuôi xa lạ bị người ta hành hạ chỉ vì phẩm chất sữa của mình. Ông bà La Trave trân trọng nâng niu tôi như cái bình thánh, kẻ cưu mang cháu đích tôn của họ mà, chắc chắn nếu có xảy ra bất trắc, họ chẳng ngại ngùng gì mà không hy sinh nàng cho cái bào thai đó. Tôi đã mất đi cảm giác về một đời sống riêng. Tôi chỉ còn là một dây leo. Trước mắt gia đình, chỉ có một núm ruột trong lòng tôi là đáng kể.
Cho đến cuối tháng chạp, tôi phải sống trong cảnh tăm tối ấy. Tưởng chừng điệp trùng những cây thông vẫn chưa đủ, cơn mưa triền miên bất tận còn giăng quanh ngôi nhà âm u triệu triệu thanh chắn lấp lánh di động khi con đường độc đạo về Saint Clair có nguy cơ không còn đi lại được. Họ đưa tôi lên thị trấn, ngụ trong một ngôi nhà tương đối sáng sủa hơn ở Argelouse. Những cây ngô đồng già cỗi trên quảng trường còn giành giật từng chiếc lá với gió mưa. Không thể sống ở đâu khác ngoài Argelouse, bà cô Clara không muốn lẩn quẩn bên giường tôi, mà luôn chịu khó đi về, bất kể thời tiết nào trong chiếc xe độc mã. Bà đem đến cho tôi những kẹo bánh mà thuở xưa khi còn nhỏ, tôi ưa thích biết bao. Và bà ngỡ bây giờ tôi vẫn còn thích, những nắm xôi lúa mạch màu xám trộn mật, gọi là miques; chiếc bánh nướng hay roumadiade. Tôi chỉ gặp Anne trong bữa ăn, và cô ấy không trò chuyện với tôi nữa, cô có vẻ nhẫn nhục, hình như thể thu mình lại, một lúc cô ấy đã đánh mất tất cả vẻ tươi mát của mình. Tóc chải ngược để lộ đôi vành tai xấu xí xanh xao. Không ai nhắc đến tên của Deguilhem, nhưng bà de la Trave khẳng định tuy Anne chưa chịu ừ nhưng chẳng còn nói không nữa. A! Jean đã nhận xét đúng về cô, anh đâu phải mất nhiều thời giờ để xỏ mũi cô dẫn đi. Bernard không khỏe mấy vì anh lại bắt đầu uống rượu khai vị. Những người xung quanh xầm xì gì với nhau thế? Họ nói nhiều về cha xứ, tôi còn nhớ (chúng tôi ngụ ngay trước nhà vị giáo sĩ), chẳng hạn người ta hỏi nhau, “tại sao ông ta băng qua quảng trường bốn lần trong ngày, và mỗi lần, chắc là ông ta về qua ngõ khác...”
Nhờ vài mẫu chuyện của Jean Azévédo, Thérèse, lưu ý đến vị giáo sĩ còn trẻ tuổi ấy nhiều hơn, ông không giao tiếp với người trong giáo khu, nên họ cho là ông kiêu hãnh: “Chẳng phải loại ta cần ở đây...” Qua mấy lần hiếm hoi ông đến viếng ông bà La Trave, Thérèse nhìn thấy, vầng trán cao ấy với hai bên thái dương tái xanh. Không một người bạn. Đêm đến ông làm gì? Sao ông lại chọn cuộc sống này?
- Ông ấy rất đứng đắn - bà de la Trave nói, chiều nào ông ấy cũng cầu kinh; nhưng ông ấy thiếu sự thâm trầm, tôi chẳng thấy nơi ông ấy cái gì có thể gọi là thành kính cả. Còn công việc thì ông buông lơi hết.
Bà than phiền ông ấy đã hủy bỏ đội kèn đồng của hội bảo trợ; các bậc phụ huynh phàn nàn ông ấy không theo bọn trẻ ra sân bóng nữa:
- Luôn chúi mũi vào sách vở thì cũng hay thôi nhưng rồi xứ đạo chẳng mấy chốc mà tan rã.
Thérèse chăm đi nhà thờ đề nghe ông ấy giảng.
- Cô bé thân mến, cô quyết định đến đây, đúng vào lúc cô được miễn vì tình trạng sức khỏe.
Bài giảng của cha xứ liên quan đến giáo lý hay đạo đức, đều khách quan. Nhưng Thérèse lưu ý đến cách chuyển giọng, đến điệu bộ, đôi khi một chữ cơ hồ trầm hơn… A! Biết đâu ông ta có thể giúp nàng khám phá cái thế giới mông lung trong nàng, khác hẳn mọi người, ông ấy đã có một quyết định bi thảm, ông đã đem vẻ cách biệt tạo ra bởi chiếc áo dòng chung quanh người mặc nó, cộng với mỗi cô đơn trong lòng. Ông tìm thấy nguồn an ủi nào trong các nghi lễ thường nhật đó? Thérèse muốn dự lễ ngay trong tuần, khi chẳng còn ai hiện diện ngoài cậu lễ sinh, ông cúi xuống mẩu bánh mì thầm vài câu nguyện. Nhưng cung cách ấy có vẻ quá xa lạ với gia đình nàng và những cư dân nơi thị trấn, hẳn họ sẽ đòi cải đổi
Dạo đó, Thérèse đau đớn nhiều lúc gần ngày sinh nở. Nàng bắt đầu thực sự không chịu đựng nổi cuộc sống. Chẳng có gì lộ ra ngoài; cũng chẳng có gì hục hặc gì giữa nàng và Bernard vì nàng tỏ vẻ kính trọng cha mẹ chồng hơn chính chồng mình nữa. Bi kịch là ở đấy, dù không một lý do đưa đến đổ vỡ, tình hình khó thể biết trước ai sẽ ngăn chặn đừng để mọi việc cứ thế mà tiến dần đến cái chết. Phải có một lĩnh vực gặp nhau nào đó, mới sinh va chạm, bất hòa. Đằng này chưa bao giờ Thérèse gặp Bernard ở điểm nào cả, với cha mẹ chồng lại càng tệ hơn; lời nói của họ chẳng mấy tác động tới nàng; nàng không nghĩ là cần thiết phải trả lời họ. Chả biết họ có cùng một ngôn ngữ với nàng không nữa? Họ gán cho những từ thiết yếu một ý nghĩa khác. Nếu Thérèse thốt ra một lời chân thật bao giờ cũng vậy, gia đình cho là cô vợ trẻ thích hợm hĩnh. “Tôi vờ như không hề nghe, bà de La Trave: nói, hoặc chẳng mấy quan tâm, nếu nó nhắc lại, nó phải biết đối với chúng ta điều đó thật không nên”.
Thế nhưng, bà de la Trave: không chịu nổi cái thái độ làm ra vẻ khó chịu của Thérèse, khi người ta trầm trồ sự giống nhau giữa nàng và bé Marie. Những tiếng suýt soa thường lệ: “Cái này thì có không thể cãi chối...” Mấy người đàn bà ở vào những tình cảnh trái ngược chẳng phải lúc nào nàng cũng che giấu được. “Ðứa bé chẳng có gì của tôi cả, nàng nhấn mạnh. Hãy nhìn làn da nâu vàng ấy đôi mắt hạt huyền ấy. Xem ảnh tôi kìa: tôi là một đứa trẻ gầy gò nhợt nhạt”.

Nàng không muốn bé Marie giống mình. Nàng không muốn có chung bất cứ thứ gì với khối thịt nàng rứt một đẻ ra đó. Người ta bắt đầu xầm xì là nàng quá lạnh nhạt với tình mẫu tử. Nhưng bà de la Trave đảm bảo là nàng yêu con gái theo cách riêng của nàng: “Dĩ nhiên không thể bắt nó lo tắm rửa hay thay tã lót: đâu phải việc của nó; nhưng tôi từng thấy nó ngồi hằng đêm tròn bên chiếc nôi, nhịn hút thuốc mà nhìn con bé ngủ. Vả chăng, ta có một có vú em thật siêng năng, hơn nữa, còn Anne kia chi, à, cái cô này tôi quả quyết nó sẽ là một bà mẹ trẻ tuyệt vời...» Từ khi có sự hiện diện của đứa bé trong nhà, rõ ràng là Anne đã bắt đầu sống lại. Phụ nữ bao giờ cũng mê chiếc nôi; nhưng Anne, hơn ai hết, bồng bế đứa bé với một niềm vui sâu xa. Ðể có thể tự do ra vào chỗ đứa bé, cô đã làm lành với Thérèse, nhưng thâm tình cũ giữa hai người chẳng còn gì, ngoài những cử chỉ và tiếng gọi nhau thân mật. Quyến luyến con bé, cô gái ngại nhất là sự ganh tị của Thérèse:
- Đứa bé chịu tôi hơn mẹ nó nhiều. Nhác thấy tôi là nó cười liền. Hôm nọ, tôi đang bồng nó trên tay, nó khóc ré lên khi Thérèse định ôm lấy nó. Nó thích tôi đến nỗi đôi khi tôi đâm ngượng...
Anne ngượng là sai. Thérèse, vào thời gian đó của đời mình cảm thấy tách biệt với con gái, như mọi thứ khác. Nàng nhìn con người, sự vật, bản thân nàng và cả tâm hồn nàng nữa tựa một ảo ảnh, một đám khói sương lãng đãng bên ngoài nàng. Một mình trong cõi trống không, Bernard là một thực tế thảm hại: tấm thân vạm vỡ, giọng nói ồm ồm, thái độ kiên quyết và sự thỏa thuê ấy lìa bỏ mọi người... Nhưng bằng cách nào? đi về đầu? Cơn nắng gắt đầu tiên khiến Thérèse rã rời. Chẳng có gì báo nước cái điều nàng sắp sửa gây ra. Năm ấy, việc gì đã xảy đến. Nàng không nhớ bất cứ sự kiện nào, bất cứ cuộc gây gổ nào, nàng chỉ mang máng đã ghê tởm chồng hơn bao giờ hết, hôm lễ Thánh thể, khi qua ô cửa nhỏ mở hé, nàng ngóng nhìn đám rước. Bernard hầu như là người đàn ông duy nhất đi sau cái lộng. Ngôi làng, thoáng chốc, trở nên hoang vắng, như người ra vừa thả ra đường một con sư tử, chứ không phải con cừu. Thiên hạ lần vào nhà để khỏi phải bỏ mũ hay quì gối. Khi qua cơn nguy, các cánh cửa lần lượt mở. Thérèse nhìn chằm chằm vào mặt cha xứ, ông bước đi hai mắt cơ hồ nhắm lại, hai tay bưng cái vật kỳ lạ ấy. Môi ông mấp máy: ông nói với ai với về khổ đau dường ấy? Và ngay sau lưng ông, Bernard đang “làm tròn nghĩa vụ mình”.
Nhiều tuần trôi qua, chẳng có lấy một giọt mưa. Bernard sống trong nỗi ám ảnh kinh hoàng của một trận hỏa hoạn, và tim anh lại trở cơn đau. Phía Louchats, đã cháy năm trăm hecta: “Nếu gió thổi từ hướng bắc, rừng thông Balisac của mình đã bị thiêu rụi.” Chẳng hiểu Thérèse chờ mong gì nơi khoảng trời im sững đó. Sẽ không còn mưa nữa... Một ngày kia, cả khu rừng xung quanh nổ lẹt đẹt, và thị trấn cũng không thoát khỏỉ. Tại sao những ngôi làng ở Landes không bao giờ bốc cháy? Nàng nhận thấy trời đất quả bất công, sao lửa cứ mãi tìm những cây thông, mà không bao giờ đụng tới con người. Trong nhà, thiên hạ không ngớt xôn xao bàn tán về nguyên nhân gây ra tai họa: một điếu thuốc vứt đi? hay sự ác ý? Thérèse mơ một đêm nào thức dậy, lẻn ra khỏi nhà, vào cánh rừng chằng chịt bụi rậm, ném điếu thuốc, cho đến khi đám khói khổng lồ phủ mờ bầu trời rạng đông... Nhưng nàng xua đuổi ngay ý tưởng đó, nàng vốn quí mến rừng thông từ trong máu, mối hận thù của nàng đâu phải nhắm vào cây cối.
Giờ đã đến lúc nàng phải nhìn thẳng hành vi của mình. Giải thích thế nào với Bernard đây? Chỉ còn cách tuần tự nhắc lại từng điểm một diễn tiến sự việc. Ðó là ngày xảy ra trận hỏa hoạn khủng khiếp ở Mano. Nhiều người đâm bổ vào phòng lúc gia đình hối hả ăn sáng. Kẻ cho rằng ngọn lửa còn cách xa Saint Clair, người đòi kéo chuông báo động ngay. Cái ngày nóng bức như thiêu ấy thấm đẫm mùi nhựa cháy và mặt trời như vẫn đục. Thérèse thấy lại Bernard đang nghiêng đầu, nghe Balion báo cáo, quên lửng bàn tay lông lá trên miệng cốc và những giọt thuốc Fowler nhỏ xuống nước. Anh nốc cạn cốc thuốc mà Thérèse, đờ đẫn bởi cái nắng oi nồng chẳng hề nghĩ tới chuyện bảo anh biết anh đã chế gấp đôi liều thuốc thường lệ. Mọi người đã rời khỏi bàn - trừ nàng đang bóc vỏ những quả hạnh tươi, thờ ơ, xa lạ với sự nhốn nháo kia, vô tư trước thảm kịch, như đối với mọi thảm kịch không phải của nàng. Họ không kéo chuông báo động. Sau đó Bernard quay vào:
- Lần này, em không buồn nhúc nhích là phải, cháy tận bên Mano kia…
Anh hỏi:
- Anh uống thuốc chưa nhỉ?
Và không đợi trả lời, một lần nữa anh lại chế thuốc và cốc nước. Nàng nín lặng vì lười biếng cố nhiên, vì mệt mỏi không chừng. Nàng hy vọng gì ở giây phút ấy? “Chẳng lẽ tôi suy tính cả việc lặng thinh.”
Thế mà, đêm ấy, khi Bernard vật vã nôn mửa trên giường, bác sĩ Pademay hỏi han về những việc xảy ra trong ngày, nàng chẳng hề hé môi về những gì nàng đã thấy trên bàn ăn. Để khỏi liên lụy dù sao cũng dễ dàng lưu ý bác sĩ về chất thạch tính mà Bernard sử dụng. Nàng có thể tìm ra một câu đại khái như: “Lúc đó tôi chẳng hay biết gì. Tất cả chúng tôi đang hốt hoảng cuống cuồng vì đám cháy… Nhưng bây giờ, tôi thề quyết là anh ấy đã uống một liều gấp đôi…” Nàng đã câm lặng, chả biết nàng có cảm thấy cần mở miệng hay không? Cái hành vi, đã ngấm ngầm manh nha trong buổi điểm tâm, mà nàng không hay, bây giờ bắt đầu trổi dậy từ sâu thẳm lòng nàng - tuy còn mơ hồ, nhưng đã len chút ý thức.
Khi bác sĩ đi khỏi, nhìn Bernard thiếp ngủ nàng nghĩ: “Chẳng có gì chứng tỏ là cái ấy, có lẽ chỉ là cơn đau ruột thừa, dù chẳng có triệu chứng nào khác... hay một trường hợp cúm nhiễm trùng.” Nhưng ngày hôm sau, Bernard đã khỏi. “Có nhiều khả năng chính là cái ấy”. Thérèse không tin như thế, nàng muốn biết chắc hơn. “Vâng, tôi không hề có cảm tưởng bị dằn xé bởi một mưu toan khủng khiếp, chỉ là một chút hiếu kỳ hơi nguy hiểm khi thỏa mãn. Ngày đầu tiên, tôi chế những giọt thuốc Fowler vào ly của Bernard trước khi anh bước vào phòng, tôi nhớ mình đã lẩm bẩm: “Một lần thôi, đề biết cho đích xác... xem có đúng cái ấy đã khiến anh ngã bệnh. Chỉ một lần, rồi thôi.”
Đoàn tàu chậm dần, rúc còi rền rĩ một hơi dài rồi lại lên đường. Dăm ba ánh đèn trong đêm: ga Saint Clair. Nhưng Thérèse chẳng còn gì để mà nghĩ suy, nàng đã chìm xuống vực thẳm của tội ác; nàng bị tội ác lôi cuốn; những gì tiếp theo đó, Bernard cũng biết rõ như nàng: sự trở bệnh đột ngột; và Thérèse ngày đêm ngồi canh chừng anh bên giường, dù nàng cơ hồ đã kiệt sức và không buồn ăn uống gì (đến nỗi anh khuyên nàng thử dùng thuốc Fowler và nàng đã nhận toa của bác sĩ Pédemay). Tội nghiệp ông bác sĩ! Ông ta sửng sốt trước chất nước màu lục nhạt mà Bernard mửa thốc ra, ông không thể tin một sự mâu thuẫn như thế giữa mạch và nhiệt độ của bệnh nhân lại có thể xảy ra; ông đã nhiều lần ghi nhận trong chứng phó thương hàn, một mạch nhẹ bất chấp cơn sốt ác liệt - nhưng mạch cứ đập dồn dập và nhiệt độ lại dưới mức bình thường là nghĩa làm sao? Cúm nhiễm trùng à, chắc thế: bệnh cúm, điều này giải thích tất cả.
Bà de la Trave nghĩ đến việc mời một thầy thuốc tham vấn nổi tiếng, nhưng không muốn làm mếch lòng vị bác sĩ, người bạn thâm giao, vả lại Thérèse sợ gây hoang mang cho Bernard. Thế nhưng, vào giữa tháng tám, sau một bệnh biến nguy ngập hơn, chính Pédemay đề nghị mời thêm một bạn đồng nghiệp; may mắn thay, ngay hôm sau, tình trạng Bernard thuyên giảm đều, ba tuần sau, người ta tính chuyện dưỡng sức. “Tôi đã thoát nạn, Pédemay thổ lộ. Nếu bậc thầy kia kịp đến đây, ông ấy sẽ hưởng trọn vinh quang của việc chữa trị này.”
Bernard đòi chuyền về Argelouse, tin chắc mình sẽ khỏi hẳn trước mùa săn chim cu. Thời gian đó Thérèse phờ phạc đi nhiều. Cơn biến chứng ác liệt của bệnh thấp khớp khiến bà cô Clara nằm liệt giường, mọi việc trút lên vai người đàn bà trẻ: hai bệnh nhân, một đứa bé, chưa kể những công việc mà bà cô Clara bỏ dở dang. Thérèse tận tụy thay thế bà giúp đỡ những người nghèo khó ở Argelouse. Nàng đi thăm các trang trại, lo thanh toán, như cô mình, các đơn thuốc với tiền riêng. Nàng không chút buồn lòng thấy trang trại Vilméja vẫn đóng kín im lìm. Nàng không còn nghĩ đến Jean Azévédo hay bất cứ ai khác trên đời. Nàng đơn độc vượt qua con đường hầm dài thăm thẳm đến chóng mặt, nàng đang đứng giữa quãng tối tăm nhất, chẳng cần suy nghĩ, như một kẻ nhẫn tâm ta phải thoát khỏi chốn mù mịt này, đám khói kia, mà đến với tự do, nhanh, nhanh lên!
Ðầu tháng chạp, cơn bệnh trở chứng quật ngã Bernard: một buổi sáng, anh thức dậy, run lập cập, đôi chân bất động và không còn cảm giác. Và điều gì xảy ra tiếp đó! Thầy thuốc tham vấn do ông de la Trave rước từ Bordeaux về một buổi chiều kia, sự im lặng kéo dài của ông ta sau khi khám bệnh (Thérèse cầm cây đèn và Balionte còn nhớ là mặt nàng trắng bạch như tấm khăn trải giường) nơi đầu cầu thang lờ mờ tối, bác sĩ Pédemay hạ thấp giọng, vì Thérèse đang nghe ngóng, giãi thích cho đồng nghiệp của mình hiểu là dược sĩ Darquey phát hiện hai trong các toa thuốc của lão là giả mạo, một bàn tay sát nhân đã thêm vào toa đầu: thuốc nước Fowler toa kia, ghi với liều lượng khá nặng: cloroforme, digitaline, aconitine. Balion mang các toa đó cũng nhiều toa khác đến hiệu thuốc. Darquey, băn khoăn khi giao mấy chất độc ấy, nên hôm sau, đã đến tìm bác sĩ Pédemay...
Vâng, Bernard biết rõ tất cả những điều ấy như chính Thérèse. Một chiếc xe của y tế cấp tốc chuyển anh về một bệnh viện tư ở Bordeaux, và ngay ngày hôm ấy anh đã nhiều. Thérèse ở lại Argelouse một mình, nhưng dù cô đơn đến đâu, nàng vẫn nhận thấy quanh mình lời xì xào lan rộng con thú ẩn nấp lắng nghe bầy chó săn đến gần, mệt mỏi rã rời sau lúc phóng chạy điên cuồng - tưởng chừng, sắp sửa tới đích, tay đã dang ra, bỗng dưng té quỵ xuống đất, đôi chân gãy lìa. Cha nàng đến vào một chiều cuối đông, van xin nàng hãy tự minh oan. Mọi việc còn có thể cứu vãn kịp. Pédemay bằng lòng rút lại đơn khiếu tố ông cho rằng không chắc một trong các toa thuốc là hoàn toàn do chính tay ông kê ra. Về các chất aconitine, chloroforme và digitaline, ông không thể nào cho liều lượng nặng đến thế: nhưng vì rằng không một dấu vết nào được tìm thấy trong máu bệnh nhân.
Thérèse nhớ lại khung cảnh nàng ngồi với cha bên giường cô Clara hôm ấy. Lửa củi soi sáng gian phòng, chẳng ai muốn thắp đèn lên. Nàng giãi bày với giọng tẻ nhạt như một cô bé trả bài (cái bài học nàng nhẩm đi nhẩm lại suốt những đêm dài thao thức): Con gặp ngoài đường một gã đàn ông chẳng phải dân Argelouse, bảo rằng nhân dịp con sai người đến hiện thuốc Darqney, gã mong con vui lòng nhận luôn giùm toa của gã, gã nợ tiền Darquey, nên không dám chường mặt ở dược phòng. Gã hẹn sẽ đến nhà nhận thuốc, nhưng không để lại tên và địa chỉ.
- Tìm cớ khác đi, Thérèse ơi, nhân danh gia đình, ba van con. Hãy tìm cớ khác đi, khốn khổ con tôi!
Ông Larroque hậm hực lãi nhãi mấy lời quở trách; người chị điếc hơi nhỏm dậy trên gối, cảm thấy Thérèse đang bị đe dọa bởi một nguy cơ khủng khiếp, cất giọng rên rỉ:
- Ông ấy nói gì với con thế? Người ta muốn gì nơi con? Tại sao người ta cứ làm con khổ?
Nàng còn gắng gượng mỉm cười với cô mình, nắm lấy tay bà, trong khi, như một cô bé học giáo lý, nàng đọc thuộc lòng: “Ðó là một gã đàn ông gặp trên đường, trời tối quá nên tôi không trông rõ mặt gã, gã không nói mình ở trang trại nào”. Một chiều kia, gã đến nhận thuốc. Rủi thay, trong nhà, không một ai nom thấy gã.
Chương IX
Saint Clair đây rồi. Từ trên toa bước xuống, Thérèse không bị ai nhận ra cả.Trong khi Balion trả vé, nàng đi vòng sân ga và băng qua chồng ván gỗ, ra tới đường, nơi chiếc xe đang đợi.
  Chiếc xe ấy, giờ đây, đối với nàng là một nơi ẩn náu, trên con đường lồi lõm, nàng chẳng còn ngại đụng mặt với ai nữa. Toàn bộ câu chuyện được khổ công dàn dựng thế là sụp đổ. Lời tự thú dự định chẳng còn ý nghĩa gì. Không. Chẳng cần lên tiếng biện bạch, cũng đừng nêu ra một duyên cớ, đơn giản nhất là cứ im lặng, hay chỉ trả lời những câu hỏi. Nàng còn e ngại gì chứ? Ðêm nay rồi sẽ qua, như mọi đêm khác, ngày mai mặt trời sẽ mọc, chắc chắn nàng sẽ thoát, dù có xảy ra việc gì. Và chẳng việc gì xảy ra lại có thể tệ hại hơn vẻ lãnh đạm hoàn toàn ấy, cái dửng dưng ngăn cách nàng với mọi người, với cả bản thân nàng nữa. Ðúng thế, cái chết trong cuộc sống. Nàng thấm thía nỗi chết hơn bất cứ ai đang sống
Đôi mắt đã quen với bóng tối nàng nhận ra, qua khúc ngoặt con đường, cái trang trại có mấy ngôi nhà thấp tè giống những con vật nằm ngủ. Nơi đây, xưa kia Anne hoảng sợ trước con chó cứ nhảy chồm vào bánh xe đạp của cô. Xa hơn, mấy cây trăn để lộ vùng đất trũng; trong những ngày oi ả nhất, ngay chốn này, một thoáng mát phủ lên đôi gò má nóng bỏng của các cô gái. Một cậu bé cưỡi xe đạp, hàm răng sáng lóa dưới ánh nắng, tiếng chuông leng keng, một giọng hét lên:
- Nhìn nè, tôi buông hai tay.
Cái hình ảnh chập chờn đó níu giữ Thérèse, đó là những gì nàng tìm thấy trong chuỗi ngày qua để ấp ủ một con tim mòn mỏi. Nàng tự động lặp lại những tiếng nhịp nhàng theo vó ngựa: “Sự vô ích của đời ta - cái hư ảo của đời ta - nỗi cô đơn vô hạn - số phận không lối thoát.” Ôi! Cử chỉ duy nhất có thể, Bernard lại không làm.
Nếu anh chẳng hỏi han gì cứ lăng nhăng mở rộng vòng tay! Nếu nàng có thể dụi đầu vào ngực một con người, nếu nàng có thể òa khóc nức nở trước một hình hài còn biết xao xuyến.
Nàng nhìn thấy bờ dóc ven đồng nơi Jean Azévédo đã ngồi vào một ngày nắng cháy. Tưởng như ở một nơi nào đó trên đời, nàng có thể đùa vui hớn hở giữa những kẻ hiểu nàng, ngưỡng mộ nàng và say mê nàng nữa không chừng! Nhưng nỗi cô đơn bám riết nàng còn hơn kẻ hủi với vết lở của y: “Chẳng ai có thể giúp gì cho ta, cũng chẳng ai có thể làm gì hại ta.”
- Kìa ông và cô Clara.
Balion ghì dây cương. Hai cái bóng lướt tới. Bernard dẫu còn yếu, đã ra đón nàng - nóng lòng muốn sớm được an tâm. Nàng khẽ nhỏm dậy, loan báo từ xa:
- Miễn tố!
Vỏn vẹn một câu đáp cụt ngủn:
- Biết rồi!
Bernard đỡ người cô lên xe và nắm lấy dây cương. Balion đi bộ về. Bà cô Clara ngồi giữa đôi vợ chồng. Phải hét vào tai bà mọi việc đã êm xuôi (vả chăng bà chỉ biết lờ mờ về tấn bi kịch). Theo thói quen, người phụ nữ điếc bắt đầu nói đến không kịp thở; bà bảo là chúng luôn có một sách lược và chính vụ án Dreyfus đang tái diễn:
- Vu khống đi, cứ vu khống đi, cũng còn lại cái gì chứ. Chúng hung hăng tàn bạo và những người Cộng hòa mất cảnh giác với chúng là sai. Loài sâu bọ thối tha đó cứ lơi một tý là chúng nhảy lên cổ mình ngay...
Bà cứ rối rít lên khiến đôi vợ chồng đỡ áy náy khi chẳng tìm ra lời nào để nói với nhau.
Cô Clara thở hào hển, tay cầm đĩa nến, leo lên cầu thang:
- Các con không đi ngủ à? Thérèse đã mệt đừ. Trong phòng con có sẵn tô canh và gà nguội đấy...
Nhưng cả hai vẫn còn đứng ở phòng ngoài... Bà lão thấy Bernard mở cửa phòng khách, tránh một bên cho Thérèse vào, rồi bước vào theo. Nếu không điếc, bã đã áp tai vào... người ta chẳng nghi ngại gì bà, kẽ vĩnh viễn bị giam giữa bốn bức tường. Bà thổi tắt ngọn nến, dò dẫm bước xuống, ghé mắt vào lỗ khóa: Bernard dời cây đèn, gương mặt sáng rực dưới ánh đèn, có vẻ vừa trịnh trọng, vừa e dè. Bà thấy Thérèse ngồi quay lưng lại, áo choàng và mũ đã vắt lên phô-tơi; đôi giày ướt của nàng bốc hơi bên lò sưởi. Một lát, nàng quay đầu về phía chồng và bà lão sung sướng thấy Thérèse mỉm cười.
Thérèse mỉm cười. Trong khoảng không gian và thời gian ngắn ngủi, đi bên cạnh Bernard, từ chuồng ngựa vào nhà, thốt nhiên nàng nhận ra, nàng tin là mình đã nhận ra điều cần yếu phải làm. Vừa gặp con người ấy là mọi hy vọng giãi bày, thổ lộ đã tan thành mây khói. Những kẻ ta hiểu rõ hơn hết, ta nhìn họ khác đi biết bao khi họ không còn ở bên ta.
Suốt cuộc hành trình, nàng đã cố tạo ra một Bernard có thể hiểu nàng, mong muốn hiểu nàng. Nhưng mới liếc qua, đã thấy nguyên hình con người thật của anh, kẻ chẳng bao giờ đặt mình vào cương vị người khác, dầu chỉ một lần trong đời, không hề chịu khó chui khỏi vỏ, để thấy những gì người khác thấy. Thực ra, có phải Bernard chỉ nghe theo mình? Anh bước từng bước dài trong căn phòng ẩm thấp, sàn nhà mục nhiều chỗ kêu cọt kẹt dưới chân anh. Anh không nhìn vợ mình - miệng đầy ứ những lời nói đã từ lâu nghiền ngẫm. Còn Thérèse cũng thế, nàng biết mình sắp sửa nói gì. Giải pháp đơn giản nhất là giải pháp mà ta không bao giờ nghĩ tới. Nàng sắp nói: “Bernard, em sẽ ra đi. Ðừng bận tâm vì em. Ngay bây giờ, nếu anh muốn, em sẽ lao vào đêm tối. Rừng rậm không làm em sợ, bóng tối cũng thế. Chúng đã quen thuộc với em, em và chúng đã thân thiết nhau. Em đã được sinh ra với hình ảnh của miền quê khô cằn này, nới mọi vật đều im lìm như chết, ngoại trừ những con chim bay qua, những con heo rừng du mục. Em cảm nhận bị ruồng bỏ, hãy thiêu huỷ hết hình ảnh của em, đề cả con gái em cũng đừng biết đến tên em nữa, như chưa hề có em, trong dòng họ”.
Và Thérèse đã buột miệng:
- Bernard, hãy để em đi.

Nghe giọng nói ấy, Bernard quay lại. Từ trong góc phòng, anh hùng hổ sấn tới, những đường gân trên mặt anh căng thẳng, anh lắp bắp:
- Sao? Cô dám có ý kiến à? Dám yêu cầu à? Đủ rồi. Ðừng nói thêm tiếng nào nữa. Cô chỉ được phép lắng nghe, nhận lệnh và tuân theo những quyết định dứt khoát của tôi.
Anh không lúng búng nữa; mà chắp lại mạch lạc những câu nói đã chuẩn bị kỹ càng. Tựa lưng vào lò sưởi, anh nói giọng trang nghiêm, rút một mảnh giấy từ trong túi ra, xem xét. Thérèse không sợ gì nữa; nàng chỉ muốn cười to; anh ta lố bịch quá, đúng là một kẻ lố bịch. Mặc kệ những gì anh ta nói với giọng điệu hèn mạt, làm trò cười cho thiện hạ khắp nơi cũng như ở Saint Clair, nàng sẽ ra đi. Sao lại xảy ra tấn kịch này nhỉ? Kẻ đần độn ấy dù có biến mất khỏi thế gian, cũng chả có gì quan trọng kia mà. Nàng để ý thấy những móng tay cáu bẩn của anh ta, cầm mảnh giấy run run, áo anh ta không có cổ tay, anh ta là một gã nhà quê lố lăng vừa từ xó nhà chui ra, mà cuộc sống chẳng cần thiết cho bất kỳ sự nghiệp nào, ý niệm nào hay bắt cứ ai. Người ta đã quen quan trọng hóa quá đáng sự tồn tại của một con người. Robespierre có lý; cũng như Napoléon, v.v... Thoáng thấy nàng mỉm cười, anh tức điên lên, cất cao giọng, nàng buộc phải nghe:
- Tôi giữ cô lại đây, cô hiểu chứ? Cô phải tùng phục quyết định của gia đình bằng không...
- Bằng không... thì sao?
Nàng không nghĩ đến chuyện vờ lạnh lùng nữa, nàng trở giọng thách thức và nhạo báng, hét lên:
- Muộn rồi! Anh đã làm chứng là tôi vô tội, anh không thể phản cung. Anh sẽ mắc tội làm chứng gian...
- Người ta vẫn có thể trưng ra một sự kiện mới, cái bằng chứng chưa ai biết ấy tôi đang giữ trong tủ bàn giấy. May thay, án không có thời hiệu!
Nàng giật mình, khẽ hỏi:
- Anh muốn gì nơi tôi?
Anh tra lại những lời ghi sẵn, và trong vài giây, Thérèse lắng nghe cái im lặng dị thường của Argelouse. Giờ gà gáy sáng hãy còn lâu, không một dòng nước róc rách giữa chốn sa mạc này, không một thoảng gió lay lắt những ngọn cây trùng điệp.
- Tôi không chiều theo những suy nghĩ cá nhân. Bản thân tôi chẳng nghĩa lý gì: chỉ có gia đình là đáng kể. Mọi quyết định của tôi đều phát xuất từ quyền lợi gia đình. Vì danh dự gia đình, tôi đành gạt gẫm công lý xứ tôi. Trời biết cho tôi.
Giọng khoa trương đó làm Thérèse khó chịu. Nàng muốn van anh nói giản dị hơn.
- Đối với gia đình, cần cho thiên hạ tưởng là chúng ta vẫn khắng khít nhau và - trước mắt họ, tôi không để lộ vẻ gì nghi ngờ sự vô tội của cô. Mặt khác, tôi muốn bảo vệ mình tối đa.
- Tôi làm anh sợ sao, Bernard?
Anh lẩm bẩm: “Sợ ư? Không. Khiếp đảm thì có”. Rồi anh dõng dạc:
- Nhanh lên, quyết định một lần cho xong, ngày mai, chúng ra sẽ rời khỏi ngôi nhà này để về bên kia, nhà của dòng họ Desqueyroux, tôi không muốn có mặt bà cô của cô trong nhà tôi. Mỗi bữa, Balionte mang thức ăn lên tận phòng cho cô. Cô không được phép léo hánh đến bắt cứ phòng nào khác; nhưng tôi không ngăn cản cô vào rừng. Chúa nhật, chúng ta cũng đi dự lễ ở nhà thờ Saint Clair. Cần phải cho thiên hạ trông thấy cô bên cạnh tôi và thứ năm đầu tháng, chúng ta sẽ đi xe mui trần đến dự chợ phiên ở B., thăm cha cô như mọi khi.
- Còn Marie?
- Ngày mai, Marie sẽ cùng vú nuôi của nó đi Saint Clair. Sau đó, mẹ tôi sẽ đưa nó lên Midi. Chúng tôi sẽ viện lý do sức khỏe. Cô cũng đừng hy vọng người ta giao nó cho cô! Phải đặt nó vào chỗ an toàn, cả nó cũng thế khi tôi mất đi, chính nó, vào năm hai mươi mốt tuổi, sẽ thừa hưởng cơ nghiệp này. Sau chồng... là con, phải vậy không nào?
Thérèse đứng bật dậy, nàng cố ghìm một tiếng kêu:
- Thế ra anh tưởng chỉ vì những cây thông mà tôi...
Giữa muôn nghìn nguồn gốc bí ẩn của hành vi nàng, kẻ đần độn kia không khám phá nổi điều gì, anh ra lại nghĩ ra cái cớ hèn hạ nhất:
- Đương nhiên: chỉ vì những cây thông... Vì sao à? Cứ dùng phép loại trừ là thấy ngay. Tôi thách cô nêu ra được một động cơ nào khác... Vả chăng, điều đó không quan trọng và tôi chẳng còn bận tâm, tôi không đặt thành vấn đề nữa; cô chẳng là cái gì cả: chỉ cái họ của cô là còn tồn tại, thật đáng tiếc! Trong vài tháng nữa, khi mọi người đều tin vào sự hòa thuận của chúng ta, khi Anne đã thành hôn với con trai nhà Deguilhem... Cô biết là gia đình Degui1hem dời hoãn, để suy nghĩ chứ... đến lúc đó, tôi có thể về luôn Saint Clair, còn cô, cô sẽ ở lại đây. Người ra sẽ loan tin là cô mắc chứng suy nhược thần kinh hay gì gì đó...
- Bệnh điên, chẳng bạn?
- Không, cái ấy ảnh hưởng không tốt đến Marie. Nhưng thiếu gì lý do có thể chấp nhận được. Vậy nhé.
Thérèse lẩm bẩm:
“Ở Argelouse... cho đến chết...”
Nàng đến bên của sở, mở tung ra, giây phút ấy, Bernard cảm thấy vui sướng làm sao; người đàn bà từng khiến anh nể sợ và e dè, đêm nay đã bị anh chế ngự hoàn toàn, chắc nàng phải cảm thấy mình đáng kính biết mấy! Anh tự hào về sự hòa nhã của mình. Bà La Trave thường nói anh là một bậc thánh, cả gia đình đều ca tụng tâm hồn cao cả của anh: Lần đầu tiên, anh cảm nhận được sự cao cả ấy. Khi ở bệnh viện tư, việc Thérèse mưu hại anh được tiết lộ với sự dè dặt, anh bình tĩnh như không, khiến người ta hết lời khen ngợi. Có gì thực sự nghiêm trọng đối với kẻ đã mất khả năng thương yêu, bởi họ không còn tình cảm, Bernard chỉ thấy sướng run người, vì vừa thoát khỏi một đại nạn: cái cảm giác của kẻ chợt hiểu ra là mình đã sống suốt nhiều năm qua bên cạnh một người điên hung dữ, mà không hay. Nhưng, đêm ấy, Bernard có ý thức về sức mạnh của mình, anh làm chủ cuộc sống. Anh cho là không một khó khăn nào chống lại nổi một đầu óc ngay thẳng và lập luận đúng; ngay cả sau một tai biến như thế, anh vẫn khẳng định là người ta sẽ chẳng bao giờ khốn khổ, nếu tự mình không mắc sai lầm: Tấn bi kịch đau thương nhất, anh đã giải quyết như mọi vụ việc khác. Hầu như chẳng ai biết, anh giữ được thể diện, người ta không ái ngại cho anh nữa; anh không muốn bị ai thương xót. Lấy nhầm một con yêu quái có gì là nhục nhã đâu, nếu cuối cùng ta thắng nó. Dù sao cuộc sống độc thân cũng có điều hay, và cái chết gần kề càng khiến anh ham thích mãnh liệt, của cải, thú săn bắn, xe ô-tô, cái ăn và cái uống: tóm lại, cuộc đời!
Thérèse đứng lặng trước cửa sổ, nàng thấy những viên sỏi trắng lấp loáng, ngửi hương hoa cúc ngào ngạt trong khu vườn có rào sắt ngăn chặn đàn cừu. Xa kia, rặng sồi đen sẫm che khuất rừng thông; nhưng mùi nhựa lan tỏa trong đêm, giống một đội quân thù địch tuy không nom thấy nhưng đã gần một bên. Thérèse biết chúng vây hãm ngôi nhà. Ðó là những kẻ canh giữ, mà tiếng than van âm thầm vẫn lọt vào tai nàng, chúng sẽ nhìn nàng héo hon tàn tạ theo những mùa đông qua, mòn mỏi rã rời trong những ngày hè oi bức: Chúng sẽ là nhân chứng của sự lụi tàn. Nàng khép cửa sổ lại và đến gần Bernard.
- Anh tưởng có thể giữ tôi bằng bạo lực à?
- Còn tùy cô... nhưng nên nhớ rằng: cô chỉ có thể rời khỏi đây với đôi tay bị trói chặt.
- Gì mà gớm thế! Tôi biết rõ anh: đừng làm ra về dữ dằn quá đáng! Anh sẽ không bêu rếu gia đình vì nổi nhục ấy đâu! Tôi rất yên tâm.
Thế là, như một kẽ đã cân nhắc kỹ, anh giải thích rằng ra đi, là thú nhận mình có tội. Trong trường hợp ấy gia đình chỉ có thể tránh khỏi điều sỉ nhục bằng cách cắt đứt cái bộ phận hư hỏng, mà vứt đi, chối bỏ nó trước mặt mọi người.
- Ðó là quyết định mà thoạt tiên mẹ tôi muốn áp dụng. Cô thử nghĩ xem! Chúng tôi đang định phó mặc cho công lý, nếu chẳng phải vì Anne, vì Marie... Nhưng vẫn chưa muộn. Chớ nên vội vã trả lời. Tôi chờ cô đến mai.
Thérèse thì thào:
- Chỉ còn cha tôi.
- Cha cô à? Chúng tôi đã hoàn toàn đồng ý với nhau. Ông có sự nghiệp, đảng phái của ông, những tư tưởng mà ông cần bảo vệ: ông muốn ém nhẹm tai tiếng với bất cứ giá nào. Ít ra cũng phải biết ơn những gì ông ấy đã làm vì cô. Người ta chỉ thẩm vấn qua loa, ấy là nhờ ông ấy đấy. Vả lại, chắc ông đã bày tỏ ý muốn dứt khoát của ông rồi chứ... không à?
Bernard không còn lên giọng nữa, mà gần như trở nên nhã nhặn. Anh không cảm thấy gợn chút lòng trắc ẩn. Nhưng vì người phụ nữ, mà anh không còn nghe cả tiếng thở, cuối cũng đã ngất quỵ: cô ta đã nhận ra vị trí đích thực của mình. Trật tự đã được vãn hồi. Hạnh phúc người khác không cưỡng đỡ nổi một đòn như thế. Bernard tự hào đã vùng dậy thành công, mọi người đều có thể lầm lẫn, mọi người đã lầm về vấn đề Thérèse – kể cả bà La Trave, thường vẫn bộp chộp phê phán người nhà. Ấy là vì ngày nay thiên hạ không còn tin tưởng mấy vào nguyên tắc, họ không tin vào sự nguy hại của nền giáo dục mà Thérèse đã hấp thụ, một con yêu quái, tất nhiên, dù sao người ra vẫn cố nói, nếu cô ấy chịu tin Chúa... sự sợ hãi là khởi đầu của đức hạnh. Bernard nghĩ thế. Và anh còn nhủ thầm là cả thị trấn đang sốt ruột đón chờ điều nhục nhã của họ, hẳn sẽ thất vọng biết bao, khi chứng kiến mỗi chúa nhật, một cảnh gia đình êm ấm! Hầu như anh nóng lòng đợi chúa nhật đến, để được nhìn bộ mặt bẽ bàng của thiên hạ!.. Vả chăng công lý có mất gì đâu nào. Anh cầm cây đèn lên, tay giơ cao soi sáng sau gáy Thérèse:
- Cô chưa lên nghỉ sao?
Hình như nàng không nghe thấy tiếng anh. Anh bước ra, bỏ nàng trong bóng tối. Dưới chân cầu thang, cô Clara ngồi xổm ngay trên bậc đầu tiên. Bà lão cứ nhìn anh chằm chằm, nên anh gắng gượng mỉm cười, đưa tay nâng bà đứng dậy. Nhưng bà cưỡng lại - như con chó già ngồi lỳ bên giường người chủ đang hấp hối. Bernard đặt đèn lên nền gạch vuông, hét vào tai bà rằng Thérèse đã cảm thấy dễ chịu nhiều rồi, nhưng nàng muốn ngồi một mình giây lát, trước khi đi ngủ:
- Chắc cô cũng biết, đấy chỉ là một ý ngông của cô ta!
Vâng, bà lão biết: thật rủi cho bà khi vào thăm Thérèse, lại gặp lúc người thiếu phụ cần sự cô đơn. Thường thường, chỉ cần mở hé cánh cửa, bà đã cảm thấy ngay mình là kẻ quấy rầy.
Bà đứng dậy một cách khó nhọc, và tựa vào tay Bernard, bà lê từng bước về buồng mình, phía trên phòng khách lớn. Bernard theo gót bà bước vào, cẩn thận châm một ngọn nến trên bàn, đoạn đi ra sau khi hôn lên trán bà. Mắt bà không rời khỏi anh. Điều gì bà không sao đoán nổi, trên những gương mặt đàn ông, mà bà không thể nghe tiếng nói? Bà chờ cho Bernard đủ thời gian về tới phòng anh mới khe khẽ mở của... nhưng anh vẫn còn đứng ở đầu cầu thang, tựa vào lan can, vấn một điếu thuốc, bà vội vã chạy vào phòng, đôi chân run rẩy, mỏi mệt rã rời đến mức không còn đủ sức để thay quần áo. Bà nằm lăn ra giường, đôi mắt mở thao láo.
Chương X
Nơi phòng khách, Thérèse ngồi thầm trong bóng tối. Vài mẫu củi cháy dở còn âm ỉ dưới tro than. Nàng không nhúc nhích.Từ sâu thẫm ký ức, bật dậy từng đoạn rời rạc lời thú tội đã chuẩn bị trong cuộc hành trình, giờ thì đã muộn: nhưng sao lại cứ tự trách mình đã không sử dụng tới nó? Kỳ thực, câu chuyện dàn dựng hết sức chặt chẽ lại chẳng dính dáng gì đến thực tế. Tầm quan trọng mà nàng thích gán cho những lời nói của gã Azévédo quả là vô nghĩa! Ðiều đó thật không đáng kể chút nào! Không, không! Nàng đã quy phục một đạo luật sâu xa, một đạo luật khắc nghiệt, nàng không phá hoại gia đình này mà chính nàng sẽ bị hủy diệt, họ có lý khi xem nàng như đồ yêu quái, nhưng nàng cũng nhận thấy họ thật quái gở. Dù bề ngoài chẳng có gì lộ ra, họ sắp triệt hạ nàng từ từ. Từ nay, cái bộ máy gia đình đầy uy lực kia sẽ được vận hành chống lại ta - vì ta đã không biết chặn nó lại, hay kịp thời vuột khỏi những bánh xe răng của nó. Khỏi phải tìm lý lẽ nào khác “bởi vì họ là họ, còn ta vẫn là ta...”
“Giấu mặt, giữ thể diện, lừa phỉnh, sự cố gắng duy trì trong gần hai năm qua, tôi tưởng tượng bao kẻ khác (đồng cảnh ngộ với tôi) vẫn kiên trì chịu đựng cho đến chết, ru ngủ bởi thói quen, chắc thế, - mê muội, buông xuôi giữa lòng một gia đình thân thương mà đầy quyền lực. Còn tôi, còn tôi, còn tôi…
Nàng đứng lên, mở toang của sổ, cảm thấy hơi lạnh ban mai ùa vào. Sao không bỏ trốn? Chỉ cần trèo qua cửa sổ này. Họ có đuổi theo nàng không? Họ có lại đẩy nàng ra trước vành móng ngựa? Ðây là cơ may cần níu lấy. Tất cả, còn hơn là cơn hấp hối dai dẳng, triền miên. Thérèse đã kéo chiếc phô-tơi, kê sát cửa sổ. Nhưng nàng không có tiền. Hàng triệu cây thông đã thuộc về nàng một cách vô ích; không thông qua Bernard, một xu nàng cũng không thể mó tới. Tốt nhất là băng qua đầm lầy, như Daguerre xưa kia, kẻ sát nhân bị truy nã, mà thuở bé Thérèse đã đem lòng thương hại (nàng nhớ mấy tên sen đầm được Balionte đãi rượu dưới bếp, ở Argelouse). Và chính một con chó của dòng họ Desqueyroux đã tìm ra dấu vết kẻ khốn nạn. Họ bắt gặp ông đói lả nơi bãi hoang. Thérèse thấy ông bị trói gô trên chiếc xe bò đầy rơm. Người ta đồn ông đã chết trên tàu trước khi đến Cayenne. Con tàu... nhà tù khổ sai... Họ không thể giao nộp nàng như đã nói ư? Cái bằng chứng mà Bernard huênh hoang đang nắm trong tay... chắc là láo khoét, trừ phi anh đã phát giác ra gói độc được, trong túi chiếc áo choàng sờn cũ...
Thérèse biết rõ ràng đích xác. Nàng mò mẫm bước lên cầu thang. Càng lên, nàng càng thấy sáng sủa hơn, nhờ những tia nắng mai trên kia dọi qua cửa kính. Ðây rồi, ngay đầu hành lang tầng thượng, cái tủ vẫn treo những quần áo cũ - người ta không đem cho bao giờ, bởi còn cần dùng trong mùa săn. Cái áo choàng ngắn phai màu có một túi thật sâu. Cô Clara xếp chiếc áo len đan ở đó, vào cái thời mà cả cô nữa, trong một góc lẻ loi, cũng ngồi rình lũ chim cu. Thérèse lòn tay vào áo, rút ra một gói niêm sáp.
Chloroforme: 30 gam.
Aconitine: viên nhỏ n°- 20.
Digitaline dung dịch: 20 gam.
Nàng đọc lại mấy chữ đó, mấy con số đó. Chết! Nàng vẫn luôn kinh hãi cái chết. Chủ yếu là đừng nhìn thẳng vào mặt nó. Chỉ dự kiến những cử chỉ cần thiết, chế nước, pha thuốc bột, uống một hơi, nằm dài trên giường, nhắm nghiền mắt lại. Đừng tìm cách nhìn gì ở thế giới bên kia. Sao lại khiếp sợ. Giấc ngủ này hơn mọi giấc ngủ khác? Nếu nàng rùng mình, ấy là vì buổi sáng nay lạnh. Nàng trở xuống, dừng lại trước căn phòng Marie đang ngủ. Tiếng chị vú ngáy như con thú gầm gừ. Thérèse đẩy cửa. Ánh sáng ngày mới len qua cửa xếp. Màu trắng của chiếc giường sắt hẹp, hiện rõ trong bóng tối. Hai nắm tay bé xíu đặt trên chăn. Một khuôn mặt nhìn nghiêng chưa rõ nét, vùi trong gối. Thérèse nhận ra vành tai quá to: tai nàng. Thiên hạ có lý; phiên bản của nàng đang nằm kia, mê man say ngủ. “Ta bỏ đi - nhưng cái phần da thịt kia phải ở lại với cái số kiếp đeo đẳng mãi không tha cho đến chết. “Khuynh hướng, nề nếp, luật huyết thống, thứ luật không thể cưỡng lại. Thérèse từng đọc thấy tin những kẻ tuyệt vọng mang con theo vào cõi chết; người lương thiện buông tờ báo: “Sao những việc như thế lại có thể xảy ra?”. Bởi nàng là yêu quái, Thérèse cảm thấy một cách sâu xa là việc đó có thể xảy ra lắm và chỉ vì một cớ không đâu. Nàng quì xuống, hôn nhẹ lên bàn tay mũm mĩm của con, nàng ngạc nhiên về cái gì đó từ đáy lòng bỗng dưng rào rạt, và trào lên khóe mắt, làm nóng bừng đôi má: vài giọt lệ bẽ bàng rơi xuống, nàng là kẻ chẳng khóc bao giờ.
Thérèse đứng dậy, lại tần ngần nhìn đứa bé, sau cùng quay về phòng mình, rót nước đầy ly, gỡ niêm sáp, lưỡng lự trước ba gói độc dược.

Cửa sổ mở rộng, tiếng gà gáy cơ hồ muốn xé tan màn sương mù còn vướng vất từng mảng trắng muốt trên những cành thông. Đồng quê tràn ngập bình minh. Làm sao từ bỏ bao ánh sáng chói lọi? Chết là thế nào nhỉ? Chẳng ai biết chết ra sao cả. Thérèse không tin vào hư không. Thérèse không chắc là chẳng có ai ở đó. Thérèse giận mình sao lại cảm thấy khiếp sợ đến thế. Nàng, kẻ không do dự đẩy người khác vào cõi chết, lại lồng lên trước hư không. Sự hèn nhát đã sỉ nhục nàng! Nếu Đấng ấy tồn tại (và nàng lại thấy, trong một thoáng, ngày lễ Thánh thể cuồng nhiệt, con người cô đơn ngột ngạt trong chiếc áo lễ vàng, cái vật ông bưng bằng hai tay, và đôi môi mấp máy, với vẻ khổ đau): vì rằng Đấng ấy tồn tại, Đấng ấy hãy đẩy bàn tay sát nhân ra, trước khi quá muộn – và nếu ý Người muốn rằng một tâm hồn mù quáng đáng thương có thể vượt qua, thì ít ra, xin Người hãy ân cần đón nhận con yêu quái này, một sinh vật do Người tạo ra. Thérèse chế vào nước chất chloro-forme, cái tên quen thuộc khiến nàng đỡ sợ sệt, vì nó chỉ gợi ra hình ảnh của giấc ngủ. Nàng phải làm nhanh! Cả nhà vừa thức dậy. Người hầu phòng đã đẩy các cửa bản lề trong phòng cô Clara lên. Bà ta la hét gì với người điếc thế? Thường thường bà hầu phòng có thể khiến cô hiểu qua cử động của đôi môi mà. Tiếng mở cửa và những bước chân rầm rập. Thérèse chỉ còn đủ thì giờ vứt chiếc khăn choàng lên bàn để che giấu các gói thuốc. Bà hầu phòng không gõ cửa, ập vào:
- Bà cô đã chết! Tôi thấy bà nằm trên giường còn mặc nguyên quần áo đã chết từ lâu. Mình mẩy bà ta lạnh ngắt.
Dù sao người ta cũng đặt trong tay bà lão nghịch đạo một tràng hạt, và trên ngực bà một cây thánh giá. Những tá điền lần lượt bước vào, quì xuống, đi ra, không quên nhìn chăm bẳm Thérèse đang đứng phía chân giường: (Biết đâu cũng lại chính bà ấy gây ra vụ này?) Bernard đi Saint Clair báo tin cho gia đình và lo lắng mọi chuyện. Chắc anh phải nhủ thầm là tai nạn đến thật đúng lúc, đánh lạc hướng tất cả. Thérèse nhìn tấm thân già nua, trung hậu kia đã nằm xuống dưới chân nàng, ngay lúc nàng sắp lao vào cõi chết. Ngẫu nhiên, trùng hợp. Nếu người ta bảo là do ý Trời, nàng sẽ nhún vai. Thiên hạ xầm xì với nhau: “Bác thấy chưa? Bà ấy không thèm khóc vờ nữa kia!” Thérèse nói thầm với người đã khuất: sống mà như cái xác, giữa những kẻ thù ghét mình. Đừng nhìn gì nơi thế giới bên kia cả nhé!
Trong lễ tang, Thérèse giữ đúng vị trí mình. Chúa nhật sau đó, nàng đến nhà thờ với Bernard, thay vì rẽ qua gian bên, như thường lệ, anh ngang nhiên tiến vào gian giữa. Thérèse chỉ vén tấm mạng che mặt bằng nhiễu lên, khi đã ngồi xuống giữa mẹ chồng và chồng mình. Một cây trụ che khuất nàng với cử tọa, trước mặt nàng, chỉ có đám lễ sinh. Bị bao vây mọi phía: đám đông phía sau, Bernard bên phải, bà de la Trave bên trái, chỉ còn cái đó được mở ra với nàng phía trước, như đấu trường với con bò tót từ bóng đêm nhảy ra: cái khoảng trống không, có một người giả trang đứng giữa hai đứa bé, hai tay khẽ dang ra; miệng nói lầm bầm.
Chương XI
Buổi chiều, Brenard và Thérèse trở về ngôi nhà cố kính của dòng họ Desqueyroux, gần như hoang vắng từ nhiều năm qua. Lò sưởi ám khói, các cửa sổ khép hờ và gió lòn dưới các cánh cửa bị chuột gặm. Nhưng mùa thu năm ấy đẹp quá, nên thoạt tiên Thérèse không thấy khổ sở về những điều bất tiện đó. Cuộc săn bắn giữ Bernard ở ngoài đến chiều tối. Về tới là anh sà ngay vào bếp, ngồi ăn với vợ chồng Balionte. Thérèse nghe tiếng muỗng nĩa lách cách, tiếng chuyện trò tẻ nhạt. Tháng mười, đêm xuống nhanh. Vài cuốn sách từ nhà bên mang về đã quá nhàm chán. Bernard lờ luôn việc nàng yêu cầu đặt mua sách ở Bordeaux, anh chỉ cho phép Thérèse trữ thêm phần thuốc lá. Cời lò…nhưng khói thông lẩn quất làm cay xé mắt nàng, và cổ họng bị sưng vì hút quá nhiều. Balionte vừa dọn đi một bữa ăn vội vã, Thérèse đã tắt đèn, lên giường. Nàng nằm như thế đã nhiều giờ qua, mà giấc ngủ vẫn chưa đến giải thoát cho nàng. Sự yên lặng của Argelouse khiến nàng không ngủ được: nàng thích những đêm gió lộng hơn – lời than vãn vi vu bất tận, từ những ngọn cây ẩn chứa chút gì êm ái của tình người. Thérèse thiếp dần trong sự đong đưa bềnh bồng ấy. Những đêm xao động của thu phân khiến nàng dễ ngủ hơn là những đêm yên tĩnh.
Dẫu các buối tối dường như dài bất tận đối với nàng, lắm khi nàng buộc phải về nhà trước hoàng hôn. Bởi nhác thấy nàng, một bà mẹ chộp lấy tay đứa con, lôi xệch vào trại. Hoặc một gã chăn bò quen tên, không buồn chào lại nàng. A! Thế mình biến mất hay chìm nghỉm giữa lòng một thành phố đông đúc còn hơn! Ở Argelouse, không gã mục đồng nào chẳng nghe đàm tiếu về nàng (cả cái chết của cô Clara, họ cũng qui cho nàng nốt). Nàng không dám bước qua thềm nhà ai, nàng rời khỏi nhà mình qua một cửa bí mật, tránh các xóm, tiếng bánh xe bò lộc cộc từ xa, đủ khiến nàng phóng vội vào một ngả rẽ. Nàng bước nhanh với tâm trạng âu lo của kẻ bị săn đuổi, ẩn mình trong bụi rậm chờ chiếc xe đạp qua khỏi.
Chúa nhật, dự lễ nhà thờ ở Saint Clair, nàng không còn cảm giác kinh hãi đó và được hưởng đôi giờ thư thả. Dư luận ở thị trấn chừng như có nhiều thiện cảm với nàng hơn. Nàng đâu hay biết cha mình, cùng họ hàng La Trave đã mô tả nàng như một nạn nhân vô tội, đang lâm tình trạng nguy kịch:
- Chúng tôi e con bé không gượng dậy nổi; nó chẳng muốn gặp mặt ai cả và bác sĩ bảo đừng làm trái ý nó. Bernard hết lòng chăm sóc nó, nhưng tình thần nó đã bị tổn thương…
Đêm cuối tháng mười, một trận gió dữ dội từ Đại Tây Dương, ào ào thổi tới, khiến những ngọn cây luôn vật vã điên cuồng và Thérèse, trong cơn nửa tỉnh nửa mê, lặng nghe tiếng gầm thét của đại dương. Nhưng lúc sáng sớm, không phải cái giọng than van ảo não ấy đánh thức nàng dậy. Nàng đẩy cửa bản lên, gian phòng vẫn tối om, một cơn mưa nhỏ, dày mịt, tuôn chảy ròng ròng trên mái ngói dãy nhà phụ, trên vòm lá còn um tùm của những cây sồi.
Hôm ấy, Bernard không ra khỏi nhà. Thérèse rít vài hơi, rồi vứt điếu thuốc, đi lại trên hành lang đầu cầu thang, nghe tiếng bước chân chồng mình lê từ phòng này sang phòng khác dưới nhà, mùi ống vố nồng nặc len lỏi bay lên tận phòng, đánh bạt mùi thuốc lá nâu của Thérèse, và nàng nhận ra hương vị quãng đời cũ. Ngày đầu tiên trở trời… Nàng phải sống bao lâu nữa, bên một góc lò sưởi mà ngọn lửa đã tắt? Trong các xó nhà giấy mốc tróc cả ra. Trên tường, còn lờ mờ in dấu mấy bức chân dung cũ, mà Brenard đã lấy đem chưng bày phòng khách ở Saint Clair. Những cây đinh rỉ sét trống trơ, chẳng treo mắc gì nữa hết. Bên trên lò sưởi, trong cái khung bộ ba giả đồi mồi, mấy tấm hình nhợt nhạt, tựa hồ những người chết trong ảnh, lại chết thêm lần nữa vậy: cha Brenard, bà nội anh, và chính Bernard đội mũ “kiểu thái tử Edouard”. Trọn cả ngày phải tiếp tục sống, trong căn phòng này, và rồi những tuần, những tháng…
Đêm xuống. Thérèse hết chịu nổi, nàng khe khẽ mở cửa ra, xuống nhà, bước vào bếp. Nàng thấy Bernard ngồi trên cái ghế thấp, trước ngọn lửa, chợt đứng phắt dậy, Balion ngưng lau chùi khẩu súng; Balionte buông rơi đồ đan. Cả ba nhìn nàng với vẻ lạ lùng đến độ nàng phải hỏi:
- Tôi làm các người sợ à?
- Cô không được quyền xuống bếp. Cô không biết sao?
Nàng không nói gì, lui ra phía cửa, Bernard gọi nàng lại:
- Vì rằng đã gặp cô… tiện thể tôi muốn nói luôn với cô là sự hiện diện của tôi ở đây không còn cần thiết nữa. Chúng tôi đã tạo được ở Saint Clair một nguồn thiện cảm; người ta tin, hay giả vờ tin là cô có phần nào bị suy nhược thần kinh. Tất nhiên cô thích sống một mình hơn, thỉnh thoảng tôi sẽ về thăm cô. Từ nay, tôi miễn cho cô việc đi lễ nhà thờ…
Nàng ấp úp “đi lễ thì có gì là phiền đâu”. Anh bảo niềm vui thú của nàng đâu đáng kể. Kết quả tìm kiếm đã đạt được rồi.
- Bởi đối với cô, việc đi lễ chẳng có nghĩa gì…
Nàng mở miệng, tưởng chừng sắp nói, nhưng cứ lặng thinh. Anh nhấn mạnh để nàng khỏi phá vỡ cái thành công mau chóng, quá sức mong đợi bằng bất cứ lời nói hành vi nào. Nàng hỏi Marie ra sao. Anh đáp là nó vẫn khỏe, và ngày kia, nó sẽ cùng Anne và bà La Trave đi Beaulieu. Cả anh cũng đến đó vài tuần: nhiều nhất là hai tháng. Anh mở cửa, nép mình bên Thérèse, bước ra.
Vừa mờ sáng, nàng nghe Balion đóng ngựa vào xe. Rồi tiếng nói của Bernard, tiếng ngựa giẫm chân, và tiếng lộc cộc của tiếng xe bò xa dần. Sau đó, là những giọt mưa trên mái ngói, trên cửa kính đục mờ, trên cánh đồng hoang vắng, trên một trăm cây số đầy truông và đầm lầy, trên những cồn cát lún, cuối cùng, trên đại dương.
Thérèse mồi điếu khác tiếp nối điếu thuốc vừa tàn. Vào khoảng bốn giờ, nàng khoác chiếc áo vải dầu, lầm lũi đi trong mưa. Nhá nhem tối, nàng hơi sợ nên quay về. Lò sưởi đã tắt, và bởi lạnh run, nàng chuôi luôn lên giường ngủ. Khoảng bảy giờ, Balionte mang lên cho nàng món trứng chiên dăm bông, nàng từ chối không ăn; mùi mỡ dầu rốt cuộc khiến nàng nghẹn ứ đến tận cổ. Lúc nào cũng thịt chín dầm mỡ hoặc dăm bông. Balionte nói rằng chẳng còn món nào ngon hơn để dọn cho nàng: Ông Bernard cấm bà đụng tới gà vịt. Bà than phiền Thérèse bắt bà phải lên xuống cầu thang một cách vô ích (bà mắc chứng suy tim, đôi chân sưng phồng). Việc hầu hạ nàng quá nặng nề đối với bà, chỉ vì ông Bernard mà bà phải gánh vác thôi.
Đêm đó, Thérèse lên cơn sốt; đầu óc minh mẫn kỳ lạ của nàng vẽ ra trọn vẹn cuộc sống ở Paris. Nàng thấy lại ngôi quán trong rừng, nàng từng đến, nhưng không có Bernard, mà với Jean Azévédo và một nhóm phụ nữ trẻ. Nàng đặt cái túi đồi mồi lên bàn, châm một điếu Addullah. Nàng nói, bày giải tâm tình và dàn nhạc chơi thật êm. Vây quanh nàng là những bộ mặt mê, say hào hứng, nhưng chẳng chút kinh ngạc.
Một thiếu phụ nói:
- Cũng đúng như tôi… tôi cũng cảm thấy thế.
Một nhà văn kéo nàng ra một góc đề nghị:
- Bà phải viết về tất cả những gì xảy ra trong tâm hồn mình. Chúng tôi sẽ cho đăng nhật ký một phụ nữ thời nay trong tạp chí chúng tôi.
Một gã đàn ông, từng đau khổ vì nàng, dìu nàng lên ô-tô của gã. Họ chạy ngược con đường rợp bóng mát trong rừng, nàng không chút luống cuống, mà còn cảm thấy ngây ngất bên tấm thân trẻ trung, điên đảo, ngồi bên trái nàng.
- Không, đêm nay không được đâu, nàng thỏ thẻ. Đêm nay em có hẹn ăn tối với một nhỏ bạn.
- Thế đêm mai nhé?
- Ồ! Không được.
- Buổi tối, không bao giờ cô rảnh sao?
- Hầu như không bao giờ… Có thể nói chẳng bao giờ…
Một người đi vào đời nàng và vì người đó, mọi điều khác trên thế gian bỗng trở thành vô nghĩa, một người chẳng ai trong đám bạn bè được biết, một người hèn mọn, không tên tuổi, nhưng toàn bộ cuộc sống của Thérèse xoay quanh cái vầng dương chỉ riêng nàng nhìn thấy, và chỉ có da thịt nàng cảm nhận được hơi ấm. Paris ồn ào như gió xào xạc rừng thông. Tấm thân kề cận thân nàng, dù nhẹ bổng cũng khiến nàng nghẹt thở; nhưng thà tắt thở còn hơn phải rời xa thân thể đó. (Và Thérèse vờn một cử chỉ như ôm ghì; tay phải của nàng bấu vào vai trái. Những móng nhọn của bàn tay trái riết chặt bờ vai phải).
Nàng đứng dậy, lê chân trần ra mở cửa sổ; bóng tối không lạnh lẽo chút nào nhưng làm sao hình dung có một hôm không còn mưa nữa? Trời sẽ mưa đến ngày tận thế. Nếu có tiền, nàng sẽ trốn lên Paris, đến thẳng nhà Jean Azévédo, thổ lộ hết với anh, anh sẽ tìm ra việc làm cho nàng. Là một phụ nữ cô độc giữa Paris, tự mình kiếm sống, không lệ thuộc vào ai. Không còn gia đình! Mặc cho con tim lựa chọn những người của mình–Không căn cứ theo dòng dõi, mà theo lý trí, và xác thịt nữa chứ, tìm ra những người thân đích thực, dù rất hiếm hoi, dù xiêu lạc nơi đâu… Cuối cùng nàng ngủ thiếp đi, vẫn để ngỏ cửa sổ. Buổi sớm lạnh lẽo và ẩm ướt đánh thức nàng, răng khua lập cập, nàng không đủ can đảm bò dậy đóng cửa sổ – thậm chí không nhấc nổi tay để kéo cái chăn.
Ngày hôm ấy, nàng không trở dậy, không trang điểm. Nàng ngốn vội mấy miếng thịt hầm dầm mỡ, uống cà phê để có thể hút thuốc (bụng trống, nàng không chịu nổi mùi thuốc lá). Nàng cố tìm lại những hình ảnh tưởng tượng trong đêm, vả chăng Argelouse không còn bao nhiêu tiếng động và buổi xế chiều cũng ảm đạm chẳng thua gì đêm tối.
Vào những ngày ngắn ngủi nhất trong năm, mưa dai dẳng, mờ mịt, xóa nhòa thời gian, chẳng còn biết đâu là giờ giấc, hoàng hôn tiếp nối hoàng hôn trong im lặng bất biến. Nhưng Thérèse không buồn ngủ nữa và những giấc mơ của nàng vì thế trở nên rõ ràng hơn. Nàng kiếm tìm có phương pháp, trong quá khứ những khuôn mặt đã lãng quên, những khóe môi xa xăm một thời yêu dấu, những xác thân mù mờ mà cuộc gặp tình cờ, sự ngẫu nhiên trong đêm, đã nhích gần cơ thể ngây dại của nàng. Nàng cố tạo ra một hạnh phúc, mường tượng một niềm vui, dựng nên một chuyện tình trắc trở với đủ mọi lớp lang…
- Bà ấy không rời khỏi giường nữa, cũng chẳng buồn mó tới thịt hầm và bánh mì.
Ít lâu sau đó, Balionte càu nhàu với Balion:
- Nhưng tôi đảm bảo với ông là bà ấy đã nốc hết rượu. Đưa bao nhiêu cho con mẹ ấy, là cạn bấy nhiêu. Và sau đó, với điếu thuốc, bà ấy đốt cháy cả chăn màn. Cuối cùng rồi bà ấy thiêu luôn bọn mình mất, bà ấy hút nhiều đến nỗi ngón tay và móng tay vàng kịt, như nhúng cồn kim sa vậy. Tiếc một nỗi, những tấm chăn ấy lại được dệt đặc biệt ở đây. Đừng có mong tôi thay đổi thường xuyên nữa!
Bà còn nói chẳng phải bà không chịu quét phòng hay dọn giường. Chỉ vì mụ lười kia không muốn chui ra khỏi chăn. Công sức đâu mà Balionte, với đôi chân sưng phù xách từng bình nước nóng lên gác để rồi buổi chiều, lại thấy chúng còn nằm nguyên chỗ ban sáng, ngoài cửa phòng.

Ý nghĩ Thérèse rời khỏi cái thân thể xa lạ, nàng vừa gợi ra cho vui, lòng ngao ngán cho hạnh phúc của mình, cảm thấy ê chề với lạc thú tưởng tượng, nàng nghĩ ra một trò tiêu khiển khác. Thiên hạ quì gối quanh chiếc giường tồi tàn của nàng. Một đứa bé ở Argelouse (một trong những thằng nhóc thấy nàng đến gần đã lủi mất) được mang vào phòng nàng trong tình trạng hấp hối, nàng đặt bàn tay ám vàng khói thuốc lên người nó, thế là nó khỏi bệnh, ngồi bật dậy. Nàng vẽ vời nhiều cơn mơ khác, bình thường hơn.
Nàng hình dung một ngôi nhà ven biển, thấy trong trí khu vườn, khoảnh sân, bày biện các phòng, chọn từng chiếc bàn, cái ghế, tìm chỗ cho những đồ đạc của nàng ở Saint Clair, bàn cãi với mình về cách chọn vải vóc. Sau đó, cảnh vật lung linh, trở nên mờ nhạt, chỉ còn lùm cây xanh, với chiếc băng trước biển. Thérèse ngồi tựa đầu vào một bờ vai, đứng dậy khi nghe chuông gọi cơm, bước vào lùm cây mờ tối và ai đó đi bên cạnh, bất chợt choàng tay ôm quanh lưng nàng, kéo ghì nàng lại. Một nụ hôn, nàng nghĩ, phải ngưng đọng thời gian; nàng tưởng tượng trong tình yêu, hẳn phải có những phút giây vô tận như thế.
Nàng chỉ tưởng tượng thôi, chứ nàng chưa biết đến nó bao giờ. Nàng lại thấy ngôi nhà trắng, cái giếng, tiếng bơm nước cọt kẹt, những cánh hoa hướng nhật quì mới tưới, tỏa hương thơm ngát khoảnh sân, bữa ăn tối là thoáng chốc nghĩ ngợi trước cái hạnh phúc điên mê của buổi chiều và đêm tối, chắc là không thể nhìn ngắm tỏ tường, bởi nó vượt quá sức mạnh tim ta. Thế là Thérèse đã tận hưởng và thấu hiểu cái tình yêu mà nàng bị tước đoạt nhiều hơn ai khác. Nàng thoáng nghe tiếng la lối om sòm của Balionte. Bà lão kêu la gì thế?
- Ông Bernard sẽ từ Midi về, chẳng biết ngày nào, không báo trước. Chẳng biết ông ấy nghĩ sao khi nhìn thấy căn phòng này? Đúng là một bãi heo! Cho dù vui lòng hay miễn cưỡng, lệnh bà phải dậy thôi.
Ngồi trên giường, Thérèse kinh hãi nhìn đôi chân gầy guộc, và bàn chân có vẻ quá khổ của mình. Balionte quấn nàng trong áo ngủ, đẩy nàng vào chiếc phô-tơi. Nàng quơ tay bên cạnh tìm thuốc lá, nhưng tay nàng rơi vào khoảng không. Ánh sáng lạnh lẽo tràn qua khung cửa mở. Balionte, cây chổi trên tay, lăng xăng hối hả, vừa thở hổn hển vừa chửi lầm bầm. Balionte thế mà tốt bụng, kẻ ăn người ở trong nhà hay kể câu chuyện bà khóc sướt mướt vào mỗi dịp Giáng sinh khi phải mổ con lợn bà nuôi đến mập ú. Bà giận Thérèse đã không nói với bà một tiếng. Đối với bà, im lặng là điều sỉ nhục, là dấu hiệu khinh bỉ. Nhưng nói hay không đâu còn tùy thuộc Thérèse. Khi cảm thấy thân thể mình mát rượi trong tấm chăn sạch sẽ, nàng ngỡ đâu mình đã cất tiếng cám ơn; kỳ thực chẳng một thanh âm nào vuột khỏi môi nàng.
Balionte, vừa đi ra ngoài vừa ngoái lại nói:
- Phen này bà hết đốt được nữa!
Thérèse sợ bà mang hết thuốc lá đi, với tay về phía bàn, quả nhiên gói thuốc không còn ở đấy. Làm sao sống mà không hút? Những ngón tay nàng phải luôn sờ mó cái vật bé nhỏ, khô khan và nóng bỏng ấy, để sau đó, nàng có thể ngửi mãi mùi thuốc trong căn buồng tắm đẫm thứ sương mù, do nàng thở ra và hít vào, Balionte chỉ trở lên vào buổi chiều, suốt buổi trưa nhịn thuốc! Nàng nhắm mắt lại và mấy ngón tay vàng kịt cứ vân vê: cử động quen thuộc quanh một điếu thuốc.
Lúc bảy giờ, Balionte vào với một ngọn nến, đặt cái mâm lên bàn: có sữa, cà phê và miếng bánh mì.
- Nào, bà không cần gì khác chứ?
Bà đợi Thérèse lên tiếng đòi thuốc một cách tinh quái, nhưng Thérèse đăm đăm nhìn vào tường, không buồn quay mặt lại. Chắc Balionte đã sơ ý gài cửa sổ không chặt; một cơn gió bật tung ra, và cái lạnh đêm khuya tràn ngập căn phòng. Thérèse thấy không đủ can đảm hất chăn chui ra, chân trần chạy đến cửa sổ. Thu mình lại, kéo chăn lên tận mắt, nàng nằm im lìm, chịu lạnh từ mí mắt và trán trở lên. Tiếng thì thào của rừng thông mênh mang khắp Argelouse, nhưng bất chấp lời tỉ tê của đại dương, đó vẫn là cái yên lặng của Argelouse. Thérèse nghĩ, nếu thích đau khổ, nàng đã chẳng quấn chặt mình trong lớp chăn ấm áp thế này. Nàng thử xô chúng ra, cảm thấy chỉ có thể chịu đựng cái lạnh được vài giây. Sau đó, nàng thử chịu đựng lâu hơn như thể đùa chơi. Nếu không tuân theo một ý muốn đã cân nhắc, nỗi đau đã trở thành mối bận tâm của nàng và – biết đâu? cũng là lẽ sống của nàng trên đời.
Chương XII
Một lá thư của ông chủ!
Bởi Thérèse không chịu cầm lấy chiếc phong bì bà trao, Balionte nhấn mạnh:
- Chắc chắn ông nhà báo tin ngày về, dù sao bà phải biết để chuẩn bị tiếp đón.
- Nếu bà cho phép tôi đọc…
Thérèse nói:
- Đọc đi! Đọc đi!
Và nàng vẫn làm như mỗi khi có mặt Balionte, quay mặt vào tường. Tuy nhiên, những gì Balionte đọc đã kéo nàng ra khỏi trạng thái thẫn thờ.
Tôi vui sướng được biết, qua báo cáo của Balion, là mọi sự đều tốt đẹp ở Argelouse…
Bernard báo tin anh về sẽ theo đường bộ, nhưng vì anh dự tính ghé qua nhiều thành phố, nên không thể định rõ ngày về.
Chắc là không thể sau ngày hai mươi tháng chạp. Đừng ngạc nhiên khi thấy tôi về với Anne và con trai bà Deguilhem. Họ đã đính hôn với nhau ở Beaulieu, tuy chưa chính thức, con trai Deguilhem tha thiết muốn được gặp cô trước đã. Vấn đề thích hợp thôi, anh ta bảo thế. Riêng tôi, tôi có cảm giác anh ta muốn tìm hiểu thêm về chuyện gì chắc cô cũng rõ. Cô thừa thông minh để không né tránh cuộc thử thách này. Cô hãy nhớ là mình đang bệnh, tinh thần đang bị tổn thương. Tóm lại, tôi trông cậy vào cô. Tôi biết ơn sự cố gắng của cô để không phương hại đến hạnh phúc của Anne, cũng như cho lối thoát êm đẹp, làm mát mặt gia đình về mọi phương diện – nhưng tôi sẽ không ngần ngại buộc cô trả giá đắt về mọi mưu toan phá hoại, nếu trường hợp ấy xảy ra. Dù sao tôi tin chẳng có gì phải lo sợ cả.
Đó là một ngày trong sáng và lạnh lẽo, Thérèse trở dậy, ngoan ngoãn nghe theo lệnh của Balionte, tựa vào tay bà bước vài bước trong vườn, và khó nhọc lắm mới nuốt trôi miếng lườn gà. Còn mười hôm nữa mới đến hai mươi tháng chạp. Nếu bà chủ chịu vận động một chút, thì đâu đến nỗi khổ sở khi đặt chân xuống đất.
- Không thể nói bà ấy thiếu thiện chí, Balionte nói với Balion. Bà ấy đã ráng hết sức. Ông Bernard biết cách rèn luyện bầy chó dữ. Ông có biết lúc nào thì ông ấy bắt chúng đeo kiềng bạo lực không? Biến bà ấy thành con chó săn nằm xuống chụp mồi, chắc không lâu lắm đâu. Nhưng tốt hơn hết là đừng quá tin…
Thực tế, Thérèse đã cố gắng hết sức mình để từ bỏ mơ mộng, giấc ngủ, nỗi chán ngán. Nàng buộc mình phải đi đứng, ăn uống, nhất là sáng suốt trở lại, để nhìn cho tận tường những sự việc, những con người. Và như quay về với chốn đồng hoang mình vừa tự tay thiêu hủy, nàng giẫm lên lớp tro than, dạo chơi giữa những cây thông cháy xám và đen đủi, nàng cũng thử nói nói cười cười giữa lòng gia đình này – gia đình của nàng…
Ngày mười tám, lúc ba giờ, bầu trời u ám nhưng không mưa. Thérèse đang ngồi trước lò sưởi trong phòng, đầu tựa vào lưng ghế, mắt nhắm lại. Một tiếng rung của động cơ làm nàng sực tỉnh. Nàng nhận ra giọng nói của Bernard ở phòng ngoài; nàng nghe cả tiếng bà La Trave. Khi Balionte thở hào hển, chưa kịp gõ, đã đẩy cửa bước vào, Thérèse đang đứng trước gương. Nàng tô tí son lên má và môi. Nàng tự nhủ: “Không nên làm chàng trai ấy sợ”.
Nhưng Bernard phạm sai lầm là đã không lên phòng vợ mình trước. Con trai nhà Deguilhem, đã hứa với gia đình “sẽ không để mắt ở sau gáy”[10], tự nhủ: “Ít nhất đó cũng là một sự thiếu ân cần, đáng để ta suy nghĩ”. Gã đứng hơi cách xa Anne, bẻ lại cổ áo lông, vừa nhận xét:
- Các phòng khách miền quê này đừng nên sưởi nóng.
Gã hỏi Bernard:
- Không có tầng hầm phía dưới sao? Thế thì sàn nhà sẽ mục hết, trừ phi anh cho trám một lớp xi măng…
Anne de la Trave có chiếc áo khoác lông sóc màu xám bạc, cái mũ phớt không dải băng cũng chẳng nơ thắt (nhưng theo lời bà de la Trave, dù không kèm thêm món nào, nó vẫn đắt hơn những cái mũ cài bông xưa kia. Quả thật cái mũ phớt rất đẹp. Nó được mua ở hiệu Lailhaca, nhưng lại là kiểu Reboux). Bà de la Trave dời chân lại gần lửa, hơ đôi giày cao cổ, gương mặt vừa kiêu hãnh, vừa nhũn nhặn quay ra phía cửa. Bà đã hứa với Bernard sẽ bình tĩnh đương đầu mọi tình huống. Nhưng bà báo trước:
- Đừng bắt tao phải ôm hôn nó. Không thể đòi hỏi mẹ mình như thế. Đụng đến tay nó cũng đủ chết khiếp rồi! Mày xem, Trời cũng biết việc nó làm là tai quái; nhưng có phải điều đó khiến tao phẫn nộ hơn hết đâu. Thiếu gì kẻ dám giết người, ai chẳng biết… Chính cái thói đạo đức giả của nó kìa: cái ấy mới kinh khủng! Mày còn nhớ chứ?
- Mẹ à, thế mẹ ngồi lên ghế này đi, mẹ sẽ khỏe ngay…
- Nhất là cái lần nó sợ mày lo lắng quá mức. “Tội nghiệp chồng con, anh ấy sợ chết, khám bệnh là khỏi ngay”. Có trời làm chứng, tao chẳng nghi ngờ gì cả; nhưng cái câu “tội nghiệp chồng con” từ cửa miệng nó khiến tao ngạc nhiên…
Giờ đây, trong phòng khách ở Argelouse, bà de la Trave chỉ còn nhận rõ nỗi ngượng ngập mà ai cũng cảm thấy, bà nhìn đôi mắt cú vọ của con trai nhà Deguilhem cứ chăm bẳm vào Bernard.
- Bernard, anh lên xem chị Thérèse làm gì trên ấy, biết đâu chị ấy đau nhiều…
Anne (hờ hững, như tách biệt với tất cả những gì có thể bất thần xảy đến) nhận ra đầu tiên bước chân quen thuộc, khẽ nói:
- Em nghe tiếng chân chị ấy đang xuống.
Bernard đặt tay lên ngực, đau thắt vì hồi hộp. Thật điên rồ đã không chịu về đêm qua, để thu xếp trước với Thérèse cảnh diện kiến này. Cô ta sắp nói gì? Cô ta có thể phá hỏng tất cả, mà không nhất thiết phải làm điều gì khiến người ta có thể phiền trách. Nàng đang chậm rãi bước xuống cầu thang! Bọn họ thảy đều đứng dậy, hướng về cánh phía cửa cuối cùng Thérèse sẽ mở ra.
Bernard hẳn còn nhớ đến nhiều năm sau, điều thoạt tiên anh nghĩ: một phiên tòa đại hình, khi tấm thân tiều tụy, khuôn mặt trát phấn xanh xao ấy đến gần. Nhưng chẳng phải để xét xử tội trạng Thérèse. Trong phút giây, anh lại thấy tấm ảnh tô màu của tờ “Người bình dân”, cùng nhiều hình ảnh khác, trang trí các nhà cầu bằng ván trong vườn, ở Argelouse–trong khi bầy ruồi vo ve, bên ngoài tiếng ve sầu rên rỉ giữa một ngày nắng cháy, đôi mắt trẻ thơ của anh chăm chú ngắm nhìn cái hình vẽ xanh đỏ miêu tả “Người nữ tù ở Poitiers”.
Cũng thế, giờ đây, anh ngắm nhìn Thérèse nhợt nhạt gầy guộc, và phải chăng anh đang đánh giá sự ngu xuẩn của mình đã không kịp thời bằng một cách xa lánh người đàn bà ghê gớm ấy–như người ta quẳng xuống nước một khí cụ có thể nổ tung bất cứ lúc nào. Cho dù vô tình hay cố ý, Thérèse đã gây ra tấn bi kịch – còn thê thảm hơn bi kịch nữa: cái việc không đâu; hoặc cô ta phạm tội hoặc cô ta là nạn nhân… Phía gia đình, có vẻ xôn xao kinh ngạc, pha chút thương hại giả dối, khiến con trai nhà Deguilhem đắn đo trong kết luận của mình, chẳng còn biết nghĩ ra sao nữa. Thérèse đủng đỉnh nói:
- Có gì đâu, thời tiết khắc nghiệt không cho phép tôi ra ngoài thế là rã rượi ăn mất ngon. Hầu như tôi chẳng đụng đến món nào cả. Ốm một tí còn hơn là béo phì… Ồ! Thôi nói về em đi chứ Anne, chị rất sung sướng…
Nàng nắm lấy tay cô (nàng ngồi, còn Anne thì đứng). Nàng ngắm nghía cô. Trên gương mặt, người ta ngỡ là héo hon vì ray rứt, Anne nhận ra ánh mắt van nài thường khiến cô tức tối. Nàng nhớ cô ấy đã kêu lên:
- Bao giờ chị mới thôi nhìn em như thế!
- Chị mừng cho hạnh phúc của em, cô bé Anna thân yêu của chị.
Nàng thoáng mỉm cười với “hạnh phúc của Anna”, với con trai nhà Deguilhem – cái gã lì lợm, với bộ râu mật thám, đôi vai xệ, chiếc áo ja-kết, cặp giò thon, láng nhẫy dưới cái quần sọc xám đen (ồ sao nhỉ! đó là một gã đàn ông như mọi người đàn ông khác – tóm lại, một người chồng). Một lần nữa, nàng lại nhìn Anne, khẽ bảo:
- Giở nón ra…À! thế chứ, đúng là em của chị đây rồi.
Anne bấy giờ thấy ngay bên mình, cái miệng với khóe môi hơi nhăn, đôi mắt ráo hoảnh, đôi mắt không biết khóc; nhưng cô chẳng biết Thérèse đang nghĩ gì. Con trai nhà Deguilhem bảo rằng mùa đông miền thôn dã chẳng có gì khủng khiếp đối với một phụ nữ thực sự thương yêu tổ ấm của mình. “Có biết bao việc để làm trong nhà”.
- Chị không hỏi em gì về Marie sao?
- Ừ nhỉ! Nói chuyện Marie chị nghe đi.
Anne lại tỏ vẻ ngờ vực, khó chịu. Từ nhiều tháng qua, nàng thường nhiều lần lặp lại, cùng một giọng điệu như mẹ. “Lẽ ra, tôi đã tha thứ hết cho chị ấy, bởi dù sao đó là một con người bệnh hoạn, nhưng tôi không hiểu nỗi sự lãnh đạm của chị ấy đối với Marie, một người mẹ không tha thiết đến con mình, thì dù có viện lẽ gì đi nữa, tôi vẫn thấy điều đó thật đê tiện”.
Thérèse đọc được ý nghĩ ấy trong mắt cô gái.
“Cô ấy khinh mình vì mình đã không hỏi thăm Marie trước tiên. Giải thích với cô ấy thế nào đây? Cô ấy đã không hiểu là tôi chỉ biết có bản thân tôi, tôi chỉ bận tâm đến mỗi mình tôi thôi. Anne, cô ấy, chờ đợi có những đứa con để hóa thân trong chúng, như mẹ nàng, như tất cả phụ nữ khác trong dòng họ. Còn tôi, tôi phải luôn gặp lại chính mình, tôi tìm mọi cách quay về với tôi. Anne rồi sẽ quên thời niên thiếu bên tôi, quên những vuốt ve trìu mến của Jean Azévédo, ngay khi đứa bé cất tiếng khóc oe oe, đứa bé mà gã lùn dị dạng kia sắp cùng cô sinh ra. Những phụ nữ nề nếp đều muốn từ bỏ cuộc sống cá nhân. Đẹp thay, sự cống hiến trọn vẹn cho dòng họ, tôi cảm nhận cái cao cả của sự quên mình, của sự tự hủy đó… Nhưng còn tôi, còn tôi…”
Nàng cố không nghe lời thiên hạ bàn tán, để chỉ nghĩ đến Marie; cô bé giờ hẳn đã biết nói: “Nghe tiếng nó bi bô, chắc mình cũng thấy thích thú trong giây lát, nhưng nó sẽ khiến mình chán ngán ngay, mình nôn nao muốn trở lại một thân một bóng, đối diện với chính mình”. Nàng hỏi Anne:
- Chắc Marie nói giỏi lắm rồi, phải không?

- Nó có thể lặp lại bất cứ điều gì ta muốn. Buồn cười lắm. Chỉ cần nghe gà gáy hay tiếng còi ô-tô, là cô bé giơ ngón tay mũm mỉm ra bập bẹ: “Cô… nghe nhạc hông?” Dễ thương lắm, yêu quá đi thôi.
Thérèse nghĩ: “Mình phải nghe người ta nói gì. Đầu óc mình trống rỗng, con trai nhà Deguilhem lải nhải gì thế?” Nàng cố lắng tai.
- Nơi đồn điền Balisac của tôi, phu trích nhựa không quyết tâm như ở đây; chỉ lấy được bốn mùa, trong khi nông dân Argelouse lấy những bảy đến tám mùa.
- Với giá như thế, họ lười là phải!
- Anh có biết ngày nay một phu trích nhựa, có hôm kiếm được cả trăm quan không. Ồ nhưng tôi e chúng ta làm mệt bà Desqueyroux mất…
Thérèse ngả đầu lên lưng ghế. Mọi người đứng lên. Bernard quyết định không về Saint Clair. Con trai nhà Deguilhem nhận lái ô-tô để hôm sau, gã tài xế lại quay về Argelouse với hành lí của Bernard. Thérèse gắng gượng đứng dậy, nhưng bà mẹ chồng ngăn lại.
Nàng nhắm nghiền mắt, nghe Bernard nói với bà de la Trave:
- Bọn Balion, lẽ nào thế! Con sẽ mắng cho một trận… Họ đoán biết gã sẽ qua đây chứ.
- Coi chừng, đừng làm quá đáng, không nên để họ bỏ đi; trước tiên họ biết quá nhiều; với lại, về đất đai… Balion là kẻ duy nhất biết rõ mọi ranh giới.
Bà de la Trave đáp lại một băn khoăn của Bernard mà Thérèse không nghe rõ:
- Dù sao, hãy thận trọng, đừng quá tin vào nó, hãy theo dõi mọi hành vi của nó đừng bao giờ để nó xuống bếp hay vào phòng ăn một mình… nhưng không: nó không ngất xỉu, nó ngủ hay chỉ giả vờ.
Thérèse mở mắt ra. Bernard đứng trước mặt nàng, anh cầm cái cốc và nói:
- Cô uống đi, rượu vang Tây Ban Nha đấy, bổ lắm.
Và đã định làm gì làm làm ngay, anh hằm hằm bước xuống nhà bếp. Thérèse nghe giọng quê mùa của Balionte cất lên the thé và nghĩ: “Bernard sợ, tất nhiên; nhưng sợ điều gì?”
 Anh quay lên:
- Tôi nghĩ là ngồi trong phòng ăn, cô sẽ thấy ngon miệng hơn là trên buồng mình. Tôi đã ra lệnh cho họ dọn ăn như trước.
Thérèse gặp lại anh chàng Bernard thời gian nàng bị thẩm vấn: Kẻ đồng minh muốn nàng thoát nạn bằng mọi cách. Anh mong nàng khỏi bệnh với bất cứ giá nào. Vâng, tất nhiên là anh sợ. Thérèse dò xét anh, đang ngồi ngay trước mặt nàng cời than, nhưng không sao đoán nổi hình ảnh anh nhìn thấy trong ngọn lửa qua đôi mắt mở to, cái hình vẽ xanh đỏ trong tờ “Người bình dân Paris”: Người nữ tù ở Poitiers.
Dù mưa bao nhiêu cũng không đọng lại vũng nước nào trên cát Argelouse. Ngay giữa mùa đông, chỉ cần nắng chừng một giờ là có thể mang giày vải đế cói, giẫm lên con đường lún mềm và khô ráo, rải rác lá thông. Bernard đi săn suốt ngày, nhưng đến giờ cơm thì về, lo lắng cho Thérèse, săn sóc nàng chu đáo, điều anh chưa bao giờ làm trước đây. Quan hệ giữa họ chẳng có gì là gượng ép. Anh buộc nàng cứ ba ngày phải cân một lần, chỉ được hút hai điếu sau mỗi bữa ăn. Thérèse nghe lời khuyên của Bernard, đi bộ thật nhiều: “Thể dục là thứ rượu khai vị hữu hiệu nhất”.
Nàng không còn sợ hãi Argelouse nữa; hình như những cây thông rẽ hàng mở lối, vẫy gọi nàng cao chạy xa bay.
 Một buổi chiều, Bernard nói với nàng:
- Tôi mong cô ráng đợi đến ngày cưới của Anne, cần cho mọi người trông thấy chúng ta sánh vai nhau một lần nữa, sau đó cô sẽ được tự do.
Suốt đêm ấy, nàng không thể ngủ. Một nỗi vui bồn chồn khiến nàng thao thức. Sáng sớm, tưởng chừng đàn gà cùng lúc rộ lên một điệp khúc vang rân trời đất, chứ không phải lũ lượt gọi nhau cất tiếng gáy. Bernard buông tha cho nàng trở lại với đời, như xưa kia anh trả về đồng hoang con lợn lòi cái mà anh không thể thuần hóa.
Cuối cùng rồi Anne sẽ lấy chồng, thiên hạ nói gì mặc họ. Bernard đẩy Thérèse chìm sâu vào lòng kinh thành Paris rồi bỏ trốn. Họ đã thỏa thuận với nhau rồi. Không li dị, cũng chẳng chính thức chia tay. Đối với mọi người, cứ viện lý do sức khỏe (“nàng chỉ khỏe khoắn khi đi du lịch”). Anh sẽ thanh toán sòng phẳng phần nhựa thông của nàng vào mỗi kì lễ Các Thánh.
Bernard không hỏi Thérèse về những dự định của nàng: nàng cứ đi bất cứ nơi nào khác mà treo cổ.
- Con chỉ có thể yên tâm khi nào cô ta rời khỏi chốn này.
Anh nói với mẹ.
- Mẹ mong nó lấy lại tên con gái… Tuy nhiên, nếu nó làm điều xằng bậy, người ta vẫn có thể truy ra con. – Nhưng, anh quả quyết Thérèse không hề chống đối. Tự do, chẳng lẽ người ta lại không biết điều hơn sao. Dù thế nào đi nữa, cần phải tin tưởng chứ. Đó chính là ý kiến của ông Larroque. Tóm lại, tốt nhất nên để Thérèse biến mất. Thiên hạ sẽ nhanh chóng quên nàng, họ sẽ không nhắc đến chuyện nàng nữa. Điều quan trọng là cứ im lặng. Ý định ấy mọc rễ nơi họ và chẳng có gì khiến họ phải từ bỏ nó: “Cần để Thérèse biến khỏi nơi đây”. Họ nóng lòng xiết bao!
Thérèse yêu mến vẻ trần trụi mà buổi tàn đông khoác lên vùng đất vốn đã còi cọc hoang sơ, thế mà tấm áo nâu bền bỉ làm bằng những chiếc lá úa vẫn bám chặt ngọn sồi. Nàng phát hiện cái im lặng của Argelouse không hề có thật. Những khi yên tĩnh nhất, rừng thông tỉ tê như người ta than khóc số phận mình, đong đưa ru ngủ và đêm tối chỉ là lời thì thào bất tận. Sẽ có những bình minh của cuộc sống tương lai, cuộc sống không thể hình dung nổi, những buổi bình minh hoang vắng đến độ có thể nàng sẽ tiếc nuối giờ thức giấc ở Argelouse. Tiếng gà gáy rộ một lúc. Nàng sẽ nhớ lại, trong những mùa hạ sắp đến, tiếng ve ra rả ban ngày và tiếng dế nỉ non trong đêm. Paris chẳng còn đâu những cây thông xơ xác, chỉ có những con người đáng sợ, sau rừng cây, giờ lại đến rừng người.
Đôi vợ chồng ngạc nhiên thấy họ chẳng còn ngượng nghịu. Thérèse thầm nghĩ, ta có thể dễ dàng chịu đựng những ai, ta biết chắc sắp rời xa. Bernard quan tâm đến uy thế của Thérèse – cả lời lẽ của nàng nữa; nàng nói năng thoải mái hơn bao giờ trước mặt anh. “Ở Paris… khi em lên Paris…” Nàng sẽ ngụ ở khách sạn, không chừng sẽ tìm một căn hộ. Nàng dự tính theo các lớp học, dự các cuộc hội thảo, các buổi hòa nhạc, “học lại từ căn bản”. Bernard không nghĩ đến việc canh chừng nàng và không chút nghĩ ngợi, anh húp sạch chén xúp, nốc cạn cốc rượu. Bác sĩ Pédemay, đôi khi gặp họ trên đường Argelouse, nói với vợ: “Điều lạ lùng là họ chẳng có vẻ gì như đang đóng kịch cả”.
Chú thích:
[10] Nguyên tác: giữ mắt trong túi.
Chương XIII
Một buổi tối tháng ba nóng bức, vào khoảng mười giờ, dòng người cuồn cuộn, chen chúc nhau ngoài hàng hiên quán cà phê Hòa Bình, nơi Bernard và Thérèse đang ngồi. Nàng vứt điếu thuốc, và như mọi người dân xứ Lande, nàng cẩn thận dụi tắt tàn thuốc.
- Em sợ mình đốt cháy vỉa hè sao?
Bernard cố cười. Anh trách mình đã theo Thérèse lên tận Paris. Có thể là sau đám cưới của Anne, anh làm thế vì áp lực của dư luận–nhưng trước nhất anh chiều theo ý muốn của người vợ trẻ. Anh tự nhủ cô ta có biệt tài trong những tình huống trái ngược, ngày nào nàng còn ở lại giữa đời anh, ngày ấy anh còn sa đà vào những điệu bộ phi lý, một tinh thần vững vàng và hài hòa như anh, vẫn không khỏi bị con người khác thường ấy tác động ít nhiều. Lúc sắp chia tay nàng vĩnh viễn, anh không thể cưỡng lại một nỗi buồn anh chưa hề biết tới: thật quá xa lạ đối với anh, một thứ tình cảm như thế, do kẻ khác gợi ra (nhất lại là Thérèse…điều đó thật không tưởng tượng nổi). Anh xiết bao nôn nóng muốn thoát khỏi nỗi xao xuyến này! Anh chỉ có thể thở ra nhẹ nhõm trên chuyến xe lửa trưa nay. Ô tô đợi anh ở Langou buổi chiều. Ngay lối ra ga, trên con đường Villandranlt, những hàng thông bắt đầu xuất hiện… Anh ngắm khuôn mặt nhìn nghiêng của Thérèse, đôi mắt nàng có lúc chăm chú trông theo một khuôn mặt lẫn khuất trong đám đông, đeo đuổi cho đến khi nó biến mất. Đột nhiên Bernard lên tiếng:
- Thérèse!... tôi muốn hỏi em…
Anh nhìn lãng chỗ khác, chưa bao giờ anh chịu đựng nổi cái nhìn của người đàn bà này, đoạn nói thật nhanh:
- Tôi muốn biết… Vì sao em đã thù ghét tôi? Vì sao tôi đã khiến em ghê sợ?
Anh nghe chính những câu nói của mình với vẻ kinh ngạc lẫn tức tối. Thérèse mỉm cười, rồi nhìn anh một cách nghiêm nghị. Cuối cùng, Bernard đã hỏi nàng một câu, cái câu lóe lên trong trí Thérèse trước tiên, nếu nàng đứng vào cương vị anh.
Lời thú tội từ lâu chuẩn bị, trong chiếc xe ngựa trần bốn bánh, dọc đường về Nizan, rồi trên chuyến xe lửa Saint Clair, cái đêm nghiền ngẫm, sự mải mê tìm kiếm, nỗi cố gắng quay ngược về cội nguồn hành động–cuối cùng sự trở về mòn mỏi với chính mình, có lẽ đã đến lúc được đền bù. Nàng đã vô tình làm Bernard bối rối. Nàng gây phiền lụy cho anh và bây giờ anh hỏi nàng như một kẻ chưa hiểu rõ, còn phân vân… Chẳng đơn giản, nên khó mà nguôi quên. Thérèse ném về phía con người mới lạ đó cái nhìn hài lòng, gần như trìu mến của người mẹ. Thế nhưng, nàng đáp lời anh, giọng chế giễu:
- Há anh chẳng biết đó là vì những rừng thông của anh sao? Vâng, tôi muốn một mình chiếm trọn các rừng thông.
Anh nhún vai:
- Tôi không tin như thế, dù đã có lúc tôi nghĩ vậy. Sao em lại làm điều đó? Bây giờ, em có thể nói cho tôi rõ.
Nàng nhìn vào khoảng không, trên vỉa hè, vào lúc sắp gieo mình xuống dòng sông lô nhô những thân người hối hả đó, vùng vẫy, hay chấp nhận sa lầy, nàng thấy lóe lên một tia sáng, một bình minh. Nàng hình dung một ngày về với quê hương buồn hiu và bí ẩn–cả một đời trầm tư, tu tỉnh, trong cái im lặng ở Argelouse; với mộng tình ấp ủ và sự tìm kiếm Thượng đế… Một gã Maroc bán thảm và những chuỗi hạt thủy tinh, ngỡ ngàng cười với gã… Nàng nói vẫn với vẻ như cợt đùa:
- Em định trả lời: “Em chẳng hiểu vì sao mình lại làm thế”, nhưng bây giờ, có lẽ em biết, anh có nghĩ ra! Có thể không là chỉ để thấy trong mắt anh, một nỗi lo lắng, một chút lạ lùng. Tóm lại sự bối rối, đó là những gì em vừa khám phá ra cách đây một giây.
Anh hầm hừ, giọng gợi nhớ đến cuộc du lịch sau ngày cưới:
- Em vẫn tinh quái cho đến cùng…Thực ra, vì sao nào?
Nàng không cười nữa, đến lượt nàng hỏi:
- Bernard! Anh là một người luôn biết rõ lý do mọi hành động của mình, phải không?
- Tất nhiên, chắc chắn thế… Ít ra là theo tôi nghĩ.
- Em, em thật không muốn giấu giếm anh điều gì cả. Giá mà anh biết, em đã tự dằn vặt thế nào, để hiểu cho rõ… Nhưng tất cả mọi lý lẽ mà em có thể giãi bày, anh biết không, vừa mới thốt ra, đã có vẻ dối trá làm sao…
Bernard sốt ruột:
- Dù sao, đã có một ngày cô quyết định… cô đã hành động?
- Vâng, cái ngày xảy ra đám cháy Mano.
Họ đã ngồi sát bên nhau, thì thầm to nhỏ. Nơi ngã tư đường này của Paris, dưới bầu trời dịu êm, trong làn gió mát mẻ thoảng mùi thuốc lá hải ngoại, lay động mấy bức mành vàng và đỏ, Thérèse thấy kỳ lạ làm sao, việc gợi lại buổi chiều hừng hực, bầu trời mù mịt khói, giăng giăng bồ hóng, mùi thuốc hăng hắc lan ra từ rừng thông ngút cháy. Và cả con tim ngái ngủ của nàng, nơi tội ác lặng lẽ nảy mầm.
- Việc đó xảy ra như thế này: trong phòng ăn, buổi trưa thường tối mò, anh nói chuyện, đầu hơi quay về phía Balion, quên đếm những giọt thuốc nhễu xuống cốc.
Thérèse cố không bỏ sót một tình tiết nhỏ nhặt nào, không nhìn Bernard, nhưng nghe tiếng cười, nàng ngước mắt lên: đúng là giọng cười ngớ ngẩn của anh, anh nói: “Ồ! Không! Cô cho tôi là ai thế?”. Anh không tin nàng (mà thực ra, điều nàng nói đó, có thể tin được không?). Anh cười khẩy và nàng nhận ra một Bernard tự tin và không dễ ai lừa phỉnh. Anh đã giành lại lợi thế, và một lần nữa nàng cảm thấy tuyệt vọng, anh chế giễu:
- Vậy ra ý nghĩ ấy từ trên trời rơi xuống với cô à, phải không?
Anh hận mình đã hỏi Thérèse! Vậy là mọi nỗi khinh miệt dành cho cái ả điên rồ này phút chốc tiêu tan: tất nhiên cô ta sẽ ngẩng đầu lên thôi! Tại sao anh lại chiều theo cái ý bất chợt muốn tìm hiểu? Đối với những kẻ loạn óc như cô ta thì có gì cần phải hiểu nữa. Anh không kịp nghĩ ra, anh không ngờ tới…
- Nghe này Bernard, những gì em nói với anh, chẳng phải để anh tin là em vô tội đâu, em không hề có ý đó!
Lạ sao, nàng thiết tha muốn nhận hết! Để hành động, như kẻ mộng du thế ấy, theo anh từ nhiều tháng trước, lòng nàng đã dấy lên, đã ấp ủ những ý tưởng tội lỗi! Vả chăng, khi hành vi đầu tiên xảy ra, nàng vẫn điên cuồng bám riết ý đồ của mình, một cách tỉnh táo, và dai dẳng xiết bao!
- Em chỉ cảm thấy mình độc ác khi tay còn ngập ngừng. Em giận mình đã kéo dài nỗi đau đớn của anh. Phải thực hiện đến cùng và thật nhanh! Em tuân theo một bổn phận khắc nghiệt. Vâng, em xem như đó là một bổn phận…
Bernard ngắt lời nàng:
- Đấy! Lời với lẽ! Vậy cô thử nói tôi biết, một lần thôi, cô muốn cái gì cơ chứ? Tôi thách cô đấy!
- Em muốn gì ư? Nói ra những gì em không muốn, có lẽ sẽ dễ dàng hơn; em không muốn đóng vai một nhân vật múa may quay cuồng, nói những lời sáo rỗng, tóm lại, từng phút từng giây phải chối bỏ một Thérèse đang… Nhưng thôi, Bernard ạ, anh thấy không, em chỉ muốn mình trung thực; cớ sao những gì em thổ lộ với anh đều có vẻ giả dối thế?
- Nói khẽ tí; cái ông ngồi đằng trước vừa ngoảnh lại.
Bernard chẳng mong gì hơn là kết thúc cho xong. Anh biết rõ kẻ gàn dở này; cô ta thích chẻ sợi tóc làm tư. Thérèse cũng hiểu rằng người đàn ông ấy, một giây ngỡ gần lại, đã vụt xa cách nghìn trùng. Thế nhưng nàng vẫn cố níu kéo, nhoẻn nụ cười xinh xắn, thì thào bằng thứ giọng khàn đục và trầm ấm anh từng ưa thích:
- Nhưng giờ đây, Bernard, em thấy rõ là cô Thérèse theo quán tính, đã dí nát điếu thuốc,–bởi lẽ cái gì cũng có thể bốc cháy nơi đầm hoang–cô Thérèse thích tự mình đếm lấy những cây thông, tính toán số lượng nhựa, cô Thérèse hãnh diện được làm vợ một người mang họ Desqueyroux, giữ đúng cương vị mình trong một thế gia vọng tộc, tóm lại, bằng lòng ghép mình vào khuôn phép, như người ta thường nói, cô Thérèse cũng có thật như cô kia, cũng linh hoạt sôi nổi. Không, không: chẳng có lý gì để phải hy sinh cô này cho cô kia.
- Cô kia nào?
Nàng còn biết trả lời sao, và anh nhìn đồng hồ tay. Nàng nói:
- Dù sao, thỉnh thoảng em vẫn phải về, vì công việc…và vì Marie.
- Công việc gì thế? Chính tôi quản lí tài sản sở hữu chung. Chúng ta không nên bàn lại những gì đã thỏa thuận, phải không nào? Cô vẫn giữ vị trí của mình trong những buổi lễ chính thức, mà vì danh dự của dòng họ, vì lợi ích của Marie, cần cho thiên hạ thấy chúng ta bên nhau. Trong một gia đình đông đúc như nhà ta, các lễ cưới sẽ không thiếu, lạy Trời, các đám tang cũng thế. Khởi đầu, điều khiến tôi ngạc nhiên là chú Martin còn lẵng nhẵng kéo dài cho đến mùa thu: đó sẽ là một dịp cho cô, bởi hình như đối với cô, thế cũng đã khá đủ rồi…

Một viên cảnh sát cưỡi ngựa đưa còi lên môi, mở những cửa chặn vô hình ra, một đội quân bộ hành hối hả băng ngang mặt đường đen sẫm, trước khi đợt sóng taxi tràn qua phủ kín: “Một đêm nào, lẽ ra tôi phải đi về phía đầm lầy Midi, như Daguerre. Lẽ ra tôi phải vượt qua những rặng thông còi cọc của vùng đất khô cằn này – đi cho đến lúc mòn sức tàn hơi. Tôi sẽ không đủ can đảm ngụp đầu xuống đầm nước mặn (như lão mục đồng ở Argelouse đã làm năm ngoái, vì bị con dâu bỏ đói). Nhưng tôi có thể nằm trên cát, nhắm mắt lại… Dĩ nhiên là bầy quạ, lũ kiến chẳng đợi đến khi…”
Nàng nhìn dòng người, cái khối sinh động sắp sửa há ra, đón lấy thân thể nàng, lôi kéo, đẩy đưa. Chẳng còn làm gì được nữa. Bernard lại lôi đồng hồ ra.
- Mười một giờ kém mười lăm: đến giờ ghé qua khách sạn rồi.
- Đường về chắc không đến nỗi nóng lắm đâu.
- Tối nay trong ô-tô, tôi còn phải đội mũ và áo khoác ấm nữa kia.
Nàng hình dung trong trí con đường anh sẽ đi, ngỡ như gió lạnh đang phả vào mặt, làn gió phảng phất mùi đầm lầy, mùi nhựa vỏ bào, mùi cỏ cháy, mùi bạc hà và sương mù. Nàng nhìn Bernard, mỉm nụ cười ngày xưa từng khiến các bà phải kháo nhau: “Người ta không thể cả quyết là bà ấy đẹp, nhưng bà ấy chính là sự quyến rũ…” Nếu Bernard nói với nàng: “Anh tha thứ cho em đó, hãy về với anh…”, chắc nàng đã đứng lên, đã bước theo anh. Nhưng Bernard, thoáng bực dọc vì trót để lòng mình xúc động, chỉ còn thấy khiếp hãi trước những cử chỉ lạ lẫm, bất thường, những lời nói khác hẳn những câu anh vẫn nói hàng ngày. Bernard đã vào khuôn, anh cần những lề thói như chiếc xe bò của anh, cần có lối mòn: khi anh trở về với chúng đêm nay, trong gian phòng ăn ở Saint Clair, anh sẽ tận hưởng sự thanh thản, bình yên.
- Bernard, lần cuối, mong anh thứ lỗi cho em.
Nàng thốt ra những tiếng đó thật trang nghiêm và vô vọng – một cố gắng sau cùng hầu nối lại câu chuyện. Nhưng anh gạt ngang:
- Đừng nói chuyện ấy nữa…
- Anh sắp phải cô đơn biết bao: dù không về đó, em vẫn chiếm một chỗ bên anh; đối với anh thà em chết đi vẫn hơn…
Anh khẽ nhún vai, và gần như vui vẻ hẳn lên, anh van nàng “chớ băn khoăn về anh” và tiếp:
- Mỗi thế hệ Desqueyroux đều có một chàng đứng tuổi độc thân. Nhất định người ấy là tôi. Tôi hội đủ mọi đức tính cần thiết (cô không nói ngược lại chứ?). Tôi chỉ tiếc một điều con mình là gái, nên không người nối dõi. Đã đành, dẫu chúng ta còn sống bên nhau, chúng ta cũng chẳng muốn có thêm đứa khác… thế thì, tóm lại, mọi sự đều tốt đẹp… Thôi, cô cứ ngồi đấy, khỏi phải bận tâm.
Anh ra hiệu gọi một chiếc taxi, quay trở lại báo với Thérèse là đã thanh toán xong.
Nàng nhìn hồi lâu giọt rượu Porto dưới đáy cốc của Bernard, rồi một lần nữa đăm đăm nhìn khách qua đường. Vài người có vẻ như đợi chờ ai, cứ đi đi, lại lại. Một thiếu phụ quay nhìn Thérèse hai lần, và mỉm cười với nàng (công nhân, hay giả trang công nhân đấy?). Đây là giờ các xí nghiệp may trở nên vắng ngắt. Thérèse không nghĩ đến chuyện đi chỗ khác, nàng không phiền muộn, cũng chẳng thấy buồn. Nàng quyết định không đến thăm Jean Azévédo chiều nay–và thở phào nhẹ nhõm: nàng không muốn gặp anh: lại chuyện trò, tìm kiếm những sáo ngữ! Nàng đã biết rõ: Jean Azévédo, nhưng những kẻ nàng ước mong được gần gũi, nàng lại chưa quen họ, nàng chỉ biết về họ mỗi một điều là họ không đòi hỏi nhiều ở lời nói: Thérèse không sợ cô đơn nữa. Chỉ cần nàng im lìm bất động, như cái xác nằm sóng sượt, nơi đầm hoang Midi, bị đàn kiến và lũ chó đánh hơi tìm tới, ở đây, nàng cảm giác quanh da thịt mình nỗi xáo động mơ hồ, sự bềnh bồng chao đảo. Nàng nghe đói, bèn đứng lên, thấy trong tấm gương Old England, người thiếu phụ trẻ là nàng: bộ trang phục du lịch khá vừa vặn khiến nàng thích thú. Thuở còn ở Argelouse, nàng luôn giữ bộ mặt héo hắt sầu não: đôi gò má nhô cao, sống mũi ngắn. Nàng ngẫm nghĩ: “Mình không có tuổi”. Nàng ăn trưa (như thường thấy trong mơ) ở phố Hoàng Gia. Sao lại phải quay về khách sạn khi nàng đã không thích? Một niềm vui rạo rực lòng nàng, chắc là nhờ nửa chai rượu Pouilly. Nàng gọi thuốc lá. Một gã đàn ông, ngồi bàn kế cận, chìa về phía nàng cái bật lửa và nàng khẽ mỉm cười. Con đường Villandrault, buổi chiều, hun hút ghê rợn giữa những hàng thông, thế mà cách đây một giờ, nàng đã mơ ước cùng Bernard xuôi về phía đó. Yêu miền này hay miền khác, rừng thông hay rặng phong, biển cả hay đồng bằng thì có quan hệ gì đâu? Trong cuộc sống, nàng chẳng thiết tha gì ngoài những con người bằng xương bằng thịt: Đâu phải tôi yêu quí cái thành phố gạch đá này, hay những buổi diễn thuyết, những viện bảo tàng, tôi chỉ yêu rừng người xôn xao nhộn nhịp, bị tàn phá bởi những dục vọng còn điên cuồng hơn bất cứ trận bão nào. Tiếng rền rĩ của rừng thông ở Argelouse, đêm đêm trở nên thống thiết và gây xúc động là bởi nó có tính người.
Thérèse uống tí rượu và hút thuốc nhiều. Nàng cười một mình như kẻ đang hạnh phúc. Nàng đánh phấn và tô son, một cách tỉ mỉ, đoạn lần ra phố, thả bước vu vơ.
8/8/1988
François Mauriac
Nguyễn Bích Như - Thu Uyên dịch
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Chương 3 ban đêm Khi màn đêm buông xuống nàng Nấm sống trong thứ ánh sáng chói loà của những ước vọng. Từ khi chuyển khỏi nhà chị gái nàng...