Cảnh Tết xưa
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEipJpCpcuUV899L8JOAUMQHHA2aK0S0_y1MjiW62F25dkQVMj-7799YQXvbZfl8_tsRY5KyTVG9NLffRc83YBE_U6j3u7tzS8flM-x24eauf8bKUFS8Imt1KHy_zJRw8FAy9SxaUPQ69WB_/s1600/phoca_thumb_m_bird+640x480.jpg)
1. Chợ Tết (Đoàn Văn Cừ)
Bức họa thứ nhất là cảnh chợ Tết quê miền rừng núi do Đoàn
Văn Cừ (1913-2004), người được gọi là nhà thơ thôn ca" (l), phác
lên trong bài thơ Chợ Tết.
Bài thơ tả chân này gồm ba đoạn, được tác giả trình bày cách
nhau bằng một dấu sao (*): đoạn một gồm 15 câu, đoạn hai 23 câu, đoạn ba 6 câu
và mỗi câu có 8 chữ.
Đoạn một miêu tả cảnh thiên nhiên vào những ngày cuối năm,
giáp Tết, và những con người trên đường đi đến chợ Tết.
Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi,
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà gianh,
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh,
Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết.
Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc;
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon,
Vài cụ già chống gậy bước lom khom,
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ,
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ.
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau.
Sương trắng đỏ đầu cành như giọt sữa,
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa,
Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh,
Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh.
Đoạn hai kể những hoạt động của con người ở trong chợ.
Người mua bán ra vào đầy cổng chợ.
Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ,
Để lắng nghe người khách nói bô bô.
Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ,
Tìm đến chỗ đông người ngồi dở bán.
Một thầy khóa gò lưng trên cánh phản,
Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân.
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm,
Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ.
Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ,
Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu,
Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu.
Áo cụ lý bị người chen sấn kéo,
Khăn trên đầu đương chít cũng tung ra.
Lũ trẻ con mãi ngắm bức tranh gà,
Quên cả chị bên đường đang đứng gọi.
Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rợi,
Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa.
Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha,
Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết,
Con gà sống màu thâm như cục tiết,
Một người mua cầm cẳng dốc lên xem.
Đoạn ba phác họa cảnh chợ vãn, người người lên đường trở về
nhà.
Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm.
Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh,
Trên con đường đi các làng hẻo lánh,
Những người quê lũ lượt trở ra về.
Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê,
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ.
Bài thơ Chợ Tết là một bức tranh tuyệt đẹp và sống
động, với đủ mọi cử chỉ, mọi âm thanh, mọi màu sắc, đôi khi còn cả ngộ nghĩnh,
hóm hỉnh, khôi hài nữa.
Còn gì đẹp cho bằng cảnh:
Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi,
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà gianh,
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh,
Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết.
Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc;...
Lại thêm cảnh:
Sương trắng đỏ đầu cành như giọt sữa,
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa,
Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh,
Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh.
Kèm theo là cảnh sống động:
Vài cụ già chống gậy bước lom khom,
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ,
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ.
Đấy là chưa kể còn những cảnh sống động khác, như là: "Người
mua bán ra vào đầy cổng chợ", "Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ",
"Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rợi".
Lại còn có những cảnh nào là ngộ nghĩnh "Hai người
thôn gánh lợn chạy đi đầu, Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau", nào là
hóm hỉnh "Con trâu đứng vờ dim mắt ngủ, Để lắng nghe người khách nói
bô bô", và nhất là cành khôi hài "Áo cụ lý bị người chen sấn
kéo, Khăn trên đầu đương chít cũng tung ra."
Những cảnh đẹp trên lại còn được làm sống động thêm với những
âm thanh đủ loại, nhịp độ, cung điệu: tiếng "có yếm thắm che môi cười
lặng lẽ", tiếng "người khách nói bô bô", tiếng cụ đồ nho "miệng
nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ", tiếng người chị "gọi" lũ
trẻ con, tiếng "cười rũ rợi" của mấy cô gái, cũng như tiếng
đôi bồ của anh hàng tranh quẩy kêu "kĩu kịt", tiếng "chuông
tối bên chùa văng vẳng đánh".
Như thế vẫn chưa hết. Thi nhân đã dùng nhiều màu sắc để tô điểm
thêm bức tranh: (a) đỏ: "dải mây trắng đỏ", "những thằng cu
áo đỏ", "cô yếm thắm", "đồi thoa son", "câu đối đỏ",
"những mẹt cam đỏ chót tựa son pha"; (b) hồng lam: "sương hồng
lam"; (c) trắng: "con đường viền trắng", "sương trắng
đỏ đầu cành như giọt sữa", "tóc trắng phau phau" của bà cụ lão
bán hàng, thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết"; (d) xanh: "mép
đồi xanh", "áo the xanh"; (e) vàng: "con bò
vàng", "ánh dương vàng"; (f) tía: "tia nắng tía",
(g) nâu: "chiếc khăn nâu" của chú hoa man; và (h) thâm: chiếc
"màu thâm như cục tiết" (ý tác giả nói là "mào thâm") của
con gà sống.
Mặt khác, điều khiến người ta phải chú ý là tuy bài thơ nói rằng "người
mua bán ra vào đầy cổng chợ", nhưng dường như đa số những người ở trong chợ
là những người bán (tác giả nói tới 5 người) hay người đi xem (ít nhất cũng là
5 người), chứ không phải là người mua (tác giả chỉ nói tới 1 người).
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiaQ20LJTmt_Sq10vCcoU4m87_LC0UO5OoBalBlLZDeYY0Dx1KYVSYDnQwUtciPX9dbJZTb73Zc2eGmgbCtKOABNad3NH-YdsBmAHq6vmzy3LWPt6132vPDB8HIP6dnUYwKwzW8xiyJFM-B/s200/phoca_thumb_m_bonmuathayla_lethuyvinh.jpg)
Người đi xem thì thấy có cụ đồ nho, cụ lý, lũ trẻ con và chị
của chúng, mấy cô gái (câu 33). Tất cả những người này, ngoại trừ "lũ trẻ
con", cũng có thể là người mua. Đó chỉ là suy luận thôi, chứ bài thơ không
có câu nào hay ý nào cho thấy họ là người mua cả.
Trong khi đó chúng ta biết chắc là có 1 người mua gà.
Ngay cả súc vật cũng không bị tác giả bỏ quên. Bài thơ đã đề
cập tới lợn, bò vàng, trâu và gà sống.
Tuy nhiên, cuộc đời con người có hợp thì phải có tan: đó là lẽ
thường. Phiên chợ Tết, cũng vậy, dù có "tưng bừng" đến đâu cũng có
lúc phải tan. Do đó, khi tiếng "chuông tối bên chùa văng vẳng đánh"
là lúc "những người quê lũ lượt trở ra về". Thế nhưng hai câu kết của
bài thơ, "Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê, Lá đa rụng tơi bời quanh
quán chợ", lại khác thường: nó diễn tả nỗi thê lương, ảm đạm của những người
đi chợ, dù là người bán hay kẻ mua, thậm chí cả những người đi xem nữa, sau một
ngày sống trong bầu không khí náo nhiệt. Sự thê lương, ảm đạm này còn cho thấy
có lẽ việc bán hàng không được nhiều như ý muốn: người bán hàng và người đi xem
thì nhiều, còn người mua thì ít.
2. Ông Đồ (Vũ Đình Liên)
Bức họa thứ hai là cảnh ông đồ ngồi viết câu đối Tết.
Ở Việt Nam thời xưa, vào khoảng 10 ngày trước Tết người ta
thường thấy xuất hiện, trong thành phố, một vài ông đồ nghèo ngồi sau những chiếc
bàn nhỏ tại một dãy vỉa hè hay mặt tiền của một căn nhà, hay, ở vùng quê, trong
những chiếc lều nhỏ (thường chỉ là một tấm vải hay manh chiếu che mưa nắng) vào
phiên chợ Tết. Các ông ngồi đó để viết thuê những câu đối xuân (gọi là "xuân
liễn"). Những câu đối được ông đồ viết trên những tờ giấy hồng điều bằng
những nét chữ vàng chữ bạc cho những ai muốn có để dán trên tường, trên vách
trong nhà hay dán trước của..., để nhận lấy một số tiền nho nhỏ. Đồ nghề của
ông chỉ có cái tráp, mấy ngòi bút lông lớn nhỏ, một nghiên mực mài sẵn, một tập
giấy hồng điều hay giấy gạch cua đã rọc. Nếu trong năm, nhà người mua có tang
chế thì ông đồ dùng loại giấy màu vàng hay xanh lá cây. Những câu đối thì hoặc
là khi khách đến mua ông mới nghĩ những câu thích hợp mà viết ra hoặc là những
câu chúc thông thường ông đã chép sẵn và người mua cứ việc xem câu đối nào
thích hợp hay ưng ý thì chọn mua. Mặc dù nền Nho học đã cáo chung từ đầu thời
Pháp thuộc (1862-1945), nhưng những ông đồ vẫn xuất hiện trong lớp áo xơ bông,
ngồi run lập cập trên manh chiếu để nắn nót viết những câu chữ Nho mà người mua
không tự viết được hay không có khả năng tự sáng tác.
Trong bài thơ Chợ Tết của Đoàn Văn Cừ chúng ta đã
được giới thiệu hình ảnh một thầy khóa gò lưng hí hoáy viết thơ xuân trong
phiên chợ Tết miền quê. Hình ảnh này còn được Vũ Đình Liên (1913-1996) gợi lại
trong một bài thơ chỉ hoàn toàn nói về nhân vật này thôi. Đó là bài Ông Đồ.
Bài thơ, gồm 5 đoạn, mỗi đoạn 4 câu và mỗi câu 5 chữ, đại ý
nói rằng năm nào cũng như năm nào, đến mùa hoa đào nở thì người ta lại thấy xuất
hiện ông đồ già bày mực tàu giấy đỏ, ngồi ở ngoài đường phố đông người qua lại.
Ông ngồi đó để viết những câu đối Tết mà người ta thuê ông viết. Những nét chữ
ông viết rất đẹp, hất lên, cong xuống, hùng dũng, lả lướt như phượng múa rồng
bay. Tuy nhiên, năm này qua năm khác, số người thuê ông viết cứ ít dần đi, khiến
cho ông không có mấy cơ hội trổ tài và đồng thời số tiền kiếm được cũng mất dần
đi. Dù vậy, ông vẫn tiếp tục ngồi, cho dù những người qua đường không còn ai
chú ý ông nữa và đến cả trời cũng không có lòng thương xót ông, khiến~cho mưa bụi
bay, lá vàng rơi xuống giấy đỏ ông dùng để viết câu đối. Cho tới năm nay, hoa
đào một lần nữa lại nở, nhưng người ta không còn thấy ông đồ đâu nữa. Chắc là
ông đã chết, bởi vì chỉ có cái chết mới khiến cho ông không ra ngồi viết thuê câu
đối nữa. Chẳng biết là hồn ông bây giờ trôi đến tận phương nào.
Mỗi năm hoa đào nở,
Bày mực tàu giấy đỏ,
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài:
"Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay."
Nhưng mỗi năm mỗi vắng.
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm,
Mực đọng trong nghiên sầu...
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay.
Lá vàng rơi trên giấy,
Ngoài trời mưa bụi bay.
Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Bài thơ tiêu biểu tình hoài cổ và lòng thương người của Vũ
Đình Liên.
Tình hoài cổ của thi nhân được thể hiện bằng sự tưởng nhớ đến
người xưa cảnh cũ, mà ở đây là ông đồ già năm năm cứ vào dịp mừng đón Tết ông lại
mang khăn gói ra ngồi ngoài cửa, ngoài đường phố, trên vỉa hè hay trong túp lều
nơi phiên chợ để giúp người biểu đạt mơ tưởng của mình vào năm tới và cũng là để
kiếm được chút tiền nho nhỏ. Hành động này của ông cứ tiếp tục mãi, dù càng
ngày càng ít người thuê ông viết, cho tới khi ông giã biệt cõi đời.
Mặt khác, qua bài thơ, Vũ Đình Liên đã biểu đạt lòng thương
người của mình, mà, trong một bức thư đề ngày 9.1.1941 gửi cho Hoài Thanh và
Hoài Chân, tác giả của cuốn Thi Nhân Việt Nam, thi nhân đã nói rằng "Ông
[đồ] chính là cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn." (2)
Thi nhân thương cho kiếp sống của nhà nho trong thời buổi Nho
học bị suy tàn do chính sách cai trị của thực dân Pháp đã thay thế nền Nho học
mà Việt Nam theo đuổi trong ngót 2.000 năm, tiêu biểu bằng việc chúng chấm dứt
khoa cử đặt căn bản trên Nho học vào cuối thế kỷ thứ 19 (ở Nam kỳ) và đầu thế kỷ
thứ 20 (ở Bắc kỳ và Trung kỳ), và thay thế bằng giáo dục Pháp. Những nhà Nho
không có khả năng, hoàn cảnh, điều kiện, không chấp thuận nền văn hóa ngoại lai
tôn thờ vật chất và cá nhân, và nhất là không muốn khom mình cúi đầu phục vụ
ngoại nhân, đã bị yếu thế, phải sống trong nghèo nàn cùng khốn.
Tuy ngày nay vào dịp cuối năm chợ Tết vẫn còn tiếp diễn ở
thành thị cũng như thôn quê, và vẫn còn có người ngồi viết câu đối như thời của
Vũ Đình Liên, nhưng những cảnh tượng này không còn làm nức lòng người, không
gây được nhiều ấn tượng như cảnh tượng Đoàn Văn Cừ và Vũ Đình Liên miêu tả nữa.
CHÚ THÍCH:
(1) Sở dĩ Đoàn Văn Cừ được gọi như vậy là vì đại đa số tác phẩm
văn chương của ông đều là những bài ca của làng quê, viết về làng quê, ca ngợi
làng quê.
(2) Hoài Thanh & Hoài Chân, Thi Nhân Việt Nam, tác
giả tự xuất bản ở Huế, 1942, sau đó được tái bản nhiều lần; Xuân Thu, Sài Gòn,
in lại năm 1967, và ở Hoa kỳ (Los Alamitos, California) in lại một lần nữa,
nhưng không cho biết in lại theo ấn bản nào, cũng không ghi năm in lại, tr. 78
và cước chú 1.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét