Ngôn ngữ của giáo dục
"Dạy" là gì? "Học" là gì? "Dạy"
có nhất thiết bao gồm cả "học" không? Hay nói chung, "giáo dục"
là gì? Làm sao phân biệt "giáo dục" với "đào tạo", "huấn
luyện", nhất là với "nhồi sọ", "đầu độc"? Những hàm ý
nào ẩn đàng sau những từ ngữ tưởng như rất rõ ràng: "giáo dục gần với đời
sống", "giáo dục tích hợp", "giáo dục lấy học sinh làm
trung tâm", "giáo dục tự do". "giáo dục tiến bộ",
"giáo dục quốc tế", "giáo dục đa văn hóa", hay những khẩu
hiệu khá hấp dẫn gần đây: "education for change", "No child left
behind", "teach students not subjects", v.v. Thêm nữa, ngày càng
nhiều những thuật ngữ, khái niệm có nguồn gốc từ lĩnh vực kinh tế và quản trị
xí nghiệp lan tràn vào lĩnh vực giáo dục: "tăng trưởng", "khách
hàng" (người học), "cung cấp dịch vụ" (người dạy), "thị trường
giáo dục", "chỉ số năng suất", "kiểm tra chất lượng",
"bảo đảm chất lượng", "lãnh đạo sư phạm" v.v. Chúng ta vẫn
hồn nhiên sử dụng và du nhập những từ ngữ ấy, mà ít khi tự hỏi chúng thật sự có
ý nghĩa và hàm nghĩa gì. Và hẳn là ngây thơ nếu tưởng rằng việc chấp nhận và sử
dụng chúng sẽ không có ảnh hưởng gì đến tư duy và hành động giáo dục cũng như
không bị lừa mị trước những lối "tu từ" tưởng như hàm chứa một cách
hiểu mới mẻ, độc đáo nào đó về trách vụ sư phạm và định chế giáo dục. Việc "phân
tích từ ngữ", do đó, luôn cần thiết như là yêu cầu thường trực của tư
duy phê phán và tỉnh táo. Đàng sau những tuyên ngôn to tát, những lời kêu gọi
thống thiết là những gì? Có thực sự mới mẻ, độc đáo những gì tưởng như độc đáo,
mới mẻ? Đã thực sự suy nghĩ chín chắn những gì tưởng như khả thi? Có tuyệt đối
cần thiết những gì thật ra chỉ là tương đối? v.v.
Góp phần tích cực vào việc "giải ảo" - không chỉ đối
với các từ ngữ quen thuộc hoặc tân kỳ trong lĩnh vực giáo dục, mà trong nhiều
lĩnh vực khác, nhất là trong lĩnh vực nền tảng là tư duy triết học nói chung -
là thành quả không thể phủ nhận của trào lưu "phân tích ngôn ngữ", một
trào lưu bắt đầu sôi nổi từ đầu thế kỷ 20 và đã trở thành một truyền thống lớn,
đặc biệt trong khu vực Anh-Mỹ, gọi là truyền thống "triết học phân
tích", song hành và tương tranh với truyền thống thường bị gọi là
"hàn lâm", "tư biện", "siêu hình học" của châu Âu
lục địa. Khuôn khổ bài báo chỉ cho phép ta nhắc qua thành tựu và hạn chế của
truyền thống lớn này, giới hạn trong phạm vi triết học giáo dục.
TỪ PHÂN TÍCH ĐẾN PHÂN TÍCH NGÔN NGỮ
Các triết thuyết giáo dục được bàn cho tới nay đều ít nhiều
mang tính hệ thống, tức, sau khi mô tả hiện tượng giáo dục, người ta đi
tìm bản chất của nó, dựa trên một số niềm tin hay xác quyết nào đó để từ đó đề
ra các yêu cầu có tính quy phạm rằng giáo dục phải nên như thế này hoặc không
nên làm như thế kia. Các triết thuyết, do đó, thường là các "isms" ("chủ
thuyết", "chủ nghĩa") như duy tâm (Platon), duy thực
(Aristoteles), duy nhiên (Rousseau) hay duy nghiệm (John Locke), duy lợi (John
Dewey) v.v. Triết thuyết giáo dục phân tích, ngược lại, mang tính định hướng về phương
pháp như là một cách tiếp cận hơn là hệ thống. Nó gần gũi với
tinh thần hoài nghi của truyền thống Socrates hay truyền thống phê phán của
Kant. Chẳng hạn, khác với nhà khoa học tự nhiên, Kant không nghiên cứu về thực
tại, mà về những điều kiện và tiền đề của mọi nhận thức về thực tại. Trong khi
nhà vật lý vũ trụ quan tâm đến độ lớn và khoảng cách của ngôi sao vừa mới phát
hiện, thì Kant hỏi xem nhà vật lý phải dùng những khái niệm cơ bản nào (vd: lượng,
không gian...) để có được nhận thức khách quan, thường nghiệm về ngôi sao ấy. Với
quan niệm như thế về nhận thức luận,
Kant là người đầu tiên phân biệt giữa nhận thức về thế giới với những điều kiện của nhận thức. Trên cơ sở đó, Kant cũng đồng thời đặt một rào cản cho những tham vọng siêu hình học kiểu Platon vì cho rằng chúng vượt khỏi những điều kiện khả thể của nhận thức con người. Triết học phân tích thế kỷ 20 (với Wittgenstein và các đại diện của Nhóm Vienna) cũng xuất phát từ cảm hứng cơ bản ấy của Kant. Ta biết rằng từ thời cổ đại cho đến Kant, việc phân tích (hay tháo rời các thành tố hình thành nên khái niệm hay phán đoán) là hoạt động cơ bản của triết học (và toán học) với rất nhiều phiên bản khác nhau. Vì thế, không ngạc nhiên khi việc phân tích giữ vai trò trung tâm trong triết học phân tích thế kỷ 20. Điểm mới mẻ là ý tưởng ngày càng chín muồi nơi các triết gia hàng đầu thuộc đại học Cambridge (Anh) với những tên tuổi như G.E. Moore (1873-1958), B. Russell (1872-1970) và nhất là L.Wittgenstein (1889-1951) cho rằng phương pháp cơ bản trong nghiên cứu triết học phải là phương pháp phân tích ngôn ngữ. Nghĩa là, việc đầu tiên mà triết học phải làm là nghiên cứu cấu trúc lôgic của ngôn ngữ và ý nghĩa của từ ngữ. Đề nghị này gắn với niềm hy vọng mang tính "cách mạng" rằng phần lớn những vấn đề triết học hóc búa xưa nay (vd: Thượng Đế, linh hồn...) sẽ được giải quyết, hay, tốt hơn nữa, sẽ được bóc trần là những vấn đề "giả", bởi ta đã bị ngôn ngữ đánh lừa và rơi vào "bẫy" của nó.
Kant là người đầu tiên phân biệt giữa nhận thức về thế giới với những điều kiện của nhận thức. Trên cơ sở đó, Kant cũng đồng thời đặt một rào cản cho những tham vọng siêu hình học kiểu Platon vì cho rằng chúng vượt khỏi những điều kiện khả thể của nhận thức con người. Triết học phân tích thế kỷ 20 (với Wittgenstein và các đại diện của Nhóm Vienna) cũng xuất phát từ cảm hứng cơ bản ấy của Kant. Ta biết rằng từ thời cổ đại cho đến Kant, việc phân tích (hay tháo rời các thành tố hình thành nên khái niệm hay phán đoán) là hoạt động cơ bản của triết học (và toán học) với rất nhiều phiên bản khác nhau. Vì thế, không ngạc nhiên khi việc phân tích giữ vai trò trung tâm trong triết học phân tích thế kỷ 20. Điểm mới mẻ là ý tưởng ngày càng chín muồi nơi các triết gia hàng đầu thuộc đại học Cambridge (Anh) với những tên tuổi như G.E. Moore (1873-1958), B. Russell (1872-1970) và nhất là L.Wittgenstein (1889-1951) cho rằng phương pháp cơ bản trong nghiên cứu triết học phải là phương pháp phân tích ngôn ngữ. Nghĩa là, việc đầu tiên mà triết học phải làm là nghiên cứu cấu trúc lôgic của ngôn ngữ và ý nghĩa của từ ngữ. Đề nghị này gắn với niềm hy vọng mang tính "cách mạng" rằng phần lớn những vấn đề triết học hóc búa xưa nay (vd: Thượng Đế, linh hồn...) sẽ được giải quyết, hay, tốt hơn nữa, sẽ được bóc trần là những vấn đề "giả", bởi ta đã bị ngôn ngữ đánh lừa và rơi vào "bẫy" của nó.
HAI HÌNH THỨC PHÂN TÍCH
Nhằm chống lại tư duy truyền thống, triết học phân tích tiến
hành với hai hình thức bổ sung cho nhau: phân tích diễn giải và phân
tích tháo rời. Phân tích diễn giải muốn giải quyết vấn đề bằng cách phiên
dịch vấn đề sang những hạn từ hay những quan hệ đã biết. Ví dụ tiêu biểu nhất
trong lịch sử là phiên dịch những vấn đề hình học (có thể trực quan) sang ngôn
ngữ của đại số và số học không thể trực quan (vd. diễn đạt quan hệ giữa góc
vuông với hai cạnh của tam giác thành a²=b²+c²). Tiến trình này cũng đồng thời
gắn liền với việc tháo rời tam giác ra thành ba cạnh. Cũng thế, từ xa xưa, nếu
định nghĩa con người là "con vật có lý trí", ta có đẳng thức:
"con người" = "con vật" + "lý trí". Socrates
(theo Platon) đã dùng phương pháp tháo rời ấy để cho thấy các hạn từ đều không
rõ ràng , và vì thế, định nghĩa trên đây cũng không rõ ràng. Cả hai cách phân
tích nói trên được tinh vi hóa bằng nhiều phương tiện hiện đại (lôgíc-toán hoặc
phân tích ngôn ngữ thường ngày) và được triết học phân tích xem như phương tiện
hiệu nghiệm để "giải quyết" vấn đề, và nếu được, sẽ đi đến chỗ
"thủ tiêu" bản thân vấn đề!
Liệu các phương pháp tỏ ra mạnh mẽ và tân kỳ (vào lúc bấy giờ)
có thể mang ra áp dụng cho các vấn đề trong lĩnh vực lý thuyết giáo dục được
không? Đâu là chỗ mạnh và chỗ hạn chế của phương pháp phân tích ngôn ngữ? Yếu tố
nào đã dẫn đến việc vượt bỏ tư duy phân tích để chuyển sang tư duy hậu-phân
tích trong truyền thống này nói chung, và trong lĩnh vực giáo dục nói riêng?.
Đã in: Người Đô Thị, Bộ mới, số 41,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét