Phạm Đình Chương
Trường ca Hội Trùng Dương gồm 3 phần viết về 3 dòng sông lớn
tượng trưng cho 3 miền đất Việt: Tiếng Sông Hồng (Bắc), Tiếng Sông Hương
(Trung), và Tiếng Cửu Long (Nam). Nhiều người nhận xét: Đây là một trong ba trường
ca đất nước hay nhất mọi thời đại, hai tác phẩm bất hủ kia là Đường Cái Quan
(Phạm Duy) và Hòn Vọng Phu (Lê Thương).
Cho tới bây giờ, hơn 40 năm đã trôi qua với bao thăng trầm của cuộc đời, mỗi
khi nghe lại trường ca Hội Trùng Dương của nhạc sĩ Phạm Đình Chương tôi vẫn giữ
được cái cảm giác say đắm, phiêu lưu như muốn bay bổng giữa trời, như muốn lướt
qua các ngọn sóng trùng dương.
Tiết tấu, giai điệu thật hào sảng, khi cuồn cuộn dâng trào,
lúc sâu lắng trầm tư, khi tự tình đắm say, lúc mênh mang phiêu bạt. Cái tài ba
của người nhạc sỉ tài hoa là trong trường ca, có những lúc ông đã quện được cái
hơi hướng dân ca ba miền vào trong cái khuôn thức âm nhạc phương Tây.
Bìa của 3 ca khúc trong trường ca Hội
Trùng Dương xuất bản ở Saigon
trước 1975. (ảnh: Internet)
Trùng Dương xuất bản ở Saigon
trước 1975. (ảnh: Internet)
Phạm Đình Chương sinh ngày 14-11-1929 tại Hà Nội. Bắt đầu học
nhạc từ năm 13 tuổi, sáng tác đầu tay viết năm 18 tuổi (năm 1947). Khoảng năm
1954, gia đình Phạm Đình Chương di cư vào Nam và ông đã thành lập ban hợp ca
Thăng Long để nhớ lại Hà Nội, chốn ngàn năm văn vật của người nghệ sĩ tài hoa.
Khi đi hát, ông lấy nghệ danh là Hoài Bắc. Cho đến năm 1971 ông đã viết được
trên một trăm ca khúc gồm đủ mọi thể loại trường ca, dân ca, ca khúc đồng vọng,
tình yêu đôi lứa, mang kỹ thuật soạn bè linh động của nhạc Tây phương áp dụng
cho nhạc Việt.
Ông là em cùng cha khác mẹ với ca sĩ
Hoài Trung của ban hợp ca Thăng Long,
là em của ca sĩ Thái Hằng
(phu nhân nhạc sĩ Phạm Duy) và anh của ca sĩ Thái Thanh.
Hoài Trung của ban hợp ca Thăng Long,
là em của ca sĩ Thái Hằng
(phu nhân nhạc sĩ Phạm Duy) và anh của ca sĩ Thái Thanh.
Sau 1975 Phạm Đình Chương định cư tại California (Hoa Kỳ).
Ông tạ thế ngày 22-8-1991 tại California (thọ 62 tuổi).
Theo tác giả Phạm Văn Kỳ Thanh: việc phân loại hơn một
trăm ca khúc của Phạm Đình Chương đòi hỏi một chương trình nghiên cứu rất công
phu. Đại loại những ca khúc, trường ca của Phạm Đình Chương mang những đặc tính
sau: âm hưởng dân ca Việt Nam, sử dụng tài tình ngữ thuật, thổ ngữ, vận dụng
khéo léo sức truyền cảm phong phú, điều hợp tài tình sự rung động giữa thơ và
nhạc, du nhập những nét đẹp tân kỳ của nhạc Tây phương vào những khúc tình ca
thành thị. Hầu hết những đặc tính nêu trên trong ca khúc Phạm Đình Chương, ít
nhiều dù tạo thành cảm xúc vui hay buồn đều vẽ lại những nét đẹp… quê hương
ngày thanh bình thuở trước, sự nuối tiếc những kỷ niệm, mối tình lỡ dở, tất cả
đều mang một nỗi nhớ khôn nguôi.
Hội Trùng Dương hầu như là trường ca duy nhất Phạm Đình
Chương giới thiệu với công chúng trong suốt hơn 30 năm âm nhạc của ông. Trường
ca Hội Trùng Dương sử dụng hình thức khuôn khổ Tây phương để chuyên chở một nội
dung dân ca Việt Nam.
Ảnh và bút tích
Phạm Đình Chương năm 1956. Ảnh: Internet
Phạm Đình Chương năm 1956. Ảnh: Internet
Ta hãy nghe Phạm Văn Kỳ Thanh phân tích: Về bố cục, trường ca
Hội Trùng Dương gồm một đoạn mở đầu và ba phiên khúc. Mỗi phiên khúc là tiếng
nói của một dòng sông tiêu biểu cho mỗi miền. Miền Bắc có sông Hồng đại diện,
vào đến miền Trung có sông Hương lên tiếng, xuôi miền Nam có sông Cửu Long góp
mặt. Tiếng nói của ba dòng sông đều được biểu tượng hóa bằng nỗi lòng của ba
thiếu nữ. Tâm sự của mỗi dòng sông cũng là tâm sự của người dân địa phương về
dân sinh, về nỗi khó khăn trong sự khuất phục với thiên nhiên, về sự can trường
tranh đấu với nạn ngoại xâm.
Để tạo sự chú ý của người nghe, Phạm Đình Chương mở đầu với
dòng nhạc chậm rãi, vững chãi rất hợp với sự dẫn đạo của tiếng kèn trumpet, tực
như tiếng báo hiệu sự xuất hiện của bậc quân vương thời Trung cổ:
Trùng dương
Chốn đây ngàn phương
Có ba dòng sông
Cuốn xuôi biển đông
Nhắc câu chờ mong….
Về nhạc thuật, trong cả ba phiên khúc, Phạm Đình Chương đã
dung hợp ý nhạc có âm hưởng dân ca, với nhịp điệu Tây phương.
Những điệu hò dùng ở đây đều do sự sáng tạo tinh anh của Phạm
Đình Chương, vì ông không dùng âm điệu dân ca nghuyên thủy. Trái lại ở phần đầu
của Tiếng Sông Hồng (Chiều nay nước xuôi…người áo nâu giãi dầu) ông đã dùng điệu
Hò Dô Ta được ông sáng tạo (thoát ly dân ca nguyên thủy từ nhạc điệu đến nhạc
thức). Vì lớp trống (Hò Cái) nét nhạc hoàn toàn Tây phương và lớp mái (Hò Con)
biến đổi thành một phần đối âm (counterpart) của lớp Trống và cả hai bị chi phối
bởi luật hòa âm (harmony) của Tây phương.
Phần hai của đoạn Tiếng Sông Hồng dồn nhanh (acceleration),
(chậm hơn Foxtrot và nhanh hơn March) và cứ như thế hai lớp Trống Mái không còn
ở tư thế đối đáp nữa, cuối cùng lớp mái đã nhập vào lớp Trống để biến thành một
hành khúc.
Sang đến phiên khúc hai Tiếng Sông Hương, trừ đoạn cuối (Bao
giờ máu xương….Tiếng cười đoàn viên), có lẽ vì muốn duy trì nét cổ kính của miền
cố đô nên Phạm Đình Chương đã khéo léo trở về với nét nhạc ảnh hưởng rất nặng
dân ca nguyên thủy. Ở đây, ông đã phỏng theo điệu hò Mái Đẩy miền Trung, nhịp
điệu chậm rãi, rất hợp với sự than van kể lể (Hò ơi phiên Đông Ba…. để lan biển
khơi). Đoạn hai của phiên khúc hai nhái lại đoạn hai của phiên khúc một. Tuy
nhiên khó phủ nhận được nghệ thuật dụng âm ngữ tài tình của Phạm Đình Chương ở
phiên khúc hai. Những chữ Ánh (Đêm đêm khua ánh trăng vàng mà than), Bến (Bến
Vân Lâu thuyền có đơm sâu), Lắm (Quê hương em nghèo lắm ai ơi !), Mỗi (Trời rằng
trời hành cơn lụt mỗi năm), Vắng (Ai là qua là thôn vắng), Nắng (nghe sầu như
mà mưa nắng), tuy là những thanh trắc nhưng đã bị kéo oằn xuống ở một vị trí thấp
hơn thành bằng của chữ đi kế trước hoặc tiếp sau (khua, trăng, vân, ai, năm,
thôn).
Chính vì vậy điệu hò mới nỗi bật địa phương tính qua lối phát
âm thổ ngơi miền Trung. Nét đặc trưng này khiến người hát không cần phải là người
miền Trung, nếu xướng âm (déchiffrer) đúng cao độ của câu hát cũng có thể tạo
thành âm hưởng của tiếng nói miền này.
Đoạn hai của phiên khúc Tiếng Sông Hương dồn nhanh hơn đoạn đầu
và về ý nhạc nhắc lại đoạn hai của phiên khúc một Tiếng Sông Hồng. (Ai là qua
là thôn vắng….Tiếng cười đoàn viên).
Vào đến miền Nam, miền đất phù sa màu mỡ, sức đối kháng với
thiên nhiên không còn mãnh liệt như miền Trung. Vì thế, Phạm Đình Chương
đã dùng những nét nhạc thật khỏe khoắn, cởi mở, sung túc để nói lên đặc tính địa
lý nhân văn của miền nàỵ Trong cả phiên khúc ba Sông Cửu Long, ông chỉ xen lẫn
hai câu hò theo điệu ru con miền Nam:
Chẻ tre bện sáo cho dày
Ngăn ai sông Mỹ có ngày gặp em
Điệu ru này thuộc ngũ cung hơi Nam giọng oán tựa như điệu ru
con ở Quảng Nam miền Trung.
Chỉ với hai câu Hò Ru đó thôi cũng đã làm nổi bật ý nhạc dân
tộc giữa những cung điện Tây phương khỏe khoắn tươi sáng (Nước sông dâng cao….nắng
khô đồng lầy). Đoạn cuối của phiên khúc ba Sông Cửu Long một lần nữa lại nhắc lại
tứ nhạc của đoạn cuối của phiên khúc một Tiếng Sông Hồng và phiên khúc hai Tiếng
Sông Hương.
Xin cảm ơn tác giả Phạm Văn Kỳ Thanh đã bỏ nhiều công sức sưu
tầm và phân tích, giúp tôi có thể cảm nhận Hội Trùng Dương theo chiều sâu của
nó, không chỉ lang thang trên những giai điệu, tiết tấu và ca từ đã chinh phục
tôi suốt ngần ấy năm.
LỜI TRƯỜNG CA HỘI TRÙNG DƯƠNG:
Trùng dương, trùng dương, trùng dương…
Trùng dương… chốn đây ngàn phương, có ba dòng sông cuốn xuôi
biến Đông nhắc câu chờ mong. Về khơi sóng muôn triền tới, nước non buồn vui đây
hội trùng dương đầy vơi. Sóng muôn triền tới, sóng xô về khơi, như muôn tình mới,
vươn sức người dựng giữa đời.
TIẾNG SÔNG HỒNG
Chiều nay nước xuôi dòng đại dương có em tên sông Hồng dâng
sóng tuôn trên nguồn. Vẩn vơ nắng quái vương trên phù sa có những cô thôn mờ xa
đón bầy dân đánh cá. Ngày qua trai gái sống vui một miền, quanh năm anh cuốc em
liềm vun xới ruộng mùa lúa chiêm.
Từ thượng du nước trôi về trung châu, ấp ôm đồng ruộng sâu
bên người áo nâu dãi dầu.
Hò ơi….Gối đầu trên Lào Cai Việt Trì, em nằm tóc xõa bãi cát
dài thả hồn mơ tới Thái Bình qua Sơn Tây. Hò ơi ….. Nhớ ngày nao dân chúng lên
đường đem thịt xương ngăn giữ nương đồng đem vinh quang thắm tô sông Hồng.
Nằm mơ, xuân vinh quang, trở về, cho non sông, là ngày nao
nơi nơi trút sạch buồn thương là ngày em mơ duyên người lập công.
Miền Trung vọng tiếng, em xinh em bé tên là Hương giang, đêm
đêm khua ánh trăng vàng mà than. Hò ơi, phiên Đông Ba buồn qua cửa chợ, bến Vân
Lâu thuyền vó đơm sâu. Hỡi hò, hỡi hò. Quê hương em nghèo lắm ai ơi, mùa đông
thiếu áo hè thời thiếu ăn. Trời rằng, trời hành cơn lụt mỗi năm à ơi, khiến đau
thương thấm tràn, ngập Thuận An để lan biển khơi, ơi hò ơi hò.
Hò ơi…Ai là qua là thôn vắng, nghe sầu như mùa mưa nắng cùng
em xót dân lều tranh chiếu manh.
Hò ơi…Bao giờ máu xương hết tuôn tràn, quê miền Trung thôi kiếp
điêu tàn cho em vang khúc ca nồng nàn.
Ngày vui, tan đao binh, mẹ bồng, con sơ sinh, chiều đầu xóm
xôn xao đón người trường chinh. Ngậm ngùi hân hoan tiếng cười đoàn viên.
TIẾNG CỬU LONG
Ồ ồ ồ Đây Miền Nam
Nước sông dâng cao cá lội ngù ngờ
Nước xanh xanh lơ bóng in cây dừa
Về về đây miền Đồng Nai có Cửu Long
Cuộn chảy dâng trời Nam mạch sống
Một sáng em ra khơi Vĩnh Long vui cười
Và Cần Thơ, Long Xuyên lừng hương cau lúa chín
Đời vươn lên thuyền ghé bến
Sống no nê dân quê một miền
Kìa nắng thương dân đây nắng khô đồng lầy
Nước sông dâng cao cá lội ngù ngờ
Nước xanh xanh lơ bóng in cây dừa
Về về đây miền Đồng Nai có Cửu Long
Cuộn chảy dâng trời Nam mạch sống
Một sáng em ra khơi Vĩnh Long vui cười
Và Cần Thơ, Long Xuyên lừng hương cau lúa chín
Đời vươn lên thuyền ghé bến
Sống no nê dân quê một miền
Kìa nắng thương dân đây nắng khô đồng lầy
Chiều chiều tới. Hò lơ hò lơ, hò là hò lơ
Chẻ tre bện sáo cho dầy, ơ băng ngang sông Mỹ có ngày gặp em
Chẻ tre bện sáo cho dầy, ơ băng ngang sông Mỹ có ngày gặp em
Ô hò ơi ra biển khơi
Trùng Dương, Ba chị em là ba miền nhưng tình thương đã nối liền
Gặp nhau bên trời biển Đông thắm duyên
Hẹn nhau. Pha hòa sóng lan bốn phương trời, đem tự do tranh đấu bao người, cho quê hương ấm no muôn đời
Giờ đây bao tâm tư, rộn ràng như câu thơ
Hội Trùng Dương tay tay xiết chặt cùng hô
Dựng mùa vinh quang hứa đời tự do…
Trùng Dương, Ba chị em là ba miền nhưng tình thương đã nối liền
Gặp nhau bên trời biển Đông thắm duyên
Hẹn nhau. Pha hòa sóng lan bốn phương trời, đem tự do tranh đấu bao người, cho quê hương ấm no muôn đời
Giờ đây bao tâm tư, rộn ràng như câu thơ
Hội Trùng Dương tay tay xiết chặt cùng hô
Dựng mùa vinh quang hứa đời tự do…
Phạm Hồng Phước
Phạm Đình Chương
|
|
Tên khai sinh
|
Phạm Đình Chương
|
Sinh
|
14 tháng 11 năm 1929
Hà Nội |
Mất
|
22 tháng 8 năm 1991
California |
Nghề nghiệp
|
Nhạc sĩ, ca sĩ
|
Thể loại
|
Nhạc tiền chiến, tình khúc 1954-1975
|
Ca khúc tiêu biểu
|
Hội trùng dương, Đôi mắt người Sơn Tây, Nửa hồn thương đau, Ly rượu mừng, Đón xuân, Mộng dưới hoa, 'Sáng rừng, Đợi chờ, Xóm đêm
|
Ca sĩ trình bày thành công
|
Thái Thanh và
Ban Thăng Long |
Phạm Đình Chương (1929 – 1991) là một nhạc
sĩ tiêu biểu của dòng nhạc tiền chiến và là một tên tuổi lớn của tân nhạc Việt Nam. Ngoài ra ông còn là một ca sĩ
với nghệ danh Hoài Bắc.
Phạm Đình Chương sinh ngày 14
tháng 11 năm 1929 tại Bạch Mai, Hà Nội.
Quê nội ông ở Hà Nội và quê ngoại ở Sơn Tây. Xuất thân trong một gia đình truyền thống
âm nhạc, thân phụ của Phạm Đình Chương là ông Phạm Đình Phụng. Người vợ đầu của
ông Phụng sinh được hai người con trai: Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm. Phạm Đình Sỹ
lập gia đình với nữ kịch sĩ Kiều Hạnh và có con gái là ca
sĩ Mai Hương. Còn Phạm Đình Viêm là ca sĩ Hoài Trung của ban hợp ca
Thăng Long.
Người vợ sau của ông Phạm Đình Phụng có 3 người con: trưởng nữ
là Phạm Thị Quang Thái, tức ca sĩ Thái
Hằng, vợ nhạc sĩ Phạm Duy.
Con trai thứ là nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Và cô con gái út Phạm Thị Băng Thanh,
tức ca sĩ Thái Thanh.
Ông được nhiều người chỉ dẫn nhạc lý nhưng phần lớn vẫn là tự
học. Trong những năm đầu kháng chiến, Phạm Đình Chương cùng các anh
em Phạm Đình Viêm, Phạm Thị Quang Thái và Phạm Thị Băng Thanh gia nhập ban văn
nghệ Quân đội ở Liên Khu IV.
Phạm Đình Chương bắt đầu sáng tác vào năm 1947, khi 18 tuổi,
nhưng phần nhiều những nhạc phẩm của ông thường được xếp vào dòng tiền chiến bởi mang phong cách trữ tình lãng mạn.
Các nhạc phẩm đầu tiên như Ra đi khi trời vừa sáng, Hò leo núi... có
không khí hùng kháng, tươi trẻ.
Năm 1951 ông và gia đình chuyển vào miền Nam. Với nghệ danh Hoài Bắc, ông cùng
các anh em Hoài Trung, Thái
Thanh, Thái Hằng lập ban hợp ca Thăng Long danh tiếng. Thời kỳ
này các sáng tác của ông thường mang âm hưởng của miền Bắc như nói lên tâm trạng
hoài hương của mình: Khúc giao duyên, Thằng Cuội, Được mùa, Tiếng
dân chài... Thời gian sau đó, ông viết nhiều bản nhạc nổi tiếng và vui tươi
hơn: Xóm đêm, Đợi chờ, Ly rượu mừng, Đón xuân...
Sau khi cuộc hôn nhân với ca sĩ Khánh
Ngọc tan vỡ, ông bắt đầu sáng tác tình ca. Ông đem tâm trạng đau
thương vào những bài nhạc tình da diết, đau nhức, buốt giá tâm can: Đêm cuối
cùng, Thuở ban đầu, Người đi qua đời tôi, Nửa hồn thương đau.
Có thể nói Phạm Đình Chương là một trong những nhạc sĩ phổ
thơ hay nhất. Nhiều bản nhạc phổ thơ của ông đã trở thành những bài hát bất hủ,
có một sức sống riêng như: Đôi mắt người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Mộng dưới hoa (thơ Đinh
Hùng), Nửa hồn thương đau (thơ Thanh Tâm Tuyền), Đêm nhớ trăng Sài Gòn (thơ Du Tử
Lê)... Phạm Đình Chương cũng đóng góp cho tân nhạc một bản trường ca bất hủ Hội trùng dương viết về
ba con sông Việt Nam: sông
Hồng, sông Hương và sông Cửu Long.
Sau 1975 Phạm Đình Chương định cư tại California, Hoa Kỳ.
Ông mất 22 tháng 8 năm 1991 tại
California. Theo một số tài liệu khác thì ông mất năm 1993.
Tác phẩm
Anh đi chiến dịch
Bài ca tuổi trẻ
Bài ngợi ca tình yêu (thơ Thanh Tâm Tuyền)
Bên trời phiêu lãng
Buồn đêm mưa (thơ Huy Cận)
Cho một thành phố mất tên (thơ Hoàng Ngọc Ẩn)
Dạ tâm khúc (thơ Thanh
Tâm Tuyền)
Đất lành
Đêm cuối cùng
Đêm màu hồng (thơ Thanh Tâm Tuyền)
Đêm nhớ trăng Sài Gòn (thơ Du
Tử Lê)
Đến trường
Định mệnh buồn
Đôi mắt người Sơn Tây (thơ Quang Dũng)
Đón xuân
Đợi chờ (viết với Nhật Bằng)
Được mùa
|
Hạt bụi nào bay qua (thơ Thái Tú Hạp)
Heo may tình cũ (thơ Cao Tiêu)
Hò leo núi
Hội trùng dương
Khi cuộc tình đã chết
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển (thơ Du Tử Lê)
Khúc giao duyên
Kiếp Cuội già
Lá thư mùa xuân
Lá thư người chiến sĩ
Ly rượu mừng
Mắt buồn (thơ Lưu Trọng Lư, tặng Lệ Thu)
Màu kỷ niệm (thơ Nguyên Sa)
Mỗi độ xuân về
Mộng dưới hoa (thơ Đinh
Hùng)
Mưa Sài Gòn, mưa Hà Nội (thơ Hoàng Anh Tuấn)
Mười thương
|
Người đi qua đời tôi (thơ Trần Dạ Từ)
Nhớ bạn tri âm
Nửa hồn thương đau (thơ Thanh Tâm Tuyền)
Quê hương là người đó (thơ Du Tử Lê)
Ra đi khi trời vừa sáng (viết với Phạm
Duy)
Sáng rừng
Ta ở trời tây
Thằng Cuội
Thuở ban đầu
Tiếng dân chài
Tiếng sông Cửu Long
Tiếng sông Hồng
Tiếng sông Hương
Trăng mường Luông
Trăng rừng
Xóm đêm
Xuân tha hương
|
Phạm Hồng Phước
Nguồn: Wikipedia
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét