"Không
chỉ để ăn mà còn để suy nghĩ”[1]
“Để ăn”, tất nhiên là thế giới động và thực vật. Nhưng, để “suy
nghĩ” về nó thì có lẽ quan niệm mạnh mẽ nhất là cho rằng có mối quan hệ thân thuộc
hay thần bí giữa con người với một loại động vật hay thực vật nào đó. Thực thể ấy
thường được gọi là “vật tổ” (totem), được sử dụng hay tôn thờ như là danh hiệu
hay biểu trưng.Từ đó, “định chế vật tổ” (totemism) trở thành đối tượng nghiên cứu
hấp dẫn đối với nhiều thế hệ những nhà nhân học Tây phương, vì họ nghĩ rằng có
thể tìm thấy trong đó những nét sơ khai của tín ngưỡng tôn giáo và tổ chức xã hội
nơi những tộc người “nguyên thủy” với nền kinh tế truyền thống dựa chủ yếu vào
săn bắn hái lượm hay bắt đầu pha trộn với canh tác và chăn nuôi gia súc. Nhiều
công trình điền dã chi ly với sự phân loại phức tạp các loại hình khác nhau của
định chế tôtem (tôtem tộc người và tôtem cá nhân v.v.) nối nhau ra đời cùng với
vô số những lý thuyết nhằm minh giải hiện tượng ấy. Tuy khác nhau không ít
trong cách diễn giải về nguồn gốc, hình thức và tính chất, nhìn chung, các nhà
nhân học (trước đây thường gọi là nhà dân tộc học) hầu như đều thừa nhận định
chế này là “có thật” trong lịch sử, thậm chí như là chìa khóa để giải mã nhiều
hiện tượng cổ sơ. Nhưng, sự việc, một lần nữa, cần được “suy nghĩ” lại! Người
ghi dấu ấn đặc biệt ấylà Claude Lévi-Strauss, nhà nhân học nổi tiếng người
Pháp, trong “Định chế tôtem hiện nay”
(Le Totémismeaujourd’hui) (1962), qua
bản dịch công phu và đầy thẩm quyền của dịch giả Nguyễn Tùng, nhà xã hội học và
nhân học làm việc lâu năm tại Pháp (NXB Tri Thức, 2017).
Là đại diện chủ chốt của thuyết cấu trúc, Lévi-Strauss cho rằng cần
phải tiếp cận “định chế tôtem” vốn khó khăn và phức tạp này từ giác độ nghiên cứu
về cấu trúc tiềm ẩn của nó. Điểm mới mẻ: Lévis-Strauss phủ nhận “thực tại” của
định chế tôtem, thậm chí xem nó là “ảo tưởng” vìnhững thiên kiến và ngộ nhận có
khi không tự giác của giới nghiên cứu Tây phương khi đi tìm những lối giải
thích phù hợp với nhãn quan…“ bá quyền văn hóa” của chính mình. Không phải ngẫu
nhiên khi đối tượng nghiên cứu chủ yếu là các tộc người gọi là “nguyên thủy” ở
các lục địa lạc hậu. Trong bối cảnh ấy, “Đinhchế tôtem ngàyhiện nay” không
chỉ lý thú và bổ ích đối với giới chuyên môn nhân học!
“KHÔNG CÓ VỰC THẲM GIỮA “NGƯỜI NGUYÊN THỦY” VÀ “NGƯỜI VĂN MINH””
Khác với nhiều nhà nhân học đi trước, Lévi- Strauss cho rằng nếu hiểu
định chế tôtem như là sự tôn thờ thú vật và cây cối, hay ít ra có quan niệm về
quan hệ thân thuộc giữa con người và thế giới không phải con người, thì không
khác gì lẫn lộn các ranh giới giữa tự nhiên và văn hóa; và do đó, chính kháiniệm
vật tổ trở thành cơ chế thiết lập một vực thẳm giữa người “nguyên thủy” và người
“văn minh”. Trái lại, theo ông, định chế này phơi bày đặc điểm cơ bản và phổ
quát của tư duy biểu trưng nói chung, hiểu giới tự nhiên như là mô hình để tư
duy về những mối quan hệ xã hội, vì giới tự nhiên cung cấp một hệ thống những sự
phân biệt có thể dễ dàng trực quan được để “đánh dấu” những sự khác biệt về văn
hóa-xã hội, mà chưa cần dùng tới tư duy khoa học, khái niệm. Những quan hệ xã hội
rắc rối, trừu tượng được trình bày một cách dễ hiểu, trực quan, bằng hình ảnh,
chẳng hạn bộ lạc “chim ưng” phân biệt với bộ lạc “gấu”. Chúng không hề có nghĩa
là nguồn gốc xuất thân tự nhiên của bộ lạc cho bằng cung cấp cho con người một
“bộ từ điển” hay một “bộ ngữ pháp” dành cho tư duy biểu trưng.Nói cách khác, sự
phân biệt giữa các nhóm người và các nhóm động thực vật là cơ sở khái niệm cho
những khác biệt xã hội. Định chế tôtem, theo nghĩa ấy, là “ảo tưởng”, là “lôgíc
của sự phân loại”, tức của sinh hoạt văn hóa mà thôi: cấu trúc của những quan hệ
xã hội được phóng chiếu vào những hiện tượng tự nhiên, chứ không phải ngược lại.
Với quan niệm như thế, Lévi-Strauss đã đề xướng hai luận điểm quan
trọng. Thứ nhất, về mặt lịch sử, “định chế tôtem” cho thấy là một ngộ nhận của
các nhà nghiên cứu khi gán cho người “nguyên thủy” lòng tin rằng mình là hậu
thân hay xuất thân từ thú vật hay cây cối. Theo ông, ngộ nhận này là dễ hiểu,
nhưng có hàm ý (dù vô tình) rằng xã hội hiện đại tự xem mình là đỉnh cao của sự
phát triển văn hóa, mà các xã hội nguyên thủy đã không bắt kịp bởi không muốn
hay không thể. Với luận điểm này, ông khôi phục lại vị trí của họ trong thế giới
hiện đại, mặc dù không thể chối bỏ những sự khác biệt giữa thần thoại và khoa học,
ma thuật và kỹ thuật, mê tín và lý tính. Thêm vào đó là não trạng dai dẳng của
nhà nghiên cứu nhìn các tộc người gọi là “nguyên thủy” không chỉ là xa xôi
trong không gian mà cả mịt mù về thời gian! Nguy hiểm hơn nhiều nếu nấp đàng
sau não trạng ấy là động cơ muốn biến người khác trở thành cái gì xa lạ, quái gở(
qua thuật ngữ khá đặc biệt trong tiếng Anh: “Othering”) để dễ thi thố chính
sách kỳ thị và tự xoa dịu lương tâm, chối bỏ trách nhiệm. Một nguy cơ có thật
và đang hiển hiện khắp nơi!
Thứ hai, câu hỏi gợi ra: làm sao phân biệt cấu trúc của tư duy biểu
trưng và tư duy khoa học, mà không nhất thiết quy kết cái trước là lạc hậu.
Chính vấn đề này đã dẫn Lévi-Strauss đến chỗ không xét đến tư duy của những
người hoang dại (pensée des sauvages) nữa, mà về “tư duy hoang dại” (pensée
sauvage) nói chung (cũng là tên quyển sách của ông, cùng năm 1962). Ta nhớ đến
câu nổi tiếng của ông trong Cấu trúc của thần thoại: “Lô gíc của tư duy thần
thoại, về cơ bản, tỏ ra không khác gì với tư duy thực chứng cả. Vì sự khác biệt
không phải ở trong phẩm chất của những thao tác trí tuệ cho bằng trong bản tính
của những sự vật mà những thao tác ấy nhắm vào”. Và trong “Định chế tôtem hiệnnay”,
ông nhấn mạnh: “… giữa lôgic của tư duy tôn giáo và lôgic của tư duy khoa học,
không có một hố thẳm” (tr 262).
Cuộc thảo luận về “định chế tôtem” vẫn còn tiếp tục, và lý giải nặng
về khía cạnh văn hóa-xã hội của Lévi-Strauss – cũng như nhiều vấn đề thuộc khoa
học xã hội và nhân văn khác – tất nhiên không phải là giải đáp sau cùng. Nhưng
cách đặt vấn đề của ông vẫn còn mang tính thời sự, và đúng như dịch giả Nguyễn
Tùng, trong Lời giới thiệu đã viết: “Dù thuyết cấu trúc từ lâu đã thoái trào,
cho đến nay giới trí thức Pháp nói chung vẫn đều khâm phục sự nghiệp khoa học đồ
sộ và nghiêm túc của ông”. Lời giới thiệu công phu của dịch giả kèm thư mục dày
dặn (riêng của tác giả đã đến hơn 50 quyển sách và hàng trăm bài viết!) luôn mời
gọi giới nghiên cứu và người đọc Việt Nam.
Thêm nhiều tin vui: tủ sách Tinh Hoa của NXB Tri Thức, trong tháng
đầu năm 2017, còn cho ra mắt hai dịch phẩm kinh điển quý giá: “Bộ công cụ mới”
(Novum Organum) của Francis Bacon do Đỗ Minh Hợp và Nguyễn Trọng Chuẩn dịch, và
“Ngẫu nhiên và Tất yếu” của Jacques Monod do hai dịch giả Hà Dương Tuấn và Đặng
Xuân Thảo thực hiện.
[1] Claude Lévi-Strauss: Định chế tôtem hiện nay, tr 247.
Bài đã đăng trên Người Đô Thị, Bộ mới, 23.02.2017.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét