1.
Người
ta thường ví cuộc đời mỗi người như một dòng sông. Thăng trầm trôi qua biết bao
bờ bến thân quen và xa lạ, để khám phá cuộc sống và neo giữ trong lòng những ký
ức thăm thẳm về dòng chảy của riêng mình. Dòng sông không chỉ giản đơn là hình ảnh
mặt nước phẳng lặng, những buổi trưa hè thuở bé tung tăng tắm mát… mà còn là những
ký ức thẳm sâu, với bao dấu ấn về những thăng trầm lịch sử, tạo nên những vỉa
trầm tích, theo thời gian đi qua đời sông, đời người. Tôi đã đi dọc dòng sông
nhiều lần, ngủ qua đêm nhiều lần bên dòng Thu Bồn, cảm nhận sự mênh mang vô
cùng của đất trời, lắng nghe những trầm tư sông nước...
Những
ai đã sinh ra, lớn lên ở miền Trung nói chung và trên miền đất Quảng Nam dọc
theo dòng Thu Bồn nói riêng, đều có nhiều ký ức về dòng sông huyền thoại này.
Nhà tôi bên dòng Thu Bồn, sông bao bọc quanh làng và đã ôm ấp tôi cả một thời
thơ ấu đến tuổi trưởng thành. Khi phải xa sông để tìm cuộc sống mới, dòng sông
vẫn êm ả chảy trong tôi.
Theo
dòng chảy từ biển, thuyền chở cá tôm lên nguồn. Từ nguồn, chở sản vật núi rừng
xuống biển.“Mít non gởi xuống, cá chuồn gởi lên”. Tấp nập lui tới chợ Hội An
buôn bán, mang đến sự giàu có và thịnh vượng, rồi theo dòng sông lan tỏa khắp
nơi. “Hội An bán gấm, bán điều/ Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành”. Những đêm
trăng sáng, dòng sông lấp lánh ánh vàng, soi bóng lũy tre thả mình nghiêng ngã ở
đôi bờ. Các ghe lưới bén thả lưới trên sông. Người đánh cá gõ vào mạn thuyền,
dùng dầm đập trên mặt nước cho cá tuôn vào lưới. Lũy tre không ngủ, bồi hồi vặn
mình, tiếng kĩu kịt, tạo nên khúc nhạc tình quê với âm điệu dặt dìu. Xa xa, những
chùm sáng nho nhỏ phát ra từ các chòi rớ, ghe đánh cá, ghe soi đêm…như hoa đăng
bềnh bồng trôi, tạo nên quang cảnh mờ ảo. Đâu đó, tiếng nhịp chèo khua đều vọng
theo câu hò xứ Quảng, mang lời tự sự đầy tâm trạng của người con gái quê hương:
“À ơ…chiều chiều gánh nước tưới dưa/ Dưa đà có trái chị chưa có chồng…” .
2.
Tuổi
thơ tôi. Hạnh phúc và chông chênh cùng dòng sông. Thu Bồn vẫn thấp thoáng, khi
nhìn qua bờ tre trước nhà ông bà nội bên này sông và bên kia là nhà ông bà ngoại.
Cuộc tình đầy duyên nợ, ba má tôi, được dòng sông như dải lụa đào kết nối tơ
duyên. Tôi sinh ra ở bờ Nam và lớn lên ở bờ Bắc. Từ khi nằm trong bụng má đến
khi trưởng thành, tôi đã cùng má ngược xuôi trên dòng sông kiếm sống. Má ru
tôi, giọng à ơi ru con thuở bé đến điệu hò khoan, bài chòi, dân ca xứ Quảng…
theo nhịp chèo trên sông nước đưa tôi vào đời. Khi màn đêm bao phủ, má cùng ba
tôi đi soi đêm trên các triền sông, quanh làng Cẩm Nam, qua Cẩm Kim, xuống Cẩm
Thanh, Bàn Thạch... Những kỷ niệm ngọt ngào còn lưu đọng, trở thành chất liệu
cuộc đời trong tôi!
Hình
ảnh đẹp nhất, ấn tượng nhất, tôi cảm nhận được là lúc Hội An lên đèn. Phố cổ
lúc ẩn lúc hiện lung linh như xứ sở thần tiên trên mặt sông. Tôi đã uống nước
sông, vẫy vùng tắm trong lòng nước mát trong veo và cả lúc nước đỏ ngầu phù sa…
Và, lớn lên nhờ những sản vật của dòng nước lợ: hến, cá, tôm…Sông như người mẹ
hiền, hiến dâng phù sa nuôi dưỡng bao làng mạc, cánh đồng, cho trái ngon quả ngọt
và những mùa vàng bội thu. Dòng sông len lỏi vào từng thớ thịt, từng giọt máu để
nuôi tôi khôn lớn. Sau này bước chân tôi đã đi “cùng trời cuối biển”, nơi nào
tôi cũng ngắm xem những dòng sông chảy qua xứ sở tôi đến. Nhưng không gian tuổi
thơ tôi bên dòng nước ấy, vẫn được giữ gìn trang trọng như một cõi riêng trong
lòng. Cái diệu vợi không gian, cái vô tình thời gian trên dòng Thu Bồn, mãi là
những cám dỗ đầy mê hoặc và cảm xúc dạt dào trong tôi! Không gian ấy trải dài
hai bên dòng sông, ghi đậm những tên làng: Thạch Bích, Dùi, Chiêng, Tí, Sé, Phú
Gia, Trung Phước, Đại Bường… gắn với những đặc sản như quế, tiêu, dầu rái, cải,
bắp và cây trái…
Từ
hạ lưu lên đầu nguồn, dừng bước, “Ngó lên Hòn Kẽm, Đá Dừng/ Thương cha nhớ mẹ
quá chừng bậu ơi!”. Từ đầu nguồn xa xôi nước đổ về Hòn Kẽm. Hai bên đá dựng đứng,
nước quần tụ giống một cái hồ phẳng lặng, mênh mang, bãi cát trải dài tự nhiên
và nên thơ. Thỉnh thoảng những đụn cát nổi lên trên nền cát trắng phau, tạo nên
những đường cong cách điệu hoàn hảo hình chữ C, chữ S…uốn lượn, hòa quyện, đuổi
bắt nhau. Nhìn từ xa, gợi khoe vẻ đẹp phồn thực những cô thôn nữ hong mình trên
cát trong ánh nắng dịu ngọt thu vàng. Bỗng dưng tôi muốn làm một Chữ Đồng Tử, ở
lại trên bãi, trên sông, trốn đi cái thế sự ồn ào, thưởng thức cái tươi mát
trong lành, cái tinh túy đất trời.
Xuôi
về hạ nguồn đến vùng Gò Nổi, có phải vì dâu xanh, lúa tốt mà vùng đất đã sản
sinh ra các danh nhân lừng lẫy: Hoàng Diệu, Phạm Phú Thứ, Trần Cao Vân, Phan
Thành Tài, Phan Khôi… Và, nổi tiếng với các hàng dệt vải, tơ lụa, với những ruộng
dâu xanh ngắt ngút ngàn, những cô gái Bảo An làm nghề tằm tang xinh đẹp. Đến
làng Phú Chiêm, Thanh Chiêm trù phú những cánh đồng lúa chín óng ả vàng…
3.
Trong
dân gian vẫn còn lưu truyền câu chuyện nàng thôn nữ Chiêm Sơn. Khi còn trẻ,
chúa thượng Nguyễn Phước Lan sống với cha là Thụy Quận Công, trấn thủ Quảng
Nam, tại dinh trấn Thanh Chiêm. Vào một đêm trăng, công tử Nguyễn Phước Lan
cùng cha thả thuyền rong chơi trên dòng Thu Bồn. Giữa thanh vắng, bỗng từ trong
nương dâu có tiếng hát véo von vọng lại. Thuyền rồng vội ghé đậu ở ghềnh Điện
Châu. Trong bãi dâu xanh nhuộm ánh trăng vàng, vang câu hát: “Thiếp nghe chúa
ngự thuyền rồng/ Thiếp thương phận thiếp má hồng nắng mưa...”. Nguyễn Phước Lan
- sau này là chúa Thượng, trong lòng dậy lên niềm thi cảm, bàng hoàng trước sắc
đẹp cô thôn nữ họ Đoàn, người làng Chiêm Sơn, huyện Diên Phước, thuộc phủ Điện
Bàn. Chúa cho rước về cung. Cô hái dâu bên dòng Thu Bồn, trở thành Hiếu Chiêu
Hoàng hậu, mẹ của Thái Tôn Nguyễn Phước Tần tức chúa Hiền. Ở làng Chiêm Sơn, xã
Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, về phía Tây gò Cốc Hùng, còn lăng Vĩnh Diên, thờ bà
Hiếu Chiêu hoàng hậu.
Từ
đại ngàn Trường Sơn, trước khi đổ về biển lớn, Thu Bồn không chỉ bồi đắp cho mảnh
đất xứ Quảng chất đất phù sa màu mỡ mà còn góp phần tạo dựng nên nhiều dấu ấn
văn hóa rực rỡ. Khởi nguyên từ những dòng suối nhỏ chảy qua các cánh rừng nức
mùi hương quế, có loài sâm quý Ngọc Linh trên đỉnh núi Ngọc Linh, cao hơn
2.500m nằm giữa đại ngàn Trường Sơn, thuộc huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam.
Sông chảy qua các huyện Tiên Phước, Hiệp Đức, mang tên sông Tranh. Khi đến huyện
Quế Sơn và Duy Xuyên, hợp lưu với Vu Gia, sông trở thành Thu Bồn huyền thoại.
Dòng sông in bóng hai di sản thế giới: Thánh địa Mỹ Sơn và phố cổ Hội An. Dằng
dặc theo năm tháng, chứa nhiều truyền thuyết thiêng liêng, thần bí và huyền thoại,
dựng nên phong cách rất đặc trưng của làng quê Việt, vốn đã thiêng liêng, thần
bí lại còn hư ảo, huyền thoại. Như Bà Thu Bồn còn gọi là bà Bô Bô - vị nữ tướng
của nhà Lê bị giặc truy đuổi đến làng Thu Bồn thì ngã ngựa, do tóc bà bị quấn
vào chân ngựa nên bị giặc bắt và giết. Bà đã được các vua triều Nguyễn sắc
phong Bô Bô phu nhân Thượng đẳng thần. Ngày nay, theo khảo sát thực địa nơi miếu
bà Thu Bồn, người ta cho rằng trong quá trình tiếp biến văn hóa, vị thần Chăm
Pô Nagar, đã được Việt hóa thành thần Việt và lấy tên dòng sông lớn nhất Quảng
Nam - Đà Nẵng là Thu Bồn đặt tên cho Bà. Những truyền thuyết về bà Mẹ xứ sở
mang nhiều sắc màu thần thoại, lịch sử… nhưng luôn là biểu tượng của cái đẹp, đạo
đức, tình yêu, ý chí vươn lên để chiến thắng thiên tai, địch họa, đói nghèo và
ý muốn hòa hợp cùng khát vọng thái bình của các dân tộc Việt - Chăm.
Lễ
hội Bà Thu Bồn là một lễ hội lớn của cư dân ven sông tỉnh Quảng Nam. Ngày nay,
nhờ điều kiện giao thông dễ dàng, ngành du lịch phát triển, điều kiện quảng bá
lễ hội thuận lợi, người đi trẩy hội ngày càng đông. Không chỉ người trong nước
mà còn cả du khách nước ngoài. Lễ hội được tổ chức hằng năm vào ngày 12 - 2 âm
lịch. Người dân đến viếng, tỏ lòng thành kính, biết ơn vị nữ thần đã che chở
cho dân làng sống trên bờ và trên sông nước, dân buôn bán ngược xuôi, từ đầu
nguồn đến cuối sông bình an, vô sự. Màu sắc tín ngưỡng dân gian bao đời, thể hiện
tinh thần đoàn kết các dân tộc Chăm, C'tu, Kinh sống trên dải đất miền Trung.
Trong
các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, sông Thu Bồn là một ranh giới. Hữu ngạn
là vùng tự do, tả ngạn là vùng tạm chiếm. Biết bao cuộc chiến đấu ác liệt đã diễn
ra hai bên bờ và ngay cả trên dòng sông. Kể sao cho hết những người lính từ hai
phía, dân quân, du kích, người dân vô tội… đã vĩnh viễn nằm lại trên những mảnh
đất gắn bó với dòng sông. Máu và thân xác của họ đã hòa với nước, trở thành những
tên bến, tên bãi, tên cồn… bất tử với thời gian. Để Thu Bồn mãi mãi tươi đẹp,
như một dòng mạch tràn đầy sinh lực của mảnh đất Quảng Nam - Đà Nẵng kiên cường
và miên trường, có huyền sử và lịch sử tinh hoa.
Những
tên bãi, tên làng mỗi lần nghe nhắc đến, cả một khung trời kỷ niệm ùa về trong
tôi, với những phận đời, phận người đã mưu sinh mải miết theo dòng, vẫn lặng thầm
với những chuyến đò ngang mà đi dọc đời người…Dòng sông là một hấp lực vừa mãnh
liệt vừa thơ mộng vô cùng. Mênh mang, bàng bạc trong các sáng tác văn học, hội
họa, nhiếp ảnh, ca nhạc... Con sông quê hương mềm như dải lụa nổi tiếng quê nhà.
Từ bao đời nay đã trở thành nguồn cảm hứng nghệ thuật không bao giờ cạn. Nhà
thơ Thu Bồn, thảng thốt: Dòng sông rộng quá nên lai láng/ nhịp cầu thường tiễn
ta đi xa/ hỡi con ngựa chiến tuôn về biển/ bất kham dừng lại hóa phù sa. Và một
Bùi Giáng rất tài tình, nhắc đến tên dòng sông quê hương khi ông đã sống ở xa:
Thu nay nằm nhớ Thu Bồn/ Con sông xứ Quảng linh hồn quê hương/ Quê hương xứ Quảng
dịu dàng/ Có cô thôn nữ có nàng tiên nga/ Có khe có suối ngọc ngà/ Có mưa móc gội
màu hoa trên ngàn/ Sông dài biển rộng thênh thang/ Tình yêu chất vấn dã man còn
nhiều.
4.
Tuy
nhiên, chẳng phải lúc nào dòng sông Thu Bồn cũng hiền hòa, bềnh bồng và nhu thuận.
Trong bài hát: The River of No Return, có câu: “sometimes it's peaceful, and
sometimes wild and free”- tạm dịch: “đôi khi dòng sông hiền hòa, đôi khi man dại
và bất kham”. Theo Phật học thì tư duy, ý thức của con người tựa như một dòng
sông ý niệm tuôn chảy không ngừng. Trong một sátna (1), tâm ý trải qua 960 lần
chuyển niệm. Trong thời gian một ngày đêm, trải qua 13 ức triệu niệm. Dưới dòng
sông tuôn trào này, nơi sâu thẳm vô hình, đâu đó là Tạng thức - nơi tàng trữ mọi
mầm mống vũ trụ. Náo động là hiện tượng bên ngoài; trong sáng, thông suốt, tĩnh
lặng, hài hòa là cái vĩnh hằng ở bên trong dòng sông, lòng người.
Vận
vào dòng sông nầy, đã có bao trận lũ lụt do dòng sông giận dữ dâng lên, cuốn
trôi nhiều làng mạc ven bờ từ thượng nguồn đến hạ lưu.
Như
trận lụt năm Giáp Thìn 1964.
Hôm
ấy nước lên rất nhanh, đầu hôm nước mới vào nhà, đến nửa đêm nước đã lên đến mặt
bàn. Sáng ra, nhìn ngoài trời, ban ngày mà như chập choạng tối, mưa gió bời bời,
nước từ thượng nguồn ào ạt đổ về, cuồn cuộn chảy. Nghe như tiếng gầm thét của một
loài thú dữ. Ngoài sông, nhìn thấy những mái nhà, những bò, trâu, heo và cả người
ngồi trên nóc nhà… trôi lềnh bềnh theo dòng nước chảy xiết. Trong nhà, lúc đầu
ba tôi lấy bàn kê giường lên, và theo cột nhà, nước cứ leo dần… Nước leo lên mặt
bàn, tiếp tục dời lên kèo nhà, nước lên ngập cửa ra vào. Cả nhà bị nước nhốt lại.
Cuối cùng, đành phải dỡ khu đĩ (2) chui ra ngoài. May mắn. Ở quê mỗi nhà đều sắm
sẵn một chiếc ghe làm phương tiện sinh sống trên sông hay chuyên chở, di chuyển
khi mùa lũ đến. Ba tôi chở các con đến nhà thờ Tộc Huỳnh bên trong làng để
trú ngụ. Lúc bấy giờ, má tôi đang sinh đứa em thứ năm tại một bệnh xá làng. Bệnh
xá còn xập xệ lắm, cột bằng gỗ sơn, chỉ nhỏ bằng cổ chân người lớn, phên tre,
mái lá dừa nước. Mưa lớn, chỗ nào cũng ướt. Gió, phía nào cũng táp vào da thịt…
Trận
lũ năm Thìn ấy, vẫn còn hằn sâu trong ký ức của lớp người sinh ra trong thế kỷ
hai mươi, từ thập niên sáu mươi trở về trước. Miền Trung có trận lụt lớn nào,
người ta lấy trận lụt năm Thìn ấy ra làm “chuẩn”. Năm ấy tôi còn bé, nhưng những
gì xảy ra vẫn còn in đậm trong ký ức. Cả làng chẳng có một ngôi nhà lầu nào để
bơi đến trú tạm mỗi khi trời lụt bão lớn. Ông nội tôi chỉ còn một cách duy nhất,
lấy đũa bếp ra khấn vái để chống nhà khỏi sụp hay khỏi bị nước nhấn chìm - một
cách “làm phép” đầy màu sắc tâm linh của những người nông dân nghèo. Chống bão
lụt bằng đũa bếp mưa gió vẫn không ngưng, còn nước cứ dâng thì chỉ còn biết kêu
trời, khấn phật!
Sau
khi ổn định chỗ ở cho bọn tôi, ba đưa ghe đi đón má. Khi đến gần bệnh xá, nước
chảy mạnh quá, nước xé làm đôi làng tôi bằng một dòng chảy kinh khủng. Đứng bên
này dòng nước, nhìn qua bên kia là trạm xá, nơi má tôi đang ngóng trông từng
giây… Nhiều chiếc thuyền cố vượt qua đều lật úp, trôi theo dòng nước đỏ lòm. Ba
tôi đành gạt nước mắt quay về. Ba nghĩ trong bụng điều dữ mà không dám nói ra.
Khi nước vừa rút xuống. Nóng cả ruột gan, ba tôi tiếp tục đưa ghe băng qua dòng
chảy, đến trạm xá đón má tôi. Đến nơi. Trời ơi, bệnh xá đã bị cuốn trôi mất rồi!
Bơi một vòng quanh trạm tìm xem, có còn dấu vết gì trên các cây dương liễu còn
sót lại. Chỉ thấy rác nguồn và rau muống biển bị trôi quấn quanh thân cây. Dùng
dầm gỡ, chỉ thấy lũ rắn núp bên trong túa ra! Lại thêm một lần tuyệt vọng…
Ở
bên kia dòng lũ, từ trong bệnh xá, những bà mẹ sinh con, bà đỡ, người giúp việc,
toàn là đàn bà đang lóng ngóng khi nước vào nhà, nước bò dần lên chân giường. Hầu
hết họ được các thân nhân ở gần đó đến đưa về nhà. Chỉ còn lại má tôi và một
người đàn bà khác, cả hai đang ôm con vào lòng sưởi ấm. Nước lại tiếp tục lớn,
hai bà mẹ chỉ còn biết cầu nguyện… Như một phép lành. Ông Lắm xuất hiện! Chồng
người đàn bà ở cùng với má tôi, đưa ghe đến chở cả hai người về nhà ở xóm dưới.
Khi chiếc ghe vừa ra khỏi trạm xá, những cây cột còn lại bị xói gốc, trạm xá đổ
nhào, cuốn theo dòng nước. Má và em tôi thoát qua cơn hiểm nghèo. Cái tên “ông
Lắm” đã trở thành dấu ấn đẹp đẽ khó quên - một ân nhân cứu mạng. Cái tên gợi
lên một con người, gắn với những tình cảm trân trọng và mến yêu của gia đình
tôi.
Cả
nhà đoàn tụ sau cơn lũ, liền đối mặt với nạn thiếu ăn. Một gia đình sáu miệng
ăn, sau cơn lũ lớn kéo dài nhiều ngày, chẳng còn gì ăn được. May thay, những
đoàn cứu trợ, các tổ chức từ thiện trong và ngoài nước tìm đến. Họ mang theo thực
phẩm, thuốc men, quần áo…Được các tình nguyện viên đưa đến những điểm cấp
phát, dùng trống chầu dóng lên, dân làng biết chạy đến nhận. Sự vô thường của đời
người và thiên nhiên đã thử thách tính người, tình người vượt lên! Trong hoàn cảnh
này là cơ hội để tình yêu thương đồng loại, lòng nhân đạo được biểu hiện. Còn
dòng sông là chứng nhân, khắc họa không gian, thời gian.
Ba
tôi sau lũ lại tiếp tục lên đường làm thuê kiếm sống. Má tôi còn ở cữ. Tôi theo
chân một chị cùng xóm, hơn tôi vài ba tuổi, chạy hết điểm nầy đến chỗ kia để nhận
đồ cứu trợ. Vì nhà có nhiều miệng ăn, nhận một chỗ không đủ! Lúc này, tôi thấm
thía câu nói “miếng khi đói bằng gói khi no”. Dù chỉ được dăm ngày nửa tháng
thôi, rồi đồ cứu trợ cũng hết, phải nghĩ ngay đến tăng gia sản xuất tìm cái ăn
lâu dài.
Ngày
đó, phương tiện dự báo thời tiết chỉ là: “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao
thì nắng bay vừa thì râm”. Người già ở vùng lũ, truyền lại cho con cháu, nhìn
cách làm tổ của con ong vò vẽ, đoán biết năm nào bão to hay nhỏ. Nếu ong làm tổ
trên cao thì không có bão lớn. Ngược lại, ong vò vẽ cứ chui trong đụn mối xây tổ,
thế nào cũng có bão to. Nhìn đám cá cấn, cá rô nhỏ như hột bí nhiều vô kể, đớp
mồi như sao, gọi là “cá đớp sao”, chắc chắn năm đó sẽ có lụt to.
Nghĩ
đến chuyện này, tôi chợt da diết nhớ những câu thơ của Tường Linh, khắc họa những
trận lụt tại Quảng Nam: “Nhà tôi ở bên sông trống gió/ Mái lá đơn sơ, cột gỗ gầy/
Mùa bấc bếp chiều không lửa đỏ/ Trưa nồm trở mạnh vách lung lay/ Năm năm, mỗi độ
đông vừa chớm/ Xóm dưới làng trên ngại lụt nhiều/ Dòng nước Thu Bồn thành
nỗi sợ/ Khi rừng xa vọng thác vang reo…”; hay đầy tâm trạng khi xa xứ: “Nhà tôi
ở đó mong manh lắm/ Tay mẹ làm sao chống gió cuồng?/ Con ở phương Nam chiều vẫn
ấm/ Mà lòng như có nước sông tuôn...”; và bi kịch của trận lụt năm Thìn: “Em
hãy ghi: Ngày mùng 6 tháng 10/ Năm âm lịch Giáp Thìn, em nhé!/ Ngày giỗ quê
hương, dù bao thế hệ/ Thảm nạn này biết thuở nào quên/ Xót thương về, em hãy đốt
hương lên…”.
5.
Miền
Trung nói chung và riêng vùng đất Quảng Nam luôn đối diện với những cơn bão, trận
lụt hằng năm như một phần trong đời sống. Môi trường thiên nhiên, đi đôi với sự
bảo tồn đời sống. Nên cần có những giải pháp phòng hộ. Điều đáng tiếc, vẫn biết
những hiểm nguy xảy ra hằng năm do thiên tai. Song vẫn còn những cái chết của
con người, những thiệt hại lớn lao của nhân loại, do tác động từ việc tàn phá,
lạm dụng thiên nhiên. Đã có bao dòng sông khát nước, bao dòng sông chết để lại
một “Lời Nguyền”. Thu Bồn cũng sẽ không nằm ngoài số phận đó, nếu con người cứ
dửng dưng, chỉ biết cái lợi trước mắt.
Hêraclít
nhà triết học Hy Lạp cổ đại nổi tiếng với học thuyết "dòng chảy", một
nguyên lý xuất phát từ quan niệm về vũ trụ, xuyên suốt toàn bộ hệ thống triết học
đã có một câu nói nổi tiếng: "Không ai có thể tắm hai lần trên cùng
một dòng sông”. Khi nhìn dòng Thu Bồn, ta tưởng chừng nó đã xưa cũ, nhưng thực
ra, nó luôn thay đổi từng giây, từng phút. Dòng sông tưởng đứng yên, nhưng thật
ra di chuyển và đổi mới không ngừng. Dòng sông đón nhận, tích chứa và lan tỏa
không ngơi! Phải chăng, chính vì vậy, nơi đây là quê hương đã sản sinh những
nhà cách mạng đất Quảng?
Mỗi
lần gặp một khúc quanh, khúc khuỷu ngặt nghèo trong cuộc đời, tôi tự nhủ, đời
người cũng như đời sông, không có nỗi đau nào đơn giản chỉ là nỗi đau. Có khi
niềm đau chính là động lực, giúp ta vượt lên số phận, để không bị mắc cạn. Dẫu
có mắc cạn như con thuyền trên bãi, cũng tìm cách đẩy thuyền xuống nước để đi.
Cuối cùng, nếu không đẩy được nữa, cũng phải chờ đợi thủy triều lên. Để mà hy vọng,
để mà khao khát…
Tôi
vẫn đang ngụp lặn trong dòng sông tuổi thơ. Mẹ Thu Bồn ơi! Tiếng Mẹ lúc thì thầm,
lúc vang vọng từ đỉnh núi này sang đỉnh núi khác, từ làng quê đến đô thị, từ khởi
nguyên đến cuối dòng hòa vào biển lớn, tạo nên dòng sữa mát lành cho sự sống Quảng
Nam! Cuộc đời đang tiếp diễn với niềm mong ước: Tình yêu, sự bình yên và phong
phú của dòng đời. Sông vẫn chảy trong tôi!
(1)
Satna (Sát na) là thuật ngữ nhà Phật hay sử dụng, chỉ đơn vị ngắn nhất của thời
gian; hay nói cách khác, sát na chỉ thời gian chớp nhoáng của mỗi biến đổi.
(2)
Khu đĩ: Dùng để chỉ hai đầu hồi hình tam giác của những căn nhà bốn mái.
Huỳnh Viết Tư
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét