Để chúc mừng Hội Ái hữu Phan
Thanh Giản & Đoàn Thị Điểm lần đầu tiên ra giai phẩm Xuân,
tôi xin có đôi dòng tản mạn về hoa.
Đây không phải là hoa biết nói:
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy
hàng.
(Truyện Kiều. Nguyễn Du)
Cũng không phải là hoa tư tưởng
từng nở rộ vào thời Chiến Quốc (403-221 trước CN) với biết bao học thuyết
khác nhau tạo nên cảnh:
Bách hoa tề phóng, bách gia
tranh minh
(Trăm hoa cùng nở, trăm nhà đua
hót).
Cũng không phải là hoa giấy,
hoa vải, hoa lụa đã một thời được thế nhân ưa chuộng, khiến Nhượng Tống phải ngậm
ngùi tiếc thương cho công lao khó nhọc của cô hàng hoa.
Cô em hàng xóm sinh nhà nghèo
Trồng hoa tưới hoa sớm lại chiều.
Gió đông vừa thổi, hoa vừa nở
Cắt bó vội vàng đem bán chợ.
Chợ chiều lác đác người hồ
quang.
Gánh hoa còn nặng, cô bàng
hoàng.
Nào đâu quà em, nào cháo mẹ,
Mẹ yếu em thơ, lòng không an.
Vứt hoa xuống rãnh, bưng mặt
khóc,
Khóc ra giọt lệ như giọt ngọc.
Cúi đầu gạt lệ, sợ người cười
Nhìn hoa dưới rãnh, mắt không rời
Thương hoa, thương cả công vun
xới
Sương nắng công trình biết mấy
mươi.
(Cô hàng hoa. Nhượng Tống)
Đây chính là hoa thật, hoa của
bốn mùa, có thể là hoa ngoài đồng nội, cũng có thể là hoa trong phòng khách,
nhưng đặc biệt đó là hoa được nhắc đến trong một số thơ văn kim cổ.
• Trước hết. Xin nói về
hoa sen, chữ Hán gọi là hà hoa hoặc liên hoa. Bằng mấy cân thơ mộc mạc nhưng
bóng bẩy, ca dao Việt Nam đã ca tụng cái nhan sắc mỹ miều và cái cốt cách thanh
cao của hoa sen.
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị
vàng.
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh.
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi
bùn.
Cổ thi Trung Quốc với bài Tứ thời
thi (bài thơ bốn mùa) cho rằng về mùa hè, không gì thú bằng ngắm sen
xanh trên mặt ao.
Xuân du phương thảo địa,
Hạ thương lục hà trì.
Thu ẩm hoàng hoa tửu
Đông ngâm bạch tuyết thi.
Dịch:
Mùa xuân đi dạo trên bãi cỏ
thơm
Mùa hè ngắm ao sen màu Xanh
Mùa thu uống rượu cúc
Mùa đông ngâm thơ tuyết trắng.
Chu Đôn Di đời Tống (960-1126) qua
bài Ái liên thuyết (nói về yêu hoa sen) không những ca tụng hoa sen mà ông gọi
là hoa quân tử, còn nhắc đến hoa cúc và hoa mẫu đơn.
Đào Tiềm đời Tấn (265-317) thì
chỉ thích hoa cúc và gọi là hoa ẩn dật, còn hoa mẫu đơn, mà từ đời Đường trở về
sau (618- 906) thiên hạ rất ưa thích, ông gọi là hoa phú quý.
Y cúc chi ái, Đào hậu tiễn hữu
văn
Liên chi ái, đồng dư giả hà
nhân?
Mẫu đơn chi ái, nghi hồ chúng
hĩ.
Dịch:
Ôi, yêu hoa cúc, sau Đào Tiềm
ít nghe nói đến
Yêu hoa sen, ai là người giống
ta?
Người xưa cũng nhắc đến hoa
lan, hoa huệ như là biểu tượng của người tốt, người lành. Sách Minh tâm bửu
giám. Thiên Giao hữu (kết bạn) thơ đầu với câu:
Dữ hảo nhân gian như lan huệ
chi hương
Nhất nhân chủng chi, chúng nhân
giai hương.
Sĩ tử Pétrus Trương Vĩnh Ký dịch:
Ở với người lành, thì như mình
thơm bông lan, bông huệ
Một người trồng, muôn người đều
ngửi được mùi thơm.
• Tiếp theo. Xin nói đến
hoa đào (peach) với loại anh đào, cũng gọi là anh hoa (cherry blossom).
Ngày trước, mỗi lần Tết đến,
người ta thường nghĩ đến hoa đào trên đất Bắc và hoa mai ở miền Nam, mà đã nhắc
đến hoa đào trong dịp Xuân về, thì không ai quên được câu đối Tết:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ,
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng
xanh.
nhất là bài thơ Ông đồ của
Vũ Đình Liên, với đoạn mở đầu như sau:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ đỏ
Bên phố đông người qua.
Hoa đào cũng gợi cho thi sĩ
Thôi Hộ đời Đường một kỷ niệm khó quên khi trở lại chốn xưa.
Khứ niên, kim nhật, thử môn
trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng.
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
(Đề Tích sở kiến xứ. Thôi Hộ)
Dịch:
Cửa này năm ngoái vẫn hôm nay
Má phấn, hoa đào, ửng đỏ hây
Má phấn chẳng hay đâu đó tá
Hoa đào cười gió hãy còn đây.
Bài thơ này đã mang đến cho
Nguyễn Du một niềm cảm hứng đặc biệt khi miêu tả cảnh Kim Trọng trở về thăm vườn
Thúy:
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió
đông.
Đối với Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu,
lá đào ngoài cửa động Thiên Thai còn đánh dấu cuộc tình dang dở với cảnh biệt
ly não nuột giữa Lưu Thần Nguyễn Triệu và ngơi đẹp chốn non Bồng.
Lá đào rơi rắc lôi Thiên Thai
Suốí tiễn oanh đưa những ngậm
ngùi
Nửa năm tiên cảnh, một bước trần
ai
Ước cũ duyên thừa, có thế thôí.
(Tống biệt. Tản Đà)
Đào Tiềm có chép truyện Nguồn
đào (Đào hoa nguyên). Đây là cửa ngõ để bước vào một thế giới lý tưởng của Lão
Tử, thế giới của những con người bình thường, ăn no mặc ấm, vui vẻ với phong tục
của mình, tươi cười hớn hở, không giao thiệp với người ngoài, cũng không có
quan lại, triều đình gì cả:
Bài ký tả con đường vào thế giới
ấy như sau:
"Tấn, Thái Nguyên trung;
Vũ Lăng nhân, bộ ngư vi nghiệp. Duyên khê hành, vọng lô chi viễn cận, hốt phùng
đào hoa lâm, giáp ngạn sổ bách bộ, trung vô tạp thụ, phương thảo tiên mỹ, lạc
anh tân phân. Ngư nhân thậm dĩ chi, phục tiê1n hành, dục cùng kỳ lâm, lâm tận
thủy nguyên, liên đắc nhất sơn, sơn hữu tiểu khẩu, phảng phất nhược hữu quang,
tiện xả thuyền tùng khẩu nhập. Sơ cực hiệp, tài thông nhân, phục hành sộ thập bộ,
khoát nhiên khai lãng, thổ địa bình khoáng, ốc xá nghiễm nhiên".
Dịch:
"Đờí Tấn, triều Thái
Nguyên, có một người ở Vũ Lăng làm nghề đánh cá; theo dòng khe mà đi, quên mất
đường xa gần. Bỗng gặp một rừng hoa đào mọc sát bờ khe mấy trăm bước, không xen
lẫn loại câv nào khác. Cỏ thơm tươi đẹp, hoa rụng rực rỡ. Người đánh cá rất ngạc
nhiên lại đi tới, muốn đi hết khu rừng. Cuối cùng, có dòng suối hiện ra và thấy
một ngọn núi. Núi có hang nhỏ, phảng phất như có ánh sáng, bèn bỏ thuyền theo cửa
hang mà vào. Mới đầu, hang rất hẹp, chỉ vừa một người qua lọt mà thôi. Lại đi
thêm vài chục buớc, thì hang mở rộng ra sáng sủa. Mặt đất bằng phẳng, nhà cửa
chỉnh tề".
• Tiếp theo nữa là một số
những loại hoa được nhiều thế hệ thi nhàn ca tụng.
- như TTKH với Hai sắc hoa
ti gôn:
Nếu biết rằng tôi đã có chồng
Trời ơi người ấy có buồn không?
Có thèm nhắc đến loài hoa vỡ
Tựa trái tim em, tựa má hồng.
- như Hữu Loan với Màu tím
hoa sim:
Áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa một mình đêm khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo ngày
xưa.
- như Nguyên Sa với Tuổi
13
Áo nàng vàng, anh về yêu hoa
cúc,
Áo nàng xanh, anh mến lá sân
trường
Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu
thương
Anh thay mực cho vừa màu áo
tím.
- như Thảo Chi với Hoa ô
môi:
Rửa đi em, gót chân hồng
Cha không còn nữa, ai bồng đi
chơi.
Hoa ô môi nở. Ai ơi
Nước ròng bỏ bãi, ô môi rụng đầy.
• Sau cùng, và cũng để kết thúc
bài phiếm luận này, xin nói về hoa quỳ.
Hoa quỳ, cũng gọi là hoa hướng
dương (sunflower), chữ Hán gọi là hướng nhật quỳ. Đây là loại hoa rất được cụ
Phan Thanh Giản ưa thích.
Trong quyển Phan Thanh Giản (1796
- 1867), nhà xuất bản Tân Việt Sài Gòn, Nam Xuân Thọ có kể một giai thoại về cụ
như sau:
"Về sau, Phan Thanh Giản
làm Kinh lược sứ 3 tỉnh miền Tây Nam Việt. Một hôm, có quan tổng đốc Vĩnh Long
là Trương Văn Uyển đến thăm, nhân vui miệng có hỏi:
- Sao quan không dùng hầu thiếp?
Phan Thanh Giản đáp:
Tôi không đủ ngày giờ lo việc
quốc gia, có ngày giờ đâu mà lo việc hầu thiếp. Tôi chỉ thích hoa quỳ vì sắc nó
đẹp tự nhiên, hương nó thơm dìu dịu, sắc hương người có sánh đươc đâu. Vả lại,
tính nó rõ ràng, ngay thẳng, nó mới dám nhìn mặt trời mà không chút thẹn. Vây
nên tôi yêu nó hơn đàn bà đẹp".
Lưu Khôn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét