Nhớ
Phạm Đình Chương
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiqKpEbUf61_pCMjrLV7hv_twZ_E0pKagaJNBDnJWeoT36cyd8OZOkwcZwgF2EwXVkbfy1p35vU05YnffHnGfcEhxKXtML_D58NSEa97GAtYoo_IOUYZcjGCrikNH5Ks9V2VwEO8RGhzgyM/s200/PhamDinhChuong.gif)
Tới
Hoa Kỳ được ít năm, Phạm Đình Chương từ trần tại Quận Cam, California vào ngày
13 tháng 7 năm Tân Mùi, nhằm ngày 22 tháng 8 năm 1991. Bài dưới đây của nhà bỉnh
bút Phan Lạc Phúc, hay Ký giả Lô Răng, một bạn học của nhạc sĩ từ Trường Bưởi,
được viết ngay sau khi có tin buồn.
Chuông điện thoại réo lên trong đêm khuya. Một cú phone từ
bên kia Thái Bình Dương, từ Mỹ báo tin: "Phạm Đình Chương đã mất rồi, Hoài
Bắc không còn nữa". Tôi đặt phone xuống mà thấy đêm khuya thêm vắng lặng
mênh mông. Ở cái tuổi mình, trên 60, cái ranh giới tử sinh thật là mờ ảo, ở đấy
rồi đi đấy, còn đấy mà mất đấy. Thành ra ít lâu nay, tôi cứ phải làm một con
tính trừ thê thảm. Mấy năm trước mất Thanh Nam, rồi Vũ Khắc Khoan, bây giờ Phạm
Đình Chương - Hoài Bắc. Già thì càng cần có bạn, mà bạn già thì càng ngày càng
thưa thớt. Tôi đi cải tạo 10 năm, rồi sống nín thở trên 6 năm, vừa mới lặn ngòi
ngoi nước sang được đến đây thì bạn đã đi vào tịch mịch. Bạn ta Phạm Đình
Chương đã đi thật rồi, một người viết ca khúc tầm cỡ của Việt Nam đã mất, ngôi
sao bản mệnh của Ban Hợp Ca Thăng Long đã tắt.
Tôi
chơi với Phạm Đình Chương đã lâu, vào khoảng năm 1942 - 1943, hồi tụi tôi vừa mới
lớn lên. "Khi mới lớn tuổi mười lăm, mười bảy. Làm học trò mắt sáng với
môi tươi" (1). Tôi biết Chương trong ngày hội học sinh Trường Bưởi,
trong những buổi cắm trại ở chùa Trầm, chùa Thày, Tây Phương Hoàng Xá (2).
Ngày
ấy, chúng tôi say mê hát "Quê nhà tôi chiều khi nắng êm đềm" (3), "Này
thanh niên ơi, đứng lên đáp lời sông núi" (4) và Chương đã là một tay
đàn giọng hát khá nổi của học sinh Hà Nội. Nhưng mà Chương có hai người
anh nổi tiếng: anh Phạm Đình Sĩ, một cây "kịch" và anh Phạm Đình
Viêm, một cây "tenor". Chương còn có một người chị trứ danh, chị Thái
Hằng, hoa hậu "bất thành văn" của suốt một miền Bạch Mai - Phố Huế.
Còn người em út của Chương, Thái Thanh thì lúc ấy Thái Thanh còn nhỏ, đang còn
học tiểu học, còn là một nụ hoa. Phải đợi đến thập niên '50, bông hoa Thái
Thanh mới bắt đầu rực rỡ và tiếng hát Thái Thanh mới được lên ngôi.
Hà
Nội ngày ấy tuy được mệnh danh là Hà Thành hoa lệ hay là Hà Nội của ba mươi sáu
phố phường nhưng thực chất nó là tỉnh nhỏ - người ta biết nhau cả, trực tiếp
hay gián tiếp. Và tỉnh nhỏ nó còn có tục lệ riêng của nó. Thế hệ tiền bối ở Hà
Nội có tiêu chuẩn "phi cao đẳng bất thành phu phụ". Thời tụi
tôi thì cái standard về một đấng trượng phu nó nôm na và thực tiễn hơn: "Đẹp
trai, học giỏi, con nhà giàu". Phạm Đình Chương xét ra hội đủ những
điều kiện ấy: Học trò Trường Bưởi, người cao ráo sạch sẽ lại là cậu út trong một
gia đình nổi tiếng. Lại còn đàn ngọt, hát hay, còn là ca trưởng của học sinh
trong những dịp hội hè, cắm trại. Trong con mắt tôi, một anh học trò nhà quê ra
tỉnh học, từ thời áo dài mũ trắng thì Phạm Đình Chương tư cách quá.
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEimFCNInvLWDWb0Nu5QU0pog9X_i07Bq2DcT-YC6nxoSCoj9y66ehndwuahj9Whvy64d3dODRuIKWQxHzHW-nSGii3PSOScifPdokNOweVrWDo2InXqy4YwwAJBkjQMZ4GtKeACs9U3-lMK/s200/nghe-va-cam-nhan-loi-bai-hat-tri-ky-phan-manh-quynh-hinh-anh-2.jpg)
Phạm
Đình Chương rất yêu miền Quốc Oai - Sơn Tây vì không những nó là một miền thắng
tích mà nơi đó còn là quê ngoại của Chương. Bà thân của Chương ở Hạ Hiệp, cách
làng tôi chừng hai vạt cánh đồng. Chương tự nhận mình là người Sơn Tây và trong
những năm đó Chương về thăm quê ngoại rất thường. Anh công tử Hà Nội và anh học
trò nhà quê càng có dịp gần gũi nhau hơn Khi mùa Xuân đã cạn ngày, hội hè đã
vãn, những cây gạo miền Bương Cấn đã tưng bừng nở đỏ thì cũng là lúc chim tu hú
lảnh lót gọi hè về trong rặng vải bên sông. "Sông Đáy chậm nguồn qua
Phủ Quốc" (5), con sông này ngoài mùa ngâu nước lũ, còn quanh năm nước
chảy lặng lờ. Học trò tụi tôi lại đạp xe qua sông về rặng vải, vừa tránh bom
rơi đạn lạc ở thành phố, vừa cắm trại vừa ôn thi.
Nhưng
đến năm 1945, thanh niên như Chương và tôi không còn đầu óc nào mà học hành thi
cử nữa. Bao nhiêu vấn đề trọng đại vừa ập đến trong đời: hàng vạn, hàng triệu
người chết đói. Nhật đảo chính Pháp ngày 9 tháng 3. Chính phủ Việt Nam đầu tiên
ra đời. Thế chiến II kết liễu Đức - Ý - Nhật đầu hàng. Quân Tàu Tưởng kéo sang
Chiến Khu Việt Minh. Đổi đời. Cách Mạng Tháng 8 Quân đội Pháp trở về, thanh
niên đua nhau đi dạy bình dân học vụ, đi khất thực, đi biểu tình. Chúng tôi say
mê hát "Lên Đường", lao đầu vào một cuộc chơi mới không kém
phần lãng mạn: đòi độc lập cho đất nước. Chúng tôi là Tự vệ Thành Hà Nội. Chúng
tôi là Trung đoàn thủ đô. Như lớp lớp thanh niên cùng lứa, Phạm Đình Chương và
tôi khoác ba lô lên đường kháng chiến.
Tây
tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân
xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt
trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm
mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Những
năm đầu kháng chiến (1948, 1949, 1950) có những thị trấn mọc lên vội vã. Khu 10
Việt Bắc có thị trấn Cây Đa Nước Chảy; liên khu 3 có Đồng Quan, Cống Thần, Chợ
Đại; vào khu 4 Thanh Hóa có chợ Rừng Thông. Đây là nơi dân tản cư tứ xứ kéo về
sinh hoạt, đổi trao, mua bán tạo thành những Hà Nội nhỏ. Mấy anh lính cậu ngày
nào bây giờ sốt rét, xanh rớt như tàu lá, mắt trợn trừng, tóc rụng nhưng đêm
đêm vẫn cứ mơ về Hà Nội. Và được dịp là phải về thăm các thị trấn mới này cho đỡ
nhớ ...
Đầu
mùa đông năm 1948, tôi khoác ba lô, đổ bộ lên Chợ Đại tìm ít thuốc nivaquine chống
sốt rét. Trời mưa nhớp nháp, những căn nhà tranh lụp sụp kéo dài. Chợt ở đầu đường,
hiện ra một quán nước thanh bai, lịch sự mang một cái tên khá là kiểu cách "Quán
Thăng Long". Ở trên vách quán, có treo song song mấy cây đàn nguyệt
và một cây thập lục. Ở dưới, bên khay trà tỏa khói có hai vị trưởng thượng đang
ngồi đối ẩm. Hai vị này tôi biết: ông thân của Phạm Đình Chương và cụ N. T. Đức,
một danh cầm của toàn miền Bắc. Loạn ly, binh lửa mà hai vị tri âm, tri kỷ vẫn
nhàn nhã phong lưu. Chiến tranh ở chỗ nào khác chứ ở đây Thăng Long Đông Đô, Hà
Nội là vẫn cứ phải đường hoàng, cốt cách. Cốt cách như chị Thái Hằng đang ngồi
trước quầy hàng, đi tản cư mà vẫn mang nguyên chiếc kiềng chạm bằng bạc của một
thời khuê các, như Thái Thanh cô em nhỏ mới bắt đầu thiếu nữ đang nghiêm chỉnh
ngồi đan.
Người
vui nhất khi tôi được gặp là bà thân của Chương. Bà hỏi thăm "quê mình bây
giờ Tây nó đánh đến đâu rồi". Bà cho biết anh Phạm Đình Sĩ có lẽ kẹt, chưa
có tin tức gì. Anh Phạm Đình Viêm (Hoài Trung) còn đang đi ban kịch Giải Phóng,
chuyên hát bài "con vỏi con voi" và "con mèo trèo
cây cau" nhạc hài hước của Nguyễn Xuân Khoát. Còn Phạm Đình Chương
thì công tác ở liên khu 3, chuyên về sáng tác ca khúc. Bà khoe là Chương vừa mới
được giải thưởng về bài hát "gì mà có con cò bay lả bay la".
À
ra thế bạn ta anh công tử Hà Nội đang đưa ca dao vào nhạc mới. Chương, Chương,
có phải cánh cò ấy là cánh cò bay qua rặng vải triền sông Đáy? Còn cánh đồng
nào rào rạt lúa thơm mềm (6) có phải là cánh đồng Bương Cấn khi chúng ta "Lên
núi Sài Sơn ngóng lúa vàng" (7).
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj_CBslwYftU6ktfiUNggwDnv_iIwY9ds82KK_qeZTkbQGWyA1PGaF8W6CTSAHSudEFUUMvlz7D7Wk6UARh-Tf991YfkFx_MJXUftW5GZdfr30olEKi1sHeSqe7NUT8qdwIdc__XEF6mO7P/s200/loverose-1.jpg)
Gia
đình Chương kỳ này có thêm một nhân vật lừng danh: Phạm Duy. Năm 1949, chiến
tranh lan đến vùng chợ Đại và quán Thăng Long phải dời vào khu 4, vùng trấn nhậm
của viên tướng Mạnh Thường Quân Nguyễn Sơn. Ở đây Thái Hằng đã trở thành bà Phạm
Duy, Thái Thanh vừa lớn để bước chân vào làng ca nhạc. Cả gia đình Chương phục
vụ trong phòng văn nghệ của một đại đoàn. Quán Thăng Long không còn nữa nhưng
tiền thân của ban Hợp Ca Thăng Long đã được định hình. Tôi cũng không còn nhớ
rõ gia đình Phạm Đình Chương về trước hay sau cái chết của viên tướng đầy huyền
thoại Nguyễn Sơn. Chỉ biết là ban Thăng Long vào thành nhưng không ở lại Hà Nội
mà vô thẳng miền Nam lập nghiệp.
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh2gIZnj3wXzhr1bKo2bQXFb0ktHxdiThtw1fhTJwsPv_wNTm-AjH8xvBZe1Be5iQoK4Zz7XXI_lJzjBhqSnPcmDG0yABetPgQ72_7MH0s1Gt2ATJWctnGJL1835Qzr4GhY-ehoELVNFquf/s1600/HopCaThangLong.gif)
Trước
sự tán thưởng nồng nhiệt ấy tôi có lúc đã tự hỏi: "Vì sao mà trong một
thời gian chưa đầy hai năm, Ban Hợp Ca Thăng Long lại lẫy lừng đến vậy?" Tôi
vốn dốt về nhạc lý, thẩm âm cũng tầm thường thôi nên không dám đưa ra ý kiến có
tính cách kỹ thuật nào. Bằng vào cái cảm quan dân dã của mình tôi nhận thấy thực
chất của Ban Hợp Ca Thăng Long nằm trong một chữ vui. Vui rộn ràng khi nghe tiếng
hát chen tiếng ngựa hí (Ngựa Phi Đường Xa), vui lâng lâng khi nhìn
cánh cò bay lả bay la trên đồng lúa chín vàng (Được Mùa), vui đầm ấm
khi nghe tiếng hò dô vang trên sóng nước (Tiếng Dân Chài), vui thấm
thía nghẹn ngào khi người mẹ già cầm ly rượu uống mừng người con cả vừa mới trở
về (Ly Rượu Mừng). Cái vui của nhiều cung bậc, cái vui đã được cách
điệu, nên nó dễ dàng thấm đượm lòng người.
Đồng
bào miền Nam xưa nay thừa thãi điệu buồn nên trong cái vô thức tập thể nó thiếu
một niềm vui khỏe mạnh. Ban Hợp Ca Thăng Long phần nào đã đáp ứng được niềm
khao khát đó. Ấy là chưa kể đến một yếu tố đầy cảm tính rất phù hợp với miền
Nam: tất cả thành viên ban hợp ca đều là anh em trong một nhà. Một gia đình tài
hoa quá. Một sự kết hợp đẹp đẽ quá. Nhất là sau đó ít lâu, ban hợp ca Thăng
Long lại có thêm một thành viên mới: Khánh Ngọc, một bông hoa hương sắc của miền
Nam, Hoài Bắc - Khánh Ngọc một lứa đôi nghệ thuật. Ban Hợp Ca Thăng Long càng
thêm sung sức.
Nhưng
phải đợi đến đầu năm 1954, Ban Hợp Ca Thăng Long mới lên đỉnh cao thành tựu của
mình. Năm ấy ban Hợp ca cùng với "quái kiệt" Trần Văn Trạch, thành lập
ban Gió Nam ra công diễn ở Hà Nội. Lúc ấy tôi đang là thương binh nằm nhà
thương Võ Tánh. Nghe báo chí Hà Nội tán thưởng Nam Phong chi huân hề - Ngọn gió
Nam mát lành thay. Nghe dân chúng Hà Nội xôn xao hâm mộ quá, tôi sốt ruột phải
trốn nhà thương một buổi ra xem Gió Nam trình diễn.
Nhưng
mà ra chậm hết vé mất rồi. Nhà Hát Lớn Hà Nội không còn chỗ. Tôi lững thững đứng
ngoài nghe tiếng vỗ tay dồn dập từng hồi như sấm mà ruột nóng như lửa đốt. May
quá gặp Ngọc Chả Cá một cây công tử Càn Long Hà Nội tôi mới được vào (bây
giờ bạn ở đâu hở Ngọc?).
Người
Hà Nội xưa nay khụng khiệng ít khi nào nồng nhiệt thế đâu. Nhưng mà lần này,
người Hà Nội bị ban Hợp ca Thăng Long chinh phục hoàn toàn. Trước đó tân nhạc ở
Hà Nội chỉ là một bà con nghèo trước cải lương, tuồng kịch ... chỉ đảm nhiệm được
vai trò phụ diễn trước khi mở màn hoặc giữa hai lớp kịch mà thôi. Bây giờ Ban Hợp
ca Thăng Long với một chuỗi ngôi sao nhạc mới đã chiếm lĩnh sân khấu suốt hai
tiếng đồng hồ liên tục. Khán giả Hà Nội được thưởng thức một chương trình nhạc
mới tân kỳ sinh động tràn đầy dân tộc tính. Đây là một bước trưởng thành của
tân nhạc và trở nên khuôn mẫu cho những đại nhạc hội sau này.
Buổi
trình diễn vừa kết thúc, toàn ban Gió Nam ra chào khán giả. Đèn rực sáng. Những
bó hoa trao cho những nghệ sĩ tài năng. Hoài Bắc Phạm Đình Chương giơ cao bó
hoa vẫy vẫy, nụ cười rộng mở. Chương không thể nào biết rằng trong số khán giả
vô danh ấy, có một người bạn cũ của Chương đang vỗ tay kịch liệt.
Thập
niên 50 là thời kỳ rực rỡ nhất của ban Hợp ca Thăng Long. Thời gian này cũng là
lúc Phạm Đình Chương sáng tác đều đặn nhất. Những bài ca chủ lực của ban Hợp ca
Thăng Long như Tiếng Dân Chài, Hội Trùng Dương, Ly Rượu Mừng ... đều
xuất hiện trong giai đoạn này.
Không
biết tôi có chủ quan không khi nghĩ rằng Phạm Đình Chương trong giai đoạn này vẫn
mang dáng vẻ một anh học trò mới lớn, tâm hồn trong sáng như gương, con người,
thiên nhiên đều là bè bạn. Ngựa phi đường xa thế nào cũng tới, leo núi mệt nhọc
rồi cũng đến nơi, đồng ruộng thì đầy lúa thơm mềm, con sông thì đầy trăng và đầy
cá. Thế vẫn còn chưa hết, Chương còn rót một ly rượu mừng, mừng khắp nhân gian.
Hãy lắng nghe đi, có một nụ cười đâu đó, khi nhẹ nhàng phảng phất, khi trào lên
như tiếng reo vui. Cũng có lúc Phạm Đình Chương nhắc đến điệu buồn; giọt lệ
rưng rưng chờ mong bóng con của người mẹ già hay nỗi khổ của đồng bào miền đất
cày lên sỏi đá:
Quê
hương tôi nghèo lắm ai ơi
Mùa
đông thiếu áo (9) ...
Nhưng
liều lượng của điệu buồn trong nhạc Phạm Đình Chương thời kỳ này rất ít so với
niềm vui ào ạt, chỉ như một đối điểm (contrepoint), chỉ như màu đen làm nổi lên
sắc trắng mà thôi. Mà điệu buồn cũng được nhắc đến bằng tấm lòng nhân ái, tâm hồn
Chương là vậy, mở ra, hướng ngoại, trong sáng vui tươi. Chương không phải là
người hướng nội, đi tìm thú đau thương trong những kiểm tra, tự vấn nơi mình.
Đó là thực chất nhạc Phạm Đình Chương thời kỳ đầu cũng là đặc điểm của Ban Hợp
ca Thăng Long ...
Giai
đoạn sáng tác thứ hai của Phạm Đình Chương bắt đầu từ một kỷ niệm buồn: Ngày
Khánh Ngọc rời xa vào khoảng cuối thập niên '50. Sau đó Phạm Duy, Thái Hằng
cũng tìm về hướng khác. Ngôi biệt thự ấm cúng đường Bà Huyện Thanh Quan không
người ở. Hoài Bắc, Thái Thanh và gia đình dọn về một căn nhà nhỏ đường Võ Tánh
(Frères Louis cũ). Chính tại ngôi nhà này tôi thường đến bầu bạn với Phạm Đình
Chương cùng với Thanh Nam, Mai Thảo. Tụi tôi đến "hầu bài" bà thân của
Chương để được ăn những bữa cơm nhớ mãi: canh cua rau đay, cà pháo, đậu rán ...
Lúc
này, hình như Chương muốn ra khỏi vùng hào quang sáng chói của một ca sĩ thời
danh để được sống bình thường nếu không muốn nói là ẩn dật. Đang ăn diện kiểu
cách, Chương ăn vận xuề xòa, đi dép không quai lẹt xẹt, chiếc xe hơi dài thòng
Studebaker đã được bán đi. Nụ cười kiểu jeune premier đã tắt và đặc biệt Chương
để một hàm râu mép chàm ràm, rậm rịt. Lúc này, tụi tôi có một tên mới để gọi
Chương: Râu Kẽm. Râu Kẽm đang phóng túng hình hài, ít ăn ít nói hẳn đi, mà có
nói cũng thường hừ một tiếng giọng mũi. Một nhát chém hư vô đã làm thay đổi Phạm
Đình Chương.
Ban
Hợp ca Thăng Long, với sự phân liệt như thế tưởng đã rã đám. Nhưng đầu những
năm '60, ban Thăng Long gượng dậy với Hoài Trung - Hoài Bắc - Thái Thanh. Ban
Thăng Long sống lại kỳ này, tuy vẫn được tán thưởng nhưng đó chỉ là cái bóng của
chính mình. Phạm Duy đã mang nguồn âm sắc lung linh và trầm lắng của dân tộc đi
xa, còn tiếng reo vui chan hòa và nhân ái của Phạm Đình Chương cũng không còn
xuất hiện. Trong thời kỳ này ban Hợp ca Thăng Long có trình làng một tác phẩm rất
được hoan nghênh: Bài Ô Mê Ly. Nhưng bài hát vui tươi này không phải
của Chương mà của một tài danh khác: Văn Phụng.
Thời
kỳ hướng ngoại, tâm hồn sáng tác rõ như gương, tha nhân và ngoại giới đều là bè
bạn của Chương đã khép lại rồi. Tiếng cười đã tắt. Thời kỳ này là của đau
thương và tiếng khóc. Nhưng khóc than rên rỉ không phải là nghề của chàng. Như
đã nói, Chương không phải là người hướng nội, gặm nhấm đau thương làm thứ giải
sầu. Nỗi đau thì có sẵn và Chương muốn giữ một mình nhưng lời oán hận thì
không. Cho nên những khúc bi ca sau này như Nửa Hồn Thương Đau, Người Đi
Qua Đời Tôi, Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội, Chương đều mượn lời của Thanh Tâm Tuyền,
Trần Dạ Từ, Hoàng Anh Tuấn ... Chương làm công việc phổ thơ, qua lời của người
để phần nào nói lên tâm sự của mình. Những ca khúc này có vị trí riêng của nó,
rất được yêu thích qua giọng hát Thái Thanh, nhưng đối với Chương nó vẫn như một
sự "Chẳng đặng đừng". Về bề ngoài, hai giai đoạn sáng tác của
Chương có vẻ đối nghịch nhau nhưng nhìn chung nó vẫn thống nhất trong tân hồn
nhân ái của tác giả.
Nói
cho ngay từ thập niên '60 trở đi, việc ca hát đối với Chương cũng là một sự
"chẳng đặng đừng". Thì cũng phải có công ăn việc làm như người ta,
ngay cả việc trông coi phòng trà ca nhạc "Đêm Màu Hồng" Chương
cũng làm chơi chơi, cho có. Nhưng chính cái vẻ chơi chơi, phóng khoáng ấy nó lại
hợp với khung cảnh Đêm Màu Hồng. Đây là một phòng trà gợi nhớ. Nhớ về những bài
hát xa xưa, về một thuở mộng mơ đã tắt, về một khung cảnh Việt Nam đã xa, về một
ban Hợp ca Thăng Long đã tàn. Phạm Đình Chương đi từ bàn này sang bàn khác cụng
ly cùng người mộ điệu hoặc lên sân khấu giới thiệu một bài hát vừa được yêu cầu.
Cái giọng có mang hơi rượu cùng với nụ cười nhếch mép đã tạo nên không khí Đêm
Màu Hồng vì phần lớn khách đến đây đều là thân hữu.
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjzI5VSmfapXBFLOedINjsFzz6b39W5ebG-CfrJ5Fk7uyAhCPFBzZXWxg8LDKT7OfiiOV30Fiwr3KfFJmzgW9ejF8ePt6qy-YWXsOsOwmhe9-Fe-qfgRWdshyphenhyphen465AkJyBIyl7zQlcSJDpbx/s200/m2-1.jpg)
Trong
những năm "Đêm Màu Hồng" tôi thường cố giữ một nền nếp. Cứ
đêm 30 Tết gần Giao Thừa là tôi kiếm một bó hoa thường là hoa hồng đến Đêm Màu
Hồng tặng Thái Thanh. Cô em nhỏ ngày nào đi kháng chiến bây giờ trở thành tiếng
hát vượt thời gian. Có lần tôi nhận được cặp bánh chưng của bà thân Chương và
Thái Thanh gửi cho. Tôi cầm cặp bánh mà tưởng như vừa nhận món quà Tết từ quê
hương phủ Quốc gửi vào.
Những
lúc ấy, năm mới sắp sang, năm cũ sắp hết mà tôi vẫn thấy Hoài Bắc, Mai Thảo ngồi
từ từ uống rượu,uống cho say, uống cho quên uống không không mệt mỏi. Tôi chợt
nhớ một câu của Mai Thảo "Chúng tôi thân với nhau trong một tình thân
thiết rất buồn rầu".
Buổi
cuối cùng tôi gặp Phạm Đình Chương đâu vào khoảng tháng 5 năm 1975 khi "đứt
phim" được chừng hơn 1 tháng. Gặp nhau tại nhà Thanh Tâm Tuyền bên Gia Định
có cả Mai Thảo nữa. Mai Thảo mang thêm một chai rượu vang còn sót lại. Các bạn
có ý tiễn đưa tôi và Thanh Tâm Tuyền sắp sửa đi cải tạo. Bữa rượu im ắng thê
lương.
Rồi
Chương và tôi đạp xe ra về trươc. Đạp toát mồ hôi đến quãng Trần Quốc Toản thì
mỗi đứa mỗi đường. Chương ngừng lại và tôi cũng ngừng theo. Chương nắm lấy tay
tôi vẻ bùi ngùi mà nói: "đi nhé". Tụi tôi xưa nay ít có cái trò nắm
tay, nắm chân như vậy, nhìn nhau một cái là đủ rồi. Chừng như Chương thương cảm
cho số phận tôi trước việc đi cải tạo, một chuyến đi không biết bao giờ về.
Nhưng bây giờ, 16 năm sau, tôi đã đi cải tạo về rồi, Chương lại làm một chuyến
đi không bao giờ trở lại. Đi nhé! Ngàn năm vĩnh biệt Phạm Đình Chương.
1)
Thơ Đinh Hùng
2)
Những thắng cảnh miền Quốc Oai, Sơn Tây
3)
Nhạc Hoàng Quý
4)
Nhạc Lưu Hữu Phước
5)
Thơ Quang Dũng
6)
Được Mùa, nhạc Phạm Đình Chương
7)
Thơ Quang Dũng
8)
Áo bào thay chiếu anh về đất - Thơ Quang Dũng
9)
Hội Trùng Dương, nhạc Phạm Đình Chương.
Ly rượu mừng
Phạm Đình Chương
Phan Lạc Phúc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét