Có một lời ca dao hẳn được nhiều người biết đến
bởi trước hết nó giống một câu Kiều:
Câu Kiều:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường!.
(Câu số 1525)
|
Lời ca dao:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng?
Đưa nhau một bước lên đàng
Cỏ xanh hai dãy mấy hàng châu sa! (1)
|
Gặp lời ca dao trên có không ít người đã cho rằng
tác giả dân gian vay mượn Truyện Kiều. Đã hẳn là không có căn cứ gì nhưng theo
lẽ thường ai cũng nghĩ: Nguyễn Du là bậc thiên tài trong văn giới, vậy một câu
thơ hay như thế hẵn phải là do ông sáng tác. Điều đó thật bất công bởi chính
ông, khi sáng tác ra Truyện Kiều bất hủ, đã phải mượn một thể thơ được hoàn thiện
bởi bàn tay sáng tạo tài tình của các tác giả dân gian. Cũng thật không đúng
khi đem một tác phẩm dân gian so tài với những câu thơ của Nguyễn bởi chính ông
đã từng “xăm xăm đè nẻo Lam Kiều (2)” tham gia vào những sáng tác dân
gian, tham gia vào những cuộc hát phường vải để rồi duyên nợ với nhị nữ đất Trường
lưu(3). Từ những lẽ trên khi phân tích bài ca dao này một mặt chúng tôi muốn chỉ
ra tài năng của tác giả dân gian trong sáng tạo nghệ thuật, mặt khác để nếu có
ai nghĩ rằng tác giả dân gian đã học Nguyễn Du sẽ thấy họ là bậc “học trò” tài
nghệ bởi câu ca dao đã sử dụng không gian nghệ thuật vượt trội cả “thầy”. Đấy
cũng là lý do để bạn đọc lượng thứ cho chúng tôi bởi cái việc so sánh không nên
có như trong bài viết này.
Trước tiên chúng ta hãy
bắt đầu bằng không gian nghệ thuật trong câu Kiều đã dẫn. Sau khi được Thúc ông
cho làm lễ cưới, Thúc Sinh từ biệt Kiều về báo với Hoạn Thư. Cuộc giã biệt của
họ đầy quyến luyến nhưng không ít lo âu bởi “Sao cho trong ấm thì ngoài mới
êm”. Nỗi niềm đó thấm đượm cả đất trời. Vầng trăng xưa đã từng chứng kiến
những phút giây ân ái “bầu tiên chuốc rượu” nay lại chứng kiến “người lên
ngựa, kẻ chia bào”. Cả rừng phong, cả vầng trăng, cả cái không gian vũ trụ
bao la rộng lớn đó như chứa đầy nỗi buồn ly biệt. Một cuộc biệt ly không “Chia
nửa vầng trăng” cho nhau như của những người đi chiến đấu để bảo vệ hạnh
phúc cho cả dân tộc bởi quanh họ còn có cộng đồng. Cuộc biệt ly của Kiều với
chàng Thúc là cuộc biệt ly chỉ của hai người. Giữa cái không gian bao la rộng lớn
vắng lặng lạnh lẽo đến rợn người, giữa ngút ngàn trời đất “dâu xanh” “bụi cuốn”
chỉ lẻ loi “người về chiếc bóng”, “kẻ đi một mình”. Nỗi đau của họ như xé cả vầng
trăng, như trải cùng trời đất. Miêu tả được một cuộc chia ly như thế hẵn đã mấy
người. Tuy nhiên xét cho cùng cái không gian nghệ thuật mà cụ Nguyễn sử dụng để
biểu thị cuộc chia ly ở đây chỉ là một không gian hiển thị, không gian đó dù rộng
lớn vượt tầm trường thị của con người, dù nó được trải ra cả trên trời lẫn dưới
đất thì cũng chỉ là một không gian mà một nghệ sĩ nhiếp ảnh có thể khuôn vào một
bức ảnh phẳng. Chính vì lẽ đó sau câu lục người ta có thể đặt một dấu hai chấm
(:) và câu bát chỉ là sự triển khai tiếp theo cái không gian đã được vẽ ra
trong câu lục mà thôi.
Vầng trăng ai xẻ làm đôi (:)
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
Ở những câu tiếp theo của
truyện Kiều, Nguyễn Du đã chuyển sang cảnh khác, cảnh Thúc Sinh về đến nhà gặp
vợ cả. Còn nếu ngược lên phần trên của truyện Kiều chúng ta cũng thấy Nguyễn Du
tuy sử dụng nhiều cảnh khác nhau để diễn tả cuộc chia ly này nhưng tất cả đều
chỉ là những toạ độ khác nhau của cùng một không gian mà thôi. Như vậy rõ ràng
để thể hiện cuộc chia ly này Nguyễn Du chỉ sử dụng một không gian - không gian
vũ trụ - không gian đó phẳng và đơn điệu. Dù là chốn rừng phong, là nẻo dặm hồng
bụi cuốn, là mấy ngàn dâu xanh... thì vẫn là trời là đất, là không gian hiển thị.
Nghĩa là khi sử dụng không gian nghệ thuật để thể hiện cuộc chia ly đầy đau
xót, đầy quyến luyến, nhớ nhung giữa Thuý Kiều và Thúc Sinh Nguyễn Du chỉ mới sử
dụng một không gian.
Trong khi đó không gian
trong bài ca dao có thăm thẳm trời cao, có bao la trần thế, có nhỏ bé một quảng
đường; có hiển thị một vầng trăng chia nửa, có ảo ảnh một trần thế ngược xuôi;
có gần, có xa, có tả thực, có ước lệ... biến hoá khôn lường. Hệt như câu Kiều,
bài ca dao cũng mở ra trong câu lục một không gian vũ trụ bao la rộng lớn và mục
tiêu của tác giả dân gian cũng nhằm thể hiện nỗi buồn của một cuộc chia ly: “Vầng
trăng ai xẻ làm đôi”. Thế nhưng với cách làm như khi khảo sát câu Kiều,
chúng ta hãy dấu hai chấm (:) sau câu lục đầu tiên cho bài ca dao thử xem. Điều
đó không thể thực hiện được bởi lẽ câu bát kề sau không phải là sự triển khai
cái không gian đã được thiết lập ở câu lục. Sang câu bát trong lời ca dao đã
chuyển sang một không gian khác - không gian trần thế: “Đường trần ai vẽ ngược
xuôi hỡi chàng?”
Cái khác của không gian thứ
hai trong bài ca dao này không phải là ở một toạ độ mới. Cái không gian “đường
trần' mà tác giả dân gian thiết lập trong câu bát này trần trụi giữa nhân thế
nhưng lại không nhìn thấy được như không gian vũ trụ ở câu lục của bài ca dao
hay như trong câu thơ cụ Nguyễn. Không gian này chỉ được người nghe(4) cảm nhận,
cảm thấy, nó thấm thía trong gan ruột con người, nó vô hình mà con người không
thể tránh được. Cái đường trần mà ai vẽ ra để đôi lứa càng đi càng cách xa nhau
bởi hai vectơ chuyển động ngược chiều đó đã đẩy nhanh hơn sự xa cách của đôi bạn
tình. Một bức tranh không chỉ có sự chia đôi của một vầng trăng, mà còn có sự
ngược xuôi của đường đời, sự cắc cớ của mối duyên tình. Không gian đó tưởng
tĩnh mà động, không chỉ có cái hiển thị mà còn có cả cái hàm ẩn, có cả tầng nổi
lẫn tầng chìm, có gần, có xa nhưng bao trùm lên cả là nỗi buồn ly biệt. Đưa vào
đây không gian thứ hai - không gian trần thế - tác giả dân gian đã cho ta một bức
tranh khái quát hơn, sâu hơn, thấm thía hơn về một cuộc chia ly đầy lưu luyến.
Thêm vào nữa, nếu trong câu
thơ của mình Nguyễn Du chỉ sử dụng một câu hỏi tu từ “ai xẻ?' thì trong bài ca
dao tác giả dân gian lại sử dụng thêm câu hỏi tu từ thứ hai: “ai vẽ?”. Tác dụng
của câu hỏi này một mặt nhằm nhấn mạnh thêm nhiều lần cái nghịch lý, cái cắc cớ
của cuộc đời nhưng mặt khác lại vẽ được một bức tranh hoàn chỉnh về những thế lực
đối lập với hạnh phúc của con người. Nếu trong câu Kiều chủ thể gây chia lìa
đôi lứa chỉ là đối tượng ám chỉ: là trời đất, là con người thì ở câu ca dao,
khi câu hỏi thứ hai xuất hiện chủ thể gây biệt ly cho đôi lứa lại được xác định:
đó dù là ai thì hẳn vẫn là con người. Như vậy với hai câu hỏi tu từ tác giả dân
gian đã khẳng định rằng trong cuộc đời, trời đất hay con người đều có thể gây
nên ly biệt nhưng trong đó thế lực chủ yếu chính là con người, đáng trách nhất
cũng chính là con người. Con người đã vẽ nên nghịch lý đó để tự làm khổ chính
mình, bởi chính cái không gian trần thế ấy do con người tự vẽ ra. Con người đã
biết qui tội lỗi về cho chính mình nhưng kẻ đó là ai, dĩ nhiên không phải là cô
gái, cũng không hẳn đã là chàng trai. Câu hỏi ở đây không phải để trả lời, để
nhận thức, mà hỏi để thấm thía, để xót xa, để cam chịu. Nỗi đau như thể không
thành sẹo để hiển thị ra ngoài mà chứng kiến, mà xuýt xoa cho người khác sẻ
chia, nỗi đau chìm sâu trong gân cốt để “tự mình mình biết, tự mình mình
hay” và nhức nhối suốt đời.
Nhưng vẫn chưa hết, nếu với
hai câu thơ Nguyễn Du chỉ sử dụng một không gian thì trong bốn câu ca dao tác
giả dân gian đã sử dụng đến ba không gian. Thật bất ngờ khi giữa cái bao la rộng
lớn của không gian vũ trụ, không gian trần thế bổng xuất hiện một
không gian vô cùng bé nhỏ: chỉ khuôn trong một bước trên đàng giữa cỏ xanh hai
dãy. Nhưng giữa cái khoảng không bé nhỏ được khung lại bốn bề đó lại thấm đầy
nước mắt chia ly:
Đưa nhau một bước lên đàng
Cỏ xanh hai dẫy mấy hàng châu sa
Rõ ràng đây là một ý đồ nghệ
thuật được thể hiện bằng tài năng sáng tạo tuyệt vời. Từ giữa bao la rộng lớn của
trời, của đất bổng co về một không gian chật hẹp, nỗi buồn chia ly của con người
cũng như theo đó mà cô lại thành giọt, rồi thành hàng, thành mấy hàng, thành vô
hạn... Mới một bước chia ly đã mấy hàng lệ rỏ, hỏi suốt cả quãng đường, suốt cả
đường đời thì sao? Không gian co lại mà nỗi buồn, mà tình người thì mênh mông.
Rõ ràng một sự dồn nén, một sự co nén để có sức bật phi thường. Cả trời cao, đất
dày cả nhân thế mênh mông như cùng chứng giám cuộc chia ly đẫm lệ đó, như sẽ
chìm trong dòng lệ chia ly đó.
Soát xét lại toàn bộ bài ca
dao với hai cặp lục bát vẻn vẹn chỉ có 28 chữ vậy mà có tới 24 chữ dành để nói
không gian của cuộc chia ly, chỉ còn 4 chữ để nói tình người, vậy mà lệ tuôn
lai láng, vậy mà tình người bao la. Hỏi có nỗi buồn đau nào lớn hơn?
Hẵn sẽ có bạn đọc cho rằng
tôi suy diễn khi nói về tài năng sử dụng không gian nghệ thuật để sáng tác thơ
ca của tác giả dân gian. Dĩ nhiên khi làm ra những câu ca dao này tác giả dân
gian không hề biết tới cái gọi là thi pháp, cũng không hề nghĩ tới việc sử dụng
không gian nghệ thuật để sáng tạo văn chương nhưng nỗi lòng của chính họ thì họ
hiểu còn cảm hứng nghệ thuật là hành vi tiềm năng ở họ thì một khi đủ trí tuệ
kiểm soát được mình những cảm xúc đó có thể xuất thần trở thành những tác phẩm
nghệ thuật. Điều đó có từ lâu lắm vậy mà đến thế kỷ thứ IV trước Công nguyên
Aristôt mới chỉ ra đặc trưng thi pháp của văn chương. Vậy nghĩa là thi pháp đã
có trong sáng tạo nghệ thuật của con người, còn thi pháp học là khoa học chúng
ta mới biết từ sau Aristôt. Tác phẩm văn chương có thể có được từ những giây
phút thăng hoa của những xúc cảm thầl kỳ, nó không hẳn và càng không nhất thiết
phải là sản phẩm có ý thức của những lý thuyết sáng tạo. Cái giá trị bất ngờ có
được trong những sáng tạo nghệ thuật của quần chúng nhân dân không có gì đáng bất
ngờ chính là chỗ đó. Và điều bất ngờ còn lại chính là ở sự khẳng định “chỉ có
dân gian học tập Truyện Kiều”, dẫu Truyện Kiều luôn luôn là một kiệt tác.
Chú thích
(1) Vũ Ngọc Phan: Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam.
Nxb: KHXH, H.1978, tr.278.
(2) Nay thuộc các xã Trường lộc, Kim lộc, Song lộc huyện Can lộc tỉnh Hà Tĩnh.
(3) Về sau Nguyễn Du đã sáng tác bài Văn tế Trường Lưu nhị nữ.
(4)Vì ca dao vốn được dùng để hát nên ở đây chúng tôi dùng chữ người nghe mà không dùng chữ người đọc như đối với tác phẩm văn học viết.
(2) Nay thuộc các xã Trường lộc, Kim lộc, Song lộc huyện Can lộc tỉnh Hà Tĩnh.
(3) Về sau Nguyễn Du đã sáng tác bài Văn tế Trường Lưu nhị nữ.
(4)Vì ca dao vốn được dùng để hát nên ở đây chúng tôi dùng chữ người nghe mà không dùng chữ người đọc như đối với tác phẩm văn học viết.
Nguyễn Xuân Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét