Những câu hỏi gợi ý:
1. Bạn chuyên về nhạc gì? Nhạc Tây phương hay nhạc Việt,
nhạc mới hay cũ, cổ truyền hay cải cách? Về ngành nhạc nào, và xin giải
thích cho biết qua về ngành đó.
2. Bạn bước vào ngành nhạc trong trường hợp nào. Và tập
luyện ra sao? Xin cho biết về những hoạt động nghệ thuật của bạn (sáng tác,
tấu nhạc, điều khiển ban nhạc, nghiên cứu về nhạc...)
3. Theo ý bạn chỉ nên phổ biến nhạc Tây phương cho thật
rộng rãi hoặc chỉ phục hưng hay cải cách nhạc Việt?
4. Nếu chỉ nên phổ biến nhạc phương Tây, thì có những sự
khó khăn gì? Và có những cách gì tiện lợi và hiệu nghiệm nhất.
• để huấn luyện nhạc sĩ;
• để cho quần chúng hiểu được
và ưa được.
5. Nếu bạn chủ trương phục hưng hoặc cải cách, thì theo
đường lối nào, và cần điều kiện gì? Nhạc cổ Việt Nam hay nhạc mới gọi là "cải
cách", hiện nay có những ưu điểm, khuyết điểm gì?
6. Ý kiến về tương lai nhạc Việt hoặc tương lai nghệ thuật
nhạc tại Việt Nam.
Tên thật Ngô
Đình Hộ.
Sanh ngày 9-5-1914 ở Hà Nội.
Thích nhạc và sân khấu từ thuở nhỏ.
Bắt đầu sáng tác nhạc từ 1935.
Cộng tác với ban nhạc "Ánh
Sáng" của nhóm Tự Lực Văn Đoàn do Thế Lữ điều khiển vào năm 1937.
Những bài hát mới đầu tay được trình bày trong khoảng 1937-1938 ở nhà Hát lớn Hải Phòng,
Hà Nội và Vĩnh-Yên là "Tiếng đàn đêm khuya, Một ngày xanh, Trên
sông Dương-Tử, Xuân năm xưa, Bản đàn xuân".
Các nhạc phẩm anh được giới thiệu
trong báo "Ngày Nay" cùng độc giả Bắc, Trung, Nam.
Vào Nam sống từ 1941 đến nay.
Năm 1948, cùng Võ Đức Thu và Trần
Văn Trạch tổ chức ban "Xuân Thu nhạc khúc". Chính trong
khoảng này, anh đưa ra loại "Dao ca tạp khúc" và "Nhạc
thời sự".
Đã viết và trinh bày nhiều tiểu ca
kịch và nhạc cảnh: "Trên sông Dương Tử (1948), Quán biên ải, Xin
nước mắt, Trận Bạch Đằng Giang (1949), Trọng Thủy Mị Châu, Tích đá Vọng Phu
(1951), ông Ninh ông Nang, Kỉ niệm, Hàn Mặc Tử, Quán rèn chiều đông
(1953)"
Từng soạn nhạc cho thiếu nhi, như Thằng
Cuội, Tuổi thơ, Học sinh hành khúc.
Từng làm phó giám đốc đoàn Văn Nghệ
Việt-Nam do Hoàng Thi Thơ điều khiển.
Hiện cộng tác với trường Quốc-Gia
Âm-Nhạc và Kịch-Nghệ cùng đài Vô tuyến truyền thanh Việt-Nam.
Đã viết xong: Danh từ Âm-nhạc,
Nhạc luận hợp tuyển, Âm-nhạc lịch thư, Nhạc lý Quốc nhạc (lớp đệ Nhất
và lớp Sơ đẳng).
Phần trả lời của nhạc sĩ Lê Thương
![http://www.hocxa.com/blob.gif](file:///C:\Users\User\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image003.jpg)
![http://www.hocxa.com/blob.gif](file:///C:\Users\User\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image003.jpg)
Tôi chuyên về Tân nhạc, nhưng từ
lâu năm vẫn không ngớt học hỏi và nghiên cứu nhạc Tây phương và Cổ nhạc nước
nhà.
Nếu coi âm nhạc là món ăn tinh thần
cho người Việt thì tất nhiên mọi sự ưu tiên đều dành cho nhạc Việt, từ Cổ truyền
cho đến Tân nhạc.
Nếu coi âm nhạc là một nghệ thuật bổ
ích cho tinh thần, nói chung, thì dĩ nhiên là để cho tùy mỗi người theo phương
tiện riêng mà học hỏi, lựa chọn môn nào mình ưa thích
Học cái hay của Tây phương là việc
phải làm để nới rộng tầm hiểu biết và hưởng thụ những cái hay trong nhân loại.
Bồi bổ nhạc Việt, canh tân nó là phận sự của con dân nước Việt muốn duy trì cái
vốn dân tộc và phát huy nó thêm để truyền lại về sau.
Tất cả sự quan trọng là vấn đề "độ
lượng" trong việc truyền bá; chỉ theo một đường là thiếu sót.
Tất nhiên không phải ai cũng có
phương tiện để theo nhiều đường như ý muốn. Vì thế nên, trên thực tế: chỉ có nhạc
Việt mới có thể là món ăn tinh thần thích đáng cho người Việt.
Còn nhạc Tây phương hay nói rộng
ra, nhạc Quốc tế vẫn có thể là món quà xa lạ mà lắm lúc ai cũng thích nghe.
Nếu "chỉ muốn phổ biến
nhạc Tây phương" thì cái khó khăn đầu tiên là phải là người
Tây phương thì mới đủ hăng hái, năng lực và mới mong có phương tiện
làm một công trình lớn lao ấy.
Nó lớn lao ở chỗ nếu dùng nhạc thuần
túy (bằng dĩa hát hay bằng dàn nhạc tấu) thì món nghệ thuật
"mắc mỏ" cao siêu ấy cũng không mấy người hiểu mà theo dõi. Nếu dùng
tinh bài hát bằng tiếng Âu, Mỹ thì cũng chỉ có người có học mới hiểu. Mà họ còn
chọn lựa thứ họ ưa thích. Thí dụ nhiều thanh niên sẽ lựa món thác loạn để rồi "nhẩy
tréo cẳng ngỗng" có hại cho sức khỏe và việc học. Các cụ sồn sồn
thì thích bài đằm thắm, sầu thương để ôn lại dĩ vãng. Các nhà "triết
trung" sẽ chỉ mua vài loại "tuyển lọc" v.v.., việc phổ biến kể
ra cũng phải công phu mới làm vừa lòng mọi người.
Tuy nhiên, những nhạc sĩ, ca sĩ ngoại
quốc thuộc loại diệu thủ (virtuoses) có sang xứ ta thì ca nhạc
sĩ ta mới thấy "nghề đàn ca cũng lắm công phu" mà cầu
tiến thêm, mà khiêm nhượng lại một tí để nuôi chí học hỏi mãi mãi.
Xã hội Việt ta quả đang cần rất nhiều
sự canh tân cải tiến. Hồn người Việt đòi món ăn nào thì dĩ nhiên là nên tặng họ
món ăn đó trước đã. Lâu lâu, muốn đổi món thì vẫn có thể để họ nghe nửa giờ nhạc
quốc tế là vừa, rồi làm ơn để cho mọi người lo lắng công việc (Đó là một
sự thực hiển nhiên).
Hiện nay nhạc Việt có hai ngành: Cổ
truyền và Tân nhạc. Bên Cổ truyền thì thường có đường lối ca diễn riêng. Sự
"cải cách" lối nhạc này chưa thấy ai bàn đến mà có kết quả.
Trên đường phát huy nhạc nghệ nước
nhà không thể nói là chỉ đặt tất cả hy vọng vào Tân nhạc hay vào nhạc Cổ truyền
mà thôi, mà chính là phải phối hợp hai ngành ấy vào nhau để tìm ra một chỗ dung
hợp tóm tắt như sau:
- Đem hồn sắc cổ truyền làm
sinh khí cho Tân nhạc. Viết bài bản theo ký âm pháp quốc tế, thêm phần hòa âm
có sắc thái Việt-Nam để mong có một kho bài bản có nét điệu nhất định, không
thay đổi từ người này sang người khác như ta thường thấy.
Kho tài liệu ấy sẽ là căn bản giáo
huấn âm nhạc cho các trường, cho các việc xuất diễn âm nhạc.
Chương trình thực hiện cần cả hai
giới Tân và Cổ làm việc chung một vài năm trời thì mới xong được.
Chưa có những tài liệu thích đáng ấy
thì giới Tân nhạc vẫn thiếu tài liệu để học hỏi mà xoay về các hướng chiêu lệch
lạc.
Cũng cần có một Trung tâm
Văn hóa duy nhất trong nước để khỏi thấy cảnh phân tán nhân tài, thiếu
thốn phương tiện, đã làm tê liệt biết bao hảo tâm từ trước đến nay. Đã có bao
nhiêu nước chảy dưới cầu, lời ta thán ngập tràn trời đất mà giọng cười mỉa mai
của thế hệ tới sẽ không tha chúng ta nếu mỗi người nghệ sĩ cứ ôm mãi một mớ tư
kiến bảo thủ để sống riêng cho mình, và người có trách nhiệm thì cứ đóng khung
mình trong việc tắc trách văn phòng, không hề "sống với văn nghệ",
lăn lộn vào giới văn nghệ sĩ để hiểu họ thêm mà thực hành ý định nâng đỡ họ.
Có lẽ sống còn đều ở chỗ "xả
thân" đáng quý ấy vậy.
Sinh tại Sài gòn, năm 1915.
Học nhạc từ 7 tuổi (dương cầm
bà lý thuyết Âm nhạc).
Năm 22 tuổi dạy dương cầm và gia nhập
một ban nhạc ngoại quốc để hòa nhạc mỗi buổi chiều tại Hôtel Palace.
1940- Hội viên
hội Đức-Trí-Thể-Dục (S.A.M.I.P.I.C.), thành lập và điều khiển ban
nhạc cho hội (gồm 20 nhạc công, toàn là người Việt).
1941- Bắt đầu
soạn nhạc và hội viên hội các Tác giả, Soạn giả và nhà Xuất bản Âm nhạc (S.A.C.E.M.).
Sáng tác phẩm gồm đủ loại:
Loại hòa tấu khúc: Một ngày
đã qua, Trên sông Bạch-Đằng. Loại độc tấu dương cầm: Việt-Nam oán
nhạc khúc, Bóng hoàng hôn, Dạo thuyền trên sông Hương, Bảy biến khúc theo
điệu Cò lả, Sáu biến khúc theo điệu Âu ca Việt-Nam.
Loại song tấu dương cầm và vĩ cầm: Đêm
trăng, Bướm Xuân.
Loại thơ phổ nhạc: Tống biệt,
Tha hương mộ khúc.
Loại ca khúc tình cảm: Mưa
đêm thu, Mùa hoa thắm, Mây thu, Đàn ai, Nhớ người xa vắng.
Loại ca khúc vui tươi, hùng mạnh: Quyết
tiến, Trên đường xa, Thôn quê bình minh khúc, Việt-Nam Việt-Nam, Bình minh ca
khúc, Hồn quê, Đây Sài-Gòn, Lửa dũng.
1948- Hợp tác
với Lê Thương thành lập nhóm "Xuân Thu nhạc kịch" và
lãnh phần điều khiển dàn nhạc cua nhóm.
1949- Được bầu
làm hội trưởng hội Khuyến nhạc Nam-Việt.
1956- Được mời
dạy dương cầm và ám diễn tại trường Quốc-gia Âm-nhạc.
1961- Được bầu
làm hội trưởng hội Nghệ sĩ Ca Vũ Nhạc Việt-Nam.
![http://www.hocxa.com/blob.gif](file:///C:\Users\User\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image005.jpg)
![http://www.hocxa.com/blob.gif](file:///C:\Users\User\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image003.jpg)
I.- Tôi là một
giáo sư dương cầm và cũng là một dương cầm thủ (pianiste) và phong cầm thủ
(accordéoniste).
Tôi lại là soạn giả âm nhạc và hội
viên hội các Tác giả, Soạn giả và nhà Xuất bản Âm nhạc quốc tế (Société
d'Auteurs, de Compositeurs et d'Editeurs de Musique, gọi tắt là SACEM).
Tôi đã được học hỏi khá nhiều về
các loại nhạc Tây phương, từ loại nhạc Cổ điển(musique Clasique), đến loại
nhạc bình dân (populary music) mà ta thường gọi là nhạc Jazz.
Tôi cũng đã có nghiên cứu về nhạc Cổ
truyền Việt-Nam.
II.- Tôi bước
vào ngành nhạc một phần lớn là do thân sinh tôi. Người xuất thân tại trường
Taberd, được học hỏi từ đàn vĩ cầm (violon) và phong cầm (accordéon) với các sư
huynh của trường, rồi sau dạy tại truờng này và được trau dồi nghệ thuật thêm.
Ngoài giờ dạy học, người thường đi hòa nhạc chung với các nhạc sĩ ngoại quốc tại
Hôtel des Nations.
Nhờ người mà tôi được học đàn rất sớm,
năm lên bảy, tôi học dương cầm và theo lớp hàm thụ Sinat tại Pháp để học phần
lý thuyết. Bài học do thân sinh tôi giảng giải lại. Năm 1925, năm tôi lên mười,
Sàigòn bắt đầu mở trường dạy Âm nhạc dưới sự hướng dẫn của giáo sư ngoại quốc (tức
là École de Musique de Saigon, thường được gọi là Philharmonique, hiện nay là
truờng Quốc-gia Âm-nhạc); tôi được cái hân hạnh là người Việt độc nhất được
theo học lớp dương cầm với các khóa sinh ngoại quốc, mặc dầu tuổi hãy còn nhỏ.
Cũng năm ấy, tôi chiếm được giải danh dự về dương cầm (Prix d'Honneur
de Piano).
Sau đó, tôi ngỏ ý với thân sinh muốn
sang Pháp để tiếp tục học tại Nhạc viện Quốc gia Pháp, nhưng vì gia đình không
dư dả mấy, nên tôi phải ở nhà, tiếp tục học riêng với bà Armande Caron, vốn giải
nhất về dương cầm và hòa âm Nhạc viện Quốc gia Pháp. Trong những năm này, tôi
thường được các ban nhạc ngoại quốc mời đệm dương cầm trong những buổi hòa nhạc
tại nhà Hát lớn Đô Thành và tại Phiharmonique.
Đến năm tôi hai mươi hai tuổi, tôi
bắt đầu dạy dương cầm, số nhạc sinh của tôi rất đông, gồm có người Việt, người
Pháp, người Trung Hoa, người Ấn Độ, người Nhật Bổn, người Hoa Kỳ, và tôi vui sướng
mà thấy trong số này, có một số người Việt được học hỏi ở nước ngoài, đã thành
tài và đã nổi danh.
Ngoài những giờ dạy nhạc, trong bảy
năm liền, vì sinh kế, tôi đã gia nhập một ban nhạc ngoại quốc để hòa nhạc mỗi
buổi chiều tại Hotel Palace, và đây là một dịp may để tôi học hỏi thêm về nhạc
Cổ điển Tây phương, vì ban nhạc này gồm có những nhạc sĩ có tiếng như Yvonne
Leclerc (giải nhất về violon Nhạc viện Quốc gia Pháp), Renée Bondie (giải
nhất về violon Nhạc viện Toulouse), Becchi (tốt nghiệp Nhạc viện
Milan về violoncello), Charles Roques (giải nhất về bassoon Nhạc viện
Quốc gia Pháp).
Một trong những nỗi vui lớn của tôi
là khi thành lập ban nhạc cho hội Đức trí Thể dục (năm 1940) gồm
toàn người Việt và điều khiển ban nhạc hai chục người này trình diễn vào những
buổi lễ, buổi hát do hội tổ chức tại hội quán và tại nhà Hát lớn Đô thành.
Năm hai mươi sáu tuổi, tôi mới bắt
đầu soạn nhạc. Tôi rất chú trọng về loại nhạc thuần túy, chủ tâm là nâng cao
trình độ thưởng thức nhạc của thính giả Việt, các tác phẩm của tôi đã được các
nhà xuất bản trong nước và ngoại quốc ấn hành như Tinh-Hoa, An-Phú, Hương-Thu,
Huỳnh-Lâm, S.E.M.I. (tức là Société d'Edition de Musique
Internationale, Hội các nhà xuất bản Quốc tế về Âm nhạc). Riêng các bài
sáng tác thuộc các loại hòa tấu khúc, độc tấu dương cầm, song tấu dương cầm và
vĩ cầm đã được chính tôi trình bày nhiều lần trên sân khấu các nhà hát lớn ở
Sài Gòn, Chợ Lớn, Nam Vang, Huế, Hải Phòng, Hà Nội và lại được Trần Văn Khê, Võ
Đức Lang trình bày ở Pháp. Loại ca khúc được các ban nhạc trình bày nhiều lần
trên làn sóng điện các đài phát thanh trong nước và ngoại quốc và đã thu thanh
vào dĩa thương mại của những hiệu dĩa Oria, Việt Nam, Philip.
Liên tiếp các năm 1948, 1949, 1950,
1951 tôi cùng Lê Thương đưa "Xuân Thu nhạc kịch" ra
mắt khán giả tại các nhà hát lớn ở Thủ đô và tại Nam-Vang. Và trong những năm
1951, 1953, 1954, tôi thường được mời trình tấu nhạc tại các nhà hát lớn Huế, Hải Phòng
Hà Nội với ban hợp ca Thăng Long và ban Gió Nam.
Năm 1955, tôi dự Hội chợ Triển lãm
Quốc tế tại Nam Vang cùng phái đoàn Văn nghệ Việt Nam.
Năm 1955, tôi được bầu làm chủ tịch
bộ môn Tân nhạc trong Đại hội Văn-hóa toàn quốc.
Năm 1958, tôi viết nhạc cho hai cuốn
phim Việt: "Sự tích trầu cau" và "Áo
dòng đẫm máu" do hãng Mỹ Vân sản xuất.
Năm 1959, tôi đứng tổ chức một ban
nhạc Biệt thể cho đài Phát thanh Quốc gia và đài Phát thanh Quân đội.
Từ lúc còn thơ ấu đến nay, tôi chỉ
là một nhạc sĩ tự do, lúc nào cũng hoạt động phụng sự cho Âm nhạc. Nước chúng
ta còn nghèo vì thế âm nhạc không nuôi sống người nhạc sĩ được, và nhứt là ông
bà chúng ta lúc nào cũng quan niệm rằng "xướng ca vô loại".
Cũng vì lẽ đó mà nghề nhạc không được trọng dụng, cho nên có lúc tôi phải sống
rât vất vả, vì sống nhờ ở tiền thù lao thôi. Ăn hôm nay còn phải lo cho ngày
mai….
III. Nhạc Tây
phương dầu có được phổ biến rộng rãi đến đâu đi nữa thì cũng chỉ có một số người
ưa thích chớ không thể nào đi sâu vào đại đa số quần chúng được. Còn nói về nhạc
cổ điển Tây phương thì số người hiểu còn hiếm hoi hơn nữa, không riêng gì ở xứ
ta mà ở các nước tiền tiến trên thế giới cũng thế. Vì lẽ đó mà một soạn giả nhạc
cổ điển Tây phương ít khi được nuôi sống với soạn phẩm của mình. Chỉ 50 hoặc 30
năm sau, người ta mới hiểu được và ưa thích, nhưng cũng chỉ với số ít thôi, chừng
đó thì tác giả đã ra người thiên cổ rồi, chỉ có nhà xuất bản hay là con cháu hưởng
quyền lợi của tác giả thôi. Đó là chúng ta nói những nước văn minh và giàu có
hơn chúng ta và họ có đủ phương tiện để truyền bá âm nhạc cổ điển. Hiện nay ở
nước chúng ta, quyền tác giả chưa được nhìn nhận, như thế tác giả làm sao được
nuôi sống với tác phẩm mình? Còn nếu nói về loại ca khúc thì đâu đâu cũng được
nhiều người ưa thích hơn. Chúng ta hãy nhìn sang các nước như Pháp, Mỹ, Đức. Một
bài ca thịnh hành được xuất bản bao nhiêu lần, được thu thanh vào nhiều hiệu
dĩa hát, và được trình bày cả ngày lẫn đêm từ các nhà hát lớn đến các quán rượu
nhỏ, các đài phát thanh trong nước và ngoại quốc. Những bài hát như J'ai
deux amours, Parlez moi D'amour, Ca C'est Paris, Sous les pons de Paris.
Tôi đã nghe hát và đàn từ lúc còn bé mà bây giờ vẫn còn được ưa thích. Vì lẽ đó
soạn giả ngoại quốc có một đời sống dễ dãi hơn chúng ta và nhờ thế họ có thể tiếp
tục soạn thêm những ca khúc hay hơn nữa.
IV. Để cho quần
chúng hiểu được và ưa thích âm nhạc, nhạc sĩ cần phải sống gần gũi với họ, tìm
hiểu những gì họ cần để cung cấp cho họ, đem đến cho họ những tình cảm êm dịu hầu
quên bớt những nỗi khổ đau hàng ngày của họ. Như thế họ cảm thấy sâu xa tiếng
đàn là món ăn tinh thần của họ và lần lần họ sẽ quen và sẽ ưa thích âm nhạc. Chừng
đó chúng ta sẽ dẫn dắt họ đến những phương trời nghệ thuật cao siêu hơn, vì
trên thực tế đời sống hàng ngày của người dân nghèo còn đòi hỏi những gì cần
thiết hơn, chớ không chỉ ngồi nghe âm nhạc suông.
Cũng như một chánh phủ muốn được
lòng dân, muốn được dân ưa chuộng, nghe theo thì cũng phải tìm đến với dân coi
người dân thiếu thốn những gì để cung cấp cho họ, làm cho lòng dân cảm mến
mình, rồi chừng đó muốn nói gì họ cũng nghe theo và họ sẽ hết sức mến phục vậy.
Một nhạc sĩ muốn trình bày một nhạc
phẩm để cho dân chúng nghe cũng phải tùy ở trình độ hiểu biết âm nhạc của từng
lớp thính giả và muốn trình bày một nhạc phẩm không phải dễ dàng như trình bày
một họa phẩm. Một họa phẩm, người ta nhìn thấy được cái đẹp cái hay của nó và sự
tổ chức trình bày ít phức tạp hơn là tổ chức một buổi hòa nhạc, và phải tùy ở
khiếu thẩm âm của từng lớp thính giả.
V. Nhạc cổ truyền
Việt Nam cũng có cái hay cái đẹp của nó nhưng với một số bài bản đã có từ xưa,
chúng ta cố ghi lại thực trung thành theo ký âm pháp Tây phương để giúp cho những
người muốn nghiên cứu học hỏi và như thế các nhà soạn nhạc chúng ta sẽ giữ được
nét nhạc thuần túy Việt Nam trong các soạn phẩm của mình.
Ngoài công việc giữ gìn ấy chúng ta
cứ tiếp tục sáng tác thêm những ca khúc vui tươi, hùng mạnh mà hiện nay chúng
ta gọi là nhạc cải cách, hay là tân nhạc. Nếu chúng ta nhìn sang các nước bạn
chúng ta, như Nhựt Bản, Trung Hoa, Ấn Độ, Thái Lan, họ cũng đã làm thế. Không lẽ
chúng ta đem một nhạc khúc cổ truyền ra tấu lên cho một đoàn quân đi ra biên
cương diệt thù, và đến khi họ trở về trong nhịp bước chiến thắng khải hoàn, hoặc
cho những đoàn thể Thanh niên, Thanh nữ Cộng Hòa, v.v.
VI. Chúng ta phải
thẳng thắn nhìn nhận rằng trong những năm sau này, nhờ sự khuyến khích sáng tác
nhạc khúc của nhiều cơ quan, như nha Vô-tuyến Truyền-thanh, Văn-hóa-vụ, nha Chiến-tranh
Tâm-lý, nha Trung-ương Dân-vệ, hiện nay Tân nhạc Việt được phổ biến rất mạnh.
Chúng ta hãy nhìn sự ham mê sáng tác trong giới thanh thiếu niên, sự phổ biến
ca nhạc trong các từng lớp dân chúng, trong các trường trung và tiểu học, trong
các đoàn thể, trong các cơ xưởng, trong các lữ doàn binh chủng, đâu đâu cũng có
những đoàn văn nghệ được thành lập và những nhạc khúc tình cảm, vui tươi, hùng
mạnh đã được đa số dân chúng ưa thích.
Chúng ta hãy so sánh tình hình Tân
nhạc trong những năm đầu tiên của nó 1938, 1939 và sự tiến triển mạnh mẽ trong
những năm sau này: 1961, 1962. Những nhạc hội nối tiếp nhau trình diễn trên các
sân khấu của những hí viện từ thành thị đến thôn quê, những số bài được xuất bản
và số người tiêu thụ càng ngày càng tăng thêm nhiều. Chúng ta sẽ nói rằng, số
"lượng" thì nhiều mà số "phẩm" thì ít, nhưng tình trạng đó ở
những nước văn minh hơn chúng ta cũng không thể nào tránh được.
Chúng ta khổng thể đem so sánh nước
Việt Nam chúng ta với các nước đã có một nền văn minh từ lâu, một nền kinh tế dồi
dào phát đạt và hiện nay họ đang hưởng thái bình thịnh vượng. Đất nước chúng ta
trong mấy năm qua đã bị chiến tranh tàn phá, dân ta phải nghèo còn nghèo thêm
và hiện nay nước nhà bị nạn qua phân, tình trạng khẩn cấp được ban hành khắp
nơi và cũng vì đó số người chơi nhạc đã ít mà cũng phải bị lâm vào cảnh thất
nghiệp. Chúng ta được biết hiện nay đã có những trường Quốc gia để đào tạo thêm
nhiều tài năng kịch và nhạc, nhưng nếu tình trạng chiến tranh vẫn kéo dài thì
những cuộc vui chơi giải trí bị cấm ngăn, rồi đây những tài năng đó sẽ làm gì để
tự nuôi sống?
Tôi chỉ ước mong cho nước nhà được
sớm thống nhất và thanh bình được trở lại trên đất nước yêu quý chúng ta. Chừng
đó đời sống của người dân được bớt khốn khổ phần nào, lúc đó họ sẽ đem hết tinh
thần để học hỏi và hiểu biết những gì gọi là nghệ thuật cao siêu hơn.
Như tôi đã nói trên, tôi chỉ là một
nhạc sĩ yêu chuộng tự do và lúc nào cũng có một đời sống hoạt động độc lập, vì
thế nên tôi không có những ước vọng quá xa vời. Tôi chỉ mong mỗi ngày có công
việc làm để nuôi sống gia đình và được sống gần gũi với dân chúng và thiên
nhiên để trong những sáng tác phẩm của mình, được nói lên đời sống thực tại của
xã hội. Nhưng tôi rất hy vọng rằng nhạc Việt nói chung và Tân nhạc nói riêng sẽ
sống mạnh và sẽ được tiến triển nhiều hơn khi nước nhà được thống nhất và thanh
bình trở về với chúng ta.
Người Việt chúng ta vốn đã sẵn có
óc thông minh và lúc nào cũng ham mê, tìm tòi, học hỏi thì một ngày gần đây,
không riêng gì ngành Âm nhạc mà trên các lãnh vực khác, đều sẽ được mạnh tiến.
Nhạc sĩ
DƯƠNG THIỆU TƯỚC
Học quốc nhạc từ năm 1922.
Học nhạc Âu từ năm 1930 với các
giáo sư ngoại quốc và trường École Universelle par Correspondance tại Paris.
Nhạc khí cổ truyền: Tranh, Nguyệt.
Nhạc khí Âu tây: Tây Ban Cầm,
Măng Cầm, Hạ Uy Cầm, Đại Hồ Cầm v.v...
Cùng với Thẩm Oánh, Vũ Khánh và một
số bạn ưa thích thành lập ban nhạc Myosotis vào năm 1936, trình diễn tại các rạp
Olympic, Majestic, Palace tại Hà-Nội.
Bắt đầu sáng tác nhạc Mới (Tân
nhạc, hồi đó còn gọi là nhạc cải cách), từ năm 1937.
Mở các lớp dạy Tây Ban Cầm, Hạ Uy Cầm
và Măng-Cầm từ năm 1940 - Mở nhà xuất bản Nhạc và chế tạo các thứ nhạc khí cổ
truyền và Âu tây tại Hà-Nội vào năm 1938.
Gia nhập vào ban Việt nhạc và đài
phát thanh Hà-Nội (sau khi Pháp trả lại cho Việt-Nam).
Phục vụ tạt đài Phát thanh Quốc-gia (đài
Sài-Gòn) từ năm 1951 sau khi Pháp trả lại cho Việt-Nam cho đến năm
1957.
Phần trả lời của nhạc sĩ Dương
Thiệu Tước
![http://www.hocxa.com/blob.gif](file:///C:\Users\User\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image003.jpg)
![http://www.hocxa.com/blob.gif](file:///C:\Users\User\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image003.jpg)
![http://www.hocxa.com/blob.gif](file:///C:\Users\User\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image003.jpg)
Tôi thích nhạc từ thuở nhỏ, phải
chăng vì là cháu nội cửa một thi sĩ, thi sĩ Dương văn Trì và cha tôi, một vị cử
nhân Hán học, cũng như chú tôi, đều ưa thích ca nhạc? Năm lên 8 tuổi tôi đã được
phụ thân tôi mua cho một cây nguyệt cầm cỡ nhỏ.
Người khai tâm về quốc nhạc cho tôi
là thầy Nhuyễn Văn Thứ (đã mất từ lâu) với cây nguyệt cầm.
Và những năm kế tiếp, tôi học đờn
tranh với thầy Trần-Trọng-Khiết, tục danh là ông Hai Khiết (nổi tiếng một
thời tại Bắc-Việt hồi đó), ông Ba Lễ. - Các vị này, rất tiếc, nay đã là giới
thiên cổ - Cũng hồi đó, tại Bắc-Việt, về nhạc cổ truyền, người ta chỉ học các
bài bản Huế, hoặc cổ nhạc Nam-Việt, còn cổ nhạc Bắc-Việt gần như không có,
ngoài một số bài lấy ở Hát Chèo, chỉ để ca mà thôi.
Dưới thời Pháp thuộc, Cổ nhạc Việt
chỉ gồm có một số bài bản hạn định, thực là nghèo nàn cho nên phong trào nhạc
Âu tràn vào đất Việt như nước vỡ bờ.
Nhất là từ thời kỳ phim chớp bóng
nói (1935) (cinéma Parlant, Chantan, Sonore) nhập cảng vào nước
Việt thì sau đó loại nhạc Âu-Tây (nhất là Pháp) đã làm cho
Thanh niên Việt cũng đua đòi hát theo Albert Préjean, Maurice Chevalier, Tino
Rossi v.v. Cho đến cái mũ rơm (canotier) và cây "Can" của Maurice
Chevalier cũng được người Việt rập theo đúng kiểu để lên sân khấu...
Cũng lúc này, một số bài Âu được
đem ra làm lời Việt, và được thâu thanh vào đĩa hát thương mãi. Hồi cuối năm
1936, tôi và Thẩm-Oánh, trong cuộc tản bộ quanh Hồ Gươm một chiều mùa đông, có
mưa phùn và gió bấc, chúng tôi bàn nhau:
Ở những quốc gia gần ta như
Trung-Hoa Dân-Quốc, Nhật-Bản, đều theo kịp trào lưu nhạc quốc tế, nghĩa là họ
có những bản nhạc mới của họ, tại sao người Việt ta lại không có lấy một bản nhạc
mới, đến nỗi phải mượn nhạc của người làm lời Việt mà hát. Thế là chúng tôi bắt
đầu sáng tác, (còn gọi là nhạc cai cách).
Cho đến nay Tân nhạc chỉ phát triển
theo chiều rộng, và rất ít về chiều sâu. Tại sao vậy? Đó là tại vì đa số sáng
tác từ trước đến nay, tuy đã có những bài đầy dân tộc tính, nhưng vẫn chưa
thoát khỏi ảnh hưởng quá tai hại là nhạc khiêu vũ Âu- Tây. Cho nên vẫn còn nhiều
bản đề những nhạc điệu khiêu vũ như Mambo, Samba, Swing, Rumba v.v. Chỉ vì bó hẹp
trong những nhịp điệu đó nên đã không tránh khỏi sự nhàm tai và bị phê bình là
lai căng, đầu Ngô, mình Sở. Nhịp điệu cổ truyền tuy chẳng nghèo nàn nhưng muốn
cho sáng tác đặc sắc, ta phải luôn tìm ra những nhịp điệu mới để đóng khung những
mầu sắc riêng biệt.
Giáo Dục Âm Nhạc.- Từ khi có
trường Quốc-gia Âm-nhạc thì việc giáo dục Âm nhạc có thể gọi là ổn định- Nhưng
theo thiển ý của tôi thì Âm nhạc phải được dạy ngay từ bậc Tiểu học tại các truờng
và cài vào trong chương trình tổng quát... Những học viên tốt nghiệp tại trường
Quốc-gia Âm-nhạc sẽ lần lần được gửi đi dạy tại các trường Trung học trong toàn
quốc.
Trong đại đa số học sinh, những người
nào thực có khiếu về Âm nhạc sẽ được chọn lựa để được gia nhập học tại trường
Quốc-gia Âm-nhạc là nơi chuyên môn đào tạo cán bộ âm nhạc như hiện nay.
Tương lai cua nhạc Việt.- Nền móng nhạc
Việt vẫn là nhạc cổ truyền, nhưng nếu muốn cho Tân nhạc tiến xa hơn, nhạc sĩ
sáng tác phải bỏ đi phần nào, cái mà ta gọi là nhạc Khiêu-vũ Âu-Tây. Đã đành là
ta phải dùng đến bất cứ một nhịp điệu nào, nhưng muốn tiến tới Đại Nhạc Kịch để
kế tiếp sau tuồng cải lương, ta phải có đủ loại sáng tác, nghĩa là đủ điều kiện
để diễn tả Hỉ, Nộ, Ái, Lạc, những cái mà Đại Nhạc Kịch cần đến. Nói đến sự thiếu
sót, thì nhạc Việt còn thiếu nhiều lắm (sẽ xin bàn đến trong những bài
sau này).
Ngay nhạc diễn tả thuần túy, ta
cũng mới có một vài bản, và rất ít khi được đem ra trình bày. Vì nhạc không có
lời ca rất ít được người hiểu và ưa thích.
Ước nguyện riêng của tôi.- Sau khi đã
có trên 200 bản được trình bày, tôi còn rất nhiều bài còn để đó. Vì không có
phương tiện ấn hành. Điều tôi mong ước là sớm có hội Chủ quyền Tác giả Âm nhạc
để bảo vệ quyền lợi của nhạc sĩ sáng tác.
Đài phát thanh quốc gia Việt-Nam đã
có thiện chí nâng đỡ nhạc sĩ sáng tác là trả cho mỗi bản mới một lần đầu là
400$00 để phát thanh bản đó. Nhưng số bản nhạc đó đã là những bản sáng tác theo
nhu cầu Chiến dịch mà đài nêu ra, sẽ khó mà được các nhà xuất bản chiếu cố đến.
Nói rút lại, sáng tác hiện nay
không thể nuôi sống được nhạc sĩ sáng tác. Chỉ khi nào có hội Chủ quyền Tác giả
Âm nhạc thì họa may "bản quyền trình diễn" mới được
nói đến và tác gỉa mới chuyên tâm vào việc sáng tác. Như hiện nay, người nhạc
sĩ sáng tác còn phải vật lộn với sự sống hàng ngày, bằng cách làm một nghề
khác. Họa chăng cái nghề đó có gần với sáng tác là nghề: nhạc công hoặc dạy nhạc.
Phụ chú: Lần đầu tiên
tôi đờn tranh với một dàn nhạc Âu Tây là ngày kỷ niệm Hòa Bình Liên Hiệp Quốc tại
tòa Đô Chính Sài Gòn năm 1950. Sau này mới có cái tên là Cổ-Kim hòa điệu cho loại
trình diễn đó.
Qua bài này, tôi xin mạn phép đi lạc đề chút ít,
nghĩa là xin mạn phép cho sự trả lời trực tiếp những câu hỏi gợi ý được đề ra.
Đây chỉ là bản lược kể quá trình hoạt
động của Nền Tân Nhạc, qua đó những vấn đề chi tiết thuộc về sáng tác, trình
bày… được nhắc nhở, nói lại nghe chơi ví như câu của cổ nhân là: "ôn
cố tri tân" vậy.
Chương trình lớn lao hằng nghe đề cập
tới nhiều. Ý kiến uyên bác của các bậc cao nhân, hàng ‘sư’ có, hàng ‘sĩ’ có, để
xây dựng nền tảng âm nhạc hùng vĩ, cao siêu, đã được giãi bày, không phải là
ít. Hồi chuông báo động chính là hồi chuông cảnh tỉnh. Bèn giật mình, tỉnh giấc
hoàng lương. Lòng vẫn như lòng nhớ kỹ câu: "Tri kỷ, tri bỉ",
đã toan không dám đánh trống qua cửa nhà sấm, vì bạn Nguyễn Ngu Ý nhất quyết đằng
thúc, vậy xin mạo muội đóng góp ít lời lẽ dông dài.
Hồi 1936-37, ở Hà Nội, khi viết được
vài bản nhạc theo phương pháp ký âm Tây phương, có nhạc điệu na ná hơi Bắc hơi
Nam, nhịp nhàng theo loại khiêu vũ Âu Tây, tôi bèn sốt sắng ‘tìm bạn hợp đàn’;
lại có thêm sự may mắn được một số bạn đồng ý, kẻ thì họa điệu theo, người thì
hoan hỷ họp nhau để đàn lên những điệu mới lạ ấy, trước còn e dè đờn ca trong
các ‘phòng khách’, được ‘mở theo ‘phong trào Salon’. Sau rồi, có một ngày liều
lĩnh, kéo nhau cả lên Sân khấu, giúp hội Thiện, để gây nên một dư luận khá sôi
nổi tại đất ‘ngàn năm văn vật’, trở thành một phong trào, lan tràn từ Bắc chí
Nam. Từ cái ngày khởi thủy xa xưa ấy (ngày 13 tháng 9 năm 1938, ban
Myosotis trình bày ca nhạc của Dương Thiệu Tước và Thẩm Oánh, giúp Hội Ánh Sáng
xây dựng Nhà Rẻ Tiền) tới nay, đăng đẳng đã có một phần tư thế kỷ,
đoái nhìn quá khứ thấy còn bàng bạc hơi sương, ngó vào hiện tại: nửa mừng, nửa
lo để mà hy vọng một tương lai sáng sủa.
Vấn đề Nhạc lại được đặt ra, lúc
này, thực rất thích hợp. Nói vậy không phải là vấn đề chẳng hề được nghĩ đến
bao giờ mà trái lại, kể từ ngày có tờ báo đầu tiên về âm nhạc là tờ bán nguyệt
san Khuyến Nhạc (1945-1946), và kế đến, tờ Việt Nhạc (1948-1950),
vấn đề đã được đề cập đến quá nhiều lần. Các chương trình, từ huấn luyện âm nhạc
cho đại chúng đến giáo dục âm nhạc thuần túy, đã được nêu lên, với đầy dẫy phương
pháp tổ chức, kế hoạch thực hiện… để rồi các đoàn thể có lòng với nhạc đã lần lần
hăng hái hoạt động cho Nhạc, gây thành một phong trào rất bành trước trong mọi
tầng lớp thanh niên hồi đó, mà bắc cầu quá khứ, nối liền hiện tại, cho loan
truyền đi ý nhạc Việt Nam vang vọng khắp bốn phương trời, để trên mảnh đất vun
bồi từ 25 năm có lẻ ấy, một Nhạc Đài đồ sộ nguy nga đã được xây dựng lên, giao
phó cho các bậc cao nhân thế hệ hôm nay, thực hiện cái mộng của lớp người cũ kỹ
năm xưa, ẩn hiện hậu trường, tỏ mờ dĩ vãng.
Thực vậy, kể từ thuở ban sơ của nền
Việt Nhạc, lớp thanh niên hiếu nhạc (ngoài Bắc) đã được hòa mình vào mọi hoạt động
của hội Khuyến Nhạc, từ năm 1943 đến 1948; nào là trong các lớp Xướng nhạc
pháp, lớp ca, lớp hát phổ thông mở công cộng tại các công viên, lớp đàn (piano,
violon), liên tục khóa này qua khóa khác; nào là: trong các buổi hòa nhạc, với
chương trình trình diễn phối hợp Nhạc Tây Phương có dẫn giải, với Nhạc Việt Nam
(cả cổ lẫn cải cách) luôn luôn được tổ chức tại nhà hát lớn Hà Nội (ví
dụ: bài ‘Sur le Marché Persian’ tức ‘Trong chợ Ba Tư’ có nói đến trong số trước,
đã được trình bày dẫn giải hơn một lần từ năm 1945 tại Hà Nội). Bên cạnh, Hội
Khuyến Nhạc lại còn có thêm các nhóm khác, cũng hoạt động không kém phần tích cực,
nào là: Âm Nhạc Học Xá, Nhạc Đoàn Lê Bảo Tịnh v.v….. cùng ra sức đẩy mạnh cao
trào âm nhạc. Rồi tiếp đến hoạt động của Ban Việt Nhạc (từ 1948 đến
1953): hết thảy điều gì hữu ích cho sự truyền bá và giáo dục âm nhạc, Ban
này đã gắng cần cù thực hiện (ví dụ: những lớp sáo, harmonica, có thấy
đề nghị trở lại trong số trước, Ban Việt Nhạc đã cho mở tại Hà Nội, từ ngày
5-8-1948, với 230 nhạc sinh theo học lúc đầu). Kịp tới khi, Đài Phát Thanh
Hà Nội được trao trả cho Việt Nam, thì nguồn nhạc mới đã được phát triển ngày mỗi
thêm mãnh liệt; Ban Việt Nam đã đóng góp khả quan cho sự trưởng thành của nền
Tân Nhạc Việt Nam (nhất nhất mọi chương trình, mọi hoạt động đều có
đăng tải trên bán nguyệt san Việt Nhạc, xuất bản tại Hà Nội từ 1948 đến 1950).
Cho tới 1954, nền Việt Nhạc tưởng
đã có đà xây dựng cơ sở vững vàng. Danh từ ‘Âm nhạc cải cách’ được đề nghị xóa
bỏ, thay thế bằng "Tân Nhạc Việt Nam". Giờ dạy âm nhạc, tức
xướng nhạc pháp ở các trường đã hoàn toàn giảng bằng tiếng Việt, các danh từ
chuyên môn đã được nghiên cứu dịch ra tiếng Việt; sách giáo khoa âm nhạc cũng
được soạn bằng tiếng Việt, dùng quen dần cho tới ngày nay.
Ngó về địa hạt "sáng tác"
thì bản nhạc đã thấy ấn hành quá nhiều, như bướm nở. Qua luồng điện phát thanh,
bản nhạc được phân ra từng loại, để xây dựng chương trình. Loại bài ca "lịch
sử", "thanh niên" hoặc "hùng ca" được cổ súy mãnh liệt.
Trong báo Việt Nhạc, mỗi số đều có in ít nhất là một bài thuộc các loại kể
trên. Nhưng…. Thính giả lại chỉ thích nghe đờn ca loại du dương, mơ mộng, để
các vấn đề gọi là "lành mạnh hóa luồng điện phát thanh" vẫn
thỉnh thoảng lại được đặt ra, mà vẫn chưa…"gọn điệu". Lối trình diễn
"chia câu" bị đào thải dần dần. Đa số các bài trình diễn phát thanh
đã có phần hòa âm. Sổ cương Ban Việt Nhạc, tới 1954, đã có trên 2,000 bản nhạc
được trình diễn phát thanh. số nhạc sĩ sáng tác, lẻ tẻ dăm bảy người hồi
1937-38, đã lên tới trên 120 người. Và các ca nhạc sĩ ưu tú của Hà Nội thanh lịch
đã quy tụ cả ở Đài, để chân thành phụng sự Quốc Gia, qua ngành Âm nhạc.
Đà tiến triển ấy bị gián đoạn vì sự
phân chia đất nước cuối năm 1954.
Di cư vào Nam, con người nhạc sĩ của
Hà Nội hôm qua đã quá ngỡ ngàng trước luồng sóng nhạc cuồng nhiệt, vang dội lên
tiết điệu hăng nồng của loại khiêu vũ giật gân, hầu như muốn đánh bạt cả đi cái
gì gọi là "dân tộc tính", mà nhạc giới đang cố công gây dựng. Công cuộc
lấy lại dân tộc tính, cho nền Tân Nhạc, hồi đó, thật là cả một vấn đề; do đó đã
nảy sinh ra loại ‘Dân ca Mambo’ lê lết cả một thời gian đằng đẵng.
Định cư xong, con người nghiệp chướng
lại hăng hái cần cù hoạt động cho nhạc. Hòn Ngọc Viễn Đông này thực xứng đáng
cho sự phát huy âm nhạc. Người ta rất ưng nghe ca nhạc, người ta hăm hở đi học
nhạc, lớp nhạc nào mở ra xem chừng cũng sống được. Người ta ưng ca những bài
Rumba, Mambo, Cha Cha Cha dễ hát, dễ thuộc. Chán tiết điệu này, thì lại có tiết
điệu khác ngay. Điệu Tango, Habanera có ngán thì Boléro bèn xuất hiện, rồi đến
Slow-Rock đang độ thịnh hành. Nếu Twist không bị cấm, thì có lẽ suốt các học đường
đã thấy những cặp giò "cà tưng nhún nhảy", thay vì đi từng
bước. Câu "đại chúng chỉ ưa thích cái gì mà họ hiểu được",
đã đọc thấy trong số báo trước, phải chăng, như vậy, đã được chứng minh?
Thấy Nhạc tại miền Nam được hưởng ứng
hơn là ở ngoài Bắc, con người nhạc sĩ nghiệp chướng bèn lo đề cập đến điểm cao
trọng hơn. Khi nghe thấy Đài Phát Thanh Sài Gòn (hồi đó 1955, dưới quyền
điều khiển của ông Đoàn Văn Cầu, một vị giám đốc giàu lòng với văn nghệ giới) dự
định tổ chức Tuần lễ Mozart, theo trào lưu quốc tế, thì nhóm nhạc sĩ di cư bèn
hứng lấy phần tổ chức, huy động nhạc giới, xin thành lập ‘Việt Nam Nhạc Hội’ để
lập luôn Giàn nhạc Đại Hòa Tấu đầu tiên, có tới trên 60 nhạc sĩ, và, rất phục
thiện, trao chiếc đũa điều khiển tới tay một vị Nhạc trưởng mới du học Pháp Quốc
về, ông Nguyễn Phụng (đương kim giám đốc Trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch
Nghệ) để lo tập dượt và thực hiện Tuần lễ Mozart. Ý nhạc cao trọng của
nguồn cổ điển Tây phương được vang vọng lên dưới khung trời Hòn Ngọc Viễn Đông,
đưa luôn đến sự thành công cho ngàng Giáo dục Âm nhạc là: xin mở được Trường Quốc
Gia Âm Nhạc hiện nay. Vậy, nguồn nhạc Tây phương đã có dịp phổ biến, cũng như,
sau Tuần lễ Mozart ấy, hằng năm, tiện dịp, Việt Nam Nhạc Hội cũng có tổ chức ít
buổi hòa nhạc Tây phương, với Giàn nhạc Đại hòa tấu, khán giả hiếu nhạc ưng đi
dự để xem trình diễn tất có lưu giữ ít nhiều kỷ niệm êm vui.
Ngành Giáo dục Âm nhạc, từ 1956, đã
có hình thức hẳn hòi với "Trường Quốc Gia Âm Nhạc" không
như mấy năm về trước, co quắp, vất vả, thiếu thốn trong khung cảnh của "Trường
ca vũ nhạc phổ thông", nhỏ bé nhưng đầy nghị lực. Thực vậy, nếu muốn
nói về ngôi trường giáo dục âm nhạc đầu tiên sau dịp di cư, thì dù muốn, dù
không cũng phải nhắc nhở tới ‘Trường ca vũ nhạc phổ thông’. Trường này đã tiếp
tay cho Trường Quốc Gia Âm Nhạc: số nhạc sinh mãn khóa của Trường ca vũ nhạc phổ
thông đã là lớp nhạc sinh đầu tiên của Trường Quốc Gia Âm Nhạc. Tới nay, 7 niên
học đã qua đi, thành quả lượm hái được tất cũng có phần đáng kể, kinh nghiệm thực
với thời gian tất cũng đã có, tương lai nền Việt nhạc tất trông cậy ở nơi đây.
Vậy tiền đồ nền Việt nhạc, hay hay
dở, một phần lớn là trông chờ nơi lò đào tạo nhạc sĩ thế hệ ngày mai – căn bản
có vững vàng, thì hoạt động mới có kết quả tốt đẹp. Dù muốn phổ biến nhạc Tây
phương rộng rãi, dù muốn phục hưng ngành Quốc nhạc cổ truyền, phương pháp truyền
bá đòi hỏi phải có nhân sự giàu kinh nghiệm khả năng. Còn đâu trau dồi khả năng
cho có kết quả, bằng một cơ quan chính thức giáo dục âm nhạc? Những chê bai, lệch
lạc của hôm nay, sẽ được tu chỉnh, tài bồi lại, ngày mai, bằng những tài ba lỗi
lạc mới, do Trường Quốc Gia Âm Nhạc đào tạo cho nhạc giới tương lai.
Ngó qua khía cạnh khác, nơi được mệnh
danh là có nhiều ảnh hưởng về âm nhạc đối với đại chúng, tức Đài Phát Thanh, ta
nhận thấy: thủy chung, Đài hằng làm tròn sứ mệnh của một "Tiếng
Nói Nước Việt Nam Cộng Hòa" trong đó, phần Văn nghệ phát thanh dù
giải trí hoặc tuyên truyền đã góp công xứng đáng. Thực vậy, từ 1955 đến nay, nhất
nhất mỗi chiến dịch, mỗi giai đoạn, Văn nghệ phát thanh đã hùa theo đề tài mà
sáng tác rất súc tích, kịp thời. Từng đợt, từng đợt, Văn nghệ phát thanh đã đi
sát với chủ trương, đường lối của Đài. Ngoài ra, Văn nghệ phát thanh còn được
khuyến miễn nên tự chỉnh đốn để, trước là giữ lấy dân tộc tính cho bài bản
trình diễn, sau là: cần gắng mà "lành mạnh hóa luồng điện phát
thanh". Văn nghệ phát thanh, gần đây còn muốn hướng tới một mục đích mới:
ca nhạc không phải chỉ để tiêu khiển suông. Giải trí cần nhằm mục đích giáo dục.
Văn nghệ phát thanh phải có tác dụng hữu ích cho dân tộc. Thứ nữa, Văn nghệ
phát thanh còn được dùng làm món gia vị, giúp thực khách là thính giả tiêu thụ
phần thông tin, bình luận... một cách dễ dàng. Mục đích mới này, thật đã cởi mở
cho ngành Văn nghệ phát thanh được nâng lên hàng bậc cao hơn trước kia, để mang
lấy giá trị phát thanh, Văn nghệ. Vậy, ít lâu nay, nhờ chiều hướng mới, Văn nghệ
phát thanh bèn đi tìm giá trị, để cởi mở; những bài cũ xa xưa, có một thời, được
mang ra trình bày lại. Ý nhạc du dương, óng chuốt tưởng được dịp thỏa mãn người
nghe. Nhưng, "điệp khúc dư luận" như tự bao giờ, lại
vang ngân, kêu gào đòi có sự lành mạnh và hùng tráng. Văn nghệ phát thanh bèn
dung hòa, để gắng giữ lấy cái gì chính xách gọi là phẩm chất Văn nghệ, nhất là
cho ngành Tân nhạc.
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEge2OCNG2rZEoPogi2-y_BK03eIojxTDB_nCggapdWgJvQdkmS6sjCvG4lsnd5H1vfz4zl8oty4_ocOI5qKWunGu1aPwsBnG4P5y_frre3r3gSVIMN-D7ROLb8bjdZs9lenL2-Zzo77hKfW/s200/MTMNHTNH.jpg)
Phải nói dài dòng chút ít về bộ môn
Ngâm Thơ ngày, là cốt mong đặc biệt lưu ý cơ quan phụ trách giáo dục âm nhạc,
có nên lắng tai Chung Kỳ, mà mở thêm lớp dạy Ngâm Thơ, gồm thêm cả thể cách phụ
họa của tiêu, nhạc đệm v.v…. sao cho bộ môn độc đáo này của Việt Nam ta, rất
giàu dân tộc tính, sẽ có được phương pháp huấn luyện môn sinh, cho ngành Việt
nhạc khai thác thêm được một thể điệu tuy xưa mà lại là mới, rất có lợi cho kịch
thơ sau này.
Văn nghệ phát thanh ít lâu nay còn
lo đến cả việc phổ biến nhạc Tây phương, có chút ít giải thích. Vậy địa bàn phố
biến Văn nghệ cũng có điều mở rộng thêm phạm vị hoạt động.
Như lời tạ lỗi mở đầu, quý bạn nào
kiên tâm đọc tới đây, tất đã thấy: đây quả chỉ là bản lược kể quá trình của nền
Việt Nhạc. Có đôi ba ý kiến tình cờ đẩy nhẹ theo lời kể, chẳng qua chỉ vì tiện
dòng bút, cho lướt theo đi mà thôi. Như vậy, sự e dè thận trọng trong việc phát
biểu ý kiến này, tất được coi như là…. lạc hậu. Đành xin nghiêng mình tạ lỗi lần
nữa, và cũng xin trả lại vấn đề đặt ra, đọc lại mấy câu hỏi gợi ý, để rán làm
phận sự một thí sinh, thi viết như trên đã xong, nay phải thi nốt phần vấn đáp.
Câu lục vấn I và II xin đã gián tiếp
đáp như trên rồi.
Câu III và IV, thì cũng đã gián tiếp
trình bày dông dài ở trên. Có điều xin nhấn mạnh thêm để ‘lấy điểm’, là: học gì
thì học, bắt chước gì thì bắt chước, cao siêu đến đâu thì cao siêu, công cuộc
chấn hưng nền Việt Nhạc phải là phần vụ chính yếu. Học cái hay của người, ngó
cái đẹp của người, là để gạn lọc lại, lưu giữ tinh hoa, mà chỉnh trang lấy nền
nhạc của mình. Sự khó khăn học hỏi không phải là vấn đề gai góc, miễn có trí,
có nghị lực, có người hướng dẫn giàu đức, hữu tài. Có sự hướng dẫn chính đính
thì bản thân con người theo đòi nhạc nghệ, tất được trau dồi tài nghệ vững
vàng. Khi môn sinh đã hấp thụ được nền giáo huấn của các bậc cầm cân nảy mực
giàu đức, hữu tài, thì sự truyền bá tới đại chúng tất cũng có ảnh hưởng tốt đẹp
với phương pháp tốt đẹp.
Nếu chỉ lo phổ biến nhạc Tây phương
thì bảng hiệu "Quốc gia âm nhạc" bị bôi đi mất rồi!
là Tây, Tầu mất rồi! là Âu Mỹ mất rồi! là Quốc tế mất rồi! là người Việt, mặc dầu
còn đang bị liệt vào hàng dân tộc chậm tiến, chẳng ai mơ ước muốn như vậy cả! Bạn
Lê Thương đã hữu lý với câu: "chỉ có nhạc Việt mới có thể là món
ăn tinh thần thích đáng cho người Việt". Và câu sau đây của bạn thực cũng
là thâm thúy lắm: "nếu chỉ muốn phổ biến nhạc Tây phương thì cái
khó khăn đầu tiên là phải là người Tây phương thì mới đủ hăng hái, nghị lực và
mới mong có phương tiện làm một công trình lớn lao ấy".
Qua câu hỏi gợi ý thứ 5, thì như
trên đã trình thưa: công cuộc chấn hưng nền Việt nhạc phải được coi là cần thiết,
là chính yếu. Với dấn vốn ngàn xưa của ông cha để lại là ngón nhạc cổ truyền, với
chút lợi tức mới thâu hoạch, được là sự học hỏi, hiểu biết ít nhiều về nhạc Tây
phương, với công cuộc cải cách nhỏ mọn vừa định đoạt xong là sự sáng tác Tân nhạc,
tuy còn non kém, nhưng nhất định không yểu mệnh (vì đã có trên 25 tuổi
thọ), ta đem thu góp lại, gạn lọc lại, tìm ra cốt cách, đặt lấy nền tảng,
thống nhất quan điểm, phân công trách nhiệm, đoàn kết nhất trí trong cộng đồng
đồng tiến, mà chung lo chấn hưng ngành Việt nhạc từ nay.
Và vấn đề trọng yếu hơn hết, vẫn là
vấn đề sáng tác. Nếu bảo rằng: con người nhạc sĩ muốn phục vụ đắc lực cho âm nhạc,
cần phải ra mắt đồng bào, thì tất là để trình bày cho đồng bào nghe nhạc, sao
cho đồng bào ưa thích tiếng nhạc, ý nhạc của bản nhạc đang trình bày, chú không
phải là để đồng bào xem người nhạc sĩ đánh đàn. Vậy, nếu cái tiếng nhạc phát âm
ra có hay, có chuốt, nhờ ngón nhạc điêu luyện của tay đờn, thì cái ý nhạc của
nó tất phải thuộc về bản nhạc, thuộc về sáng tác vậy.
Nói về nhạc cổ truyền của ta, thì
ta vốn đã có sẵn một số lớn bài bản, hằng truyền ngón lại cho nhau, bằng phương
pháp này hoặc phương pháp khác, còn lưu giữ mãi mãi, không nên và không thể để
mai một đi được.
Nói về Tân nhạc, thì, tuy thời gian
đã giúp cho khôn lớn, có sự trưởng thành, nhưng… Con cái thai nghén ra xem chừng…
đa đinh đấy mà sao non dại vẫn hoàn non dại! Đại loại, xưa nây, Tân nhạc vẫn chỉ
loanh quanh trong cái loại ca khúc nhỏ nhặt, thường tình khiến cho các vị uyên
bác, uyên thâm về cổ nhạc Tây phương hằng ngó ngàng bằng con mắt khinh khi, hờn
tủi lắm, chua xót lắm! Ấy vì người Việt Tân nhạc ưng chạy theo thị hiếu của đại
chúng, để dễ bề ‘thương mại hóa’ đứa con nhất thời của mình.
Rồi đứa con này vừa mới oe oe, lại
tiếp ngay đến tiếng oe oe của đứa khác, dễ dàng, mau mắn vô cùng!
Nếu sáng tác Việt nhạc thường có được
những tác phẩm đặc biệt giá trị như loại bài của bà Nguyễn Văn Tỵ, hoặc ít ra,
nếu sáng tác tân nhạc luôn có được những đứa con tinh thần như: Hòn vọng
phu, Hội trùng dương, Con đường cái quan, Một trời sao, Quán giang hồ hoặc
những ca khúc như: Đêm tàn bến Ngự, Giấc mơ hồi hương, Vương tơv.v…
hoặc những bản "dân ca chính đính" (chọn lọc may được chừng một,
hai trăm bản) và, gần đây: bản hợp tấu dung hòa cổ kim của Nhạc trưởng
Nghiêm Phú Phi, nếu có được những sáng tác như vậy thì chẳng ai còn có thể
khinh rẻ ngành Tân nhạc được đâu!
Vậy vấn đề sáng tác cần được chăm
lo đặc biệt, sớm cải thiện được lúc nào là ngành Tân nhạc được nở mặt, tươi mày
lên lúc ấy. Nâng đỡ nó chừng bao thì nó sớm trưởng thành chừng nấy. Khuyến
khích nó nhiều thì nó sẽ vững vàng dần. Hoạch định hướng tiến cho nó với phương
pháp hẳn hòi, thì tất nó chẳng còn hoang dại nữa. Sở dĩ nó sinh sinh, hóa hóa,
bừa bãi ra như vậy, chỉ vì đời cứ coi chúng như là những đứa con hoang. Hãy đỡ
đầu chúng đi, giáo dục lại chúng, tất chúng sẽ hoàn lương tươi tốt như mùa xuân
rạng rỡ.
Tới đây, tôi xin tạm ngưng vì như
thế cũng vừa đủ trong phạm vi một bài trả lời cuộc phỏng vấn. Còn vài vấn đề cần
khác, tôi sẽ xin góp ý với các bạn trong một dịp khác.
Nhạc sĩ
HOÀNG THI THƠ
- Đã học nhạc từ năm 12 tuổi, với
nhiều nhạc sư Việt Nam, trong đó có nhạc sư Nguyễn Đình Chiếu (tác giả
nhiều symphonie và sonate). Sau này học lớp harmonie, fugue, contrepoint,
orchestration, instrumentation và direction d'orchestre với École Universelle
(Pháp).
- Bắt đầu soạn nhạc từ lúc 17 tuổi
và là tác giả của hơn 200 ca khúc và 4 bản trường ca. Một số lớn tác phẩm đã được
xuất bản, thu thanh vào đĩa, vào phim Việt và phim ngoại quốc.
- Đã cộng tác với đài Phát thanh Quốc
gia gần 10 năm nay.
- Đã soạn một số sách âm nhạc,
trong số đó đáng kể nhất là cuốn "Để sáng tác một bài nhạc phổ
thông", gồm hai phần: Hòa âm và Sáng tác, được xuất bản vào năm 1956.
- Đã mở nhà xuất bản âm nhạc: nhà
xuất bản Ly Tao vào năm 1958.
- Năm 1960, thành lập và điều khiển
Đoàn Văn Nghệ Việt Nam mà tôn chỉ là phụng sự nền ca vũ nhạc dân tộc.
- Đã xuất ngoại nhiều lần tại Cao
Miên (1957), Ai Lao (1962), Hong Kong (3 lần vào những tháng 6, 8, 9
năm 1962), Nhật Bản (2 lần vào những tháng 7 và 10 năm 1962),
Tân Gia Ba (1963 tại Đại hội Văn Nghệ Đông Nam Á), Thái Lan (1963)
và Mã Lai (1963) để nghiên cứu hoặc trình diễn văn nghệ.
Phần trả lời của nhạc sĩ Hoàng Thi
Thơ
![http://www.hocxa.com/blob.gif](file:///C:\Users\User\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image005.jpg)
![http://www.hocxa.com/blob.gif](file:///C:\Users\User\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image003.jpg)
Hỏi: Người ta bảo anh: người nhỏ mà
ưa làm lớn, cái gì cũng vĩ đại cả. Sáng tác nhạc thì ưng làm "Ngày Trọng Đại",
một bản trường ca trong khi công chúng hầu hết các ca khúc ngắn; lập gánh thì lấy
tên "Đoàn Văn Nghệ Việt Nam" Anh nghĩ sao về "lời thiên hạ"
ấy?
Đáp: Tôi chưa bao
giờ ưa làm lớn. Tôi chỉ thích làm những cái đáng làm và phải làm. Những cái
đáng làm và phải làm của tôi chỉ bằng hạt cát hoặc con ruồi, con muỗi. Nhưng sở
dĩ có người cho đó là lớn lao, vĩ đại vì không ai hoặc rất ít người chịu khó và
can đảm làm những việc đó. Luận về lớn bé, to nhỏ, vĩ đại, tí hon chỉ có thế.
Có một dạo, tôi tạm ngừng sáng tác
những ca khúc ngắn để viết những trường ca như Ngày Trọng Đại, Máu Hồng
Sử Xanh, Triều Vui Thế hệ, Tiếng Trống Diên Hồng. Sự đổi hướng tạm thời
trong đời sáng tác của tôi chỉ là một cố gắng, cố gắng tầm thường. Ngoài ra, đó
cũng chỉ là một câu trả lời cho một câu hỏi mà tôi thường tự đặt ra cho tôi:
"Mãi sáng tác những ca khúc sao? Nhạc Việt chỉ có ca khúc sao?
Việc làm của tôi là một việc hết sức
giản dị, thoát thai từ một quan niệm cũng vô cùng giản dị.
Mục đích của tôi có gì là vòi vọi
xa xôi đâu nếu không nói là thấp hèn và gần gụi: đẩy việc sáng tác xa một gang,
nâng cao nghệ thuật diễn xuất lên một tấc, tạo một gạch nối tí hon giữa lối
sáng tác trình diễn ca khúc ngắn và nghệ thuật sáng tác trình diễn loại nhạc diễn
tả không lời. Rồi có dạo, tôi can đảm thành lập "Đoàn Văn Nghệ Việt
Nam".
Nhiều người, mặc dầu tôi đã giải
thích và thanh minh nhiều lần, vẫn cố tình hiểu lầm rằng tôi có nhiều "gan
lớn" và "tham vọng" (muốn đại diện cho nước Việt Nam).
Từ trước đến nay tôi luôn luôn chỉ
nguyện làm thân con đom đóm lập lòe giữa đêm tối. (Chắc ai cũng biết lửa
đom đóm ấy chẳng lấy gì lảm rực rỡ vinh quang). Ngày nào có nhiều ngọn đèn
xuất hiện, con đom đóm kia xin nguyện biệt dạng vào khóm lá bờ tre. Nhưng đom
đóm kia, giờ đây xin được hưởng một chút công bằng nhỏ bé trên trần gian: Thấy
đom đóm thì cứ gọi là đom đóm, chớ gọi là đèn!
Hỏi: Cũng có người cho rằng âm nhạc
trên nước Việt ta chỉ có hai dòng: quốc nhạc tức Cổ nhạc và nhạc Tây phương, họ
không công nhận Tân nhạc là dòng nhạc thứ ba. Họ lại cho rằng cái nhạc được gán
cái tên là Tân chẳng có cái gì là mới cả mà cũng chẳng có gì đặc biệt để đáng gọi
là cải cách cả. Anh có thể cho biết ý kiến anh.
Đáp: Quan niệm ấy
hơi mất gốc. Những ca khúc: Tiếng Gọi Sinh Viên (Bài quốc ca) của Lưu Hữu Phước,
Thiên Thai của Văn Cao, Con Đường Cái Quan (và vô số bài khác) của Phạm Duy,
Hòn Vọng Phu của Lê Thương, Đêm Tàn Bến Ngự của Dương Thiệu Tước, một vài bài
mà tôi không nhớ tên của nhạc sư Nguyễn Phụng, Giám đốc Trường Quốc Gia Âm Nhạc
v.v. những bài đó gọi là "Quốc nhạc" hay "nhạc Tây phương"?
Khi ca sĩ trình bày một ca khúc của
Phạm Duy, chúng ta có thể giới thiệu là một bài "Quốc nhạc" được
không? Tuyệt đối là không.
Khi một ca sĩ trình bày một sáng
tác của Nguyễn Phụng, chúng ta có thể giới thiệu là "một bài nhạc Tây
phương do ông Giám đốc Trường Quốc gia Âm nhạc sáng tác" được không? Nếu
giới thiệu như thế thì thực lố bịch hết chỗ nói.
Vậy những bài nhạc đó thuộc loại nhạc
gì, nếu không nói là những sáng tác của những nhạc sĩ Việt Nam. Loại nhạc đó
quyết không phải "Quốc Nhạc" (vì không đại diện hoàn toàn cho
Quốc gia) mà cũng không phải là "nhạc Tây phương" (vì
có mang hồn Việt Nam). Loại nhạc đó, tùy ai muốn đặt tên gì thì cứ đặt,
nhưng đã hiển nhiên nằm trong dòng nhạc khác (khác với nhạc Tây phương và Quốc
nhạc) rất phong phú, rất ồ ạt, mà người đời đặt cho một cái tên là "Tân nhạc"
hoặc là "Nhạc Cải cách".
Kể ra dòng nhạc đó có cái tên
"Tân" hay "Cải cách" đều có phần đúng cả. "Tân"
là mới. Nó được gọi là "mới" vì nó khác với "cũ". Ngược thời
gian ta thấy nó hoàn toàn khác với dòng nhạc đã có từ ngàn xưa: Quốc nhạc. So
sánh một điệu "Nam Ai, Nam Bằng" miền Trung với "Hòn Vọng
Phu" của Lê Thương, ta có thể phân biệt được cái "cũ" cái
"mới" ngay.
"Cải cách" là sửa đổi lại
(réformer, rénover). Chính khi sáng tác, những nhạc sĩ Việt Nam đã "cải
cách" rất nhiều: cải cách ý tứ, cải cách hứng cảm, cải cách hình thức, cải
cách ghi chép, cải cách hòa âm. So sánh một điệu "Chầu Văn" miền Bắc
(hoặc Trung) với bài "Lửa Rừng Đêm" của Nguyễn Hữu Ba, hoặc một điệu
"Lý Huế" với bài "Tiếng Hát Dân Chàm" của Châu Kỳ, hoặc một
điệu Quan Họ "Tình Bằng" với bài "Tình Tự Tin" của Phạm
Duy, ta có thể phân biệt dễ dàng cái "nguyên thể" và cái "cải
cách".
Hỏi: Nền nhạc Việt ta hiện đang đứng,
lùi hay tiến?
Đáp: Không lùi,
chẳng đứng, mà tiến. Không tiến về phẩm thì cũng tiến về lượng. Tiến cũng như
lòng đố kỵ, tị hiềm nhau thường thấy trong làng nhạc.
Hỏi: Xin anh cho biết vai trò của
trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ.
Đáp: Điều này xin
anh hỏi nhạc sư Nguyễn Phụng, giám đốc trường thì tiện hơn.
Nhưng tôi cũng xin vô lễ đưa ra ý cạn:
Dù dạy âm nhạc Tây phương hoặc dù dạy Quốc nhạc, trường Quốc gia Âm nhạc, như
cái tên đã đề ra, phải có nhiệm vụ hướng dẫn sinh viên đến chỗ xây dựng Âm nhạc
Quốc gia. Trường này có nhiệm vụ đào tạo nhạc sĩ làm việc đắc lực cho nền nhạc
Quốc gia, chứ không phải sản xuất những nhạc công, để rồi khi tốt nghiệp phải
ra nước ngoài học thêm dài hạn, hoặc phải sống khốn đốn trong sự đe dọa liên
miên của "thần Thất nghiệp".
Tôi tin rằng, các nhạc sư của trường,
ai cũng quan niệm như thế. Nhưng kết quả vẫn chưa được như mong ước, vì
"Ngôn dị hành nan" (nói dễ làm khó).
Tên thật: Lâm
Đình Phùng.
Sinh ngày 20-3-1937 tại làng Vĩnh
Thanh Vân, tỉnh Rạch Giá (Nam Việt).
Chuyên về Tân nhạc.
Bắt đầu sáng tác từ năm 1952.
Đã xuất bản: Chiều thu ấy (1952), Khúc
ca ngày mùa, Chuyến đò vĩ tuyến, Đoàn người lữ thứ, Nhạc rừng khuya, Tình cố
đô, Tình anh lính chiến, Chiều hành quân, Kiếp nghèo, Duyên kiếp (1961), Kiếp
tha hương (1961), Tiễn người đi (1962), Mộng
ước (1962), Đèn khuya (1963), Rừng xưa (1963).
Phần trả lời của nhạc sĩ Lam Phương
![http://www.hocxa.com/blob.gif](file:///C:\Users\User\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image005.jpg)
![http://www.hocxa.com/blob.gif](file:///C:\Users\User\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image005.jpg)
![http://www.hocxa.com/blob.gif](file:///C:\Users\User\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image005.jpg)
Hỏi: Sống ở đô thành chen chúc mà
anh sáng tác được bản nhạc thanh thoát ca ngơi cảnh người và cuộc sống ở đồng
quê, hẳn anh đã giữ nhiều kỷ niệm ấm êm ở nơi dân dã?
Người nhạc sĩ trẻ tuổi có gương mặt
thư sinh ấy hơi nghiêng tới, mắt ánh niềm vui:
-Chắc anh muốn nói tới ...
Tôi mỉm cười mà hát mấy câu đã một
thời nằm trên môi học sinh lớn, nhỏ:
"Kìa thôn quê dưới trăng vàng
bát ngát
Ánh trăng thanh chiếu qua làng xơ
xác
- Quả có thế. Tuổi thơ tôi êm đềm
trôi ở chốn đồng quê, và cuộc sống quay cuồng ở đô thị vẫn không làm tôi quên
được nơi chôn nhau cắt rún. Và bản nhạc "Khúc ca ngày mùa" với
hai câu mở đầu anh mới hát, tôi đã làm lúc tâm hồn tha thiết hướng về quê.
- "Khúc ca ngày
mùa" có phải là sáng tác đầu tay của anh không?
Không phải anh à. Tôi bắt đầu sáng
tác từ năm 1952.
- Tức là lúc anh
Lúc tôi được mười lăm tuổi.
- Thế anh được ai dìu dắt mà sớm
tài như vậy?
Anh cười:
- Anh dạy quá lời. Tài tôi đâu có
gì. chẳng qua tôi gặp nhiều may mắn. Tôi nhờ nhiều bậc đi trước chỉ vẽ trong bước
ban đầu, nhất là hai bậc đàn anh Hoàng Lan và Lê-Thương đã tận tình dìu dắt.
Nhưng đó mới là một cái may. Cái may thứ nhì: anh Trần văn Trạch hết lòng nâng
đỡ tôi trong buổi ban đầu, và ban Sầm Giang của anh đã trình bày những sáng tác
của tôi ở sân khấu cũng như ở đài phát thanh.
- Có người mà cũng có anh nữa chớ.
Được dìu dắt và nâng đỡ tới đâu, mà anh không có gì đặc biệt trong các sáng
tác, thì anh làm sao nổi tiếng và được bạn trẻ hoan nghinh.
- Có lẽ vì các bản của tôi thường
có tính chất đơn giản, nhẹ nhàng, nét nhạc không có cái gì là lạ. Rồi gặp lúc
phong trào thanh niên có phần sôi nổi, các bản nhạc của tôi hợp với tâm tình bạn
trẻ, nên tôi được hoan nghinh.
"Được người cùng lứa với mình
hoan nghinh, còn có gì sung sướng trong đời nghệ sĩ cho bằng. Điều này thúc đẩy
tôi vào hẳn con đường nghệ thuật, chớ trước kia tôi còn phân vân. Có thể ví tôi
như hạt giống may mắn được gieo vào đất tốt"
Anh thôi nói như để nhớ lại điều gì:
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjejhUH8GhHnhqwrvyC6ZG7iy6bJz1prS0DiILzUXfTRyKkZrxml1oxM10CN5KjdxMz4URWgV9X0iOWOOFbsBQ0wuyCZvtclJb4nd1cdQN83kEsgLUkS9hnswdoQM40VsKgB1F6IR-wkxrU/s200/mtvtr.gif)
- Còn bây giờ thì hạn chế?
Phải. Trước kia, một bài hát mà đài
phát thanh xét là hay, hoặc thính giả ưa thích, thì được phát thanh nhiều lân
trong tuần. Bây giờ thì không thế nữa: mỗi tuần chỉ được hát một lần thôi. Mà
như anh đã biết, không gì phổ biến Tân nhạc mạnh và xa bằng đài phát thanh.
Nghe đài phát thanh giới thiệu thường, thính giả mới tìm mua bản nhạc để học
theo, kẻ để đờn, người để hát. Nhờ đó mà nhà xuất bản và anh em sáng tác mới
hăng hái mà hoạt động.
- Ngoài các đài phát thanh, còn có
gì "đẩy" Tân nhạc tiến tới?
- Đại nhạc hội. Chính các đại nhạc
hội đã ~góp một phần đáng kể trong việc giới thiệu anh em Tân nhạc với công
chúng, và làm cho phong trào Tân nhạc lên.
Thấy anh im lặng hơi lâu, tôi hỏi:
Thế còn các phòng trà không giúp được
Tân nhạc chút gì sao?
- Có, nhưng mà ít quá, nên kể như
không có. Anh mà tưởng người ta đến phòng trà là vì thích nhạc thì hơi bé cái lầm
đấy. Không mấy ai nghe một bài hát mới ở phòng trà, rồi sau đó, tìm mua bản nhạc
ấy. Khách hàng của phòng trà là khách đến để giải khuây để giết thì giờ hoặc vì
ghiền cái không khí nơi ấy.
- Chớ không phải vì ghiền các cô ca
sĩ?
- Cái đó cũng có. Nhưng đến để gọi
là thưởng thức Tân nhạc thì quả là không!
- Thôi, ta hãy để yên phòng trà với
khách hàng của họ. Trở về anh đây, anh nói anh bắt đầu sáng tác từ năm 1952,
nghĩa là tới nay được mười một năm rồi; vậy trong mười một năm ấy, anh hoàn
thành bao nhiêu tác phẩm?
- Hoàn thành thì nhiều, song xuất bản
thì được ba mươi hai bản.
- Ba mươi hai bản trong mười một
năm, trung bình ba bản trong năm. Có đủ nuôi sống người sáng tác chớ?
Anh lắc đầu, cười:
- Người sáng tác nhạc ở nước ta phải
kiêm một, hai nghề mới đủ sống.
- Xin anh cho biết anh sáng tác có
theo một hướng nào không?
Anh nghĩ ngợi một chặp:
- Tôi không biết trả lời sao cho
anh. Nhiều bạn thấy các bản nhạc của tôi được anh chị em học sinh và thanh niên
ưa thích, thì cho tôi đã chọn hướng sáng tác rồi: nói lên những niềm vui, ước
mơ của lớp tuổi trẻ hiện thời. Nhưng thật ra, tôi sáng tác cho tôi, hoặc do
hoàn cảnh gây nên, hoặc vì tâm hồn xúc động. May mắn cho tôi là những mơ ước,
buồn vui riêng tư đó lại cũng là những vui buồn mơ ước của những bạn trẻ đồng lứa,
cùng thời. Như bài "Kiếp nghèo" thành hình trong lúc
chật vật vì cuộc sống.
Câu trả lời không để đợi:
- Vì chúng hợp với tuổi trẻ.
Thấy tôi có vẻ chưa hài lòng, anh
nói thêm:
- Như tôi đã nói với anh, tôi cố
nói lên trong tác phẩm những rung động của tôi - một người học sinh, một người
quân nhân, một người dân trẻ - nhờ chúng chân thành, nên các bạn trẻ thấy đó
như tiếng nói của lòng, của trí mình. Tôi lại dùng nhịp điệu trẻ trung của nhạc
Tây phương mà diễn tả, nhưng với tâm hồn cố hữu của dân tộc.
- Riêng về anh, anh có cho rằng chỉ
sáng tác những ca khúc như hiện nay là đủ, hay anh còn có ... tham vọng gì
khác?
Anh nghiêng mình về trước, nhìn thẳng
vào tôi:
- Đã phụng sự cho Nghệ thuật, mà tự
bằng 1òng mình, thì là phụ Nghệ thuật rồi. Tôi vẫn nuôi tham vọng một ngày gần
đây sẽ là tác giả những bản nhạc lớn, nên tôi vẫn tìm tòi học hỏi, nhạc Tây
phương cũng như Quốc nhạc. Chớ các bài hát nhỏ bây giờ, dầu có được hoan nghinh
đến đâu, cũng mới là phần ABC của nền nhạc mới, mà người nhạc sĩ nào chẳng mong
để lại một vài công trình gì dài hơi, bề thế hơn là những ca khúc nhỏ.
"Tôi mong sao đến lúc tôi đủ sức
sáng tác những ca khúc lớn, những bản đại hòa tấu, thì chừng ấy, đa số quần
chúng nước ta đã có thể thưởng thức loại nhạc này".
Nhạc sĩ
PHẠM THẾ MỸ
Chuyên đề sáng tác.
Tác phẩm đã xuất bản: Nhắn
trâu (1952), Ngõ chiều, Nắng lên xóm nghèo, Mùa hoa nở, Đường về hai thôn (với
Hồ-đình-Phương), Lúa về đêm trăng, Chiều đến thăm anh, Nhạc buồn đêm sao, Màu
áo hoa sim, Thuyền về bến cũ.
Phụ trách ban Hàn-Giang, cộng tác với
đài phát thanh Huế (1961).
Nhạc cảnh, tiểu ca kịch, nhạc kịch
đã trình bày trên đài phát thanh Huế và trong những nhạc hội miền Trung:
- NHẠC CẢNH: Đi tìm Nàng
Thơ (1959), Đến truờng (1959).
TIỂU CA KỊCH: Hoa, Bướm và
Thiếu nữ (1960), Nước mắt người yêu (1961).
NHẠC KỊCH: Sắc lụa Trũ-La (1958-1960).
Hiện làm giáo sư âm nhạc ở các trường
Trung học Nguyễn Công Trứ, Tây Hồ và trường Kỹ thuật ở Đà Nẵng.
Phần trả lời của nhạc sĩ Phạm Thế
Mỹ
![http://www.hocxa.com/blob.gif](file:///C:\Users\User\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image005.jpg)
![http://www.hocxa.com/blob.gif](file:///C:\Users\User\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image005.jpg)
Năm lên 6 tuổi, tôi ra Huế ở với
anh tôi - nhà văn Phạm Văn Ký - để đi học. Anh tôi thích âm nhạc và chơi vĩ cầm (violon) rất
khá. Tôi học nhạc từ đấy. Tám tuổi, tôi chơi thạo Măng cầm (mandoline).
12 tuổi tôi học Tây-ban-cầm (guitar
espagnole) - bằng cây "ghi ta" vọng cổ sửa phím lại với chú
tôi và học lý thuyết với sư huynh Yersin ở trường Gagelin ở Quy-Nhơn.
14 tuổi, tôi đã viết nhiều ca khúc
nhỏ mặc dầu chưa hề biết luật cân phương (carrure)là gì, đừng nói đến
cách dùng những giai kết (cadences).
Về đây, Đà Nẵng. Mới đầu tôi viết
những bản nhạc theo thể dân ca phát triển để kiếm tiền thêm học nhạc. Tôi học
hòa âm với ông Nguyễn-Phụng và bà Nguyễn- Khắc-Cung. Nhưng một vài nhà xuất bản
cho loại nhạc này đã lỗi thời, khó bán. Họ nói: "Nhạc 'dân ca'
chính cống cửa Phạm-Duy còn bán xôn, huống gì nhạc của các anh!". Rồi
họ bảo: "Nếu muốn được xuất bản, được phổ biến trên đài phát thanh
thì phải sáng tác loại Mambo, Boléro. Ca sĩ chỉ khoái hát loại nhạc này và quần
chúng cũng chỉ mua loại này mà thôi!"
Tôi không tin, đi hỏi vài bạn thân
thì đó là sự thật.- tôi quên nói thêm là phải được vây cánh trên đài, nhạc phẩm
của mình mới được trình bày, mà có được trình bày trên đài thì mới được nhà xuất
bản mua! Bây giờ nhìn lại những đứa con bất đắc dĩ này, tôi thấy xấu hổ và giận
mình. Vì thế tôi không ngạc nhiên lắm - nếu không nói là đau xót - khi thấy quần
chúng có thái độ lơ là dần dần với "Tân nhạc", chỉ vì giới
chúng ta đã "sản xuất"những tác phẩm một cách cẩu
thả, thiếu tự trọng để chạy theo thị hiếu thương mại của một vài nhà xuất bản
vô lương tâm, thiếu trách nhiệm, chỉ biết có trục lợi là trên hết.
Tôi không có ý coi rẻ hoặc khinh dể "Tân
nhạc", trái lại tôi rất thiết tha với "nó". Tôi cũng muốn được
nói ở đây tất cả những khuyết điểm, những thắc mắc của tôi về bộ môn này - vì
hiện tại chỉ có "Tân nhạc" là được phổ biến sâu rộng
trong quần chúng - may ra tìm cho "nó" một lối thoát để khỏi phụ lòng
tin tưởng của quần chúng đối với chúng ta - những nhạc sĩ "Tân nhạc".
Trước hết, tôi xin nêu ra đây một
vài khuyết điểm chính mà tôi đã vấp phải một cách cố ý trong những nhạc phẩm đã
xuất bản - cũng là khuyết điểm chung đối với nhạc sĩ tôi được quen biết mà tôi
không tiện nêu tên ra đây:
Trong bài "Bến duyên
lành" - Đã xuất bản và thu thanh vào đĩa - có hai khuyết điểm
chính không thể tha thứ được:
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjQTOv7ICZj1jk1eIaex3hwNOGF1FiEqHh-zsceLkev4ohxPsO60FMjc6hOc7xeHp7Lse7oiWp_R0MSgpC3hTIPZqv7Uj-Z4eSPeCLKwxYrer-iV310MqlIBbtDdu24UdRNS_4PMIG8mfns/s200/muaxuan.jpg)
b) Tôi chưa hề biết sông Đồng Nai
ra sao, thế mà tôi dám viết "mai về ngược sông Đồng Nai" Tôi
còn nhớ rõ tôi đã ngồi bên sông Sàigòn và đã nhìn chiếc chiến hạm của Mỹ để viết
đoạn này!...
Và trong những bản nhạc của tôi đã
được xuất bản, đã được yêu cầu nhiều lần trên đài phát thanh Sàigòn và Huế:
a) Lời ca xây dựng yêu đời - để được
đài cho phổ biến - nhưng nét nhạc thì ủy mỵ, sầu khổ ("Lúa về đêm
trăng" "âm cung mi thứ").
b) Lời ca của đoạn đầu và đoạn kết
nói lên những tình cảm yêu đương của cá nhân, nhưng đến đoạn giữa tôi lại cố ý
nhét vào một cách gò ép hình ảnh gian khổ hoặc hiên ngang của người lính chiến
để che đậy những tình cảm lãng mạn trong toàn bài ("Tình mùa hoa nở").
c) Nét nhạc gò ép theo tiết điệu -
nên khi đặt lời ca tôi đã bị lệ thuộc vào nét nhạc, gieo vần một cách gò bó,
nên khi hát lên nghe như hô vè:
... đôi bướm vàng/ nhởn
nhơ/ như quyến luyến
và cô gái làng/ ngẩn ngơ/ mơ tình
duyên (Nắng lên xóm nghèo)
Trái lại, những tác phẩm của một
vài nhạc sĩ biết tự trọng, có căn bản, học tập vững vàng đã được phổ biến rộng
rãi và mãi mãi in sâu vào lòng người. Trong số đó có anh Phạm-Duy, và một số
tác phẩm của anh, có nhiều bài hát mãi không chán, càng hát càng hay, càng thấy
thiết tha hơn tình quê hương đất nước. Có sự thành công rực rỡ đó là nhờ anh đã
sống thật, sống mạnh "trong giai đoạn gay go nhất của lịch sử",
cộng thêm vào đó là thiên tài cửa anh - dù theo định nghĩa thiên tài chỉ là một
sự kiên nhẫn trường kỳ, những tác phẩm của chúng ta lại đầu thai không nhằm
lúc, bị ảnh hưởng nhạc Âu-Mỹ một cách tội nghiệp do những đĩa hát ở
"ba", các rạp chớp bóng tung ra hằng ngày - thì ít nhất chúng ta phải
lo thu thập một vốn liếng tối thiểu về nhạc lý, trau giồi thêm về cổ nhạc, nuôi
dưỡng hồn nhạc dân tộc để những tác phẩm của mình khỏi bị mất gốc, lai căng, học
hỏi thêm ở sách vở, bạn bè (nếu không được đến trường) ở các
tác phẩm của các nhạc sĩ ngoại quốc. Có thế, may ra những tác phẩm của chúng ta
mới khỏi bị quần chúng đào thải một cách vội vàng, khinh dể, hay ít nhất để khỏi
mang tiếng là thất học, là kẻ chuyên bán rẻ nghệ thuật để sinh sống!
Trong rừng nhạc lãng mạn, ủy mỵ, giựt
gân treo nhan nhản ở các tiệm sách, tôi tìm không ra một bản để các em học sinh
có thể trình bày hợp ca hay hợp xướng. Nếu có thì cũng là những tác phẩm cũ của
các anh Phạm-Đình-Chương, Phạm- Duy, Lê-Thương. Ngay cả những bản đơn ca cũng
khó tìm. Tôi đã thấy một em bé lớp Tư của một truờng công Tiểu-học ở đây lên
Thông-tin trình bày bản "Kiếp nghèo" của LP. - trong
buổi phát thanh "Tiếng nói học sinh" - với một lối
diễn xuất như người lớn: tay để lên quả tim, nét mặt đau khổ - khi hát đến câu: "đôi
khi muốn nói yêu ai, nhưng lòng ngại ngùng". Cũng như ban Hợp ca Trung
học đã trình bày một cách gượng gạo, đáng thương bài "Bức họa đồng
quê" của V.P. trong buổi lễ phát thưởng cuối năm. Những tiếng "cha
cha cha" xen lẫn với những câu trời xanh xanh bao la, mây
trắng trắng trắng xóa. Sau đó lại có cả điệu hò lơ "Hò lớ hò lớ" nữa!
Thật là hổ lốn như một ly chè đặc biệt!
Tôi ước mong sao nhạc sĩ chúng ta
hãy nghĩ đến tương lai của các em, ra công sáng tác, viết những nhạc phẩm hợp với
tuổi trẻ, với tâm hồn trong trắng yêu đời của các em để khỏi có những sự lố bịch
đánh trách như trên. Tôi cũng mong sao chúng ta ra công viết những bản hợp ca,
hợp xướng có giá trị - như 3 bài "Hòn vọng phu" của
Lê-Thương,"Hội trùng dương" của Phạm-Đình-Chương, "Con
đường cái quan" của Phạm-Duy - để các ban văn nghệ học sinh trên
toàn quốc có đủ nhạc phẩm để trình diễn trong những buổi phát thanh công cộng
hay trong những buổi trình diễn văn nghệ ở học đường.
... Trong khi tập hát cho các em,
có một khuyết điểm - không hiểu có phải là khuyết điểm không - mà các nhạc sĩ
miền Nam và miền Trung thường vấp phải khi đặt lời ca cho các ca khúc.
Trong bài "Tình anh
lính chiến" cua L.P.: "Xuyên lá cành trăng lên lều vải" chữ
vải (dấu hỏi) viết dưới nốt Fa, # khi hát lên sẽ thành chữ vái (dấu sắc).
Trong bài "Chiều mưa
biên giới" của N.V.Đ.: "vầng trăng xẻ đôi" chữ
xẻ (dấu hỏi) viết dưới nốt Ré cao khi hát lên sẽ thành chữ xé (dấu sắc).
Trong bài "Nắng lên
xóm nghèo" của tôi: "em ước mơ những gì?..." chữ
những (dấu ngã) viết dưới nốt La thấp, khi hát lên sẽ thành chữ nhừng (dấu huyền).
Trái lại những nhạc sĩ miền Bắc nhờ
phát âm đúng giọng khi nói nên khi viết lời ca họ không gặp trở ngại trên.
Ví dụ: trong bài "Nương
chiều" của Phạm-Duy:
"...Chiều ơi, lúc chiều
về rợp những nương khoai, trâu bò về rợp mõ xa xôi ơi chiều..."
... chiều ơi áo chàm về quảy
lúa trên vai..."
(Theo ý chúng tôi nên thống nhất lối
phát âm bằng cách theo lối phát âm miền Bắc để khi hát lên lời ca nghe được rõ
ràng, dễ hát, dễ nghe).
Cách đây mấy năm trong bài giới thiệu
những nhạc phẩm của tôi, một bạn ở báo "Lẽ sống" dã khi rõ ước vọng của
tôi: "Sân khấu nhạc Việt trong tương lai phải đi đến chỗ trình diễn
những vở đại nhạc kịch".
Nếu chúng ta cùng đồng ý trên quan
niệm: ca nhạc cải lương không còn giữ được truyền thống của nền nhạc cổ điển mà
chỉ là một sự chắp nối cẩu thả, gượng gạo giữa nền nhạc cổ truyền và nền nhạc
ngoại lai - những bản nhạc cổ điển Việt Nam xen lẫn với những bản "cha cha
cha" "mambo" "twist" - thì sau hát bộ, chúng ta phải
tiến đến sáng tác và trình diễn những vở đại nhạc kịch để kế tiếp - nếu không
nói là thay thế - những vở tuồng cải lương sau này.
Để đi đến chỗ tập cho quần chúng
thưởng thức và ưa chuộng được những vở đại nhạc kịch, chúng ta phải dắt quần chúng
đi từng bước qua nhiều giai đoạn khác nhau. Trước hết, chúng ta tập cho quần
chúng nghe quen tai - họ thích cải lương vì tai họ nghe rành 6 câu - những bản
hợp ca, hợp xướng rồi đến tiểu ca kịch (opérette) (loại này anh
Lê Thương đã thử thách nhiều nhưng chưa có tiếng vang mấy) sau cùng mới
đến đại nhạc kịch (opéra). Có thế quần chúng mới khỏi bỡ ngỡ và sẽ làm quen dần
với lối trình diễn quá phức tạp và quá mới mẻ này.
Tôi rất phấn khởi khi thấy dàn nhạc
đại hợp tấu (orchestre symphonique) Sàigòn đã hình thành, vì
sau này chính nó sẽ góp một phần lớn trong việc phổ biến và trình diễn những vở
đại nhạc kịch Việt Nam.
Tôi chỉ xin ước hai điều:
1) Mong sao có những buổi trình diễn:
độc tấu về các nhạc khí, những buổi hòa nhạc, những ban hợp ca hoặc những vũ bộ
do các nghệ sĩ danh tài của các nước bạn đến trình diễn tại Sàigòn, Huế và những
đô thị khá lớn, như Đà Nẵng để quần chúng có dịp thưởng thức những tinh hoa nghệ
thuật của nước người (nhưng muốn được các nghệ sĩ ấy chiếu cố đến các
đô thị của ta, như Đà-Nẵng chẳng hạn, thì trước hết phải có một hí viện - đúng
nghĩa của nó - được xây cất ngay tại đây. Hiện giờ ở đây chỉ có "khu giải
trí" - nhà lao thời Pháp thuộc được phá đi để làm rạp hát - là nơi độc nhất
để các đoàn ca nhạc thay phiên nhau đến trình diễn).
2) Mở cuộc thi sáng tác âm nhạc có
tính cách quốc tế (như bên ngành Họa chẳng hạn) để khuyến
khích và nâng đỡ các nhạc sĩ ra công sáng tác những tác phẩm có giá trị nghệ
thuật lâu dài (những tác phẩm trúng giải sẽ được đem ra trình diễn trước
công chúng và được Văn-Hóa-Vụ xuất bản).
Đó chỉ là một điều ước!
Sinh năm 1927 tại Kiến Hòa (Bến Tre).
Tốt nghiệp viện Quốc gia Cao đẳng
Paris (Conservatoire National Supérieur de Musique de Paris); viện
Âm-nhạc Đô-thành Toulouse (Conservatoire Municipale de Musique de
Toulouse); trường Cao-đẳng Âm-nhạc, Vũ-thuật và Kich-nghệ Đô thành Paris (École
Municipale Supérieur de Musique, de Danse et de Déclamation de Paris) và
viện Quốc-tế Âm-nhạc Paris (Conservatoire International de Musique de
Paris)
Từ 1956, giám đốc trường Quốc-gia
Âm-nhạc và Kịch-nghệ Sàigòn kiêm Thanh-Tra Âm-nhạc Học-vụ tại nha Mỹ thuật Học vụ (bộ
Quốc Gia Giáo dục)
Phần trả lời của nhạc trưởng Nguyễn
Phụng
![http://www.hocxa.com/blob.gif](file:///C:\Users\User\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image005.jpg)
![http://www.hocxa.com/blob.gif](file:///C:\Users\User\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image005.jpg)
![http://www.hocxa.com/blob.gif](file:///C:\Users\User\AppData\Local\Temp\msohtmlclip1\01\clip_image005.jpg)
Đã từng theo dõi các cuộc phỏng vấn
Văn-nghệ của tập san Bách-khoa tôi đã tự nhiên nhận thấy mình có cảm tình với
cái tên hay đúng hơn là cái bút hiệu Nguiễn Ngu Í, mặc dầu tôi chưa được hân hạnh
quen biết ông. Cái cảm tình đó lại còn được phấn khích thêm nơi tôi khi tôi được
dịp làm quen với ông trong một phiên họp Ủy Ban Vận Động Lâm Thời Tổ Chức Đệ Nhất
Đại Hội Quốc-Gia Âm-Nhạc và Kịch- Nghệ. Từ mối giao cảm ấy, ông Nguiễn Ngu Í đã
đặt tôi vào tình trạng "bất khả kháng". Nghĩa là với một
tư cách xã giao đầy thanh lịch lại thêm cái tình cảm của tôi sẵn có đối với ông
Bạn, tôi đành nhận cuộc phỏng vấn như một tâm sự với người Bạn mới, với đầy ước
vọng của kẻ khát tình tri-âm, tri-kỷ.
Mặc dầu tôi không thích bày tỏ những
cái gì trực tiếp hay gián tiếp liên-hệ đến cá nhân mình, nhất là khi biểu hiện
cái bản ngã lại là một điều đáng ghét hơn nữa. Song, ngoài cảm tình riêng của
tôi đối với cá nhân bạn Nguiễn Ngu Í, để đáp lại thiện cảm của báo Bách-Khoa
cũng như xét về chủ tâm có lợi ích chung của Bách- Khoa đối với quý-vị độc giả,
tôi sẵn sàng vi phạm cái đặc điểm đó.
Tôi chuyên môn về nhạc Tây phương Cổ
lẫn Kim, nghĩa là từ thể nhạc Cổ điển, Lãng mạn cho đến nhạc phái hiện đại, tức
là thể nhạc Vô định Cung thể hay Nhạc Thập-nhị-âm (musique
Dodécaphonique, Sérielle hay Atonale). Sở trường chuyên nghiệp của tôi hẳn
là ngành sáng tác theo loại nhạc đại thể Tây phương mà người ta gọi tắt nó là
thể nhạc Cổ-điển Tây-phương, và ngành điều khiển ban Hòa-tấu nhạc (Direction
d'Orchestre). Đàn Dương cầm (Piano) và Đại phong cầm (Harmonium) là hai nhạc
khí mà tôi đã chọn để sáng tác và học tập bài bản.
Sáng tác ở đây có nghĩa là soạn viết
theo các thể nhạc (Formes musicales) có quy thức với 3 yếu tố
cấu tạo nó là: cơ cấu tiết nhịp và âm điệu (Structure rythmique et
mélodique), kết cấu hòa âm (Charpente harmonique) và phần
kết tấu nhạc(Orchestration).
Trước khi muốn học sáng tác và điều
khiển ban hòa tấu nhạc theo như định nghĩa tôi vừa trình bày xong và cũng theo
lời hướng dẫn của các vị nhạc sư của tôi, thì tôi đã học xong các học-khoa như:
Lý thuyết và thực hành nhạc pháp (Solfège et Théorie de la musique),
nhạc sử, phân tách và thẩm-mỹ-nhạc, Hòa-âm-pháp (Harmonie), Đối-âm-pháp (Contrepoint),
Âm-tẩu-pháp (Fùgue), Nhạc-cụ-học và thuật Kết-tấu (Instrumentation
et Orchestration) và đàn dương-cầm. Riêng về khoa sáng tác thì tôi được
huấn luyện từ kiến thức sáng tác đơn thuần như soạn những điệu khúc (Mélodie) cho
đến thể nhạc đại-ca-kịch (Opéra) thường được xem như giai đoạn
chót và tế nhị nhất trong khoa học sáng tác nhạc.
Ba nhạc sư đã huấn luyện tôi trong
giai đoạn đầu tiên tại Nhạc viện Đô-thành Toulouse (Pháp quốc) để chuẩn bị lên
Nhạc viện Quốc-gia và các trường khác ở Paris là Aimé Kunc, Edmond Gaujac (cả
hai đều là Khôi nguyên giải La-Mã) và bà A. Combaux.
Về sau, tôi lên Paris được hân hạnh
thụ giáo tiếp với các nhạc sư N. Gallon, cô J. Leleu và P. Lantier về các học
khoa hòa-âm pháp, đối-âm pháp và âm-tẩu pháp. Riêng khoa điều khiển dàn nhạc
thì tôi đã học với các nhạc sư Louis Fourestier và Eugène Bigot, về khoa bổ túc
sáng tác thì tôi đã được cái vinh dự thụ giáo với cố nhạc sư C. Koechlin và nhạc
sư H. Busser. Phần đông các nhạc sư đó đều là Khôi nguyên Giải La-Mã.
Trở về nước cuối năm 1954, tôi được
hân hạnh điều khiển ban Hòa-Tấu Nhạc do nha Vô Tuyến Truyền Thanh Quốc-Gia tổ
chức lần đầu tiên tại Việt-Nam nhân dịp Đại-Nhạc-Hội Mozart đầu năm 1956 và Đại
Nhạc Hội Hòa Tấu tháng 7 năm 1956. Đó thật là lần đầu tiên có một ban nhạc Đại
Hòa Tấu ở Việt-Nam. Trong năm 1955, nhân dịp đi dự Đại Hội Âm nhạc địa phương
Đông Nam Á tại Manille, tôi có điều khiển ban nhạc Đại Hòa Tấu Đô Thị Manille (Manyla
Symphony Orchestra) với sự hợp tác của Dương cầm thủ là Thái Thị Lan
(tức bà Nguyễn Văn Tỵ) và trình tấu nhạc khúc Tết Nguyên Đán của chính bà ấy soạn
cho dương cầm và dàn nhạc lần đầu tiên tại Đông Nam Á.
Từ đó đến giờ, tôi vẫn tiếp tục để
tâm phục vụ ngànn giáo dục âm nhạc và kịch nghệ; ngoài việc ấy ra tôi cũng chú
ý đến việc sáng tác các loại nhạc thính phòng (Musique de Chambre),
nhạc hòa tấu và đôi khi cũng có nghĩ đến loại nhạc phim. Hiện nay tôi đang lo
hoàn thành một Khai tấu khúc (Ouverture) nhan đề là
"TRƯNG NỮ VƯƠNG" mà tôi hy vọng sẽ được trình bày tại Tokyo trong kỳ
Đại-hội Giáo dục Âm nhạc sắp tới cùng với một số nhạc phẩm khác của một vài bạn
đồng nghiệp, vì hiện nay ở đây còn thiếu phương tiện trình tấu.
Theo ý tôi thì không nên thiên về
cái gì một cách quá đáng, nhất là đối với nước nhà là một quốc gia có những nhạc
phong (Traditions musicales) hẳn hoi, do đó tôi thiết nghĩ nên
phổ biến quốc-nhạc cổ-truyền từ các điệu dân ca và kể cả nhạc địa phương như của
các người Việt gốc Chàm, Kinh, Thượng v.và để bảo tồn cái vốn căn bản về nhạc
nghệ dân tộc và đặt nó làm yếu tố tinh thần cho mọi sự phát triển, sáng tạo nghệ
thuật của ta như một thứ bản mầu (palette) phong phú về dân tộc
tính mà ta cần phải có, nếu không muốn tiến bộ theo đường lối suy vong, thoái
hóa, tuyệt hậu. Đồng thời cũng nên phổ biến rộng rãi nhạc ngoại quốc nói chung
và nhạc cổ điển Tây phương nói riêng để mở mang kiến thức nghệ thuật thêm,
không riêng gì cho giới Nhạc chuyên nghiệp mà nhất là cho quần chúng. Nghe để
mà tìm tòi học hỏi cái hay của nước ngoài với dụng tâm nghiên cứu những gì có
thể áp dụng cho thích ứng với việc phát triển nghệ thuật nước nhà.
Trước khi nói đến vấn đề huấn luyện
hay đào tạo nhạc sĩ, tôi thấy cần nêu ra một vài đặc điểm về cái danh từ
"Nhạc Sĩ".
Từ lâu nay tôi cảm thấy người ta
hay ngộ nhận nếu không nói là lạm dụng quá bừa bãi các danh từ nhạc công, nhạc
sĩ, nhạc sư. Tôi thiết tưởng anh em mình nên định nghĩa những danh từ đó lại để
cho danh chính ngôn thuận, đồng thời cho giới nhạc của ta không còn những cái mặc
cảm lố bịch, những thiển kiến đánh tiếc nữa:
Danh từ "Nhạc sĩ" có
một định nghĩa sâu rộng, nó có thể chỉ định một người học âm nhạc (Sĩ tử
+ Âm nhạc) mà thường lệ người ta cũng dùng nó đối với những người có học
thức về âm nhạc, hiểu biết nghệ thuật âm nhạc (Như người ta dùng các
danh từ: Văn-sĩ, Họa-sĩ, Thi-sĩ, Ca-sĩ, v.và). Nó có một định nghĩa bao
quát, nghĩa là ai biết nhạc lý, biết ca hát, biết đánh đàn, biết thổi kèn, biết
dạy nhạc, biết soạn nhạc v.và cả thảy đều có thể gọi là "Nhạc-sĩ",
tương tự như danh từ Pháp "Musicien".
Gọi là "Nhạc
công" hay "Nhạc thủ" là chỉ rõ những
người chuyên về âm nhạc, có thể chuyên môn ca xướng, đánh đàn, thổi kèn, đánh
trống, gõ phách, có thể xem đồng nghĩa với danh từ Pháp "Chanteur" hay "Instrumentiste".
Nó có một định nghĩa rõ rệt hơn chữ "Nhạc sĩ". Tất cả nhạc
sĩ không phải đều là nhạc công hay nhạc thủ mà ngược lại 2 danh từ chót này có
thể được gọi chung là "Nhạc-sĩ".
"Nhạc sư" có một ý
nghĩa rõ rệt để chỉ định người làm thầy dạy nhạc, hay gọi tắt là giáo sư âm nhạc,
cùng một nghĩa với danh từ Pháp "Professeur" hay "Maitre".
Tóm lại, các nhạc công, nhạc thủ và
nhạc sư đều có thể gọi chung qui là "Nhạc- sĩ". Một
"Nhạc công" hay "Nhạc thủ" nếu không dạy nhạc hoặc chỉ biết
đàn, ca thì không thể gọi là "Nhạc-sư". Ngược lại, hầu hết các
"Nhạc-sư" đều phải, trước nhất là một nhạc công hay nhạc thủ. Có như
vậy tôi mới đề cập vấn đề huấn luyện hay đào tạo "Nhạc sĩ" một cách
minh bạch.
Theo ý tôi, muốn huấn luyện hay đào
tạo một "Nhạc-sĩ" một cách tiện lợi và hiệu nghiệm nhất là phải bắt đầu
công việc ấy ngay từ căn bản khai tâm càng sớm càng hay. Khi bước vào giai đoạn
thử thách chuyên nghiệp, nhất định là họ phải có một vốn tối thiểu về khái niệm
âm nhạc, về học-khoa chuyên môn mà họ đã chọn, trên phương diện thực hành cần
hơn là lý thuyết. Từ đó ta phải tạo cho họ một căn bản vững vàng từ lý thuyết đến
thực hành và từ kỹ thuật đến mỹ-dục (giáo dục thẩm mỹ).
Mặt khác, tôi cũng xin nhấn mạnh ở
một điểm mà thường người ta hay quan niệm sai lầm là học nhạc không cần quan
tâm đến học chữ. Ngược lại, kinh nghiệm đã cho phép tôi quả quyết rằng: muốn tiến
xa trong lãnh vực nghệ thuật âm thanh, muốn diễn tấu cho tuyệt hay, muốn sáng tạo
về âm nhạc, người học nhạc cần phải biết sáng suốt dung hòa cả hai phương diện
trí dục và mỹ dục, nói rõ hơn là sự trau giồi kiến thức âm nhạc phải đi đôi với
học vấn phổ thông.
Đối với quần chúng, lại là một vấn
đề phức tạp và tế nhị hơn nhiều, bởi vì nó bao hàm nhiều phần tử, nhiều giới
khác nhau về tuổi tác, khác nhau về sinh hoạt nghề nghiệp, khác nhau về trình độ
học thức, chưa nói đến địa phương tính. Do đó vấn đề phổ biến kiến thức âm nhạc
đối với họ cũng phải có tính cách đại chúng, nghĩa là phải thích ứng với đời sống
thật và đang tiến triển của nó.
Muốn giúp cho quần chúng hiểu được,
nghĩa là biết thưởng thức và ưa thích âm nhạc điều cốt yếu và cần thiết là phải
cho nghe nhạc thật nhiều và thường xuyên theo một chương trình chọn lọc kỹ càng
từ hình thức đến nội dung, từ cái dễ (cái dễ ở đây có nghĩa là dễ hát,
dễ nghe, dễ nhớ và dễ bắt chước) đi dần dần đến cái khó và đồng thời,
nếu được, cũng nên phổ biến theo cách thức thính thị tức là nghe và thấy cùng một
lúc (phim ảnh hoặc các buổi trình tấu Nhạc thật sự).
Đó là nói về quần chúng, còn riêng
đối với giới trẻ thì ta cần đặt vấn đề khai tâm ngay từ các Vườn trẻ con (Jardin
d'Enfants), từ các Học đường mẫu giáo, Tiểu học đến Trung học.
Hiện nay ở nhiều nước tiên tiến vẫn
có chương trình âm nhạc cho các giới Cao học hay Đại học phổ biến dưới hình thức
tích cực thực hiện các cuộc trình tấu Nhạc, nghe dĩa hát, dự thính các buổi
thuyết trình và các cuộc hòa nhạc hay hợp ca. Về phương diện chuyên môn thì có
nhiều nơi đã đặt ra những chứng chỉ hay cấp bằng về Nhạc học như bằng Tiến sĩ
Nhạc học (Doctorat en Musicologie) ở Đại học đường La Sorbonne
của Pháp, hay những bằng cấp về Cao học Âm nhạc như bằng "Doctor
of Music" của Mỹ, Anh, Đức, Nhật, Phi Luật Tân v.v...
Nói đến vấn đề phổ biến Nhạc, bất cứ
là Quốc nhạc cổ truyền hay Nhạc Tây phương hoặc nhạc Việt soạn theo thể Âu-Mỹ,
với mục đích giúp cho quần chúng biết thưởng thức và ưa thích nó, tôi muốn nhắc
lại một lời nói rất tinh vi của nhạc sĩ Anton Rubinstein: "Người
ham chuộng Nhạc thì trau dồi Nghệ thuật vì sở thích của họ, còn người Nghệ sĩ
thì lại trau dồi nó vì sở thích của kẻ khác: đó là sự dị đồng chủ yếu mà người
ta không thể bỏ mất quan điểm ấy mỗi khi ta nhận xét cả đôi bên".
Tóm lại, muốn học Nhạc, ta phải biết
nghe Nhạc trước đã, cũng như muốn trở thành một Nhạc thủ diễn tấu xuất sắc, trước
tiên ta phải là một thính giả tuyệt hảo.
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiNYgIAypKgZyLM3MCHtgFAlVkL7qqQKnF6-E9ugUWzmI2sX4AiyKwix-8nfSS0jfU4597i_EP9qggYfpaGG3UMpBpfMH8Ho9sEE5KbIMFrydknBvzRrIGIEh5mHuedr0EWqEjceHtsOJzi/s200/NEUNHU.jpg)
Chung qui tôi nhận thấy, bây giờ
hơn lúc nào hết, ta cần phải có một tổ chức bao quát có thẩm quyền vạch ra
chính sách phát triển Nhạc nghệ theo một đường lối có quy thức rõ rệt. Từ cơ
quan đó ta sẽ tiến đến các tổ chức nghề nghiệp (Organisation
Professionnelle) để hướng dẫn và bảo vệ quyền lợi cho giới nhạc sĩ.
Tôi không muốn lâm vào ảo mộng để
mà ước ao việc thành lập viện Hàn lâm Mỹ thuật, nhưng tôi thiết tưởng ngay từ
bây giờ ta cũng có thể thiết lập một Tổng nha Văn nghệ (Direction
Générale des Arts et Lettres) đặt trực thuộc một Bộ nào có thẩm quyền.
Tổng nha này có nhiệm vụ chăm lo mọi sinh hoạt âm nhạc trên toàn quốc, từ
phương diện sáng tác đến trình diễn hay các tổ chức liên hệ có lợi ích chung.
Riêng về lãnh vực Kịch nghệ và Âm nhạc, Tổng nha này sẽ có cơ quan đặc trách về
hoạt động trình diễn và Âm nhạc (Direction des Spectacles et de la
Musique).
Dĩ nhiên là có một tổ chức như vậy
cũng chưa phải là đủ, nếu ta chỉ nệ hình thức mà không vụ vào tính cách sinh hoạt
tích cực, liên tục và có hiệu quả thiết thực, bổ ích; hơn nữa điều cương yếu
cũng không phải ở số lượng mà tổ chức đó cần phải hoạt động có thống nhất, có
đường lối, có phương sách thích hợp với năng lực kỹ thuật cũng như phương tiện
và điều kiện hiện hữu về tinh thần lẫn vật chất và đừng áp dụng những phương
cách không tưởng để gọi là hướng dẫn hay nâng đỡ Nhạc sĩ.
Có như vậy chúng ta mới mong tiến bộ
được thật sự và xứng đáng với trào lưu tiến hóa của Nhạc giới Quốc tế hiện đại.
Được như vậy chúng ta mới mong đặt được vấn đề phát triển Âm nhạc cho hợp tình,
hợp lý với nhu cầu kiến quốc hiện tại của Nhân dân, và đồng thời chúng ta sẽ
không còn cái cảm tương buồn thẹn trước sự tiếp diễn của một sinh hoạt mà hầu hết
hậu quả đều mang hình thức "Đuôi cá" (En queue đe poisson) hay "Đầu
voi đuôi chuột".
Cũng bởi tình trạng khuyết thiểu đó
mà tôi cùng một nhóm anh em đề xướng việc xin Chính phủ giúp gỡ cho giới Nhạc tổ
chức một Đại-hội Quốc-gia Âm-nhạc và Kịch-nghệ có tính cách toàn quốc trong một
tương lai gần đây để đi đến việc thiết lập một Ủy-hội Quốc-gia Âm-nhạc (Comité
hay Conseil National de la Musique), trong đó sẽ có hầu hết các tổ chức nghề
nghiệp cần thiết liên hệ.
Nêu ra những khuyết điểm quá hiển
nhiên, đó là ngoài dụng ý chỉ trích hay chê báng một cách vô ý thức hay bất chấp
tinh thần trách nhiệm của giới có thẩm quyền trong sinh hoạt Âm nhạc, cốt nhất
tôi muốn nhận định cái "Dở" để mong kiến tạo được cái "Hay"
cho tương lai. Tôi chỉ ước mong một sự thành tâm giác ngộ của toàn giới thẩm
quyền Âm nhạc để đồng tâm, hiệp lực kiến tạo một tương lai vẻ vang, huy hoàng
cho Nhạc nghệ nước nhà. Sự ước mong của tôi có lẽ cũng là nguyện vọng cửa tất cả
những phần tử ý thức của mọi từng lớp Nhân dân, tất cả những người quan tâm và
tranh đấu cho sự hình thành một xã hội Văn-nghệ- Mới. Bởi tất cả chúng ta không
quên lời nhận xét xác đáng của Đức Khổng Tử, cách đây mấy ngàn năm: "THẨM
NHẠC DĨ TRI CHÍNH".
Nhạc sư
NGUYỄN KHẮC CUNG
Sinh năm 1921 tại Phát Diệm, tỉnh
Ninh Bình (Bắc Việt).
Học vĩ cầm từ năm 1933.
Độc tấu vĩ cầm nhiều lần ở nhà Hát
lớn Hà-Nội, ở trường Đại-học Hà-Nội (từ 1939 trở đi).
Sáng lập trường Trung học Chu Văn
An và dàn nhạc tỉnh Hà Đông.
Cộng tác với dàn nhạc Tổng hội Sinh
viên (từ 1940), dàn nhạc hội Khuyến nhạc (1943), dàn nhạc "Quán Nghệ
sĩ" do nhạc sĩ Nguyễn Văn Diệp điều khiển (1946).
Học vĩ cầm ở Nhạc viện Quốc tế (Conservatoire
International). Ở trong dàn nhạc Đại hòa tấu Paris (l951).
Tốt nghiệp khoa Sư phạm Vĩ cầm và
môn Thẩm mỹ Âm nhạc (Esthétique Musicale)năm 1953.
Cộng tác với đài phát thanh Pháp.
Trình bày những sáng tác: Bóng
trời Việt-Nam, Dạo đàn, Nhớ quê, Kim-Trọng Thúy-Kiều, Hồn bướm mơ tiên tại
phòng hòa nhạc Érard, phòng Société savant (trong các năm 1954, 1955,
1956).
Học hòa âm, đối âm với nhạc sư
Pierre Lantier, khôi nguyên giải La-Mã (1er Prix de Rome).
Học môn sáng tác, được giải nhất
Sáng tác âm nhạc ở trường Cao đẳng Âm nhạc Paris (l956).
Đã từng qua Ý, Y-pha-nho, Đức, Áo để
nghiên cứu thêm về nhạc.
Cuối năm l956, về nước và làm giáo
sư trường Quốc-gia Âm-nhạc, phụ trách môn Vĩ cầm (từ 1956) và môn sáng tác (từ
1961).
Phần trả lời của nhạc sư Nguyễn
Khắc Cung
Tôi định tìm một câu gì để trả lời
câu: "Mưa bão như thế này mà anh cũng chịu khó đến, làm tôi áy
náy; đáng lý tôi đến anh mới phải" nhưng trong phòng khách gọn
gàng, thân mật, bức tranh ấm áp treo ở tường êm, tượng trắng bán thân của
Beethoven mơ màng trên kệ sách, chiếc dương cầm Pleyel trầm ngâm trong một góc
và nhất là gương mặt hiền hòa với cách tiếp đón bạn bè của người chủ nhân nghệ
sĩ ấy khiến tôi chỉ có mỉm cười để đáp lại.
Rồi, để tôi có một ý niệm chung về
nguồn cảm hứng và đường lối sáng tác của anh, anh nhờ chị đàn dương cầm vài đoạn
trong bản Kim-Trọng - Thúy-Kiều và Bóng trời Việt-Nam,
còn anh thì đờn vĩ cầm.
Xong, anh lại ngồi cạnh tôi, và đôi
mắt anh như hỏi; "Anh nghĩ sao?".
- Lỗ tai tôi vốn phàm phu tục tử,
nên tôi chỉ biết nói với anh là nghe nhạc anh, tôi không cảm thấy lạc loài. Có
cái gì quen thuộc như thể từ lâu, mình chưa thấy thân ngay nhưng đã thấy có cái
gì dễ mến.
Anh cười nhẹ. Tôi hớp miếng nước
cam rồi bắt đầu "vấn" anh.
- Anh theo nhạc Tây phương, nhưng
sao các sáng tác của anh lại bắt nguồn ở cổ nhạc của ta. Tôi có nghe được điệu
Lưu-thủy và giọng hò...
Anh ngước nhìn tôi:
- Vô tình anh bắt tôi phải nói đến
cái tôi, một điều mà tôi ngại nhất.
- Chẳng riêng gì anh! Nhưng tự mình
đem cái tôi ra để "ta đây" thì "cái tôi" ấy quả là khó
thương Còn có ai hỏi, mình trả lời, để giúp người hiểu nghệ thuật của mình thêm,
thì "cái tôi" ấy đâu có gì đáng ghét.
Chắc rằng lý luận của tôi không
"ngu" mấy, anh từ tốn cho biết thuở nhỏ, anh sống gần người bác giỏi
về cổ nhạc, và anh thường quấn quýt theo bác để được nghe tiếng đàn nguyệt; anh
chịu ảnh hưởng nhạc cổ từ lúc còn thơ: nên sống ở nước người, khi thấy cần sáng
tác, là y như hồn nhạc cũ trỗi lên.
Anh hơi nghiêng về phía tôi:
- Lúc mới sang Pháp, tôi ngại mình
có thể bị nhạc Tây phương quyến rũ mà mất gốc, nên phải chạy tìm mua lại những
đĩa cổ nhạc của ta, và tìm cách để nghiền ngẫm cổ nhạc.
- Chắc là sách Pháp.
- Chính thế. Mà sách Pháp nói về nhạc
ta có thể đếm được trên đầu ngón tay. Rồi anh đứng dậy, lại kệ sách lấy một quyển
dầy, hơi cũ, lật tìm rồi chỉ cho tôi xem:
- Chẳng hạn như đây: "Lịch-sử
âm nhạc Đông-Dương", do Gaston Knosp trình bày.
- Và quyển này là quyển...
"Bách khoa tự điển về âm nhạc" của
Lavignac. Anh cũng hiểu người Pháp mà nói về nền nhạc cổ truyền của mình cách
đây khá lâu - từ đầu thế kỷ này! - Làm sao khỏi thiếu sót và sai lầm. Nhưng
mình đâu có thể đòi hỏi hơn, được cái gì quý cái nấy.
Anh nghĩ xem: sống ở nước người,
chuyên chú học và nghiên cứu nhạc Tây phương, đằng đẵng chín năm trời, mà tôi vẫn
trở về nguồn cổ nhạc mỗi khi sáng tác, thì tôi không tin như vài bạn, rằng phổ
biến nhạc Tây phương sẽ làm cho ta mất gốc.
"Những bạn khác cũng như tôi,
học nhạc Tây phương không vì nhạc Tây phương, mà vì nhạc Việt. Rút những kinh
nghiệm, những cái hay cái mới của họ để rồi bồi đắp phát triển cái vốn cũ của
mình cho nó phong phú hơn. Chớ còn mình học theo họ rồi sáng tác như họ, thì
khó mà bằng họ. Ta làm sao cảm nghĩ như họ, vả lại tâm hồn họ đã được thấm nhuần
nhạc đất nước họ qua bao nhiêu thế hệ và từ mấy ngàn năm rồi".
- Thế đối với Tân nhạc
- Tôi vẫn có cảm tình, nhưng tôi
cho thế vẫn còn chưa đủ. Tôi sẽ xin nói rõ sau.
"Tôi thấy dường như có mối bất
hòa giữa một số anh em theo ngả Tân nhạc và anh em theo ngả nhạc Tây phương;
các anh em sau này có ý coi rẻ các anh em trước, cho rằng loại nhạc ấy "ai
cũng làm được", không tốn công mấy, chẳng giá trị gì.
- ... như một món ăn chơi, có cũng
được mà không cũng được?
Anh cười:
Tôi không dám so sánh thế. Còn anh
em ngành Tân nhạc thì lại coi thường anh em ngành nhạc Tây phương cho đó là những
người tự phụ, mất gốc mất rễ, đi xa quần chúng...
"Tôi thấy hai bên đều có phần
quá khích. Tân nhạc đâu chỉ toàn sản xuất những điệu nhạc ngoại lai mô phỏng một
cách vụng về hay khéo léo. Và anh em ngành nhạc Tây phương đâu phải chỉ có biết
đem những Mozart, Beethoven, Bach giới thiệu với đồng bào và chỉ làm những bản
nhạc Tây cho Tây nghe. Bà Thái thị Lan (tức bà Nguyễn văn Tị) được
hoan nghênh ở Âu-Mỹ gần đây với những bản nhạc lớn bắt nguồn ở cái vốn cổ nhạc
của dân tộc, cũng như các anh Thẩm-Oánh, Hoàng- Quý, Lưu-Hữu-Phước với những ca
khúc về thanh niên, lịch sử trước kia cũng đủ cho ta thấy giá trị và sự cần thiết
của hai ngành".
Anh ngừng nói để đốt thêm một điếu
thuốc. Tôi nhắc:
- Lúc nãy, anh có hứa sẽ nói rõ ý
kiến của anh về Tân nhạc.
- Loại Tân nhạc, có thể ví như những
căn nhà nho nhỏ, xinh xinh. Rất cần cho cuộc sống đấy. Nhưng vì nó nho nhỏ, nên
nó thường không được thọ, sớm bị thời gian đào thải.
"Và cũng vì nó nho nhỏ mà người
"khai sanh" ra nó khó bề mà đem tất cả khả năng của mình mà thi thố.
"Những gian nhà nho nhỏ xinh
xinh ấy cần phải có, mà cũng cần phải có những công trình kiến trúc lớn lao, bề
thế để có thể lưu lại đời sau. Tự nhiên là những công trình dài hơi này phải
mang bản sắc Việt-Nam hòa hợp với kỹ thuật tối tân, hợp với khung cảnh đất nước
mình.
Cho nên tôi mong được thấy xuất hiện
nhiều bản nhạc lớn như các bản của bà Thái thị Lan (tức bà Nguyễn văn Tị), của
anh Ngiêm-Phú-Phi. Những bản nhạc lớn có bố cục, có phần mở đầu, có phần khai
triển, có phần kết thúc, trong đó ta được thấy công phu tìm tòi, tài sáng tạo của
người nghệ sĩ thời nay với hồn quê muôn thuở".
- Trong khi chờ đợi, thì những bản
nhạc lớn có tánh cách dân tộc người "thường thường bậc trung" có thể
hiểu và thích như "Bóng trời Việt-Nam", "Kim-Trọng - Thúy-Kiều"
của anh lại đành nằm ngủ trong ngăn kéo.
Anh cười vui vẻ và tin tưởng:
- Nhưng mà chúng chẳng ngủ một giấc
ngủ ngàn năm đâu. Hiện có đôi dàn nhạc có hỏi tôi cũng như hỏi các bạn khác những
bản nhạc lớn để tập tành. Vả lại mỗi năm, có một số nhạc sinh thành tài, đó là
những người sẵn sàng để giới thiệu những công trình dài hơi. Cho nên dù hiện tại
còn chưa sáng sủa, nhưng tôi thấy tương lai vẫn hứa hẹn nhiều.
Không hẹn mà chúng tôi cùng nhìn ra
cửa sổ. Mưa còn rơi, nhưng cơn bão đã qua rồi.
Sinh ngày 7-11-1923 tại Hà Nội.
1931: học
solfège và chơi đàn mandoline.
1937: Học
Violon (Giáo-sư: Bà D'Encausse de Ganti tại Hà-nội).
Hoạt động: Đệ nhất vĩ-cầm (1er
violon) trong ban nhạc của Tổng hội Sinh-viên.
Trình diễn nhiều lần tại nhà Hát lớn
Hà-nội.
1939: Trình diễn
tại vườn Tao-Đàn (Sài-gòn) trong khuôn khổ chương trình "Thanh-niên
thể-thao và thể-dục" và tại nhà hát lớn Sài-gòn.
1945-1950: Diễn
thuyết và trình diễn Âm nhạc diễn giải do Tổng hội Sinh-viên tổ chức.
1950-195l: Học
Violon tại Ecole Supérieure de Musique de Paris. Giáo sư: Bà Talluel.
Répétitrice: Mademoiselle Bach.
1951-1955: Học
Violon tại Conservatoire International de Musique Paris. Giáo sư: Maitre Firmin
Touche. Répétitrice: Mademoiselle Calvez.
Tham dự: Orchestre de Chambre -
Firmin Touche - Orchestre Symphonique de l'Univerité de Paris.
Tưởng thưởng: 2 Seconds Médailles -
1er prix Concours International Violon Léopold Bellan Paris 1953.
1955: Về Việt-Nam.
1956: Sáng lập
viên Việt-Nam nhạc hội - Hoạt động trình diễn tại Đài Phát Thanh - Đề tài: Âm
nhạc cổ điển Tây phương dẫn giải.
1957: Chủ-tịch
Việt-Nam nhạc hội.
Thành lập ban nhạc Đại Hợp Tấu
Saigon với sự cộng tác của các Nhạc Trưởng: Nguyễn Phụng (VN), Đỗ Thế Phiệt
(VN), William Strickland (Hoa-Kỳ), Wneller Beckett (Hoa-Kỳ), Otto Soellner (Đức
quốc).
Chủ tịch Association des Amis
Internationaux de la Musique.
Tổ chức nhiều cuộc hòa nhạc và
trình tấu ở Sàigòn - Quaivor à cordes: Bà Jacqueline N.V. Huấn; ông Nguyễn văn
Huấn, Vĩ cầm; ông Nguyễn Quý Lãm, Hồ cầm; ông Robert
Hofmakler, Trung Hồ cầm; Virtmosi di Roma, Nielzius, pianiste v,v..
Phê bình nhạc cho V.T.X.
Phần trả lời của nhạc sư Nguyễn Văn
Huấn
- Xin anh vui lòng cho biết
anh chuyên về nhạc gì?
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhqMWHP2XpP-O130b2s_G0ZadtG9HSaUeAdXbnAVef2fFKUOKRjPi-IjoVoW948SHhszPqEdu7vHW7tL8Lk0tIWB_gckULTuAU87IX3hKoyJc05skIngpzVsMpN2LYMWmyVq0fCPV5d94iI/s200/nghe-va-cam-nhan-loi-bai-hat-tri-ky-phan-manh-quynh-hinh-anh-4.jpg)
Hiện nay tôi phụ trách mục bình luận
âm-nhạc phần Pháp ngữ Việt-Tấn-Xã.
- Chúng tôi được biết anh
đã học âm-nhạc ở Paris và anh đã được phần thưởng về âm nhạc ở bên đó. Vậy xin
anh cho biết anh học nhạc từ bao giờ, được huấn luyện ở Pháp thế nào và đã được
những phần thưởng gì? Sự nặng tình với âm nhạc trong trường hợp của anh có phải
là ngẫu nhiên chăng?
- Tôi được cái may mắn học nhạc từ
thuở bé, lúc mới lên tám. Ấy cũng nhờ cổ điển Tây-phương Rồi khi học chữ đến bậc
Trung-học, tôi được học vĩ cầm với một Bà Giáo dạy nhạc người ngoại quốc. Tôi ở
trong ban nhạc của Tổng Hội Sinh viên và góp phần vào những cuộc nói chuyện và
biểu diễn âm-nhạc. Năm 1950 tôi sang Pháp, học âm-nhạc tại Âm-Nhạc-Viện Quốc-Tế
là một trường dạy nhạc tư thục Ba- Lê được sự chỉ dẫn của một vị Giáo-sư danh
tiếng, nhiều kinh nghiệm chuyên về âm-nhạc thính phòng (musique dễ
chamber).
- Tại sao anh không chọn một
thứ đàn nào khác mà chuyên về violon (vĩ cầm)? Câu hỏi của chúng tôi có tò mò
quá chăng?
- Tại sao tôi lại chơi violon mà
không chơi đàn khác? Không đâu, câu anh hỏi không có gì khó trả lời cả. Chính
nhờ anh hỏi thế mà tôi mới có dịp đưa ra một thiển kiến về vấn đề giáo dục
âm-nhạc quần chúng.
Tôi nghĩ chẳng có ai dám tuyên bố rằng
mình sinh ra đã có khiếu về nhạc ngay. Hồi xưa cha tôi có mua được một bộ dĩa
hát máy của một người Pháp để lại trước khi về nước. Người Pháp này vốn thích
violon nên mua toàn dĩa nhạc cổ-điển do các nhà vĩ cầm danh tiếng diễn tấu. Và
vì thế, mà tôi mê tiếng đàn violon; mê đến đỗi khi tôi khóc, cha tôi cho nghe
dĩa là tôi nín. Và sau đó, hễ khi tôi làm điều gì đáng thưởng, là cha tôi lại
cho quay những dĩa tôi thích nhất.
Khiếu thẩm âm của tôi nhờ đó mà
phát triển.
Kinh nghiệm bản thân này khiến tôi
có ý nghĩa như sau về vấn đề này:
Làm sao cho công chúng thích nhạc.
Đó là: Chỉ cho công chúng được dịp nghe những bản nhạc hay, những bản nhạc cổ
điển có một giá tri khá vĩnh viễn mà thời gian đã không làm giảm đi chút nào của
V.N. cũng như của Tây phương.
Nước Nhật đã làm như thế và kết quả
thật là mỹ mãn.
Tôi không đồng ý với những vị có
trách nhiệm phổ biến âm-nhạc đã không có can đảm dẫn dắt quần chúng, mà lại chiều
theo thị hiếu của họ, chỉ quan niệm phổ biến nhiều loại nhạc giải trí, tức là
loại nhạc nhẹ về nghệ thuật.
- Anh được đào tạo tại các
trường nhạc Tây-phương, vậy anh có lưu tâm đến cổ- nhạc Việt-Nam không?
- Tôi nặng tình với cổ điển Tây
Phương, vì tôi "xuất thân" từ cái lò ấy. Nhưng không phải vì thế mà
tôi lơ là với cổ nhạc Việt đâu. Nói thật, anh đừng lấy làm lạ, bản nhạc Việt
tôi thích nhất là bản "Sa mạc". Con người thích nghệ thuật
trong tôi khi nghe bản nhạc này, thì cả tâm hồn xao xuyến, và tôi bắt gặp mình
nghĩ: "Nhạc này với mình vốn một nguồn, một gốc mà ra".
Cho nên tôi thấy cần tìm hiểu nhạc cổ của mình, nhưng vì hoàn cảnh không có mà
cũng không thuận, đành chịu bó tay. Đó là bi kịch của anh em cùng trường hợp với
tôi. Lại còn một nỗi, tài liệu về cổ nhạc của ta quá đỗi hiếm hoi. Ít ai được
cái may mắn như anh Trần văn Khê ở trong một gia tộc nội, ngoại đều thấm nhuần
cổ nhạc.
- Chúng tôi được biết anh
đã cực nhọc nhiều trong việc xây dưng dàn nhạc Đại Hòa Tấu Sàigòn. Vậy xin anh
cho biết tình trạng hiện thời và những hoạt động của Dàn Nhạc Đại Hòa Tấu đó.
- Dàn Nhạc Đại Hòa Tấu Sàigòn sau mấy
năm hoạt động với sự cộng tác cửa nhiều nhạc trưởng ngoại quốc, hiện nay chưa
hoạt động trở lại mạnh mẽ được vì một phần anh em nhạc sĩ tản mác, ra Huế cộng
sự với trường Âm-nhạc mới được thành lập tại đó, một phần vì thiếu phương tiện
vật chất. Thật là đáng tiếc.
Hiện nay, nhờ sự cộng tác của một số
nhạc sĩ, chúng tôi còn tổ chức được một vài ban nhạc thính phòng (orchestre
musique de chambre) và đã trình diễn trong khuôn khổ âm nhạc diễn giải
tại Câu Lạc Bộ Sinh Viên "Phục Hưng" (Cercle Renaissance) vào
cuối năm 1962, tại Học Viện Quốc Gia Hành Chánh đầu năm nay.
- Xin anh cho biết ý kiến về
hiện tình và tương lai nghệ thuật nhạc tại Việt-nam.
- Hiện tình âm nhạc nước nhà chưa
có vì hứa hẹn lắm. Còn tương lai thì còn tùy ở sự nâng đỡ tích cực của mọi giới,
sự đòi hỏi sáng suốt của dư luận.
Phần tôi, điều tôi mong nhất là có
một dàn nhạc hòa tấu hoạt động đều đặn và một rạp dành riêng cho những buổi
trình diễn âm nhạc.
Nguyễn Ngu Í
Nguồn Tạp
chí Bách Khoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét