Thứ Năm, 27 tháng 6, 2024

Chuyện cha con người đốt than

Chuyện cha con người đốt than

1. Tôi còn nhớ, khi ấy, từ mấy chục năm trước, trên đường từ Long Xuyên, Châu Đốc về Thất Sơn, ngồi trong chiếc xe khách cà tang nhày chồm chồm trên con đường đá long lở với trạng thái như bị xảy, tôi vẫn cố ngoi đầu ra ngoài cửa xe, để hóng gió đồng và cũng là để ngắm quang cảnh vùng đất mà mình sẽ phải sống Người phụ nữ nạ dòng ngồi bên cạnh tôi cứ bứt dứt không yên, hết khậm khoạc trong cổ lại buông lời ta than, chốc chốc đưa bịch cà phê đã ướt nhẹp lên miệng mút chùn chụt. Chị ta hỏi tôi:
-Chắc cậu từ vùng khác đến đây, ha?
-Vâng,
-A… cậu người Bắc, mới dô hả? Chèng đéc ơi, thảo nào ngắm trời đất dữ quá ha- Chị ta nói liền một mạch chẳng buồn xem tôi trả lời gì. -Tui quê Long Xuyên, lên Sài Gòn từ nhỏ, thỉnh thoảng mới về quê. Lần này, trời đất biên giới yên hàn rồi, tui có thể đi lễ chùa Bà Chúa Xứ và các chùa khác ở Thất Sơn…Này cậu, hẳn là cậu không hiểu gì về vùng đất này phải hông? Linh thiêng và huyền bí lắm đó, chỗ nào cùng chùa chiền, nghe nói vẫn còn người sống ở trên núi, lẫn với trăn và rắn rít… Ui chao, nghe mà đã muốn ớn cả xương sống…
-Thế ạ…-Tôi nghe và trả lời qua quýt, nhưng cũng thấy mên mến cái tinh xởi lởi của chị ta.
Từ phút đó, tiếng của chị ta chỉ còn loáng thoáng bên tai, câu được câu mất bởi trí óc tôi mông lung vô định, lúc nghĩ về nhà, về người thân, lúc lại lo lắng cho những ngày tới đây mình sẽ sống ra sao ở cái nơi mà người ta cho là “linh thiêng và đầy bí ẩn” này. Dẫu sao, những lời bô lô ba la của người đàn bà ngồi bên cũng cho tôi một khái niệm mơ hồ về cái chốn mình sẽ đến và phải sống ở đó, nhất là với người sẵn có trong mình chút lãng mạn phiêu bạt và tập tọng cầm bút văn chương như tôi. Linh thiêng và huyền bí ư, những cái đó đâu có làm tôi sợ, chỉ chút ái ngại xen lẫn trí tò mò mà thôi.
Và rồi, tôi chẳng còn đâu thời gian mà suy nghĩ bởi chiếc xe khách cà tang bị chết máy, không làm sao nổ máy lại được, và rồi, tôi và cả đám hành khách được chủ xe chuyển sang mấy chiếc xe thổ mộ. Bị lèn chặt giữa đám phụ nữ người Khmer lẫn đám quang gánh và sọt lợn gà, tôi chỉ còn biết bám chặt lấy thành ghế mỗi khi chiếc xe thổ mộ đổ dốc ngoằn ngoèo, bên tai ù ù tiếng gió pha lẫn tiếng Khmer líu ríu. Lại thêm một cuốc xe lôi nữa, tôi mới đến được nơi mình cần đến, là Trung tâm ý tế huyện. Khi ấy, bộ dạng tôi thật lôi thôi bởi không chỉ quần áo mà cả chiếc va ly của tôi đều dính phân gà. Cô nhân viên Trung tâm y tế chào đón, tiếp tôi khá niềm nở, miệng cô như đáng nén một nụ cười, chắc vì nhìn bộ dạng nhếch nhác của tôi. Dẫu sao, thái độ ấy của cô cũng làm cho tôi thấy mạnh bạo và tự tin hơn.
2. 
Và rồi, kể từ cái buổi đặt chân đến đây, tôi luôn bị chúc mừng, bị chuốc, thậm chí bị ép uống rượu cho tới say mèm, đến mức phải thổ ra hết những gì mình đã nuốt vào, không những thế, còn lỗ vốn chút mật xanh mật vàng lẫn trong đống thức ăn hổ lốn nồng nặc. Mấy lần, trong lúc say, cô gái đón tôi hôm đầu tiên, có tên là Thư, khi bôi vôi vào gan bàn chân tôi, vừa lẩm bẩm: “Tội nghiệp cho ảnh quá ta”. Tôi say đấy, nhưng trí óc vẫn tỉnh táo, nên mỗi lần như vậy, tôi thầm nghĩ: “Cô bé ơi, say rượu mà được người xinh xắn. dễ thương như cô bé săn sóc thì tôi đây sẵn sàng say sưa cả một đời”. Là nghĩ đùa thế thôi chứ thực lòng tôi mệt và sợ những trận say như vậy.
Đấy là vào những dịp rồi rãi, khi Trung tâm ý tế ít bệnh nhân, và cũng không phải mùa dịch bệnh. Một hôm, Thư bảo tôi:
-Anh mới vô, còn chưa rõ đấy thôi, chỉ ít bữa nữa là bà con ở đây sốt rét lia chia, mọi người lại bận tối tăm mắt mũi đến mức không còn thời gian uống nước, lùa chén cơm vào miệng đâu, chứ đứng nói đến chuyện nhậu nhẹt say sỉn.
Quả như lời Thư nói, người bị chứng sốt rét từ các xã, các phum sõ Khmer trong vùng ùn ùn kéo đến trung tâm y tế huyện cấp cứu, chữa trị. Có ngày tiếp nhận vài chục ca, một giường bệnh nằm hai bệnh nhân không xuể. Cả Trung tâm y tế như cũng lên cơn sốt theo. Đâu đã hết, ngoài việc trực suốt ngày ở bệnh viện, Trung tâm phải chia người thành từng tốp, xuống tận xã, ấp giúp y tế cơ sở hướng dẫn bà con cách phòng bệnh và chữa trị các ca bệnh nhẹ. Tôi và Thư được phân thành một nhóm. Cô gái còn quá trẻ và mới chỉ qua lớp sơ cấp y tế, khi được điều đi cơ sở chữa bệnh, chẳng thấy lo lắng gì, trái lại cứ hơn hớn như đi hội vậy. Cả hai anh em tôi lủng củng những quần áo, trang bị đồ nghề và thuốc men, choán hết cả một góc xe đò. Thư chỉ tay vào một dải núi nằm xoải ra như một con rắn đang trườn, bảo:
-Anh Tuấn nè, mình sẽ phải đến cụm nhà bên chân dãy núi kia. Đấy là một điểm sốt rét. Núi này có cái tên rất hay, Ngọc Long, thế nhưng nước suối ở đấy lại chứa đầy ấu trùng sốt rét thôi à... Ba em giải thích tên núi có nghĩa là con rồng ngậm viên ngọc quý… Nghe đâu, còn có cả một câu chuyện về sự tích tên núi nữa, nhưng mà em hổng nhớ…
Câu chuyện của Thư gợi cho tôi một ý nghĩ hay hay về sự tích tên núi mà tôi mường tượng ra, mặc dù chưa từng được nghe, nhưng công việc đang chờ đón chúng tôi chưa rõ sẽ nặng nhẹ thế nào, nên tôi chỉ ừ hữ qua chuyện. Quả nhiên, hai anh em tôi không còn lòng dạ nào để nghĩ đến chuyện gì khác bởi chúng tôi đều choáng khi bước chân vào Trạm Y tế xã. Chỉ vỏn vẻn chưa đầy chục giường bệnh mà đã có gần hai chục bệnh nhân nằm ngổn ngang, mỗi giường hai người trở đầu đuôi. Lại thêm người nhà bệnh nhân nữa nên cái trạm xá bé nhỏ và sơ sài nhồi đặc những người là người làm không khí ngột ngạt. Người y sĩ trạm trưởng và mấy cô y tá đang cuống lên, khi thấy chúng tôi thì mừng ra mặt. Thế là chẳng kịp uống hớp nước, hỏi han gì nhiều, tôi và Thư lấy đồ nghề ra, bắt tay vào công việc luôn.
Đến chiều muộn thì công việc khám chữa bệnh cũng bớt căng thẳng, các bệnh nhân nặng được chỉ định chuyển lên tuyến trên, số còn lại đã được thăm khám, thuốc men, lúc ấy, tôi và Thư cùng các đồng nghiệp mệt mỏi, được nghỉ chút, ngồi xuống mâm cơm. Bụng đã đói meo. Cơm cá lóc kho tộ, canh chua cá rô bông sung ngon là thế mà ai cũng nhai nuốt uể oải vì kiệt sức. Tôi vừa bưng bát cơm thứ hai lên thì một người đàn bà nạ dòng ùa tới, vừa kêu la, thở hổn hển, nói lắp bắp. Tôi nghe, không mấy hiểu. song cứ nhìn gương mặt căng thẳng của mọi người là phần nào hiểu được sự tình. Thư nói lại cho tôi rõ, đại ý là đang có một người ở đâu đó bị sốt rét nặng, nguy hiểm đến tính mạng, phải đi đến tận nơi để cấp cứu gấp, may ra còn kịp cứu chữa. Thư hỏi người đàn bà nạ dòng:
-Thế ổng đang ở đâu? Là chồng dì à?
-Không phải chồng tui… Ổng ở mãi trong núi ấy, ngay cạnh lán củi nhà tui. Tội nghiệp cho ổng, bệnh nặng lắm, mà chỉ có hai cha con, con gái ổng thì cứ khờ khờ làm sao… Xin các ông bà làm phước, gắng vô trỏng cứu ổng… Ổng chết mất.
Người đàn bà mếu máo, lấy tay quệt nước mắt trên má. Mọi người lung túng, nhìn tôi như dò hỏi, cầu cứu. Thư nhìn trời đang dần tối, lại nhìn vào sâu trong núi, rồi nhìn tôi như hỏi, sao đây anh? Tôi buông bát cơm ăn dở xuống mâm, quả quyết:
-Ta đi ngay thôi, may ra còn kịp…
Như chỉ chờ có vậy, một y tá của Trạm nhận việc cầm đèn pin đưa đường. Tôi nhắc Thư chuẩn bị gấp dụng cụ thuốc men, và chỉ kịp uống miếng nước rồi cả ba lên đường, theo chân người đàn bà nọ. Đường đi hút sâu vào trong núi, quanh co, leo trèo, tôi bước thập thõm cố bám theo mọi người như vô thức. Thư tinh ý, tụt lại đi sau tôi canh chừng. Ánh sáng đèn pin loang loáng, chập chờn, ánh lửa lập lòe từ các lều trại trong núi gây cho tôi cảm giác khó tả, cứ như là trở về thời hồng hoang vậy… Sương núi mờ mịt, tôi như thấy những mỏm núi nhô lên, rồi dài ra như đám vẩy rồng và cả dải núi bỗng thành con rồng khổng lồ khẽ rung mình, quẫy cựa… Không, đúng như một con khùng long thời tiền sử bừng trỗi dậy. Và tôi, cùng mấy người cùng đi chỉ là những sinh linh bé nhỏ, bất lực, lồm cồm như sâu kiến trên lung khủng long. Chẳng ai trong chúng tôi đáng mặt là Thạch Sanh cả. Tôi bừng dứt khỏi cơm mê muội như thế đang choán lấy mình…
Hơi lạnh tỏa ra từ các hõm núi, cùng với hơi ẩm mốc lẫn mùi sắn nướng, cá khô chiên mằn mặn ngầy ngậy, đưa tôi trở lại với hoàn cảnh thực tại, và tôi cảm thấy miệng mình đắng nghét như người sốt rét ngậm ký ninh vậy. Thư sốt ruột, phá tan sự im lặng rờn rợn, hỏi người đàn bà dẫn đường:
-Dì ba, sao đi hoài vậy? Tới chưa dì?
-Rồi. Vài chục bước nữa thôi à.- Người đàn bà chỉ tay vào một hẻm núi ngay trước mặt, nơi trong ánh sang lờ mở tỏa ra từ bếp lửa, tôi có thể nhận ra là một túp lều hay lán trại gì đấy, bảo- Đó đó – rồi cất tiếng gọi to:
-Út Thiệt à… ra mà đón mấy ổng đến chữa bệnh cho ba con đây nè… Đó, mấy cô chú dô đi. Cha con ổng ở trỏng… Thiệt là tội nghiệp cho ổng.
Người đàn bà rẽ ngoặt đi rồi mất hút ngay trong bóng tối. Chúng tôi dò dẫm đến được cửa lán thì một cô gái tóc buộc đuổi gà, vận bộ bà ba đen nhô ra, vẻ mặt lo âu xen lẫn mừng rỡ, nước mắt chùi vội còn hoen trên má. Trái với sự phỏng đoán của tôi rằng khi thấy chúng tôi thì cô sẽ kêu lên vì mừng có người đến cứu giúp cha mình, đằng này, cô có vẻ bẽn lẽn, cúi đầu lễ phép, lí nhí trong miệng:
- Mời mấy chú, cô dô nhà… mấy chú cô ngồi tạm, để con đi châm bình trà…
Thư ngọ ngậy, bấu nhẹ vào tay tôi, ý ám chỉ và tỏ vẻ khó chịụ trước thái độ vô sự của cô gái. Tôi lừ mắt, cô đành thôi, nhưng lại tỏ thái độ bằng cách bưng chén nước lên, thổi nguội phù phù và xì xụp uống. Cô gái chủ nhà tên gọi Út Thiệt cứ loanh quanh như tìm một cái gì đó. Lúc này, tôi đã quen với ánh sang trong lán, đưa mắt quan sát và nhận ra mình đang ngồi trong một căn nhà thì đúng hơn, chứ không phải lán trại hay lêu củi chi đó. Căn nhà tuy nhỏ, sơ sài, được thưng vách bằng lá dừa nước, nhưng cũng được ngăn thành mấy khu vực, buồng chính nơi chúng tôi ngồi rộng rãi hơn cả, bên trong là một buồng nhỏ để chừa lối đi ra phía bếp ở sau cùng.
-Cô ơi… Nghe nói ba cô đang bị sốt rét nặng? Tôi gọi,
-Dạ, ba... bệnh nặng… Ổng nằm ở trỏng.
-Vậy mà nãy giờ, cô cứ đủng đỉnh, chúng tôi đến đây lúc đêm hôm thế này không phải để ngồi nhâm nhi trà, mà để cứu ba cô, cô hiểu chứ- Thư không nén được bực dọc. hơi sẵng giọng.
-Này cô Út… Út Thiệt à- Tôi lên tiếng át giọng Thư - Giờ cô đưa tôi vào khám bệnh cho ba cô, kẻo trễ quá là nguy hiểm lắm đó nghe…
Út Thiệt thấy thái độ của chúng tôi như vậy, cô sợ và cuống, chân tay như thừa, miệng há ra dịnh nói gì đấy nhưng chỉ nghe hấm hứ trong cổ… Chợt tôi nghe có tiếng rên khe khẽ nơi buồng trong, đoán là của người bệnh, tôi quyết định bèn giật lấy cây đèn dầu trong tay Út Thiệt, lệnh:
-Mọi người ngồi ngoài này cả, riêng Thư mang túi thuốc theo tôi.
Tôi soi đèn bước vào buồng trong. Quả nhiên, ba của Út Thiệt, một người đàn ông thân thể cường tráng khó đoán tuổi, nằm miên man trên chiếc giường cây tự đóng trải nệm bàng. Có lẽ do sốt cao, nóng lạnh thất thường,  ông ta đã tự cởi bỏ áo, tấm mền mỏng đắp ngang bụng, bên dưới trần trụi với chiếc quần xà lỏn. Trên trán, ấp chiếc khăn mặt ướt gấp lại đã gần khô. Tôi sờ tay vào người ông ta và giật mình vì sức nóng của cơ thể hầm hập. Dễ phải ngót 40 độ C. Tình thế thật nguy hiểm, tôi thầm nghĩ, may ông ta là người có sức vóc nếu không thì đã đi rồi. Người lớn chịu sốt cao kém trẻ em. Trong lúc tôi soi đèn xem bệnh trạng thì Thư đã hiểu ý, cô nhanh chóng chuẩn bị dụng cụ thuốc men. Sau khi tôi tiêm thuốc, Thư lấy đá cục mang theo trong phích lạnh, bọc khăn mặt chườm khắp người và đắp lên trán nhằm hạ nhiệt cho bệnh nhân. Út Thiệt nước mắt ướt nhèm, cứ loanh quanh bên ngoài không biết phải làm gì.
-Đã bớt nguy kịch rồi, ta nên ra bên ngoài, để không khí ở đây thoáng hơn- Tôi bảo.
Để Thư lại trong buồng theo dõi, tôi trở ra bên ngoài. Út Thiệt rót cho tôi chén trà nóng. Bấy giờ, anh nhân viên Trạm xá xã trách nhẹ:
-Ba cô bệnh năng vậy, sao cô không đưa ra Trạm y tế xã. Nếu anh Tuấn đây không cắp cứu kịp là ba cô chết oan đó nghen.
-Ủa, mà sao cô Út không đưa ba cô đi bệnh viện? Tôi bảo- Cô Út không rõ đấy thôi, phàm những người khỏe mạnh, khi bị sốt rét lại hay sinh ác tính. Như ba cô đây là nguy hiểm lắm đấy.
-Dạ, dạ… ba con… em… à ba con mới bệnh hôm qua. Trước đó, thỉnh thoảng ổng cũng vậy, nhưng chỉ sơ sơ, lá lẩu xì xằng mấy bữa khỏi liền à. Đâu có ngờ là lần này lại dữ vậy... Lúc chiều, thấy sốt dữ, con ngỏ ý muốn nhờ người đưa ba ra ngoải, để đi chữa trị nhưng ổng nhất định không chịu. Ổng còn gắt: “Tiền đâu mà thuốc men tốn kém. Bệnh khắc đến khắc đi. Tau không chết đâu mà lo”... Lo lo là, nhưng hổng biết phải làm sao…
- Và chỉ biết khóc thôi, phải hông? Anh nhân viên y tế xã cười trêu- Út Thiệt nè, đừng xưng con nữa, quê lắm… Bác sĩ Tuấn đây còn trẻ lắm, chỉ hơn Út Thiệt dăm tuổi thôi à. Gọi ảnh bằng chú, xưng con ảnh không chịu, không vui đâu… Phải vậy không bác sĩ Tuấn?
Anh nhân viên y tế xã cười làm Út Thiệt ngớ ra, đần mặt, tay chân lúng túng. Tôi cười giải nguy:
-Đúng đấy, Út Thiệt à… Tôi chỉ tuổi anh cô thôi.
-Dạ, là cháu… à em… là tại em cứ nghĩ…bác sĩ… phải là người giỏi giang và nhiều tuổi…
Tôi bật cười vì ý nghĩ thật thà dễ thương của cô gái, bèn đùa:
-Thì cô nhìn kỹ lại tôi coi…Tôi đâu có dán chữ bác sĩ lên trán, cũng đâu có khác anh gì đây… chưa có râu, tóc chưa bạc… và còn chưa có… Tôi nheo mắt cười, giọng bỗng vẻ trai lơ, bỡn cợt hơn – Nào, cô Út có đoán ra không?
Liền đó, tôi nghe rõ tiếng Thư nói nhỏ, vọng từ buồng trong bởi tôi ngồi sát với tấm thưng vách: “Thật rõ là khéo tán…Xưng cháu, con cũng được chứ bộ… Anh, anh cái gì…”. Tôi ngưng bặt, còn anh nhân viên y tế xã thì cười phá lên, đùa hùa theo, át đi, nên có thể Út Thiệt không nghe được, hoặc không hiểu câu nói vẻ bực bội vừa rồi của Thư.
Út Thiệt e lệ, tìm cớ đứng lên, lui vào trong bếp và chỉ ít phút sau, mùi cá khô nướng thơm lựng tỏa ra, khiến tôi chảy nước miếng, bụng thì óc ách, và lúc này tôi mới nhớ ra là mình mới chỉ kịp lùa vào bụng mỗi lưng cơm từ lúc chập tối. Út Thiệt bưng ra một đĩa khô cá nướng, xoài xanh cắt lát mỏng, nước mắm chế với đường thốt nốt. Lại thêm một đĩa thịt khô nướng mà tôi không đoán được thịt thú gì.
-Anh Hai… anh chị dùng chút cho vui…- Út Thiệt cười bẽn lẽn… nếu ba em không bệnh… thì mấy anh chị đâu có đến nhà…
Mời rồi, cô trở lui và bê ra một hũ sành rượu đế cùng mấy chiếc ly nhỏ. Cô cười cười, không biết nói gì, chỉ làm cử chỉ ra chiều khẩn khoản lắm. Anh nhân viên y tế xã sà xuống ngồi, tếu táo:
-Cô Út đã có lòng thì mấy anh em chúng tôi đây có dạ. Nhậu bậy chút đi anh Hai, … cô Thư ơi,... cho cô Út vui lòng.
Út Thiệt lui vào bên trong chăm sóc ba và mời Thư ra ăn. Không khách sáo, tôi và anh nhân viên y tế xã cụng ly, riêng Thư chỉ nhấm chút chút, đủ ướt môi, để ly xuống, lặng lẽ xé khô cá nướng. Tôi biết, Thư tỏ ra không vui, nếu không nói là khó chịu, khi thấy tôi quan tâm, hỏi han Út Thiệt này nọ. Điều đó không có gì lạ, khi mà mới quen biết nhau vài ba tháng, Thư đã tỏ ra quý mến tôi đặc biệt, nếu không nhầm thì cô có tình cảm khác thường với tôi.
Vài lần cụng ly, tôi đã thấy mình bồng bềnh như lướt sóng. Có lẽ mệt và đói nên nhanh say. Tôi không nhớ là mình đã nói cười thế nào, và Thư đã tỏ vẻ khó chịu ra sao… Cũng không nhớ rõ mình đã thập thõm bước thấp bước cao, bước xiêu bước vẹo từ nhà Út Thiệt trở về Trạm y tế xã như thế nào nữa…
Khi tôi mở mắt nhìn đồng hồ thì đã hơn 3 giờ sáng. Định thần, tôi biết là mình đang nằm trong phòng của người Trạm trưởng. Vậy là tối qua tôi đã quá say, đã thổ hết những gì mình ăn ở nhà Út Thiệt. Nào có nhiều nhặn chi cho cam, chỉ dăm ly nhỏ, nhưng chắc do thể trạng quá mệt mỏi, sức chịu đựng kém đi, lại thêm gió núi, mà sinh vậy. Khát khô cổ, đầu thì nặng trình trịch, tôi cố gắng ngồi dậy, lần ra bàn tim nước uống. Phía nhà bệnh nhân vẫn có tiếng người rì rầm. Không thấy người trạm trưởng và cũng không thấy bóng dáng Thư đâu. Họ đã đi nghỉ hay chăm sóc bệnh nhân đâu đó. Chết thật, tôi thoáng ân hận, tự trách mình, chỉ vì chút hung phấn mà để say, bỏ mất công việc chính là mình xuống đây để giúp họ khám chữa bệnh... Rồi ngày mai, thế nào Thư cũng lại dỗi bõ, khó chịu. Nghĩ thế, tôi dịnh vùng dậy đi sang nhà bên, nhưng cảm thấy quá sức nên đành nằm lại, đầu óc vẫn ong ong. Thôi thây kệ. Và rồi, tôi lại thiếp đi nặng nề…
Hắt hơi một cái rõ mạnh, tôi choàng tỉnh, trước mặt tôi là Thư. Cô ngồi ghé bên mép giường tôi, tay bụm miệng cười, còn tay kia loe ngoe cọng cỏ. Tôi bật dậy và điếng người nhăn mặt vì đầu còn đau nhức. Thư nghiêm nét mặt, lên giọng, thù dai:
-Chà… Đêm qua anh Tuấn ga lăng hết cỡ ha…Làm cho sơn nữ chết mê muốn bỏ núi theo ra…
-Ờ… may mà sơn nữ không theo ra, chứ theo ra thì… có ối người lại khó chịu… rồi khua gậy gộc lùa sơn nữ trở lại núi, nhỉ?
-Hứ…-Thư vênh mặt- Cũng không đến mức mức quý như đồ gia bảo đâu nha.- Thư ngúng nguẩy bỏ ra ngoài.
Tôi nhìn theo, cười nhẹ với chút tự mãn.
Lại một ngày vất vả bắt đầu. Thư mau quên, líu ríu theo tôi thăm khám, chữa trị cho bệnh nhân. Tầm đứng bóng, vãn việc, tôi bảo Thư là sẽ vào núi một mình, xem bệnh tình và khám lại cho ba của Út Thiệt. Nghe vậy, Thư nổi cáu, nói dỗi, tôi đành phải cho cô đi cùng. Thực lòng, tôi không muốn Thư vất vả, và tôi cũng đâu có tình ý gì với cô bé sơn nữ cơ chứ. Song Thư cứ khăng khăng đòi theo nên tôi để cô theo, biết đâu giúp được gì chăng. Hôm qua, là đêm tối nên chỉ nhớ mang mang đường, thành ra hai anh em tôi loanh quanh tìm kiếm, vừa đi vừa hỏi đường rồi cũng tìm ra căn nhà của cha con Út Thiệt. Giữa ban ngày ban mặt, trông căn nhà của họ nhỏ bé và tuềnh toàng hơn. Khi tôi và Thư vào nhà thì thấy Út Thiệt đang cho ba cô ăn nước cháo. Với sức lực tiềm tàng, lại được tiêm thuốc chữa trị kịp thời, qua cơn nguy kịch, sức khỏe của ba Út Thiệt hồi phục nhanh. Đêm qua con sốt cao mê man, thế mà hôm sau, ông đã nửa nằm nửa ngồi trên giường để cô con gái bón cho từng thìa nước cháo. Ông khẽ gật đầu với chúng tôi đầy vẻ biết ơn, cái nhìn chậm chạp, thiện cảm. Ông lẩm bẩm trong miệng như nói điều gì đó với con gái, tôi phóng đoán là sai Út Thiệt lo việc tiếp khách, liền vội gạt đi:
-Cô Út cứ cho bác Hai ăn cháo đi. Cần phải có chất gạo vào người thì mới có sức mà chống bệnh được. Bác Hai còn mệt, cô Út không phải câu nệ gì, cứ xem chúng tôi như người nhà…
-Ba… ba em tên gọi Tư Thà – Út Thiệt nhỏ nhẹ.
Tiêm thuốc xong cho ông, tôi để lại chút thuốc uống cho Út Thiệt và dặn:
-Bác Tư à, tuy đã qua cơn nguy kịch song bệnh của bác rất dễ biến chứng. Bác Tư nhớ nghe lời cô Út, uống hết số thuốc tụi cháu để lại, với lại cũng phải kiêng chút, nhất là rượu, bệnh sẽ khỏi thôi.
Tôi gọi Út Thiệt ra ngoài để căn dặn và chỉ cho cô phân biệt từng loại thuốc, liều uống ra sao. Cô nghe chăm chú nhưng căng thẳng như cô bé con lần đầu đi học được thầy cô giáo dạy từng chữ cái. Lúc này, tôi mới có dịp ngắm kỹ cô. Dáng người nhỏ nhắn, thon gọn, săn chắc, nước da ngăm đen nhưng mịn màng, gương mặt xinh xắn, bầu bĩnh và có vẻ u hoài, thế nhưng cái trán hơi dô và cái cằm chẻ khiến gương mặt dịu hiền ấy pha chút bưởng bỉnh. Út Thiệt có dáng vẻ của một người mang trong mình dòng máu Khmer thường thấy ở vùng này. Trong tôi dâng lên một cảm xúc là lạ, trìu mến với người con gái trước đó hơn một ngày tôi cỏn chưa biết đến. Dường như Thư đọc được ý nghĩ ấy của tôi, cô chen vao:
-Nè… cô Út nhớ lời anh Tuấn dặn đó nha… Chỉ mấy bữa nữa là cha cô khỏi bệnh, làm việc lại được rồi… Thôi, ta về. Anh Tuấn, ở ngoải còn nhiều bệnh nhân đang đợi anh em mình.
Thư cố tình nhấn mạnh câu cuối “anh em mình” như là để nói riêng với Út Thiệt, ngầm xác định quyền sở hữu của cô đối với tôi. Nhìn tôi rồi nhìn Thư, Út Thiệt là người nhạy cảm, bởi thế cô mới đủ bình tĩnh trả lời nhẹ nhàng song không kém phần thua thiệt:
-Dạ… ba con em thật biết ơn anh… chị… đã làm phước vô đây cứu chữa… Ơn phước này… cha con em không biết lấy gì báo đáp… Ba con em đâu dám quên. Hễ có dịp ra thị trấn, em sẽ tìm vô nhà để tạ ơn anh… chị.
-Hứ…-Thư cố kìm nén-Ơn phước chi đâu… Cô Út khỏi phải tìm vô cảm ơn chúng tôi làm gì… Thế này, cô Út cũng đã trọn tình trọn nghĩa với anh em tôi, ha… Ta đi thôi anh Tuấn.
Tôi khó chịu vì thái độ thái quá của Thư nhưng cũng không có cớ gì để nấn ná thêm, đành chào cha con Út Thiệt. Rời nhà Út Thiệt, tôi cố tình đi thật chậm, còn Thư thì cứ líu ríu bên tôi, lúc trước lúc sau, khi bên cạnh. Mấy lần tôi định ngoảnh lại nhưng ngại Thư nên thôi. Đến khúc ngoặt, tôi ngoái nhanh nhìn lại căn nhà Út Thiệt, bắt gặp cô đứng nép bên cửa nhà nhìn theo, và khi bắt gặp ánh nhìn của tôi, cô liền thụt hẳn người vào trong mất hút. Từ bấy, đi mấy bước tôi lại ngoảnh nhìn về phía đó nhưng Út Thiệt không hề xuất hiện ở khung của nữa. Tôi thầm đoán, biết đâu cô vẫn núp đâu đó trong nhà ngó theo tôi. Còn Thư, cô đã hết bực dọc, vô tư cất lời ca một câu vọng cổ về tinh yêu đôi lứa. Tôi nghe mà cảm thấy tự ái, thoáng khó chịu…
3.
Sau đó, những ngày còn lại ở Trạm y tế xã, công việc bận rộn, và Thư cũng không cho tôi cơ hội nào trở lại căn nhà nhỏ trong hẻm núi của cha con Út Thiệt. Song hễ công việc rỗi rãi, là tôi nghĩ đến cô, kể cả lúc tôi và Thư ngồi tán chuyện gẫu với nhau. Hôm rời xã về lại Trung tâm Y tế huyện, cảm cảm giác chống chếnh thế nào ấy. Lúc chờ xe đò, tự nhiên tôi mong ngóng và ước chi Út Thiệt ra bến xe tiễn. Khi xe chạy, tôi ngó mông lung lên những hõm núi cao như thể do tìm cái chấm nhỏ nào là căn nhà của cha con cô. Thực ram tôi hoài công, bởi làm sao cô có thể xuất hiện vào lúc này được. Nhủ lòng, hiểu từ đây, dải núi mang hình một con rắn hơn là con rồng, có cái tên mỹ miều Ngọc Long kia, sẽ có ý nghĩa với mình như thế nào...
Cho đến một hôm, từ phòng điều trị trở về nơi ở trong dãy nhà tập thể của bệnh viện, tôi sững người bởi cô gái trẻ ngồi đợi trước căn phòng khóa im ỉm của tôi là Út Thiệt. Cô bày trước cửa căn phòng của tôi mấy chiếc giỏ bàng to tướng đầy ắp hàng hóa, đồ dùng.
-Út Thiệt?-... em ra hồi nào vậy? Đợi lâu chưa?...
-Ôi anh Hai... Em ra từ sớm,...- Cô hồ hởi-Đi chợ chút rồi dô đây luôn. Biết là anh Hai bận công việc... Là em đi chợ, phải mua nhiều đồ lắm... bởi lâu lâu mới có dịp ra thị trấn... Rồi cô lôi từ trong giỏ bàng ra một bọc tướng- Ba nói mang quà biếu anh Hai... Đố anh Hai, quà chi đây?... Mà thôi, anh Hai sao biết được... Thị nhím đó... anh Hai biết con nhím là con chi hông? Ba em bảo, thịt nhím ngon bổ số dách trong những thịt thú rừng... Để anh Hai và mấy anh chị trong cơ quan nhậu chơi... Ba em vữa bẫy được con nhím bự, nặng những mười bảy ký. Ui chao, con này vào mùa rãy năm ngoái phá rãy khoai mì của nhà em và bà com xóm núi ghê gớm.  Săn hoài không được. Nay mùa khô, hiếm thức ăn nên mới bẫy được đó, anh Hai... Con nhím vào mùa khô càng quý. Dạ dày của nó chữa toàn cây ngải rừng, vị thuốc nam đó anh Hai. Cứ để nguyên cả dạ dày, đem phơi rồi sấy khô, ngâm rượu thành thuốc chữa đau bao tử người ta, tuyệt lắm đó, anh Hai à....
Út Thiệt nói liền một hồi không để tôi chen được câu nào.
Ui chao – cô cười – em cứ huyên thuyên về thuốc mà quên mất anh Hai là bác sĩ... Thiệt tình, con gái như em... quê quá à...
Út Thiệt đang hồn nhiên vô tư, chợt tư lự... Tôi mời mãi cô mới chịu vào phòng.
- Út này, nghe em nói anh nghĩ đến món thịt nhím ngon tuyệt, thèm đến chảy nước miếng... Nhưng mà, mấy đứa tụi anh đây có ai biết nấu món thịt nhím ra sao đâu... hay là, trưa nay, Út ở đây ăn cơm với tụi anh, nhân tiện trổ tài nấu món thịt nhím chiêu đãi mọi người... được không?
-Hứ, hổng được đâu... em phải về, kẻo ba mong... Với lại, em chưa xin phép ba... Thế chị Năm Thư đâu, không nấu cho tụi anh?...
- À...-Tôi cười- Bữa nay chị Thư đi công tác trên tỉnh, mốt mới về... Với lại, có ở đây thì chị Thư đâu có ăn tập thể như đám đàn ông độc thân tụi anh, cô ấy ăn cơm ở nhà với ba má chớ... Nếu Út không nấu giùm... thì anh đành ăn thịt nhím sống thôi...- Tôi vờ nói dỗi,
-Vậy à...-Út THiệt nhẹ nhõm... vậy mà em cứ nghĩ... chỉ với anh Hai là... là...
-Là đồng nghiệp thôi-Tôi cướp lời và cười phá lên, làm Út Thiệt cười theo...- Anh đang muốn nhận Thư làm em gái nuôi đây nhưng mà cô ấy còn chưa chịu, nói là bao giờ anh Hai lấy vợ rồi thì cô ấy mới chịu nhận là em gái... Hay là... Út Thiệt xem có đám nào làm mai cho anh Hai đi?...
-Chịu thôi...-Út Thiệt giãy nảy- Con gái miệt núi này xấu xí, thô lắm, anh Hai à... Anh Hai vừa giỏi giang lại vừa... chẳng có ai xứng cả... Có chăng, chỉ có chị Năm Thư... cũng giỏi giang..,
-Thôi, chuyện ấy bàn sau – Tôi vội lảng tránh- Còn bây giờ, Út Thiệt có chịu ở lại trổ tài nấu món thịt nhím cho tui anh nhậu chơi không?
-Thôi được... Ba có mắng em về trễ,,, em đổ thừa tội cho anh Hai đó nghen.
Út Thiệt bắt tay làm bếp, tôi gọi mấy anh em bạn bè Trưa ấy, chúng tôi nhậu một trận thỏa mái với hai món là thịt nhím xào lăn và thịt nhìm nấu ca-ri ăn với bún. Mấy đứa bạn, cứ lén nhìn trộm Út Thiệt, nhấm nháy tôi, bóng gió:
-Cha Tuấn này giỏi thiệt... Đi cơ sở cớ vài bữa, mà đã có người thương từ trỏng ra chơi, chăm sóc này nọ... lại còn quà độc nữa...
-Này nhậu đi mấy cha,... đừng có nói bừa đó nghe...
Út Thiệt nghe chuyện chúng tôi, ngường ngượng, không cãi, chỉ mủm mỉm cười duyên. Tôi thấy thinh thích, vui nên lại quá chén, đầu óc lơ mơ, chập chờn đâu đó bóng Út Thiệt lui cui dọn dẹp bếp núc và giặt giũ gì đó sau nhà... Không có ca trực, tôi ngủ miết cho đến chạng vạng tối. Lúc tỉnh ngủ, nhà vắng tanh, mọi thứ gọn gàng ngăn nắp hơn thường ngày. Cửa khép hờ. Tôi nhìn quanh quất, đập vào tôi là mảnh giấy để trên bàn làm việc. Chữ viết to cộ, là của Út Thiệt: “Em phải về, kẻo ba mong. Anh Hai có đói bụng thì vẫn còn cơm  Em kho sẵn một tộ cá. Nhớ cất quần áo em giặt phơi sau nhà, kẻo mưa ướt. Nếu có dịp xuống xã thì vô núi thăm ba con em. Út Thiệt”. Cô không ký mà ghi rõ tên mình. Tôi nhẩm đọc mảnh giấy đến mấy lần rồi gấp lại cất vào đáy va-li. Lòng thấy buâng khuâng lạ. Ôi, cô Tấm của tôi...
Vài hôm sau, khi gặp Thư ở phòng khám, cô nhìn tôi không mấy thiện cảm, giọng tưng tửng:
-Coi bộ... anh Tuấn sướng ha... Có sơn nữ từ trong động ra tận nơi thăm ha... Rõ thấy ghét...
Tôi lặng thinh, trong bụng tưng tức, định cự lại, song kịp nén. Mình tức là vô lý. Người ta vậy, cũng chỉ vì quý mến mình thôi...
4.
Một dịp may hiếm có đến với tôi. Thư được cử đi học lớp trung cấp y tế ở Cần Thơ. Còn tôi, thì đi cơ sở để rà soát lại mạng lưới y tế xã trong toàn huyện và phổ biến kiên thức vệ sinh phòng bệnh cho người dân. Lẽ dĩ nhiên, địa phương của nhà Út Thiệt là một trong số điểm tôi chọn đăng ký. Ngay ngày nghỉ đầu tiên, tôi vào núi tìm đến căn nhà của cha con cô. Quang cảnh hiu quạnh, nhìn quanh quất chẳng thấy ai. Tôi tần ngần, rồi khẽ đảy cửa, nhưng cửa chỉ khép hờ. Vậy là có người ở nhà. Tôi cất tiếng gọi. Có tiếng người thưa đâu đó phía sau nhà xa xa. Và chỉ lát sau, Út Thiệt xuất hiện, cô thở hổn hển, áo đẫm mồ hôi... Cô reo lên mừng rỡ:
-Ối trời, anh Hai... Anh vô khi nào?... Em làm cỏ khoai mì ở rãy phía sau nhà... nghe tiếng gọi giọng Bắc... em đoán là anh Hai... nhưng mà hồi hộp, không dám tin là anh Hai vô đây thăm... Thiệt mừng... đúng anh Hai thiệt rồi...
-Thì tôi đang đứng đây... Út Thiệt tin chưa? – Tôi cười trêu, nếu còn chưa tin thì cứ rờ thử coi... cho nó chắc...
-Thôi mà, anh Hai... Cô le lưỡi – em hổng dám đâu... lỡ chị Năm mà nhìn thấy thì chỉ thù em đến chết... Mà chị Năm đâu anh Hai?
-Hừ... tôi chỉ là của riêng tôi thôi... chẳng có chị Năm nào hết...-Tôi tỉnh bơ và chuyển giọng như hát – Ta muốn như Từ Thức năm xưa, vô núi tìm sơn tiên trong cõi mộng Thiên Thai...
-Ha... bộ anh Hai học ca vọng cổ mùi mẫn quá ta...
Tôi không ngờ Út Thiệt nhanh trí và hài hước vậy, bèn cười to. Hai chúng tôi vô nhà. Út Thiệt nhanh nhẹn thổi lửa đun nước pha trà. Cô bảo:
-Ba em vắng nhà... đợt này ba cùng mấy người chòm xóm vô núi làm than chừng nửa tháng mới về. Tranh thủ đốt đợt than cưối cùng của mùa khô, rồi nghỉ chờ sa mưa, khi đồng tràm ngập nước lại đến mùa làm củi tràm... Anh Hai biết không, làm than củi trên nũi còn đỡ, chứ làm than tràm trong đồng cực lắm. Phải ngụp sâu dưới nước nhiều lần, lay cho gốc tràm lỏng rễ, nhổ bật gốc đưa lên xuồng, chở vô bờ kinh phơi khô, rồi cưa thành khúc một, làm hầm đốt. Cực lắm đấy... nhưng mà vui, anh Hai à...
-Vậy Út Thiệt ở nhà một mình không thấy sợ… thấy buồn à?
- Em quen rồi, anh Hai – Cô cười- Với lại, em làm rẫy tối ngày… đêm về mệt muốn chết, ngủ như heo ấy, có đâu mà buồn… Em lớn lên, nhà có hai cha con, ba em cũng phải làm đây đó, ở nhà thì lấy gì mà ăn, xa nhà liền à… lâu thành quen, anh Hai… Với lại, ngày nhỏ, em hay theo ba đi làm ăn xa, hoàn cảnh nào cũng chịu được… Thường thì, những chuyến ngắn ngày, em theo phụ giúp ba, còn chuyến nào lâu ngày, vất vả thì em ở nhà, tranh thủ coi rãy, chăm đám khoai mì… Bữa nay, anh Hai vô chơi nhà, anh Hai là khách quý đặc biệt đó… Anh Hai là ân nhân của ba con em… nên anh Hai phải ở lại ăn cơm đó.
- Xin sẵn lòng… nhưng anh chỉ dám nhận là khách quý thôi… chứ không dám nhận là ân nhân đâu… Út có đồng ý vậy, anh mới ở lại ăn cơm. Chịu không?- Tôi đùa- với lại, nhà có gì ăn nấy, không bày vẽ chợ búa gì thêm nghe…
Út Thiệt dạ đễ thương lạ, rồi cô bắt tay làm cơm. Tôi lăng xăng phụ giúp, thấy vui như hồi còn là sinh viên, ngày nghỉ về nhà giúp mẹ và chị làm cơm. Bữa cơm giản dị, toàn những thứ tự kiếm, tự tạo như măng tươi luộc chấm mắm, khô cá chiên, canh chua bạc hà và thịt con mang rừng khô nướng. Khi Út Thiệt bê ra hũ rượu đế, tôi vội gạt đi vì ớn người nghĩ đến trận say rượu thổ ta mật xanh mật vàng lần đầu đến nhà cô. Thế nhưng, Út Thiệt không chịu, cô nói sẽ thay ba tiếp rượu tôi để tỏ lòng mến khách theo phong tục bà con ở vùng này. Thế là hai anh em cụng ly. Cô chỉ nhấp môi gọi là. Tôi uống nhẹ nhàng từ tốn, vừa ăn vừa kể chuyện, huyên thuyên đủ thứ, nhảy cóc từ chuyện này sang chuyện khác. Út Thiệt chỉ nghe, cười hiền đáp lễ, thỉnh thoáng mới đế vào, hỏi thêm gợi chuyện. nhưng tôi đang hưng phấn nên cảm giác là cô thích thú với những điều tôi nói. Gương mặt cô rạng lên, sinh động, ánh nhìn hiền dịu, chan chứa một nỗi niềm. Còn tôi, cứ như một triết gia, nhà thông thái đi khai hóa…
Buổi trưa, Út Thiệt giăng chiêc võng dù bộ đội để tôi nằm nghỉ cho mát. Nằm trên võng đung đưa, đầu óc tôi lơ mơ vì men, lặng ngắm dáng hình uyển chuyển linh hoạt của Út Thiệt, tôi thấy mình như một vị hoàng tử trong các câu chuyện cổ tích xưa, đi săn, bị lạc rừng, được sơn nữ đưa về nhà chăm sóc, nâng giấc. bởi thế, tôi cũng náy sinh sự liên tưởng đến một ngày nào đó, vị hoàng tử trở về chốn hoàng cung lộng lẫy của mình, đột ngột tuyên bố với vua cha và quần thần được đón sơn nữ về làm vợ… Tôi như trôi đi trong giấc mộng, tỉnh dậy, định thần, nghe tiếng nước róc rách đâu đây. Tôi nhẹ nhàng đi ra sau nhà, linh cảm như mách bảo, rằng Út Thiệt đang tắm… Tự nhiên, tôi chùn chân,tim đập mạnh và mặt bừng nóng. Người như nặng trịch, lún sâu xuống đất, nhấc không nổi chân, cứ dùng dằng trong trạng thái vừa muốn trở lui, vừa muốn dấn thêm… Út Thiệt ngồi tắm xây lung lại, cả mảng lưng trần trắng ngà, mịn màng và bóng nước, tóc cuốn cao búi lại trên đỉnh đầu càng làm tôn thêm vẻ thanh mảnh cho cần cổ, dôi bàn tay cô thoăn thoắt vừa kỳ cọ vừa không ngừng múc nước từ chiếc khạp đất nung dội lên người. Tôi đắm mình trong xúc cảm mê hoặc, hơi thở gấp gáp, và cảm thấy sao mình thở to thế… Hình như, Út Thiệt cũng cảm giác có gì không bình thường, cô ngừng tay, như bất động, nghe ngóng trong giây lát… rồi cô khẽ lắc đầu vẻ bắt cần, tiếp tục việc tắm táp của mình Tôi chới với mất đà, người chúi về phía trước, tì mạnh người vào bức vách thưng lá gây tiếng động… Út Thiệt hấp tấp choàng tấm khan rằn lên mình, kêu nhỏ:
-Anh…Anh Hai…ấy đừng...
-Tôi… tôi… tỉnh rượu… khát nước quá…
-Bình trà còn đó… anh Hai… Em vô ngay đây…
Tôi trở lui, với bình trà, rót ra ly, uống lấy uống để. Lát sau, Út Thiệt trở vào nhà trong bộ đồ bà ba đen, xúng xính đi lại, cô liếc nhanh tôi và lờ chuyện ban nãy…
-Ôi,,, anh Hai ngủ ngon quá… cứ như cả tuần rồi không được ngủ…lại còn mơ, nói lẩm bẩm cái gì đó… và cười nữa, heng…- Út Thiệt che miệng cười khẽ, khiến tôi tự nhiên trở lại…
-Thế à…Tôi vờ gãi đầu – Út Thiệt à, tôi đoảng quá, lần nào vô nhà Út, tôi cũng quá chén, say sỉn… Xấu hổ quá đi thôi… Út bỏ qua cho anh nghe?...
-Anh Hai có vầy… em mới vui… Bởi anh Hai thiệt lòng, không làm khách… Nếu anh Hai khác,… em buồn…
- Này… thế ba vắng nhà lâu vậy… để Út một mình… ba không thấy lo sao? Tôi hỏi làng sang chuyện khác.
 - Có chớ… -Út Thiệt cười- nhưng mà lo vừa thôi à… bởi ba biết ở nhà, em cớ có bà con chòm xóm đây… Anh Hai, có biết hông, mọi người sống ở hém núi này thương nhau lắm, như người một nhà vậy…Đó, bữa nọ, ba của em bị bệnh nặng, em nói sao ba cũng không chịu vô bệnh viện… thế là dì Ba, nhà cách đây chút, đến thẳng Trạm xá xã, kêu các anh chị vô đây cứu chữa … Nếu không có dì Ba... em hổng biết sao nữa...
-Được, việc ăn ở có thể không đáng lo …cứ cho là thế đi, nhưng… ổng không lo cánh đàn ông… đại loại như anh đây chẳng hạn… tìm đến nhà bắt cóc cô con gái rượu của ổng à? –Tôi cười trêu
Út Thiệt cười đỏ mặt, lườm tôi và nguýt rõ dài, kêu lên:
- Em hổng thích anh Hai đùa vậy đâu… Mà có ai vô bắt cóc con gái ổng đi thì càng tốt chứ bộ… Ổng đang phát rồ lên vì chẳng có ma nào ngó ngàng gì đến cô con gái rượu của ổng đó. Sống mãi ở hẻm núi này… anh Hai ơi, có ma nó cũng chẳng buồn vô…
-Vậy anh hơn cả ma xó rồi… Với lại, anh đâu có đùa… nói thiệt đó…anh đang nuôi ý đồ bắt cóc cô con gái rượu của ông đi đây…
Út Thiệt củng nhẹ lên trán tôi, vùng vằng ra sân trước bảo:
- Em đi làm cỏ khoai mì đây… Anh Hai có đi hổng, hay ở nhà?
Chiều ấy, tôi và Út Thiệt cùng xới cỏ rẫy khoai mì phía sau nhà. Chiều muộn, không thấy tôi nhắc gì chuyện về hay ở, và dương như cảm thấy tôi dùng dằng, Út Thiệt nhắc chủ động nhắc khéo:
- Thôi, để em làm nốt… anh Hai về đi kẻo muộn…Mai anh Hai còn phải làm việc nữa mà… vài bữa nữa, nếu rảnh… và không chê nhà em nghèo khó… thì anh Hai lại vô thăm… À, cũng sắp đến tết Cholchnamthmay của người Khmer rồi đó, anh Hai vô đây, Út sẽ đưa anh Hai đi xem hội đua bò, coi hát Yuke,… vui và hay lắm đó, anh Hai à… Em có mấy đứa bạn ở trong Sóc Khmer gần đây… Nếu anh Hai ưng… cô cười trêu… em sẽ làm mai cho anh Hai một đứa thật xinh…
-Ừ… vậy nhé… nhưng Út phải hứa đưa anh đi chơi cùng… thì anh mới chịu về… mấy hôm nữa, rảnh anh vô… Nếu không, anh sẽ ăn vạ, lăn ra rấy đây này…
-Út hứa… nhưng anh Hai cũng không được sai hẹn… với lại, Út chỉ muốn anh Hai vô chơi một mình thôi à…
- Xin hứa…à, còn chuyện làm mai… thì chưa vội… để xem mấy cô bạn của Út… có xinh hơn… cô con gái rượu của ổng không đã?...
Tôi cười tinh ranh, ra về. Út Thiệt nhìn tôi, cô nũng nịu nửa trẻ con nửa thiếu nữ…
5. Đúng hẹn, tôi đến nhà Út Thiệt từ mờ sớm Cô đợi tôi cớ vẻ bồn chồn vì lo tôi sai hẹn. Men theo chân núi, chúng tôi đi một thôi đường, rồi bang qua mọt cánh đồng không rộng lắm. Đang mùa khô, mặt ruongj nứt nẻ trơ gốc rạ nên chúng tôi cứ cắt mặt ruộng mà đi. Thỉnh thoảng lại bắt gặp một khoảnh ruộng, mặt đất bị đốt khô nám đen và lổn nhổn những tro than củi. Lúc đầu do không biết nên tôi vô tình giẫm lên, nhưng sau để ý thấy Út Thiệt thường đi tránh những chỗ như vậy, tôi hồ nghi có gì đó khác thường nên hỏi, thì cô bảo:
-Đó là chỗ bà con sóc Khmer thiêu người chết. Anh Hai để ý kỹ, xem có còn sót những mẩu xương nhỏ không? Có khi, vẫn còn xương chưa cháy hết đấy…
-  Vậy à…-tôi lè lưỡi- Thế mà Út chẳng nói cho anh biết để anh tránh. Giẫm lên thế… ngộ nhỡ làm sao?...
- Anh Hai chớ lo… không việc chi đâu…Là em thdeo thói quen cứ đi tránh vậy thôi… Vơi lại, người Khmer theo phong tục hỏa tang… như vầy là lành lắm đó… người chết siêu thoát mà… không làm con ma đi hành người ta đâu…- Út Thiệt chỉ tay vào nơi xanh um những vòm cây thốt nốt, thấp thoáng bên dưới những mái nhà- Đó, mình vô đó… Bữa nọ, em gặp Chau Khonm một người quen, ở trên rẫy, em đã hẹn bữa nay đón an hem mình đi chơi tết. Năm nay tết nhuận, có đến bốn ngày lận… Bữa nay là ngày Vonbat đầu tiên, bớt lễ rươc mà vui chơi thôi… An hem mình vô tha hồ mà vui…
-Ôi, không ngờ Út thông thạo ghê.
-Thì… ba con em sống ở đây lâu rồi, Năm nào em cũng vô chơi tết nên biết thôi… Với lại, Chau Khon cậu ấy chu đáo lắm, hay giảng giải cho em những gì em chưa biết…
-Này, thế cái cô tên Chau Khon, bạn em ấy…cô ấy đã lấy chồng chưa? Có đẹp… như Út không? Hay là…Út làm mai cho anh đi?...
-Ô,… Chau Khon là tên con trai… -Út Thiệt cười thành tiếng- Nếu anh Hai muốn làm rể Khmer thiệt… thì để em nhớ Chau Khon, tìm xem trong sóc có cô nào xinh đẹp thì làm mai giùm anh Hai?...
-Vậy à…-Tôi xao động-Hay là…Chau Khon là… người thương của Út?
- Ô…hổng phải… Anh Hai nhầm rồi. Chau Khon có người thương rồi… Neang Hên đó. Hai người thương nhau lâu rồi… nhưng chưa làm đám cưới được… Là vì, nhà Neang Hên giàu lắm… nhưng nhà Chau Khon thì nghèo, má của Chau Khon bệnh hoài, mấy đứa em còn nhỏ, nên Chau Khon phải đi làm thuê, lúc rành thì vô núi kiếm củi, đốt than. Ba má Neang Hên chê, không cho cưới… Nhừng hai người vẫn thương nhau lắm… Chau Khon đẹp trai và tốt bụng lắm đó. Nghe nói, Neang Hên hăm ba má cổ là nếu không cho lấy Chau Khon thì sẽ không lấy ai nữa, thà ở giá còn hơn…
-Rồi đấy, họ sẽ lấy được nhau thôi… Người ta có câu “Đất không chịu trời thì trời phải chịu đất thôi”…Tôi hùn vào-Thế nào ba má Neang Hên cũng phải chịu cho họ lấy nhau tôi mà…
-Em cũng nghĩ vậy... đã có lần Chau Khon nói với em, nếu ba má Neang Hên không đồng ý cho hai người cưới nhau thì họ sẽ bỏ trốn sang miệt Sóc Trăng, ở đó Chau Khon có nhà bà con, họ hứa sẽ giúp hai người sinh sống làm ăn... Nhưng em can, nói hai người không được bỏ sóc... Như vầy, ba má Neang Hên sẽ khó ăn nói với ba con trong sóc, còn Chau Khon thì má hay bệnh và các em còn nhỏ dại... Chau Khon nghe lời, thôi ý định bở sóc mà đi rồi...
Út Thiệt lặng thinh sau câu chuyện tình dang dở của người bạn Khmer, cô cắm cúi đi nhanh đến nỗi chốc lát đã bỏ tôi một quãng xa, trong khi tôi như đánh vật với mặt ruông nút nẻ mấp mô, Chợt nhận ra, cô dừng lại đợi. Khi tới gần, tôi thở mạnh song định buông lời trêu thì nhận thấy mặt cô thàng thốt khác thường, mắt ngấn nước. Tôi im bặt. Rồi nói lảng nhằm phá vỡ sự im lặng:
-Sắp tới rồi nhỉ?... Anh nghe thấy tiếng chiêng trống từ phum sóc vọng ra... lòng dạ cũng nôn nao...
Chau Khon không có nhà. Má Chau Khon nói là cậu ấy chờ mãi không thấy chúng tôi đến, vì hội đua bò sắp bắt đầu, mà Chau Khon có tham gia đua nên phải ra nơi tập trung trước, dặn nhà là hễ chúng tôi tới thì đã có em gái là Neang Mai đưa đi...
Thế là tôi và Út Thiệt có mặt ở hội đua bò. Người đông nghịt, chen chúc nhau, có cảm giác là cả phum sóc tụ về đây. Tôi như bị thu hút bởi trang phục rực rỡ ngày hội của người Khmer, ngơ ngẩn ngó nhìn, khiến Út Thiệt cứ phải nắm tay tôi lôi đi xềnh xệch như chị gái đưa cậu em đi chơi hội lo bị lạc nhau.
Trường đua là một mảnh ruộng rộng chừng già nửa hec-ta, hình chữ nhật, được cày bữa vỡ và giữ mức nước xăm xắp. Các cặp bò đua được đóng bừa đứng dàn hàng ngang ở mép đường đua, nơi được chọn làm điểm xuất phát. Các tay đua ăn vận giống hệt nhau, đóng săm-pốt, một kiểu khố con trai, đầu chit khăn gọn gàng, tay cầm chà-lun, là một cây gậy có đầu bịt sắt nhọn và đầu kia uốn móc câu như đầu ba-toong. Út Thiệt kiễng chân nhìn khắp lượt, rồi chỉ cho tôi biết Chau Khon. Đó là một chàng trai cao lớn, săn chắc, da đen bóng, tóc xoăn, gương mặt rất đàn ông, ưa nhìn. Út Thiệt dẫn tôi men dần đến chỗ các tay đua đứng, cô tìm cách ra hiệu và rồi Chau Khon cũng nhận ra sự có mặt của chúng tôi. Chàng ta khẽ cười gật gật đầu bày tỏ niềm vui. Khi trống lệnh xuất phát vang lên, các cập bò đua thứ tự phi lướt tạo thành một vòng xoay gần khép kín trên mặt ruộng. Tôi nhìn loang loáng, chẳng còn nhận biết đâu là Chau Khon nữa. Mười vòng đầu đua thử, vậy mà đã có đến mấy cặp bò bỏ cuộc. Bây giờ mới là lúc các cặp bò và tay đua trổ tài cao thấp. bùn đất bắn tung tóe, những tiếng thúc bò, tiếng chiêng trống và tiếng hò hét cổ vũ của người xem rộn lên. Kia rồi, cặp bò của Chau Khon chạy thứ hai, cậu chàng đứng vững trên chạc bừa, mặt đanh lại căng thẳng. Chốc chốc mọi người lại rồ lên, khi có một tay đua nào đó bị vằng khỏi chạc bừa xuống ruộng. Và cuối cùng, chỉ còn lại hai cặp bò đua đang phi nhanh trên đường đua, trong đó có Chau Khon, nhưng cặp bò của chàng ta tụt phía sau chút. Vi bò chạy nhanh và cũng phần nào thấm mệt, nên cậu ta chốc chốc lại chúi người tưởng ngã, nhưng rồi lại trụ vững trên chạc bừa. Tôi thầm nghĩ, cổ vũ “Nào cố lên. Cố lên nào. Như trong tình yêu của cậu ấy. Thế nào cũng chiến thắng”. Tôi hiểu, thời khắc này, một chiến thắng để trở thành quán quân của cuộc đua có thể sẽ thay đổi được quyết định của ba má Neang Hên, họ sẽ chấp nhận chàng rể tương lai… Nhưng kia, Chau Khon lại xuýt ngã và một lần nữa cậu ta lại đứng vững… Nếu chiến thắng, cậu ta có quyền hãnh diện và trong mắt của bà con Phum sóc, và hình ảnh cậu ta sẽ khác đi, được tôn trọng, nể vì hơn. Quan trọng nữa, ấy là Neang Hên sẽ tự hào về sự lựa chọn đúng người thương mà kiên quyết không thay lòng đổi dạ, và rất có thể, ba má cô đồng ý cho hai người cưới nhau… Và bỗng, tay đua phía trước giật mình vì cặp bò chồm lên, đột ngột bị ưỡn người ra phía sau, mất trụ, văng khỏi chạc bừa ngã xuống mặt ruộng đường đua. Tôi thót tim, chút nữa hét lên vì lo cặp bò của Chau Khon đang chạy hăng bứt tốc ngay phía sau sẽ ập tới và có thể chèn lên người ạnh chàng bị ngã. Nhưng may mắn và khéo léo sao, Chau Khon điều khiển cặp bò lượn nép vào phía trong tránh được. Đến lúc này, không cần phải vội, Chau Khon cho cặp bò chạy chậm dần về đích, rồi dừng hẳn. Cậu ta bước ra giữa trường đua, hướng mặt về phía Ban giám khảo, cúi người chào, rồi vươn ngửa người, giơ hai tay lên làm dấu hiệu của kẻ chiến thắng. Chiêng trống, thanh la rộ lên, nhưng tiếng reo hò còn vang dội hơn. Chau Khon đi một vòng quanh trường đấu chào mọi người. Đến chỗ tôi và Út Thiệt đứng, cậu ta khẽ nháy mắt tinh nghịch. Tôi bấm nhẹ vào tay Út Thiệt hỏi:
-Neang Hên đâu? Cô ta không có ở đây à?
-Ô… Út Thiệt đưa mắt tìm quanh- Em hổng thấy… Chắc Neang Hên sợ Chau Khon thua, xấu hổ, nên tránh, ở nhà…
Trưa ấy, tôi và Út Thiệt ăn tết với gia đình Chau Khon. Phần thưởng cho giải nhất cuộc đua bò của Chau Khon là một đôi khăn karma, một chiếc săm-pốt, một xa-rông và một vò sra-thnốt, loại rượu truyền thống của người Khmer được lên men từ nước thốt-nốt. Chau Khon rót sra-thnốt cho mọi người cùng uống. Tôi cảm thấy ngon, phần vì vui, phần vì vừa uống vừa ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm. Neang Mai, em gái của Chau Khon, chừng mười hai, mười ba tuổi gì đó, cô bé ăn nhanh, loáng một cái đã xong. Cô bé đi ra đi vào, nhìn chúng tôi, rồi nhìn anh trai mình, nhấm nhẳng hát một bài dân ca Khmer. Chau Khon nghe, mỉm cười rồi nói gỉ đó với cô bé, tôi không hiểu, nhưng quan sát thái độ của hai anh em họ, tôi đoán là Chau Khon đùa hay mắng yêu em gái mình. Út Thiệt biết tiếng Khmer, nói chuyện với hai anh em họ, cô cười rất tươi, rồi ghé sát tai tôi dịch nghĩa cho tôi hiểu lời Neang Mai vừa hát trêu anh trai mình. Đại loại: “Anh đi tìm mỏi mắt/ Anh tìm người anh yêu/ Và anh chộp được em/ Ơi cô nàng xinh đẹp”… Hiểu nôm na lời bài hát, tôi trêu đùa Chau Khon:
-Cô nàng xinh đẹp là Neang Hên phải không?
-Vậy… anh Tuấn cũng biết chuyện?... Út Thiệt kể cho anh à?
Tôi cười trừ. Út Thiệt giải thích:
-Anh Hai Tuấn khen ngợi tình yêu của Chau Khon và Neang Hên lắm đó… Ảnh bảo,- Yêu như thế mới là yêu chứ!...
Nghe vậy, Chau Khon có vẻ hãnh diện. Chiều ấy, Út Thiệt và Neang Mai háo hức, cứ đòi mọi người cũng ra sân chơi chung của trai gái trong sóc, nhưng Chau Khon không đồng ý, bắt mọi người phải ra chùa trước đã. Tôi ngạc nhiên vì thấy hành làng và khắp sân chùa nhan nhản những đống cát nhỏ sạch bong. Chau Khon giải thích, đây là một tập tục cổ của người Khmer, có tên gọi là Pun-Phnôm-Khsach, hiểu nôm na là tục đắp núi cát. Theo thông tục của Phật giáo Tiểu thừa, tục này bắt nguồn từ một sự tích lâu đời với ý nghĩa là nhằm tránh tiền oan nghiệp chướng, tránh mang nợ oan khiên theo thuyết luân hôi nhân quả. Năm nào cũng vậy, mọi nhà đều làm với hy vọng năm ấy nhà họ sẽ may mắn, lành ở dữ đi… Cũng như mọi người, hai anh em Chau Khon, Neang Mai tiến hành những thủ tục hành lễ rất thành kính. Thế nhưng, khi tham gia trò chơi dân gian tập thể, hai anh em họ hào hứng lắm, hò hét đến khản cả giọng. Để ý, trong khung cảnh đầy náo nhiệt đó, mặc dù hăng hái tham gia trò chơi, nhưng thỉnh thoảng, Chau Khon sững người như mất hồn, rồi ngơ ngác nhìn quanh quất như tìm ai. Út Thiệt ngầm cho tôi biết, có lẽ Chau Khon không thấy bóng dáng Neang Hên đâu, nên sinh lo lắng? Ừ nhỉ. Sự vắng mặt của Neang Hên có thể báo hiệu sự không vui, không may chăng?...
 
 
5
Thế nhưng, không lâu sau, tôi được biết mặt Neang Hên. Cô là một người có nhan sắc. Nếu chỉ thoáng gặp, người ta dễ nghĩ cô là một người lạnh lùng, pha chút kiêu kỳ. Song khi hát Aday, một kiểu đối đáp huê tình thì Neang Hên là người đầu trò, nhiệt tình và khá sắc sảo trong các câu đối đáp của bè nữ. Neang Hên tham gia bè nữ, nhưng Chau Khon lại không có mặt trong bè nam. Hình như hai người ngầm thỏa thuận với nhau là không cùng tham gia bất cứ một trò chơi chung nào, để tránh sự gán ghép hoặc trêu đùa của chúng bạn. Một chàng trai, không biết có phải là tình địch của Chau Khon hay không, cất lời hát trêu ghẹo Neang Hên, mà Út Thiệt dịch cho tôi nghe: “Này em gái xinh tươi kia ơi/ Có người bảo là da em nứt nẻ/ Nhưng anh chỉ cần em chăm chỉ, vui tươi/ Thốt nốt nhà anh nhiều đủ tắm da em đẹp…”.Ngay lập tức, Neang Hên cất lời hát đối lại: “Em nết na, chăm chỉ nhất phum/ Nhiều chàng trai khen em xinh nhất sóc/ Ap-sa-ra phải ghen em múa đẹp/ Anh cầu hôn chưa hẳn em bằng lòng…”.
Tôi thầm khen cô gái đáo để. Chợt bàn tay Út Thiệt thầm tìm và nắm chặt bàn tay tôi. Còn Châu Khon cố ghìm mình, môi mắm lại và hai bàn tay nắm chặt.
Hai anh em nhà Chau Khon giữ chúng tôi ở lại xem Yukê, một kiểu kịch hát như cải lương, song vì sợ khuya, chúng tôi từ chối ra về. Chau Khon tiễn chúng tôi ra tận bìa sóc. Cậu ta chào Út Thiệt và dặn dò cô gì đó bằng tiếng Khmer. Trước khi quay trờ lại, Chau Khon xiết chặt tay tôi, bảo:
-Út Thiệt là cô gái chăm ngoan và tốt bụng lắm đó… Anh Hai là bạn của cô ấy, hãy giúp cổ… Út Thiệt có nói với tui, về anh Hai… Khen anh Hai là người hiểu biết, đứng đắn và có lòng thường người… Út Thiệt cũng thương anh Hai lắm đó… hẳn anh Hai biết rồi…
Chau Khon đưa cho chúng tôi chiếc đèn pin. Hai chúng tôi trở về trong màn sương tối, bỏ lại sau lung sóc Khmer vẫn rộn ràng tiếng đàn nhị, tiếng hát và còn đó mối tình vẫn dang dở và đầy bất trắc của cặp trai gái Chau Khon-Neang Hên. Lúc này, trông Út Thiệt mới bé nhỏ làm sao. Cô đi rúm vào người tôi, và bỗng nhiên tôi có cảm giác mình trờ thành người khổng lồ, che chở cho cô bé con…
Về tới nhà Út Thiệt thì đã muộn lắm rồi. Biết tôi lưỡng lự giữa về hay ở lại, Út Thiệt chủ động:
-Anh Hai à… bữa nay anh ngủ lại đi… khuya rồi… anh Hai chưa thạo đường, dễ lạc lắm đó… Mới lại, dạo này hay có heo rừng bị đói, lùng sục ăn đêm, dữ tợn lắm… ngộ nhỡ đụng phải chúng thì nguy hiểm đó, anh Hai à.
- Ừ, nếu Út không thấy ngại tiếng này nọ thì anh ngủ lại đây-
Tôi nói như mở cờ trong bụng, bởi thực lòng, tôi sợ phải bang rừng trẻ về Trạm Y tế xã lúc đêm hôm khuya khoắt thế này, và còn một lý do mơ hồ trong đầu…rằng dịp như thế này, không dễ có, được ngủ qua đêm trong một căn nhà như lều trại giữa hoang sơ, cùng một cô gái dễ thương như Út Thiệt, nhất là giữa hai người chung một tình cảm manh nha…
- Anh Hai tắm trước đi… Em bận dọn dẹp nhà của qua chút đã.
Tôi tắm rửa qua loa, khi trở vào nhà thì Út Thiệt cũng đã dọn xong bộ ngựa bằng gỗ thô tự làm vốn là chỗ nằm của ba cô, đệm gối, mùng màn đã giăng sẵn. Út Thiệt bảo:
- Anh Hai phải nằm mùng keo muỗi đốt sốt rét đó… Em mua mùng cho ba nhưng ba em không có thói quen nằm mùng, nên mới sốt rét chứ. Em nói mãi mà ba đâu có nghe. Bữa nào rảnh, nhờ anh Hai nói giùm xem ba có nể anh Hai mà nghe lời?...
Út Thiệt đợi tôi chui vô mùng nằm yên vị, cô mới lấy quần áo đi tắm. Trong đêm tối hoang dã, tôi nghe tiếng nước dội, tiếng Út Thiệt thở nhè nhẹ mà lòng xốn xang, mường tượng ra thân thể cô với những đường cong gợi cảm. Tôi trở mình nằm xấp, cố nén đi những dục cảm đang trỗi dậy trong lòng. Lúc Út Thiệt trở vào, kiểm tra quanh quất rồi chốt cửa, tôi vờ nằm in, thở nhẹ đều như đã ngủ.
Cô hãm nhỏ ngọn đèn, treo lên chiếc móc sắt gân đầu giường tôi nằm. Cô nấn ná như quan sát tôi ngủ, thở nhẹ trở vào buồng mình, và lục xục gì đó, rồi cả căn nhà chìm trong yên ắng. Tôi nào có ngủ được, mở chong mắt hết nhìn lên đỉnh mùng lại nhìn ngọn đèn dầu hãm nhỏ, xanh lét đung đưa, và nhìn ra bên ngoài qua khe cửa sổ màn trời tối đen. Tiếng mái lá xào xạc, tiếng giun dế i ỉ, tiếng gió hoang đuổi nhau ngoài nương khoai mì bên sườn núi, tiếng tắc kè đánh lưỡi, và tiếng thú đi ăn sương gầm gừ xa xa, tất cả quện vào nhau, cộng hưởng tạo thành một thế giới âm thanh, khiến cho cái đầu không ngủ của tôi mường tượng về một thế giới thời tiền sử. Thế nhưng, chỉ một tiếng kẹt giường, tiềng thở dài mơ hồ, hay tiếng trở mình nhẹ nhữ bỗng nơi buồng trong cũng làm đủ cho tôi sống với thực tại. Sức sống căng lên trong người tôi, cuồn cuộn chảy khiến tôi cảm giác như có một dòng thủy ngân đang uốn lượn như một con rắn hoang dại trong lòng mình. Tôi trở mình liên tục, đập chân đạp tay, vật vã. Tôi không cố ý song mỗi động thái của tôi đều gây ra những chấn động, và tôi biết, nơi buồng trong ngay đấy, Út Thiệt cũng không ngủ được. Tôi trở dậy, ngồi chồm hỗm trong màn như bụt mọc và tưởng tượng ra cánh màn tuyn mỏng tang kia là những bức tưởng thép giam hãm dục vọng đang sôi sục có thể làm nóng chảy cả thép... Và rồi, không hiểu bằng cách nào, tôi đã đứng ngay bên mép giường nằm của Út Thiệt.
- Kìa... anh Hai hông ngủ nổi sao? –Giọng Út Thiệt lạc đi và ngay lập tức tiếng bật lửa xi xoẹt, rồi ánh sáng bùng lên, như đóng đinh tôi lại bên giường...
Thì ra, Út Thiệt cũng ngồi như thế tự bao giờ. Cô nhanh chóng  định thần, bảo:
- Em cũng khó ngủ... Mấy giờ rồi anh Hai?... Hay để em đi châm bình trà nóng, hai anh em mình uống trà nói chuyện cho đỡ buồn ha?...
Rồi cô không đợi xem ý tôi ra sao, chủ động ra khỏi giường, nhóm bếp đun nước. Tôi đực người một lát rồi chẳng biết sao, đành theo ý cô, ngoan ngoãn như cậu em nhỏ vậy. Ngồi xuống bên bếp lửa, tim tôi vẫn còn đập nhanh, tránh nhìn vào mặt cô, tôi chăm chăm vào ngọn lửa bập bùng. Út Thiệt ngồi cách tôi một chút, không gần không xa, mà đủ giữ khoảng cách thân thiện. Tôi im lặng và cô cũng im lặng cời lửa. Hồi lâu, cô lí nhí:
-Anh Hai... hồi nãy...  có giận em hông?...
-Ồ,,, không đâu... Anh là người... có lỗi với Út mà... Anh cũng không hiểu sao... mình lại thế?...
-Anh Hai... Út Thiệt bỏ lửng, cúi mặt, cầm thanh củi cháy dở, dụi lửa rồi vạch vạch xuống mặt đất... – Tình cảm của Út... với anh Hai thế nào... anh Hai biết mà...
-Thế Út có biết tình cảm của anh... với Út thế nào không?... Nếu bình thường thì sao...  ban nãy... anh lại như vậy... Tử lúc mới gặp, anh đã linh cảm... một điều, anh và Út...
Trong niềm xúc động ngọt ngào, tôi nói như mê sảng. Và tôi cũng không hiểu nổi tôi đã nói những gì nữa... Chỉ biết, em nhìn chằm chằm vào tôi, như nuốt hết những gì tôi nói ra, mắt sáng lên niềm hạnh ngộ. Tôi mạnh bạo cầm hai bàn tay em, giữ trong tay tôi.... Xiết chặt...
-Đau em... anh Hai!... Út Thiệt kêu lên khe khẽ, nhưng vẫn để yên tay cô trong tay tôi. Em nhìn tôi chan chứa, hạnh phúc mà lại như có gì đó cầu khẩn:
- Anh Hai... bỏ tay em ra... Ngộ nhỡ có làm sao... em chết mất... Ba em dữ lắm...
-Sao?... Ba em làm sao? – Tôi như người bị đạp lộn từ chin tầng mấy xuống đất- Ba em không thể đối xử tệ với con gái của được… Nhà em chỉ có hai cha con với nhau
-Anh Hai… đừng nói vậy… tội nghiệp ba em…ổng hiền lắm… lại rất thương em…Nhưng ổng nghĩ là hư hỏng…ổng sẽ lột da, chon sống em mất… Anh Hai,… em xin anh Hai… đừng nghĩ về ba em như vầy… Tội nghiệp ổng… anh Hai ơi,…
-Út đừng lo- Tôi an ủi- Anh nghĩ ba em là người nhân hậu, thương con, thương người mà… Với lại, em đâu có làm gì nên tội mà ba em trách mắng… Anh với Út thương nhau… trời thương cho nên chồng nên vợ là chuyện bình thường… mà còn đáng mừng là đàng khác…
-Không đâu… em hiểu lòng anh Hai, nhưng ba em nghĩ khác… Anh Hai là người có học, giỏi giang, đi đây đó, biết nhiều… Còn Út… ngu dốt, chẳng học hành gì và nhà của cũng không ra sao… quanh năm ba con thui thủi nơi hẻm núi xó rừng… Có chuyện gì… rồi ra… chắc gì anh Hai chung tình?... Ba em hổng tin đâu, anh Hai à?...
-Thì cứ cho là ổng chưa tin đi, nhưng Út có tin anh không? Anh chẳng muốn so đo, là em cứ nghĩ quẩn vậy thôi… Hôm nào rảnh, anh sẽ lựa chuyện thưa với ba em về tình cảm của an hem mình… Anh nghĩ, ba sẽ tin thôi, Út à…
-Không… em không nghĩ quẩn đâu, anh Hai…-Út Thiệt đã phần nào chấn tĩnh… Thiệt tình là như vầy… Giờ thương Út, anh Hai nghĩ thế, bỏ qua này nọ… chứ rồi đây sống với nhau, anh Hai sẽ thấy nản, thấy bó buộc…- Tôi im lặng, Út Thiệt chân thành- Anh Hai ơi, ba con em biết thân phận nghèo hèn, chẳng bằng ai của mình…Giá như anh Hai là người mầm ruộng rãy, làm than, kiếm củi như ba con em thì em dám chắc ba em ưng liền… mà ổng còn lấy làm mừng… Anh Hai là người tốt, không tính chuyện thân phận, thiệt lòng thương, em biết vầy… nhưng cuộc đời không đơn giản chỉ là vậy, anh Hai…
Tôi bất ngờ vì Út Thiệt lại cớ những suy nghĩ thấu đáo và nói năng mạch lạc, lý lẽ chặt chẽ, rành rẽđến thế. Trước thái độ bình tĩnh, chân thành, sâu sắc ấy. lòng tôi dâng lên một niềm thương cảm vô biên, lấn áp nỗi dục vòng bùng cháy dữ dội vừa nãy. Tôi nghẹn lời không thành tiếng. Và ngay lúc ấy, tôi chỉ muốn kéo cô về phía mình, ôm vào lòng, vỗ về an ủi như một cô em gái nhỏ gặp chuyện buồn khổ. Nghĩ vậy nhưng tôi đâu có dám làm bởi sợ Út Thiệt hiểu lầm, nên cứ ngây ra.
-Anh Hai biết hông? –Út Thiệt rủ rỉ - Ba con em không phải quê đây. Mà mãi miệt Cà Mau, Bặc Liêu. Ba đưa về về đây sinh sống khi em mới năm tuổi… Phải bỏ quê, dạt vô xứ này, ba em đâu muốn vậy, nhưng thiệt tình, ổng không thể sống ở quê được nữa,
-Vậy sao?- Tôi băn khoăn-Chắc phải có chuyện gì uẩn khúc?
-Anh Hai đoán trúng rồi đó- Cô rầu rầu-Mãi sau này em mới được ba nói cho hay. Đời ba em cực lắm anh Hai à. Bởi vậy, ngày nhỏ em thương ba một, sau biết chuyện đời ổng, em thương ba mười...-Út Thiệt ngừng kể, cô cho thêm củi vào bếp, rồi lặng lẽ rót thêm trà cho tôi, ch cô- Anh Hai có thấy đói bụng hông? Có sắn khoai mì em mới nhổ, để em nướng mấy củ, hai an hem mình ăn cho vui.
Út Thiệt vô trong lựa mấy củ khoai mì mang ra bếp nướng. Tôi lặng theo dõi từng cử chỉ của cô vẻ sốt ruột. Chợt Út Thiệt hỏi:
-Dọc đường vô Thất Sơn, anh Hai có để ý đến núi Bà Đọi hông?
-Có. Anh có thấy… nhưng sao?
-Vậy anh Hai có nghe gì về sự tich núi Bà Đọi hông?
-Có nghe-Tôi ngạc nhiên- Anh thấy có gì đó na ná như chuyện núi Vọng Phu ở miền Trung hay ngoài quê anh…
-Vậy sao? Anh Hai thấy những nhân vật trong câu chuyện sự tích ấy như thế nào?
-Anh không hiểu ý Út?
-Là em… Ý em là muốn anh Hai cho là những người trong sự tích đó là người tốt hay xấu?
-À ra vậy… Anh nghĩ, đây là câu chuyện gia đình, bi thảm và những nhân vật ấy đều là người tốt… Nhưng chỉ vì vô tình…
-Vầy… Út cũng nghĩ như anh Hai… Ba em cũng nghĩ thế… Song suốt đời… và cho đến sau này, mãi tận cuối đời, ổng vẫn cứ ân hận…cứ tự hành hạ mình… cứ như thể ông tự làm khổ mình cho mau chết… Và nếu không phải vì em, thì ổng đã tìm đến cái chết lâu rồi, anh Hai ơi…
-Sao vậy Út? Tôi ngạc nhiên khi nghe câu cuối của Út Thiệt như nghẹn trong nước mắt- Sao lại có ba em ở đây? Sự tích từ xa xưa, mà chắc gì có thật… Út không sao chứ?
-Là em định kể cho anh nghe đây, anh Hai ơi… Cuộc đời của ba e in như trong câu chuyện ấy… Anh Hai bảo chắc gì có thiệt… Vậy mà thiệt đó… Chính ba em mà…
Tôi thoáng chút bàng hoàng. Giọng Út Thiệt vỡ thành tiếng nấc, nghẹn nước mắt…Mặc dù cô chưa kể gì, nhưng cứ đó mà suy, những gì tôi biết về cha con cô mới đây, và các tình tiết éo le bi sầu trong câu chuyện về sự tích núi Bà Đọi, tôi lờ mờ đoán được uẩn khúc cuộc đời của ba Út Thiệt…Và lúc này, tôi không nén được cảm xúc mãnh liệt của mình, tôi choàng ôm lấy cô xiết nhẹ trong vòng tay tôi, và thay vì đặt một cái hôn nồng nàn vào môi cô thì tôi lại nhẹ nhàng đặt cái hôn ấy khẽ chạm vào vầng trán cô. Và hai bàn tay tôi vỗ về an ủi vào đôi bờ vai cô. Xúc cảm xác thịt hừng hực ban nãy biến mất và chỉ còn một niềm thương cảm êm ái, chia sẻ. Tôi như thành một con người khác, và thực tình, tôi cũng không hiểu vì sao tôi lại như vậy?...
 
6.
 Quê gốc em ở miệt Rạch Giá. Xưa kia, gia đình cố nội em rất giàu, có nhiều ruộng đất, tài sản. Nhưng rồi, do sinh chuyện tranh chấp ruộng đất với gia đình vị Hội đồng giàu có và uy lực nhất vùng đó mà nảy sinh mâu thuẫn, kiện tụng nhau liên miên. Để có thể thắng kiện, cố nội em phải bán dần ruộng đất, tài sản. Song rồi, cứ vậy, đâm lao theo lao, thắng kiện chẳng thấy đâu mà ruộng đất tài sản tứ tán gần hết. Uất hận sinh bệnh tật, cố nội em chết, mang theo mối hận. Trước khi chết, cố nội có trăng trối lại cho ông nội em, theo tiếp vụ kiện. Biết là khó thắng được, nhưng là người có hiếu với cha mẹ, muốn làm yên lòng cha dướisuối vàng, ông nội em tiếp tục vụ kiện. Số ruộng đất, tài sản còn lại lần lượt theo chân vụ kiện đi nốt. Vụ kiện kết thúc bi thảm bằng cái chết của ông nội em. Người ta tìm thấy xác ông nội nổi lập lờ trong đồng nước. Có người cho rằng, ông nội phẫn chí bỏ nhà đi lang thang, nhậu say rồi cảm mà chết. Lại có tin đồn là, nhà Hội đồng lén thuê người đánh chết ông nội rồi mang xác quẳng ra đồng nước. Chẳng biết tin vào đâu, nhưng có lẽ bị đánh chết thì có lý hơn. Ông nội em chết đi, để lại bà nội em và cha em khi đó mới lên năm, sáu tuổi gì đó. Và còn một người em gái của cha, con của ông nội em với một người ở đợ, khi đó mới chừng đầy tuổi tôi. Trước đó, người gái ở đó có thai rồi sinh con, thì để lại đứa con gái mới sinh cho ông nội em, rồi bỏ đi biệt tích. Bà nội em nuôi đứa trẻ gái, nhà hiếm con nên thương yêu như con mình đẻ ra. Khi gia đình gặp chuyện chẳng lành, ông nội em chết, bà nội cũng buồn phiền mà sinh bệnh, nằm liệt giường. Biết khó sống được, nhân có một người buôn nước mắm quê mãi miệt U Minh Hạ, Cà Mau, hiếm hoi, nên bà nội em mang đứa con gái cùng cha khác mẹ với ba em cho người ấy nhận làm con nuôi. Trước khi cho đi, bà nội em lấy ra đôi vòng bạc cổ chân của ba em, trên mỗi chiếc có chạm hình một con cá sấu và tên ba em, một đeo vào cổ chân bé gái, chiếc còn lại mang cất kỹ bảo là giữ cho ba em, ý là sau này bà mệnh hệ gì, anh em thất tán thì còn có bằng chứng mà nhận nhau. Bà em cận thận, chú đáo thế đấy, và quả là không thừa cho chuyện về sau. Ba em vốn rất quý người em gái, nên khi buộc phải xa nhau, ba em cứ giữ chặt không cho đi, và hai đứa trẻ khóc dữ lắm. Bà nội cũng khóc nhưng biết làm sao đây. Và sau đấy chưa đầy năm, bà nội em mất. Ba em còn nhỏ dại lắm, nên được anh em họ hàng đùm dúm nhận nuôi…
Ba em lớn lên, vì không có tài sản ruộng đất nên sinh sống bằng đủ các nghê lặt vặt mà ông có thể làm, theo bà con, anh em lang bạt khắp nơi. Trong một lần đi làm ăn ở miệt Bạc Liêu, ba em bị bệnh nặng, may được hai mẹ con một gia đình ở có chăm sóc, thuốc thang, mà qua khỏi. Thời gian chăm ba em bệnh, cô gái và ba em nhanh chóng này sinh mối thiện cảm, rồi thương nhau. Ba em biết cô gái là con nuôi của bà cụ. Người mẹ nuôi khi đó cũng đã cao tuổi, thấy ba em là người mạnh khỏe, có tư chất và tốt bụng nên đồng tình hùn vào cho hai người nên duyện vợ chồng. Em được sinh ra, và lên hai tuổi thì bà ngoại mất. Ba em thương má và bà ngoại em lắm, lại thêm cái ơn cứu mạng, nên ba em đã hứa với bà ngoại trước lúc bà nhắm mắt xuôi tay rằng suốt đời chăm sóc má con em, để bà yên tâm. Cuộc sống gia đình em sẽ yên ấm trong yêu thương đùm bọc lẫn nhau, nếu như không xảy ra một chuyện động trời, sập đất…
Số là, gia đình người buôn bán nước mắm hiếm hoi không có con, khi xin được má em thì ông bà cũng đã nhiều tuổi. Lo có người nhà tìm kiếm xin lại má em, và sau này, khi lớn khôn má em tìm vê quê cũ, nên họ giấu biệt, để má em không biết gì về cha mẹ và quê gốc. Khi ông mất, bà sinh phiền não, và nhân một lần bà yếu lòng, chỉ hé lộ chút xíu đưa cho má em chiếc vòng bạc đeo chân hồi nhỏ, dặn giữ lấy sau này làm kỷ vật. Má em cũng chỉ biết vậy, nâng niu, cất giữ chiếc vòng đó cận thận, coi như dấu ấn duy nhất về nguồn gốc của mình. Lúc lấy má em, thì ba cũng chỉ biết rằng má là con nuôi của bà cụ ở Bạc Liêu mà thôi. Ba em yêu thương má lắm, và ông coi má em là tất cả những gì yêu thương mà ông có được. Với ba em, má là vợ, vừa như em gái, chị gái, thậm chí như mẹ, bởi ổng được tận hưởng tất cả các trạng thái tình cảm và sự săn sóc ấy từ má em… Chính vì vậy, ổng rất ghen. Không muốn cho má em trò chuyện với bất kỳ người đàn ông nào khác. Vì ghen nên tính ông lầm lỳ, cau có, khó tính đến thành vô lý. Có một lần, thấy ổng ghen vô lý, má em bực quá, nói lại vài câu, ổng nổi giận, mất khôn, tát má em một cái. Ổng hối hận ngay, nhưng má em bị bất ngở, thành uất ức, tính bỏ nhà, sang ở nhờ nhà hàng xóm mấy ngày cho bõ tức, với mong muốn ba em thay đổi tâm tính. Song không ngờ, trong lúc giận dỗi, lôi bọc quần áo tư trang, lục lấy chút đồ mang theo, má vô tình làm bung chiếc khăn nhỏ gói đồ tư trang, làm rơi ra chiếc vòng bạc đeo chân. Ba em nhìn thấy chiếc vòng bạc đeo cổ chân thì sững người, và khi ông cầm lên xem kỹ thì thấy rõ chiếc vòng bạc đó được chạm khắc chữ cái tên mình và hình một con cá sấu, hệt như chiếc vòng bạc mà má ông trao cho ông cùng vài lời trăng trối trước lúc bà mất. Ông chết lặng, sụn người và đổ ập xuống. Má em sợ quá, vực ông lên giường, thấy hàm ông cứng lại, hai mắt mở trừng trừng. Lay gọi mãi ba em mới tỉnh, và từ đó, ông hấu như câm lặng. Má em sợ quá, không dám bỏ nhà đi nữa, nhưng cũng không hiểu vì sao ba em lại có phản ứng mãnh liệt đến như thế. Những ngày sau, ba em vật vờ như người mất hồn, má có hỏi gì thì chỉ ầm ừ cho qua chuyện, mà mắt ông luôn nhìn đi đâu, không dám nhìn thẳng vào mắt má em. Ba em bê trễ, chểnh mảng công việc, hay kiếm cở hoặc lẳng lặng bỏ khỏi nhà, đến một nhà ai đó, nhậu say xỉn mới mò về, Và ông không bao giờ ngủ trong buồng chung mùng với má em nữa, mà trải tấm đệm bàng ngủ một mình ở gian ngoài. Má em đau khổ, buồn phiên lắm, nhưng gặng hỏi gì thì ba cũng chỉ qua quýt, nói thác rằng đang mang trọng bệnh trong người, sợ lây sang má em. Rồi một bữa, hai má con em đi chợ về, thì không thấy ba em ở nhà. Cũng chỉ nghĩ là ông bỏ đến nhà ai đó nhậu say xỉn như mấy lần trước. Nhưng đêm áy, không thấy ông về nhà, má em sinh nghi. Lại thêm một ngày đêm nữa, vẫn không thấy ba em trở về, má linh cảm xấu. Khi ấy em còn nhỏ dại, má em gửi em cho bà con trông giùm, khăn gói đi tìm ba em, đôn đáo khắp nơi má biết và đồ đoán, song càng tìm thì ba em vẫn biệt tăm. Má em trở về trong thất vọng nặng nề. Linh cảm mách bảo, má em chợt nhơ tới chiếc vòng bạc đeo cổ chân bữa bà định bỏ nhà đã vô tình làm rơi để ba em thấy, bèn lục rương, mở bọc tư trang, và má em cũng chết sững, không tin vào mắt mình. Hai chiếc vòng bạc giống nhau, má em cầm lên xem kỹ và không phân biệt được chiếc vòng nào là của mình. Vậy ai có thể bỏ thêm một chiếc vòng bạc nữa vào đây thành cặp vòng song sinh, nếu không phải là ba em?... Tại sao ba em lại có chiếc vòng bạc thứ hai giống hệt như chiếc của má em? Nghi ngờ nhanh chóng được giải đáp, khi má em tìm thấy trong bọc tư trang của má bức thư ba viết để lại, nói rõ vì sao ông lại như vậy và quyết bỏ nhà đi biệt xứ…
Dù ngày ấy còn bé, nhưng đến tận giờ em vẫn còn nhớ nỗi đau lòng, thất vọng của má em. Thì ra ba em, nhờ chiếc vòng bạc đeo chân, đã nhận ra, người vợ hiện giờ hàng ngày đầu gối tay ấp của mình lại chính là người em gái cùng cha khác mẹ với ông, đã được cho đi làm con nuôi từ lúc tuổi thôi nôi. Ba em quá đau khổ vì sự thật phũ phàng, thêm mặc cảm tội lỗi, đã quyết bỏ nhà ra đi. Ba em đi đâu, ở đâu, làm gì, má em không rõ. Má em cũng đau lòng lắm, nhưng bả vẫn hy vọng một ngày nào đó, ổng nghĩ lại mà trở về nhà. Rồi một năm, hai năm, ổng vẫn biệt tăm tích. Má em nghĩ ngợi mà sinh bệnh. Cũng thuốc thang chữa chạy đấy, nhưng dường như thuốc chẳng có tác dụng gì, là bệnh ở tâm thì thuốc nào chữa nổi. Và má em qua đời. Người ta bảo má em mất vì tuyệt vọng, mà người tuyệt vọng, không còn chút niềm tin nào vào cuộc sống thì có thuốc tiên cũng thành vô ích…
Má mất, em thành bơ vơ, sống nhờ bà con xóm ấp. Nhưng rồi, ba em trở về. Ba nghe ai đó mách bảo, việc má em sinh bệnh nặng rồi chết, nên ổng vội vàng trở về ngay. Song đâu có yên, ở nhà, ba em lại chịu bao điểu tiếng. Dân xóm ấp đâu có hiểu nguồn cơn câu chuyện, lên tiếng chê trách ba em là kẻ bội bạc. nghí là ổng bỏ mặc vợ con để chạy theo một mụ đàn bà nào đó. Khi ấy, đến em cũng tin là thế. Dù không căm ghét, nhưng em cũng không yêu quý ba. Em nhớ, lúc má còn sống, có hai má con với nhau, em đã nhiều lần hỏi ba đi đâu, thì má đều nói là ba mắc công chuyện lâu ngày, xong việc thì ba về. Lúc má em sắp mất, có dặn em rằng, hãy yêu quý ba vì ổng là người tốt. ba không có lỗi gì, chẳng qua vì bắt buộc mà ổng phải xa nhà thôi. Nhớ lời má dặn, em muốn tin lời má em lắm, thế nhưng thâm tâm em không thể hiểu, nên cũng không thể thương quý ba em được. Ngày nào, ba cũng dắt em ra mộ má em thắp hương, và ổng lầm rầm khấn vái gì đó. Rồi một ngày, ba em thu xếp đồ đạc, dắt em theo, rời bỏ miệt Bạc Liêu về vùng Thất Sơn này sinh sống từ đấy. Ở Thất Sơn, năm nào, cứ vào dịp cuối năm, ba gửi em nhờ người quen giữ giùm, đi vắng đâu đó mấy ngày. Sau này, em mới biết, ba về lại miệt Bạc Liêu chăm mộ và thắp cho má em nén hương...
Em lớn lên trong tình yêu thương của ba. Ổng chiều em lắm, em muốn gì ba em cũng cố làm cho kỳ được, miễn sao em vui. Tình cảm của em với ba có gần gũi hơn, nhưng em vẫn giữ một khoảng cách nhất định. Ba em cũng biết vậy, và ổng không hề trách móc, đòi hỏi gì. Và lạ một điều, khi má em mang bệnh rồi mất, bà con xóm ấp rủa là ba em vì mê gái nên mới bỏ vợ con, nhà cửa chạy theo gái, nhưng sau này, ngần ấy năm sống cùng ba, em chưa hề thấy ổng làm thân, gần gụi với bất kỳ người đàn bà nào khác. Em nghĩ, có lẽ vì ba em hối hận chuyện ngày trước, nên ngại và cố tình xa lánh đàn bà? Cho đến tuổi dậy thì, em vẫn chỉ hiểu lờ mờ là ba má em, giữa hai người có chuyện gì đấy rất hệ trọng, song cụ thể là gì và như thế nào thì không rõ. Và cho đến một lần…
Ba em cùng những người làm than đi săn chơi. Ba em đụng phải một con heo rừng rất to và hung dữ. Ba em bắn mà súng không nổ được. Con heo xông thẳng tới, ba em luống cuống ngã xuống, ổng dùng súng đánh lại, chống đỡ các cú tấn công của con heo rừng. nhung nó vẫn cắn ba em bầm rập cả người. May có chúng bạn ứng cứu, đuổi con lợn rừng đi. Ba em bị thương khá nặng, sung tấy khắp mình mẩy, viêm nhiễm vết thương nên sốt cao lắm. Bạn bè rửa ráy, sát trùng vết thương, đắp lá lẩu theo kinh nghiệm dân gian chữa thương cho ông. Em thương ba lắm, nghĩ ông không qua khỏi. Tự thân, ổng cũng nghĩ vậy. Và có lẽ vì thế, ba em đã kể cho em nghe chuyện bí mật giữa ba má. Em rụng rời chân tay, không muốn tin lời ba kể, rặng chuyện đó là sự thật. Vì như thế, đối với ba má, em là nghiệp chướng. là nỗi đau không thể quên của gia đình em. Em đã khôn lớn để hiểu chuyện đời. Có lúc, em cũng đã từng nghĩ đến cái chết, coi cái chết như một sự giải thoát, và chỉ có như vậy, thì mới giúp cha em giải được nghiệp chướng vô tình ấy. Nhưng rồi, lý chí mách bảo, nếu em chết đi, thì ba em đâu có hết đau, thậm chí còn đau khổ hơn, và ổng cũng sẽ chết theo em thôi...
Từ đấy, em thương ba lắm. Má em mất đi, má đâu có biết nỗi đau đớn của ba em đến mức nào. Em phải thương yêu ba cả phần của má nữa. Cuộc đời em thế nào, em không cần biết, đúng ra là không dám nghĩ, em chỉ biết là phải sống sao để bù đắp cho hết thảy những mất mát, đau lòng mà ba em phải chịu đựng bấy lâu nay. Vậy là đủ… 
 
7.
Chuyện của gia đình Út Thiệt là vậy. Một cảnh ngộ bi thảm hiếm thấy. Tôi đã gạn lọc từ những lời kể lộn xộn, đẫm nước mắt của em để hiểu được tấ cả nững gì xảy ra với gia đình em trong ngần ất năm trời. Kể từ cái đêm ấy, nghe chuyện của em, tôi thấy em bé nhỏ, tội nghiệp, thiệt thòi làm sao và có gì đó thật bất nhẫn. Rồi tôi cảm thấy mình như lớn vổng lên thành người khổng lồ có thể đạp núi, lấp khe vượt qua hết thảy khó khăn, cản trở miễn sao che chở, bảo vệ được em…
Gần một tuần nữa trồi qua. Tôi nóng lòng đợi đến ngày mình không có phiên trực ở bệnh viên, bắt xe ôm vô núi thăm Út Thiệt. Em có nhà, thấy tôi thì mừng lắm, chân tay luýnh quýnh như mượn, cầm gì cũng lóng ngóng chực rơi. Ba Út Thiệt vẫn chưa về. Út Thiệt bảo:
-Ba em nhắn về, đốt thêm hầm than nữa, xong thì xuống núi. Ba em ham việc lắm. Nghỉ ở nhà, dăm bữa không có viêc chi làm là người ổng cứ như cuồng chân tay, dư thừa sưc lực, hay gắt gỏng, sinh chuyện. Chỉ có làm thật nhiều, làm hết sức lực và liên tục thì ba em mới thuần tính. Cứ như ổng sinh ra để làm hết phần việc của mọi người ấy.
Út Thiệt cười. Nụ cười ấm áp và dễ thương làm sao. Em mở radio, bảo tôi:
-Anh Hai ngồi uống trà, nghe chơi, em bận làm cơm, chíu xíu là xong liền à.
Giọng hát một làn điệu Quan họ từ radio trỏng trẻo, quyến rũ, tha thiết làm sao. Bài Ngồi tựa mạn thuyến. Càng nghe, càng nhớ nhà, da diết buồn. Ờ mà cái cô gái trong bài hát ấy mới đam mê, đằm thắm, nhưng cũng sắc sảo đến thành ngẩn ngơ làm sao ấy. Mà cái mạn thuyền đó là mạ thuyền nào nhỉ, thuyền rồng hay thuyền chai đây? Tôi như bị cuốn theo. Như trở lại tuổi thơ đi học sơ tán về quê, theo lũ trẻ trâu đi thả diều tắm sông, bắt cua ốc nướng ăn, đêm về ra sân đình rình các anh chị mới lớn hát chèo vừa ngầm cấu chí, đụng chạm nhau…Những hình ảnh ấy như một cuốn phim sai tốc độ chạy lướt trong đầu tôi...
-Nhớ nhà sao, anh Hai?
Út Thiệt bưng mâm cơm ra, gọi làm tôi bừng tỉnh, rụi mắt cười xòa
-Ừ, nhớ nhà quá. Vào đây hơn năm trời rồi, bận công việc quá nên anh chưa đi phép về thăm nhà được.
- Anh Hai… Giá mà … Út được theo anh Hai ra ngoải… thăm thủ đô… rồi thăm gia đình anh Hai, hí…?
-Ừ hay đó. Năm tới anh xin nghỉ phép ra ngoài đó… Út có dám đi theo anh không?
-Hổng dám đâu- Út Thiệt kêu to – Là em ước vậy thôi, chứ em biết, chừng nào anh Hai dám cho em theo… chừng nào ba em đồng ý vậy…
Thấy Út Thiệt nghẹo đầu cười nhưng xịu mặt buồn ngay đó, tôi cố trêu cho em vui:
-Thì Út cứ đồng ý trước đã, rồi anh em mình sẽ xin ba em đồng ý. Anh sẽ đưa Út về nhà, giới thiệu với ba mẹ anh, với bà con họ hàng… coi như lễ ra mắt gia đình nhà chồng tương lai…
-Hổng dám -Út Thiệt ré lên-Không nghe anh Hai rỡn nữa đâu nghen- Con gái Hà Nội vừa xinh đẹp, vừa giỏi giang, còn em vừa xấu như ma, vừa ngu dốt, sống chui lủi nơi xó núi… ai dám so kè…
-Xinh đẹp, giỏi giang ở đâu thì không biết… anh chỉ biết mình…thương người ở ngay đây thôi…
Tôi nói cứ như đùa vậy, nhưng tình cảm trong lòng tôi lúc ấy thì rất thật. Nhìn nét mặt Út Thiệt, tôi thấy em hạnh phúc xen lẫn lo âu. Em nói như cố tình gạt chuyện đi:
-Đồ ăn nguôi hết cả rồi. Anh em mình rỡn chuyện vậy thôi. Ăn đi anh Hai ơi.
Út Thiệt rót rượu ngâm bao tử nhím của ba cô cho tôi, và tự rót cho mình môt chút. Cụng ly. Tôi uống nhấm nháp chút một, còn em thì nhắm mắt làm một hơi hết luôn. Nhìn Út Thiệt, thấy có gì là lạ, cứ như em đang cần có chút can đảm để làm việc gì đó hệ trọng vậy. Em giục tôi uống hết và tôi chiều theo, bởi chẳng có lý do gì để từ chối, khi mà em cũng đã cạn ly. Cứ như vậy, sau ly thứ ba, thì tôi ngờ ngợ, cảnh giác. Tôi có ý can, nhưng Út Thiệt gạt đi, bảo là em chưa từng say rượu ba giờ. Nghe vậy, tôi có chút ngỡ ngàng, thì ra trước đó, mỗi lần tôi say rượu chắc em nhìn tôi buồn cười lắm. Nghĩ vậy, nhưng men say làm cho tôi bất cần. Cụng leng keng bao lần nữa tôi chẳng rõ, cho đến khi ngà ngà… Tôi nhìn ra ngoài trời, bóng chiều đã xế, hắt lên hẻm núi những sải nắng kỳ quặc… Lơ mơ, lơ mơ, đất trời, rừng núi, nương rãy, sân vườn, cả em và tôi như chìm vào hôn mê…
Tôi không nhớ, tôi và em đã nói những gì trong bữa ăn, chỉ là mớ lộn xộn mơ hồ trong cái đầu váng vất của tôi. Tôi tỉnh dần, mở mắt he hé, định thần, biết mình đang nằm trên giường trong buồng, buông mùng hẳn hoi. Ý thức được, tôi căng mũi hít thứ hương là lạ, quyến rũ. Thôi đúng rồi, tôi đang gối đầu trên chiếc gối của em. Vừa rồi, trong cơn mơ lúc say, tôi thấy xống núi hình con rồng chuyển động, vươn lên trời biến thành con mãng xà khổng lồ, còn tôi, cầm chiếc rìu đốn củi, bay theo, cưỡi lên cổ mãng xà, diều khiển nó, bay trên những ngọn núi, lượn ra xa tít trên đồng lúa, rừng tràm, kinh rạch, theo ý mình. Chợt mãng xà vẫy vùng dữ dội, cố hất tôi văng ra, còn tôi, vung rìu chém lia lịa vào vùng huyệt đạo ở cổ nó. Nó sà xuống mặt đất, vật lộn nhiều vòng, hất tôi văng ra xa. Rồi nó thu nhỏ mình lại như con trăn, luồn lách và chui tụt vào một hẻm núi. Tôi vùng dậy, xách rìu lao theo và bỗng nhiên rơi tõm vào khoảng không đen ngòm. Tay vẫn nắm chắc chiếc rìu, tôi đình thần lần theo ánh sáng lờ mờ lọt vào đáy hang, đến một khoảng rộng thì thấy con mãng xà đang lấy mình quấn chặt một người con gái, trông như hình một nhũ đá. Cô gái bị tóc xoã che hết mặt, nhưng khi cô gái hất mái tóc sang bên, hé lộ khuôn mặt thì tôi sững người…
Cô gái ấy chính là em, Út Thiệt của tôi. Lạ quá. Tôi nhớ lại giấc mơ vừa qua, và bật lên tiếng gọi em… Tôi chưa hết bần thần thì ngay lập tức ấp xuống mặt, xuống đầu cổ tôi một suối tóc… rồi những cái hôn nồng cháy. Mặt tôi ướt đẫm bởi suối tóc còn ướt, và bởi nước mắt người…Tôi mụ mị cả người, thân thể căng lên, nóng bỏng và tan chảy theo dòng vô thức…
-Út Thiệt ơi! Có nhà không đấy?
Cả hai cùng giật bắn người vì tiếng gọi đột ngột và tiếng đập cửa thình thình. Út Thiệt vùng ra khỏi tôi, luống cuống tìm quần áo, run run thì thào:
-Thôi chết… Dì Ba đấy. anh Hai ơi... Anh Hai cứ ở yên trong này… Để mình em ra. 
Út Thiệt đánh tiếng. Hình như dì Ba tự biết cách mở cửa vào nhà, cất giọng oang oang:
-Bây ngủ rồi hả Út? Ngủ chi sớm dậy? Ra đây dì hỏi. Mai dì lên rẫy sớm, có gởi gì cho ba mầy, đưa tao mang giùm cho?...
-Dì Ba à,… con sắp đồ để sẵn trong giỏ xách đây rồi. Tính chút nữa qua bên dì Ba, gởi dì mang lên núi cho ba con… Con thấy người mệt ngả lưng chút, không ngờ ngủ quên mất …
-Ủa, hồi chiều dì thấy cậu Hai bác sĩ có vô đây? Cậu ấy về thị trấn rồi hả con?
-Dạ… Anh Hai bác sĩ có vô đây…hỏi thăm bệnh tình của ba con…Anh Hai…
Út Thiệt lúng túng, ậm ở. Đúng lúc ấy tôi bật lên tiếng ho. Thôi rồi, tôi thấy như trời sập. Dì Ba lên tiếng:
-Cậu Hai bác sĩ còn đây à?
-Dạ, dạ… con mời ảnh ly rượu… Ảnh không quen uống rượu, vài ly nhỏ đã xỉn, đi không vững… Còn vừa đỡ ảnh vào giường trong nằm nghỉ chút… con đang tính kiếm chút lá lẩu, giã lấy nước cho ảnh uống giải rượu, để ảnh về…
-Vậy hả?... Đưa giỏ đồ đây…Có nhắn gì cho ba mầy hông? 
-Dì nói với ba con, làm vừa thôi… Đừng gắng quá sức, kẻo sốt rét nó quật lại thì khốn đó… dì à.
-Ừa… Thôi dì Ba về bển. Ở nhà… nhớ giữ gìn cẩn thận… nghe con… Ngộ nhỡ, chuyện gì… tội nghiệp đó nghe… Có rõ lời di Ba dặn hông, Út?...
Dì Ba nói vậy, nhưng dung dằng mãi rồi mới trở ra sân, miệng lầm bầm như tự nói với chính mình:
-Cái con nhỏ nầy, nói dối cũng không biết đường...
 Căn nhà im ắng. Tôi ra gian ngoài, thấy Út Thiệt ngồi chết lặng, hai tay ôm đầu, mặt cúi gằm. Tôi đặt nhẹ tay lên vai em: 
-Út Thiệt à… anh xin lỗi… Anh thật vô duyên…
-Dì Ba biết rồi… Sao đây, anh Hai?... Hổng biết dì Ba có nói cho ba em hay? Út Thiệt thẫn thờ như người mất hồn. 
-Bây giờ…có lẽ anh phải về thôi… Anh ở lại đây, nếu di Ba biết chuyện, thêm phiền cho em.Anh thật có lỗi…
-Anh Hai không có lỗi gì… là do em… Út thật lòng thương anh Hai, mong có được những lúc ở bên anh Hai như thế này…Bây giờ thì Út hiểu anh Hai cũng thương em thật lòng …- Út Thiệt im lặng, khiến tôi bối rối, chân tay như thừa, còn lưỡi thì rụt lại. Chợt em mạnh mẽ - Anh Hai... Có anh Hai rồi, Út không sợ điều chi cả. Anh Hai không được về lúc này… Sẽ chằng còn khi nào được như đêm nay nữa... Út muốn được gần gũi anh Hai, được anh Hai thương, được anh Hai… 
Em nghẹn lời, nức nở. Lòng tôi tan nát. Tôi ngồi xuống bên em, choàng tay ôm lấy em, ghì đầu em vào lòng mình. Cả hai đều hiểu rằng, đêm nay là đêm của nhau, dành trọn cho nhau, dẫu có đất lở trời nghiêng thì cũng mặc…
8.
Ít ngày sau, tôi trở lại nhà Út Thiệt. Cửa đóng then cài vắng hoe. Chú chó vàng dường như đã quen hơi, thấy tôi, nó không xồ ra sủa, vẫn nằm sân, khễ ve vẩy đuôi ra chiều quen thân, nhưng cũng không mừng quấn quýt như những lần tôi đến mà có em ở nhà. Tôi ngó nghiêng, bần thần, lưỡng lự nên chờ đợi hay ra về? Chợt có tiếng gọi từ nhà bên:
- Cậu Hai vô đấy à?
Thì ra, dì Ba gọi với từ nhà mình sang. Tôi hơi chột dạ, bà này đã biết chuyện giữa mình và Út Thiệt rồi, không khéo sinh phiền đây, đàn bà là hay lắm chuyện, thêm thắt này nọ. Nhưng trái lại với suy đoán của tôi, dì Ba vẫn bình thường, vui vẻ, giải thích,
- Ba con nhà con Út sang bên Bạc Liêu mấy bữa nay rồi. Nghe đâu cha con về bển để sửa sang lại phần mộ của má nó. Bận rộn công việc, vài năm nay không về bển mà…
Thấy tôi có vẻ băn khoăn, như muốn hỏi điều gì, dì Ba bảo:
- Ba con nó nhờ tui coi nhà giùm… À, con Út nó còn nhờ tui là nếu thấy cậu Hai tới, thì nói với cậu Hai là chỉ mấy bữa nữa là nó về thôi. Hôm  nào rảnh, đi chợ thị trấn, nó sẽ vô thăm cậu Hại…
 Tôi nấn ná, ngắm quanh cảnh trước sau căn nhà của cha con Út Thiệt. Con chó vàng đã thân thiện hơn. Nó lẵng nhẵng bám theo chân tôi, ve vẩy đuôi, thỉnh thoảng sủa nhấm nhẳng vu vơ đâu đó. Nó theo chân tôi ra tận ngoài ngõ, đi một quãng, ngoảnh lại, tôi vẫn thấy nó đâu đó đằng sau…Tự nhiên tôi cam thấy thân thiện với nó. Không gặp em, con đường và hẻm núi như hoang vu hơn…
Quả nhiên, mấy hôm sau, khi tôi ở phòng trực bệnh viện về căn phòng trong khu tập thể của mình thì thấy Út Thiệt ngôi đợi ngoài cửa. Em cố nói cười vui vẻ, nhưng tôi vẫn đọc từ nét mặt đến ánh mắt chút gì buồn buồn. Cũng như lần trước, Út Thiệt chuẩn bị sẵn mang ra cho tôi ít khô cá để ăn và khô nai để nhậu. Em chào hỏi vài câu xã giao thông thường, hỏi tôi ăn ở ra sao, tuyệt nhiên không đả động gì đến chuyện của hai chúng tôi. Rồi em loanh quanh dọn dẹp căn phòng của tôi, như công việc của một người vợ tần tảo. Không nén được, tôi ướm:
- Thế ba em… đã biết chuyện của chúng mình chưa?
- Em hổng rõ… Vẫn thấy ba em bình thường như nọi khi…cũng không nói năng, mắng mỏ gì em cả…
- Hay là… ba em chưa biết chuyện. Cũng có thể, hôm ấy, dì Ba cũng chỉ ngờ ngợ thôi nên không nói gì với ba em? Hôm rồi, anh đến nhà em, có gặp dì Ba, dì ấy cũng nói chuyện vui vẻ, bình thường mà… không thấy nhắc gì đến chuyện đêm nọ… Nhưng mà,…
- Chi, anh Hai?...
- Anh tính… hôm nào anh sẽ chủ động thưa chuyện với ba em về tình cảm của chúng mình… Nếu ba em không phản đối, anh sẽ nhờ bác giám đốc bệnh viện của anh, thay mặt cơ quan và gia đình anh, đến đặt vấn đề với gia đình em? Vì gia đình anh mãi ngoãi Bắc, xa xôi nên đành thế trước đã?...
- Đừng…anh Hai. –Út Thiệt lắc đầu quầy quậy- Lúc này, ba em đang rối bời… không phải chuyện của anh em mình đâu, mà là chuyện của ổng… Anh biết dì Ba nhà bên rồi đó… lâu nay bả thương yêu ba em… Ba em hình như cũng cảm động, nhưng không rõ ổng có thương bả không? …Song từ ngày má em mất đi, em lớn lên ngần ấy năm, tuyệt nhiên không thấy ba em để tâm đến bất cứ người đàn bà nào nữa… Nay ba em cao tuổi, kể ra, cũng nên có người chăm sóc… Với lại, dì Ba cũng là người tốt, bả khổ lắm, đời chồng trước của bả chẳng ra gì, lão ta thường say xỉn, chửi nhiếc, đánh đập bả thâm tím cả người, may cho bả là lão ta lăn đùng ra chết trước… Trước đây, biết chuyện dì Ba thương ba em, em ngầm đồng tình… là bởi, em lo, khi em đi lấy chổng, ba em sẽ cô đơn, nên cần có người đỡ đần ba em, chăm sóc ổng, làm nơi cho ổng nương tựa… Ổng mạnh mẽ vậy, nhưng thực ra cũng yếu đuối lắm… Mấy hôm theo ba em sang Bạc Liêu, em có rỉ rả với ổng chuyện này, nhưng ổng chỉ ậm ờ, chưa biết rồi sẽ ra sao? …Em có thắp hương cho má, khấn vái xin với má tha lỗi ba em, để ba lấy dì Ba,… và còn khấn xin má cho cả em… Nhưng giờ, thì tùy duyên phận… em thấy cũng không cần nữa… Có gì, em sẽ ở cùng ba em, chăm sóc cho ổng…
Út Thiệt rân rấn nước mắt. Tôi lựa lời an ủi và đồng ý với em là để thư thư mới thưa với ba em chuyện của hai đứa. Em chào đòi về, chợt nhớ ra, bảo:
- À... Ba em nhắn anh Hai, nói là chủ nhật này, nếu anh Hai rảnh thì vô nhà em ổng muốn rủ anh Hai cùng mấy người bạn làm than của ổng, lên núi săn một chuyến, cho biết đó…
Nghe Út Thiệt nói, tôi vui lắm, nhận lời, cố gắng thu xếp công việc, đổi ca trực miễn sao được tham gia buổi đi săn. Chưa từng biết đi săn là thế nào, nhưng đọc sách, nghe kể chuyện về săn bắn, tôi thích lắm.
 Tôi đến y hẹn, Nước nôi, xã giao qua quýt, ba Út Thiệt lấy súng săn khoác lên vai, giục đi. Tôi hỏi những người đi săn cùng đâu thì ông bảo họ ở sẵn trên núi rồi, vì họ còn phải trông coi lán chứa than nữa. Khi hai người ra đến đường, chợt ông bảo tôi dừng đợi ông chút vì ông phải quay vào dặn dò con gái gì đó. Vừa nói với con gái, ông vừa hất đầu về phía tôi đứng, còn Út Thiệt chỉ thấy cúi đầu, khẽ gật ra chiều vâng lời. Lúc ông quay lung đi ra cổng, em ngẩng đầu tìm mắt tôi. Ánh mắt tôi và em gặp nhau, chỉ thoáng thôi, nhưng tôi đọc được ở em sự cô đơn, u buồn, da diết, bất lực và có gì đó ám ảnh… Tôi như bị đóng đinh chặt xuống đất bởi một luông điện nội sinh đánh nhoằng từ đỉnh đầu theo dọc sống lung xuống chân vào đất, người ớn lạnh ròi nóng bừng lên …
Leo trèo một hồi, mệt vã mồ hôi hột, tôi cố bám theo ông để không bị rớt lại, mới tới được lán chứa than ở mãi sườn núi bên kia. Thấy ở đó hai người đàn ông, vẻ ngoài đều ít tuổi hơn ba Út Thiệt. Tôi chào thì họ chỉ gật đầu khẽ mỉm cười đáp lễ, nhưng gương mặt thì vẫn lạnh lìng, thản nhiên như không. Ba Út Thiệt hỏi:
- Chuẩn bị xong chưa, mấy chú?
- Rồi… chỉ chờ anh Tư đến…
Tôi hiểu, anh Tư ở đây là ba Út Thiệt. Ba người trao đổi với nhau bằng khẩu ngữ địa phương, cộc lốc, tôi nghe chỉ hiểu loáng thoáng. Khi thấy hai người kia bưng ra đồ nhậu và một sũ sành rượu, tôi ngạc nhiên, vì cứ tưởng mọi người chuẩn bị xong đồ nghề đi săn, chứ không phải đồ nhậu. Mọi người tuần tự ngồi xuống chiếc chiếu bàng bày đồ nhậu, ba Út Thiệt bảo tôi:
- Cậu Hai dô đi. Nhậu bậy miếng cho vui… Mùa này không phải là mùa săn đâu, để khi khác vậy… Tôi nói vầy… là muốn có cớ riêng để đôi ba câu chuyện với cậu Hai đây…
 - Dạ… Chú… chú Tư có chuyện gì hỏi cháu ạ?...Tôi nhói ở tim, chột dạ, nhẩm bụng, chắc ông già biết chuyện rồi, bày cớ để hỏi tội mình đây – Thâm tâm, tôi thấy lo thật sự, nhưng cố trấn tĩnh, tự biện hộ rằng mình thương yêu Út Thiệt, cô con gái cưng của ông thật lòng, chứ không phải là kẻ chơi bời, lợi dụng, tán gái lăng nhăng. Và nếu, cần để xử lý mình vì cho là mình tội nọ kia thì ông cũng đâu cần phải đưa mình lên tận đây với mấy người hỗ trợ thế này?- Tôi cố làm ra cứng cỏi- Con sẵn sàng nghe chú Tư dạy bảo ạ…
 - Hừ…Tôi đâu có tư cách chi mà dám dạy bảo cậu Hai... Ly đây… Cậu Hai là người nhỏ tuổi nhất ở đây, phiền cậu rót rượu ra ly đi.
Ông đưa cho tôi chiếc ly duy nhất. Tôi lóng ngóng rót đầy, bưng hai tay để trước mặt ông.
- Con kính chú Tư!...
Ông không khách khí, cầm ly lên ngửa cổ làm một hơi cạn sạch, trả ly lại cho tôi, bảo:
- Các chú và cậu Hai theo thứ tự dô đi.
  Theo phong tục của người Nam Bộ, tôi hiểu đây là mệnh lệnh, nên đến lượt mình, tôi cố bình thản một hơi cạn ly, uống sao cho không để sặc, dù chất rượu trong miệng và cổ họng tôi đắng như bọ nẹt. Chờ tôi uống xong, ba Út Thiệt hắng giọng:
- Có hai chú em đây làm chứng, cậu Hai phải trả lời tui thành thật nghe…-Ông húng hắng ho mấy tiếng, ừa à mãi vẫn không thành lời, làm tôi càng hồi hộp-…Tui đã đã biết chuyện của cậu Hai với con Út nhà tui… Cậu Hai làm như thế là không phải rồi đó…Thương nhau thì tui không cấm, nhưng không được làm cái chuyện bậy bạ đó… khi chưa cười hỏi gì… Con gái tui, nó dại dột… Đáng ra, là người có học, hiểu biết lẽ đờì, cậu Hai phải thay tui dạy dỗ, bảo ban nó chớ… Đằng này…
-Thưa chú Tư… thưa mấy chú. Chàu và Út Thiệt thương yêu nhau thật lòng… chúng cháu còn trẻ nên dại dột, nhưng tình cảm của cháu chân thành… Cháu đã nói với em Út, xin được thưa chuyện với chú Tư, rồi nhờ cơ quan cháu đến gặp gia đình ta xin phép cho hai đứa chúng cháu được quan hệ lâu dài, để đi đến hôn nhân… Thế nhưng, em Út chưa đồng ý việc này, bảo là để thư thư đã… Nhân đây, chú đã hỏi chuyện, thưa chú Tư… cháu xin phép được…
- Không! Không được -Ông ngắt lời tôi, không cho tôi dài dòng thưa gửi gì hết -Cậu Hai nói hay lắm, nhưng tui không tin… Con Út nhà tui nghèo hèn, vô học, không xứng với người có học như cậu Hai… Lấy nhau, nó mang bụng bầu, rồi sanh vài ba đứa con, người ngợm bèo nhèo lôi thôi, rồi cậu Hai có còn thương nó hông? Hay cậu Hai chán chường mà bỏ nó à?... Thiệt tình, con Út nhà này chỉ nên lấy những người làm than, mần rãy như tụi tui đây…
Tôi nói nhiều lắm. Không hiểu sao đầu óc tôi tỉnh táo lạ thường và tôi cố gắng dùng mọi lời lẽ để thuyết phục, nhưng vô ích, ông già nhất định không nghe. Hồi lâu, ông nổi cáu, dường như để chấm dứt sự lải nhải của tôi, hoặc đã có chủ động trước, ông tợp nhanh một ngụm rượu, đứng phắt lên, vớ lấy cây súng săn treo trên vách lán, lên đạn đánh rốp, rồi đặt ngay xuống giữa chiếu nhậu.
-Thôi, đủ rồi!... Ông dằn giọng- Với cái tội của cậu, đáng lý tôi có thể xử theo luật của những người đi săn, làm than trên núi này, là cho cậu một phát đạn… Vì cái tội gì, cậu biết không?... Ấy là cái tội không xin phép, vẫn lấy đi những thứ… của người khác…- Vì nể cái ơn cậu chữa bệnh cứu mạng tui… Tui biết, nếu tui bắn chết cậu thì con Út cả đời này nó sẽ không tha thứ cho tui… Cậu có biết là vì sao hông? Là vì...vì nó thương yêu cậu hơn thương tui, ba nó… còn hơn cả chính nó…- Mắt ông đẫm nước, cố nuốt khan cục giận, xẵng giọng- Tui tha cho cậu đó… Có hai chú ở đây làm chứng… Tui tha….
Tôi chuyển từ nỗi sợ hãi sang cảm động, cảm thông với ông, nhưng tôi đau thắt lòng vì biết mình sẽ mất em vĩnh viễn. Sẽ chẳng còn có gì nữa giữa tôi với em, khi ba em kiên quyết như vậy. Song tôi cố cứu vãn tình thế, đứng lên, nhìn mọi người khắp lượt như cầu cứu.
        - Một lần nữa… cháu xin chú Tư… cho cháu và em Út Thiệt được gắn bó với nhau...
- Đi đi! - Ông gầm lên ghìm trong họng, chạm tay vào khẩu súng, mắt long lên - Cậu đi mau đi, kẻo tui đổi ý!...
Tôi tê tái, cúi đầu lặng lẽ chui ra khỏi lán trại. Ra bên ngoài, tôi liếc nhanh vào trong, thấy hai người bạn làm than với ông im lặng nhấp rượu. Còn ba Út Thiệt, đầu cúi gắm, vai rung lên, nức nở. Ông khóc… 
Tôi đi như người mộng du, vô định, bước thấp bước cao, phập phõm, mấy lần vấp ngã, xước cả chân tay mặt mày. Xuống gần tời chân núi, nơi có lối rẽ vào sóc Khmer, tôi suýt đâm sầm vào một người. Cả hai đều giật mình, định thần, nhận ra nhau. Đó là Chau Khon, người bạn Khmer của Út Thiệt, mà cách đây không lâu, tôi còn cùng em vào tận sóc người bạn này ăn tết cổ truyền với gia đình họ, và đươc nghe câu chuyện tình duyên trắc trở của anh ta với cô nàng Neang Hên. Nhận ra tôi, chàng ta nắm chặt tay tôi xiết mạnh đau nhới, hồn nhiên bảo:
-Anh Hai ơi… Tui quên chưa báo cho Út Thiệt biết, nhưng giờ tình cờ gặp anh Hai ở đây, báo để anh Hai và Út Thiệt vui, mừng cho chuyện của tụi tui êm đẹp rồi. Khi nào cưới, tui sẽ gừi Út Thiệt và anh Hai thiệp mời… Nhất định hai người phải đến dự đám cưới của tụi tui đấy.
Chau Khon cười thật tươi, khuôn mặt rạng rỡ, ánh mắt đầy niềm vui, chứa chan hạnh phúc. Chắc là lúc ấy mặt tôi nhìn ngơ ngác, thiểu não lắm, khiến cậu ta nhận ra, thôi cười, hỏi:
-Ủa, bộ anh Hai bệnh sao?... Mặt anh Hai tái nhợt đi, lại có mấy vết xước nữa?...
-Ừ… Tôi nhăn nhó-Có lẽ tôi bị sốt rét….Mấy bữa rồi tôi theo chú Tư, ba Út Thiệt lên rãy làm than… không may bị…
-Anh Hai là bác sĩ… chắc biết cách chữa trị… Nhưng giờ anh Hai đang mệt… đường về còn xa, nên ghé vô nhà Út Thiệt nghỉ chút… Anh Hai có mệt lắm hông? Hay để tui đưa anh Hai về?...
Tôi gạt phắt. Cảm ơn Chau Khon và giục cậu ta cứ đi công chuyện của mình, tôi tự lo được. Chia tay nhau, cậu ta cứ nhắc đi nhắc lại là thế nào tôi và Út Thiệt cũng phải thu xếp đến dự đám cưới của họ. Chau Khon còn không quên hỏi, xem đến chừng nào thì tôi và Út Thiệt làm đám cưới. Tôi cố làm vui, cười như mếu. Đợi cho câu ta đi một quâng xa, dường quá sức chịu đựng, tôi mệt mỏi ngồi bệt xuống một tảng đá ven đường, thở dốc. Nhìn dáng vẻ Chau Khon vừa đi vừa vung vẩy con dao đi rừng, thoăn thoắt lên dốc núi, thỉnh thoảng lại dừng, hét lên một tiếng vang động cả hẻm núi vì cảm xúc hạnh phúc, tôi thấy thèm. Giá như lúc này, tôi cũng thét lên tiếng gọi hoang dã như tổ tiên tôi thời nguyên thủy mỗi khi săn được con mồi, hay mỗi khi có đôi!...
 
9.
Dễ chừng, cả tháng dài lê thê, nặng nề và u ám. Tôi sống vật vờ, vẫn ăn, vẫn ngủ, vẫn trực ca ở bệnh viện. Tôi thấy may mắn làm sao khi mình đã không gây ra sự cố đáng tiếc nào cho người bệnh. Tôi sống bằng tiềm thức, mà đã là tiềm thức thì hơn cơn vật là mấy. Buồn cười là, có những lúc khám bệnh cho bệnh nhân nữ nào đó, tôi ao ước người bệnh đó là em, để tôi được gần gũi, chăm sóc, nâng niu. Nhưng khi ý thức được điều đó là không thể, tự dưng tôi lại nảy sinh ý nghĩ nanh ác là tiêm cho người bệnh ấy vài mũi tiêm nước cất, vô hại thôi, song người bệnh sẽ đau đớn. Rồi tôi tự thấy hổ thẹn với ý nghĩ muốn hành hạ người khác của mình. Dường như, tôi cố nghĩ ra một thứ gì đó để trút giận, để xoa dịu nỗi đau của mình? Sự thất vọng, ê chề vô tình đã biến tôi thành một con người khác. May sao, mọi thứ đều ở trong ý nghĩ!...
Tôi chủ động, cáo ốm, xin bệnh viện cho nghỉ vài ngày. Thực lòng, đi làm, tôi lo mình dễ sa sảy điều gi. Ở nhà, ngủ, ngồi, đi đứng, vẫn không yên. Tôi lang thang đến nhà mấy người quen, lân la kiếm chuyện trò này nọ cho quên đi, v à nếu được ai đó mời mọc, tôi sẵn sàng lao vào cuộc nhậu hết mình...
Vừa mới đó, tôi bỗng thành một bợm nhậu. Một hôm nhậu say, tôi lảo đảo về nhà, cứ nhằm cây cột điện bên đường làm đích, dăm chục mét một, bốn lần như vậy cũng về đến nơi. Lăn ra giường lịm đi, tỉnh dậy nôn thốc nôn tháo, mệt tưởng chết đi được. Tôi mơ màng tỉnh thức thì chợt thấy nước. Nước mát trên mặt, trên cổ rồi chảy tràn xuống ngực. Ô hô, tôi đang đứng dưới thác nước đổ tử đỉnh núi Rồng, mát rượi, sung sướng thay. Tôi ngửa mặt nhìn lên, muôn vàn tia nước li ti tung tóe, khiến tôi phải nhắm nghiền mắt lại vì sợ… Bỗng tôi không nghe thấy tiếng thác nước dội nữa. Im lặng. Tôi nghe ngóng và từ từ hé mở mắt… Một khuôn mặt con gái chập chờn, ghé sát mặt tôi. Hai, ba khuôn mặt nhập nhòa, rồi từ từ chập lại. Ai đây? … Thôi đúng là em rồi… Tôi há miệng, gọi nhưng giọng khé lại không thành lời…
       Mấy cái tát nhẹ vào hai bên má. Rồi cũng bàn tay đó xoa xoa trán, và day day lồng ngực tôi…
- Thư… Thư đấy à?... Em về từ bao giờ?...
- Anh Hai tỉnh chưa?...Nhậu quá trời!... Thư cau có, vẻ trách móc.
Thì ra, tháy tôi trong trạng thái sống dở chết dở như vậy, Thư đã dùng khăn mặt ướt lau mặt, cổ và người cho tôi tỉnh. Tôi định ngồi dậy, nhưng đầu choáng váng, mệt rã rời. Thư đỡ tôi nằm xuống.
- Anh Hai nằm nghỉ chút nữa đi. Để em mua cho anh Hai ly chanh đá uống cho tỉnh.
Thư nói rồi đi luôn, lát sau trở về đưa tôi bịch đá chanh. Rồi cô xắn tay áo, bê chậu nôn đi đổ, lau dọn nhà cửa. Tôi đã tỉnh, nhưng vẫn nằm im, vở nhắm mắt. ngầm quan sát Thư. Cô vừa làm, vừa khe khẽ ca một điệu vọng cổ. Ừ, mà ở đây, có ai tốt hơn, quan tâm và chăm sóc mình hơn Thư đâu. Người trông cũng được, song phải cái tính đành hanh, hiếu thắng, miệng lưỡi thi sắc lẻm. Tính khí thế, đàn ông gần bên dễ cảm thấy lép về hơn, khó mà chịu nổi. Mà sao cô ta lại quan tâm, săn đón và tử tế với mình vậy, khi biết mình yêu thích người đàn bà khác?...
Xong việc, Thư dựng tôi dậy, như người chị gái chăm chút cho người em trai mình, cô mắng yêu:
- Ông mãnh, trông người ngợm ghê chết đi được… Mới sểnh tay tui có hơn tháng nay mà trông đã như người rừng… - Thư vờ nghiêm- Này, anh Hai… có nghe rõ hông?...- Là em còn tha cho cái tội, vừa nãy, nhìn em nhưng miệng lại kêu tên người khác… Rõ ghét!...
Thư mắng mỏ bằng sự hờn giận đầy yêu thương. Tôi không thấy bực như mọi khi, lòng vui vui vì mình vẫn được quan tâm. Có chút hung phần, tôi nở một nụ cười ngô nghê. Thư hoành hành thêm chập nữa, rồi bỏ đi, khi quay trở lại, cô bưng trên tay tô cháo gà nóng nghi ngút. Thư ép tôi ăn, thiếu như bón từng thìa. Dù còn mệt, ăn chưa ngon miệng, nhưng chiều lòng Thư nên tôi cố nuốt.
Chủ nhật ngay sau đó, Thư về thăm nhà, cách thị trấn gần chục cây số. Cô năn nỉ rủ tôi về cùng. Tôi kiếm cớ từ chối, bảo để lần sau. Thư bực mình đây đảy một hồi rồi mới chịu đi một mình. Thực tình, tôi cũng quý Thư, nhưng chỉ xem là sự quý mến với tư cách là đồng nghiệp với nhau, hơn nữa thì cũng chỉ như một cô em gái. Thế nên, tôi chưa muốn xuất hiện ở nhà cô, vì lo ngại ba má cô hiểu lầm tôi là bạn trai, người yêu của cô. Khi Thư đi rồi, ngồi buồn, tôi lôi một cuốn sách viết về lịch sử, địa ly vùng đất Nam Bộ ra đọc, nhưng chữ nghĩa bay đâu khỏi tầm mắt.. Ngầm nghĩ, ừ mà sao mình không thử đến nhà Út Thiệt một lần nữa xem sao nhỉ? Mình đâu phải là người hèn nhát, kẻ xấu xa hay tội đồ, trốn tránh trách nhiệm, chối bỏ việc mình đã làm. Và nữa, mình cũng đâu có sợ ba Út Thiệt mặc dù ông đã giơ súng đe dọa…
Nghĩ vậy, tôi quyết định ngay. Tôi đến nhà một người bạn, mượn xe máy đi cho nhanh. Dọc đường, tôi mường tượng ra cảnh sẽ gặp lại ba con Út Thiệt thế nào, và họ đối xử với tôi ra sao? Tôi còn nhẩm nghĩ ra những câu hội thoại mà tôi trù tính có thể xảy ra. Tóm lại, phóng xe trên đường mà tôi cứ ám ảnh trong đầu những kịch bản gặp lại, từ tốt đến xấu nhất… Đến lối rẽ vào chân rãy, tim tôi như thắt lại, hồi hộp, lo lắng…
Nhà của em kia rồi. Tôi dừng xe, chống chân, lưỡng lự nên vào nhà hay quay xe trở về?... Nhưng nhìn kỹ lại, căn nhà như thể bỏ không? Máu dồn lên mặt, quên hết, tôi ào xe vào trong sân. Bỏ xe, tôi lao ngay vào nhà. Đẩy cửa, nhưng không được. Cửa nhà được đóng chốt lại cẩn thận, kiểu nhà không có người ở. Ba con em đi đâu rồi, tôi thảng thốt đờ cả người. Thôi đúng rồi, không thấy con chó vàng xồ ra như mọi khi, và trong sân vườn cũng không thấy bóng dáng con gà con heo nào. Tôi làm lũi đi vòng quanh căn nhà lá vài lần, đưa tay khẽ đẩy thử tấm phên che cửa sổ. Cũng bị đóng chặt. Tôi trở lại sân trước, ra cổng ngóng lối ngõ, rồi vòng mãi ra rãy sắn kế bên. Tất cả đều hoang vắng, không một bóng người. Lẩn quẩn, quan sát kỹ, nhận thấy những thân sắn, và đám rễ củ nhỏ bỏ lại vương vãi trong sân còn chưa mấy khô. Tôi nghĩ, hay cha con Út Thiệt lên rẫy, nơi có lán trại làm than tôi từng đến hôm nào? Nếu vậy, cùng lắm dăm ba buổi cha con cô sẽ về nhà thôi. Sao đây, mình có nên gửi xe để lên núi tìm cha con cô hay quay về, ít lâu sau trở lại? Tôi băn khoăn tự hỏi mình. Tôi phân vân, mải nghĩ, chợt giật mình, sững người, đột ngột phát hiện dì Ba đứng cạnh chiếc xe máy từ lúc nào.
- Dì Ba… Con chào dì…
- Bộ cậu Hai… tính gặp ba con nhà con Út sao?...
    - Dạ… con muốn gặp… để thưa lại chuyện của con với Út Thiệt… nhưng mà, nhà đi đâu cả rồi… dì Ba?
- Đứng đây nói chuyện không tiện… Nếu cậu Hai rảnh, thì qua bên nhà tui, uống miếng nước, rồi hỏi gì thì hỏi… Nhưng mà, tui cũng chỉ biết chút chút thôi, cậu Hai à… 
 Ngồi trong căn nhà lá của dì Ba, nhìn kỹ thấy căn nhà này tuềnh toàng quá và chỉ hơn cái lều củi chút ít. Đồ đạc cũng sơ sài, trống rỗng, cô quạnh.
- Dì Ba… sống ở đây có một mình sao?...
- Ừa… Cậu Hai giờ mới biết hả? …Tui tưởng con Út nói cho cậu Hai biết rồi chớ? … Vợ chồng tui thôi nhau… Thằng lớn ở với ba nó, còn con nhỏ ở với tui… Nhưng nó đi lấy chồng vài năm nay rồi. Bữa nọ, con nhỏ sanh con đầu lòng, tui qua bển giúp nó chăm cháu… Khi về lại nhà, qua đây. thấy cha con nhà con Út bỏ đi mất rồi…- Dì Ba lau nước mắt, nghẹn lời- Rõ khổ!... Cuộc đời ba con nhà ổng sao cơ khổ!... Còn đi đâu nữa cho đời thêm cực?... Ổng già rồi, còn con nhỏ thì phải lấy chồng chớ. Cứ nay đây mai đó với thiên hạ… biết tính sao?...
Thấy đì Ba khóc, tôi cũng rân rấn nước mắt, thở dài…
- Tui nói vầy, cậu Hại đừng có giận… Tất cả tại cậu Hai đấy. Nếu không có chuyện cậu Hai đến đây, rồi quen và thương con Út, thì cuộc sống của cha con ổng đâu đến nỗi này, mà phải bỏ đi nơi khác sống!?...Trời xui đất khiến làm sao… bữa ấy, tui lại tìm mời cậu Hai vô đây chữa bệnh cho ổng chớ?... Di Ba rên rẩm, bứt rứt…
- Dì Ba đâu có lỗi gì…Lỗi là ở con…Nhưng mà, con đâu có muốn thế… Thực lòng, con thương em Út Thiệt… con muốn xin với chú Tư cho con được cưới em Út… song chú Tư nhất mực không chịu… Tại sao lại như vậy, dì Ba?...
- Là ổng lo sợ cậu Hai là người có học, đi đây đó, quê mãi ngoài kia, chỉ say mê nhất thời thế thôi… Sợ cậu Hai bỏ rơi con Út Thiệt… Tui có nói, nhưng ổng nhất định giữ ý mình… Tính ổng vậy, một lời như dao chém đá, đến chết cũng không thay…- Dì Ba sụt sịt- Cũng tại cả tui nữa… Sau cái bữa, tui bắt gặp con Út với cậu Hai ở chung nhà… tui lại đi nói cho ổng biết… Thiệt tình, tui cũng chỉ nói bóng gió, hình như là hai đứa thương nhau thôi… Rồi ổng đùng đùng nổi giận, tra khảo con Út… và nó đã thú thiệt hết với ổng… Vậy mới có chuyện ổng dọa và đe bắn cậu Hai… rồi cha con ổng bỏ đi…- Dì Ba nghẹn lời,khóc…
- Thì ra… Út Thiệt cũng biết rõ chuyện chú Tư vờ rủ con đi săn… mướn cớ đe dọa con, bắt con và em Út phải thôi nhau, sao dì Ba?
Này cậu Hai… đừng nghĩ oan cho con Út mà tội nghiệp nó… Nó thương yêu cậu lắm… nó hổng biết chi về chuyện đó trước đâu, cậu Hai ơi… Nó cũng như cậu thôi… nghĩ ổng thân thiện rủ cậu đi săn… Ai dè, ông âm thầm tính toán làm chuyện ấy với cậu… Thiệt tội tình cho cha con ổng… Giờ hổng biết cha con phiêu dạt phương nào?...
Dì Ba hết thở dài rồi nức nở. Tôi chợt nhớ, đã có lần Út Thiệt tiết lộ chuyện tình cảm của dì Ba với ba em, nên tôi hiểu nỗi đau của dì Ba cũng đâu kém gì tôi, và hiểu sự chua xót của những giọt nước này…
- Dì Ba… vì sao ba con Út Thiệt lại bỏ đi, hả dì? Cứ cho là, chú Tư không chấp nhận chuyện tình cảm của con với em Út,…nhưng còn của ổng? …Con có biết dì Ba và ổng cũng tội nghiệp cảnh ngộ của nhau mà… hai người còn tính sống chung nữa, dì Ba?…
- Hết cả rồi… Cậu Hai ơi… Dì Ba ngước nhìn tôi, khóc sầu não hơn…Đời tui có còn gì đâu,…Lúc già tưởng gặp được người tử tế…tính nương tựa vào nhau cho đến cuối đời… Đâu ngờ, người tính không bằng trời tính... ông trời không thương nên chẳng cho… Vậy mới sinh chuyện bày đặt tai ác để chia lìa con người ta…
Dì Ba nức nở, kể lể, than vãn mãi, Tôi tê dại, chẳng cảm giác được gì. Chỉ biết, có hai con người, một già một trẻ cùng chết lặng trong căn lều tuềnh toàng, một người nước mắt chảy ràn rụa trên mặt, một người nước mắt ngầm vào trong, đều xót xa, thương cho người mình yêu, tủi cho thân phận bạc bẽo, bẽ bàng…
Lặng đi hồi lâu. Tôi gắng gượng nói những lời an ủi, cho dì Ba ư, không, là cho chính bản thân… Tôi cáo lui, Đứng tần ngần trên mảnh sân con con sỏi đá lẫn với cỏ dại, lổn nhổn, tâm thần vô định…
- Cậu Hai ơi… Tui quên, con Út có gởi tui một bức thơ cho cậu Hai đây nè… - Dì Ba móc túi áo bà ba lấy đưa tôi mảnh giấy xé vội từ một cuốn vở học trò gấp tư, bảo – Chắc con Út nó ném qua cửa sổ vào nhà cho tui… Tui đọc không nổi, nhưng nghĩ là nó nhờ tui chuyển cho cậu Hai… Cậu đọc mau đi, xem ba con nó nói gì … Liệu có biết ba con nó đi phương nào hông?
Tôi hồi hộp mở thư, đọc lướt nhanh một lượt, Út Thiệt giải thích lý do vì sao cha con emphải bỏ đi nơi khác, xin lỗi tôi và hẹn gặp lại nhau ở kiếp sau.
- Dì Ba à… không thấy nói đi đâu cả…-Tôi buồn rầu,
- Vậy à?...- Dì Ba thở dài đánh sượt, lau mước mắt- Hôm rồi, tui xuống thị trấn, lân la hỏi chuyện… Có người quen nói rằng, thấy cha con ổng xuống một chiếc tắc-ráng theo kinh Tám Ngàn, chạy xuyên đồng tram về hướng Hòn Đất, Kiên Lương, Rạch Giá chi đó… Lại nghe đâu, ổng đã tích cóp tiền bán than, nhượng lại mấy rãy khoai mì.. lấy tiềm sắm chiếc tắc-ráng này… chắc về lại quê bển, làm nghề chở thuê, hay thương hồ chi đó?...
- Vậy là… mình có cơ hội tìm được ba con Út Thiệt không, di Ba?
- Ừa… cậu Hai còn trẻ tuổi, còn sống lâu…lại đi đây đó… Nếu không tìm lại được con Út thì cậu còn có người khác… chớ tui… già rồi, lại sống nơi hẻm núi nầy…Thế là hết rồi… cậu Hai ơi!...
Dì Ba không buồn nhìn tôi, lặng lẽ đi vô nhà, khép cửa lại. Im lặng. Tôi lắng nghe, chỉ thấy tiếng nức nở…
Qua nhiều lần di chuyển nơi ở, nơi làm việc, đến nay, tôi không còn giữ được mảnh giấy Út Thiệt viết cho tôi, nhưng tôi vẫn nhớ và hình dung được tùng nét chữ của em…
Anh Hai thương,
Anh Hai ơi, khi anh nhân được lá thơ nầy thì em đã xa anh Hai rồi. Cùng không rõ ba em đưa đi đâu. Út không hận gì anh Hai, cũng không hối tiếc gì vì đã thương anh Hai như vầy. Em là người có lỗi, vì đã không giữ được lời hứa với anh Hai. Thương anh Hai nhiều lắm, nhưng em cũng thương ba em thiệt nhiều. Cuộc đời ba em đã khổ lắm rồi, nên em không muốn làm ba em khổ thêm nữa. Em đành chiều theo ý ba. Mong anh Hai đừng oán trách gì ba em mà tội nghiệp cho ổng.
Em biết chắc là… em chỉ tiếc đã không lưu giữ được chút gì… Giá như, em có với anh Hai… thì mai sau em sẽ nói với con… rằng ba nó là người tốt nhất trên đời… và má nó yêu thương ba nó vô cùng…
Thương anh. Hẹn gặp lại anh Hai ở kiếp sau.
Út Thiệt.
Tái thơ: Em quên, em không biết chuyện ba em dọa bắn anh Hai. Sau ba em nói, em mới hay. Ổng còn nói em nhắn với anh Hai là, đừng vì chuyện đó mà thù hận con nhỏ, tội nghiệp cho nó quá.
Thâm tâm, tôi tự hổ thẹn với mình, bởi tôi không phải là người tốt nhất trên đời, như em nghĩ. Út Thiệt ơi, giờ em đang ở đâu? Em có còn nhớ đến tôi?
Tại sao, tôi không là khách thương hồ đi cùng em trên chuyến đò dọc của cuộc đời này???....
Nguyễn Chu Nhạc
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tinh thần hiện pháp lạc trú trong thơ đương đại Việt Nam

Tinh thần hiện pháp lạc trú trong thơ đương đại Việt Nam Có thể nhận thấy, ngày nay các nhà thơ đương đại thể hiện trong thơ những bàn luậ...