Ngày xuân, nói chuyện về hoa trong
Truyện Kiều không chỉ là dịp thưởng thức hoa mà còn là dịp nhìn lại văn hóa
truyền thống dân tộc. Chỉ riêng từ “hoa” ở tác phẩm này đã bao hàm nhiều vấn
đề thú vị của văn học và văn hóa Việt Nam. Chúng tôi sẽ chọn một số trường hợp
có xuất hiện “hoa” ở tác phẩm này để cùng bạn đọc suy nghĩ, bàn luận.
1. Hoa là hoa:
Thời xưa, khi chưa có công nghệ
sinh học, mỗi mùa có một hay một số loài hoa đặc trưng. Khi đó, hoa được dùng
thay cho các mùa trong năm (xuân lan, thu cúc). Các bậc ẩn sĩ ở trong núi sâu
nhìn hoa mai biết tháng giêng đã đến và nhìn hoa cúc hiểu rằng tiết trùng
dương đã lại về. Khi đó ta có các loài hoa cụ thể, quen thuộc với
người Việt Nam như hoa sen, hoa cúc. Sen tàn cúc lại nở hoa: Ở trường hợp
này, sen, cúc không xuất hiện đơn thuần là không gian sống mà chủ yếu diễn tả
thời gian: mùa hạ đã qua, mùa thu lại đến. Một cách tính thời gian rất phổ biến
của người dân ở xã hội nông nghiệp. Nguyễn Du thường diễn đạt nhịp thời gian
như thế, ngay cả khi không dùng đích xác chữ “hoa”- ví dụ như khi ông muốn nói
về mùa hạ bằng hoa lựu: Dưới trăng quyên đã gọi hè/Đầu tường lửa lựu lập lòe
đâm bông. Phối hợp với âm thanh tiếng cuốc kêu (quyên gọi hè), nhà thơ cho
chúng ta một bức tranh tả cảnh vào hè đủ màu sắc, âm thanh và cả chuyển động
tinh vi. Nguyễn Trãi cũng từng tả mùa hè như thế Thạch lựu hiên còn phun thức
đỏ/Hồng liên trì đã tiễn mùi hương. Một cảnh hè đầy sinh sắc và gần gũi, quen
thuộc với người đọc Việt Nam mà vị tất người thuộc về nền văn hóa khác đã cảm
nhận được.
Hoa có thể xuất hiện trong không
gian sinh hoạt của con người. Dưới hoa đã thấy có nàng đứng trông. Thúc Sinh
với Thúy Kiều có cuộc sống tương đắc đậm màu tài tử giai nhân khi nàng được
Thúc Sinh chuộc ra khỏi nhà chứa: Khi chén rượu khi cuộc cờ/ Khi xem hoa nở
khi chờ trăng lên. Hoa tô điểm cho không gian sống con người.
2. Hoa có thể là hoa mà cũng có thể
không phải hoa:
Hai câu thơ Cỏ non xanh tận chân trời/
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa vẫn được đa số người đọc hiện đại hiểu
“hoa lê” là “hoa lê” và đây là bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp Phương thảo liên
thiên bích/Lê chi sổ điểm hoa (Cỏ non xanh tận chân trời/Cành lê trắng điểm một
vài bông hoa), thi nhân vẽ bức tranh mùa xuân với hai màu đối lập-cỏ xanh và
hoa lê trắng. Nhưng trong bản Kiều Nôm do Kiều Oánh Mậu chú giải (năm 1905),
ông đưa ra cách hiểu khác: Thảo tỷ chúng nữ, lê hoa tỷ nhị Kiều-Cỏ tỷ dụ các
cô gái, hoa lê tỷ dụ hai chị em Thúy Kiều). Để có căn cứ cho cách hiểu này,
ông dẫn thơ Nguyên Hiếu Vấn Lê hoa như tĩnh nữ…
Cách hiểu này không phải không có
lý. Trong Truyện Kiều, hai lần khác, Nguyễn Du dùng “hoa lê” để chỉ chính
Thúy Kiều. Đó là khi nàng chiêm bao thấy Đạm Tiên báo mộng cho Thúy Kiều về
kiếp đoạn trường, nàng khóc nức nở và bà mẹ tỉnh dậy hỏi Cớ sao trằn
trọc canh khuya/Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa. Một lần khác, Thúy Kiều sang
nhà Kim Trọng trong đêm, chàng Kim cảm thấy một không khí thần tiên diệu ảo:
Tiếng sen sẽ động giấc hòe, Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần, Bâng khuâng đỉnh
Giáp non Thần, Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng…. Trường hợp hoa lê gây
phân vân cho người đọc hiện đại có lẽ vì chúng ta chưa đủ dữ kiện văn hóa và
văn học để có thể đưa ra một kết luận xác quyết. Nhưng chúng tôi nghĩ, trong
văn hóa dân gian của cư dân nông nghiệp xưa có truyền thống đặt tên các cô
gái bằng tên các loài hoa: Mơ, Bưởi, Mận, Đào, Sen…Không phải là vì các thứ
cây, hoa đó gần gũi nên dễ nhớ mà vì hoa tượng trưng cho cái đẹp, nên hoa lê
phải chăng cũng được Nguyễn Du liên hệ với Thúy Kiều theo nguyên tắc lý tưởng
hóa thiên nhiên đó? (Ngày nay, chúng ta đang sống trong không gian toàn cầu
hóa, những cái tên mới lạ kết hợp phương Đông -phương Tây đang xuất hiện ngày
càng nhiều: Ana Trinh, Mary Hà…và cách đặt tên cũ dần ít phổ biến).
Cách dùng chữ hoa theo lối này phổ
biến hơn cả ở Truyện Kiều. Dường như là một nguyên tắc, không gian sống của
Thúy Kiều, nhân vật lý tưởng, thường tô điểm bằng hoa. Nhưng hoa ở
đây không còn là thành tố tả thực nữa, mà là một ký hiệu đặc biệt
dùng để phân biệt Thúy Kiều với các nhân vật khác, nhất là các nhân vật phản
diện. Nguyễn Du tả Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa, khi chàng Kim Trọng lần đầu
tiên xuất hiện trước Kiều. Hoa đây có thực là hoa? Bên cạnh nấm mộ Đạm
Tiên không thấy có hoa, chỉ có cái cây mà Thúy Kiều dùng trâm vạch
vào gốc cây đó viết bài thơ nàng ứng tác. Mộ Đạm Tiên, một nấm mộ vô chủ, giữa
tiết thanh minh mùa tảo mộ mà không có ai thân thích đến đắp đất, trồng cỏ,
nói gì đến hoa. Huỳnh Sanh Thông dịch sang tiếng Anh như thế này Two shy
sisters hid behide the flowers (Hai chị em e thẹn giấu mình sau các bông
hoa). Các bản dịch Truyện Kiều sang Trung văn như của Kỳ Quảng Mưu, Triệu Ngọc
Lan gần đây cũng đều dịch hoa thành ra 花 hoa.
Dịch bám sát nghĩa đen như thế là không chú ý đến mã văn hóa của ngôn từ.
Để giải quyết vấn đề, theo chúng
tôi, cần “đọc” chữ hoa trong hệ thống của nó. Trong Truyện Kiều, hầu như Nguyễn
Du có một nếp tư duy quen thuộc là hễ khi nói đến Thúy Kiều, ông lại nghĩ đến
hoa. Từ này không nên/không thể dịch sang tiếng nước ngoài mà chỉ nên chú
thích, vì ở đây hoa chỉ là một thành tố có chức năng “đánh dấu” nhân vật
chính-những gì liên hệ với Thúy Kiều thường được gắn với hoa:
- Câu
thần lại mượn bút hoa vẽ vời
- Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng
- Cất mình qua ngọn tường hoa v.v…
Bút hoa, thềm hoa, lệ hoa … là một
kết hợp rất thú vị, không thể dịch được. Trường hợp này cũng tương tự như kim
phong 金風(gió thu- theo nghĩa đen phải là
gió bằng kim loại vàng, nhưng thực ra, kim 金 nói
đây thuộc hành kim trong ngũ hành, ứng với phương Tây và ứng với mùa thu).
Hoa trong bút hoa chỉ có chức năng ẩn dụ rằng đây là bút mà Thúy Kiều dùng để
viết, vẽ. Người đẹp đi đến đâu cũng khiến cho không gian sáng lên, đẹp rực rỡ,
lung linh. Bất cứ vật gì có liên quan với nàng, dẫu cho đó là cái thềm mà Kiều
cất bước, là bức tường mà nàng vượt qua trong đêm, là cây bút nàng cầm, hay
giọt nước mắt đau khổ… đều có gắn với hoa. Vậy thì hoa trong nép vào dưới hoa
chỉ có tính ước lệ, cần hiểu đơn giản là bụi cây hay thân cây nào đó, nhưng
vì nó có liên hệ với Kiều nên được hoa hóa.
Khi tả Kim Trọng, một nam nhân,
Nguyễn Du cũng dùng hoa để đánh dấu nhân vật. Cửa sài vừa ngỏ then hoa. Then
cửa nhà Kim Trọng là then hoa, không phải vì cái then cửa này có cài hoa hay
chạm khắc hoamà đơn giảnvì Kim Trọng cũng là nhân vật chính diện, cao quý.
Có thể nói, hoa là cái đẹp lý tưởng
nên tác giả dùng hoa để đánh dấu các nhân vật lý tưởng, phân biệt với các
nhân vật phản diện được tả thực.
4. Hoa trong các biểu tượng:
Biểu tượng được xây dựng trên cơ sở
liên tưởng đặc điểm của cái biểu hiện với đặc điểm của cái được biểu hiện.
Hoa vốn đẹp, đáng yêu, phù hợp với biểu tượng về người phụ nữ.
Phổ biến hơn cả là biểu tượng cho
quan hệ tình cảm nam nữ mang tính chất dục tính. Nguyệt hoa hoa nguyệt não
nùng/Đêm xuân ai dễ cầm lòng cho đang. Biểu tượng nguyệt hoa là chung chovăn
học trung đại chứ không riêng của Truyện Kiều.
Chinh phụ ngâm, khúc ngâm ra đời
trước Truyện Kiều hơn nửa thế kỷ, đã dùng biểu tượng này để diễn tả nỗi buồn
trống trải, cô lẻ của người vợ lính khi vắng chồng trước khung cảnh ái ân của
tạo vật: Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm/ Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng
bông/ Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng/ Trước hoa, dưới nguyệt trong lòng
xiết đau.
Người cung nữ của Nguyễn Gia Thiều
hồi tưởng lại tình ái nồng đượm với đấng quân vương một thưở nhưng nay đã trở
nên lạnh lẽo: Cảnh hoa lạc nguyệt minh hôm ấy/ Lửa hoàng hôn như cháy tấm
son/ Hoàng hôn thôi lại hoàng hôn/ Nguyệt hoa thôi lại thêm buồn nguyệt hoa/
Buồn vì nỗi nguyệt tà ai trọng/ Buồn vì điều hoa rụng ai nhìn.
Diễn đạt tình ái nam nữ, cùng
với biểu tượng nguyệt hoa còn có biểu tượng gió hoa (Nguyễn Du dịch từ phong
hoa): Đòi phen gió tựa hoa kề/ Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Có khi yếu tố hoa bị ẩn đi, chỉ còn
lại bướm ong (nếu đầy đủ phải là bướm hoa, ong hoa): Sợ khi ong bướm đãi đằng/Đến
điều sống đục sao bằng thác trong; Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa... Có khi
hoa bị ẩn đi, chỉ còn lại phong nguyệt (phương án Việt dịch là gió trăng)-thực
ra là phong hoa và nguyệt hoa: Góp lời phong nguyệt nặng nguyền non sông-ấy
là ẩn dụ về không khí yêu đương khi Kim-Kiều bên nhau;nhưng khi muốn khẳng định
chàng đến với Kiều vì tình yêu chứ không đơn thuần trong tư cách một khách
làng chơi thì Từ Hải phải nóiPhải tuồng trăng gió vật vờ hay sao, hay Kim Trọng
muốn khẳng định tình yêu lý tưởng dành cho Thúy Kiều chứ không phải là quan hệ
thân xác tầm thường thì Nguyễn Du để cho Kim nói Bấy lâu đáy bể mò kim/Là nhiều
vàng đá phải tìm trăng hoa. Nhân đây cũng phải nhận xét: từ Hán Việt phong
nguyệt, nguyệt hoa tuy vẫn biểu đạt tình yêu nam nữ nhưng có sắc thái thanh
cao; còn từ thuần Việt trăng hoa, trăng gió, ong bướm lại dùng để nói đến thứ
tình nam nữ nặng về dục tính “thấp kém”.
Nói về nguyên lý cấu tạo từ tổ,
trong các cụm từ này, thành tố hoa chiếm vị trí trung tâm, chỉ người phụ nữ.
Từ trong chiều sâu của biểu tượng, có ẩn chứa một quan niệm văn hóa, theo đó,
nam thuộc dương, nữ thuộc âm, dương chủ động, âm bị động, dương chinh phục
âm. Dương là trăng, là gió, còn âm là hoa. Người đàn ông nhìn người
phụ nữ đẹp là hoa thì trong đó đã ẩn một thái độ của ông chủ, của sự thụ hưởng.
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay. Người con gái không có quyền chủ động
cho cuộc đời mình, như đóa hoa bị ngắt, bẻ, truyền từ người đàn ông này đến
đàn ông khác.
Đã nói đến đây thì cần đi tiếp
trong các thám sát về biểu tượng hoa trong Truyện Kiều. Hoa dẫu đẹp, quí,
kiêu sa thế nào đi nữa cũng là đối tượng chinh phục của nam giới. Vì thế mà
hoa cũng thường đi sóng đôi với chơi, bẻ, vầy… phản ánh cái nhìn nam quyền về
phụ nữ. Mã Giám Sinh mà nghĩ Dưới trần mấy mặt làng chơi/Chơi hoa đã dễ mấy
người biết hoa thì cũng dễ hiểu-y là đàn ông. Cái nhìn nam quyền này hiện nay
vẫn có thể gặp trong ngôn ngữ báo chí, văn học và đời thường.
Hoa có thể xuất hiện trong các tổ từ
diễn tả ý niệm về đức hạnh phụ nữ. Sá chi liễu ngõ hoa tường chỉ hạng phụ nữ
không đoan chính -phụ nữ đoan chính phải sống trong không gian “cửa các buồng
khuê” khép kín chứ không thể tồn tại trong không gian tự do như ngoài ngõ,
ngoài tường.
Người phụ nữ không còn giá trị nữa
giống như bông hoa tàn tạ, rơi rụng, lấm láp bùn đất.
Ngay như Thúy Kiều cũng không tránh
khỏi cách nghĩ của nam giới khi nói về mình Thiếp như hoa đã lìa cành/Chàng
như con bướm liệng vành mà chơi. Và khi gặp lại Kim Trọng sau nhiều năm tháng
chốn thanh lâu, tâm trí nàng choán đầy ý nghĩ mặc cảm về thân phận thấp kém
Thiếp từ ngộ biến đến giờ/Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa/Lại như những thói
người ta/Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa. Nàng hạ thấp mình xuống và nâng
Kim Trọng lên: Còn nhiều ân ái chan chan/ Hay gì vầy cánh hoa tàn mà chơi.
Người phụ nữ mang nặng mặc cảm vì không còn trinh tiết này tự so mình với
cánh hoa đã tàn tạ, lìa cành rơi xuống bùn đất, một lời thương thân tủi phận
não lòng. Chu Mạnh Trinh luận Cánh hoa lạ chọn gì đất sạch.
Thái độ của đàn ông trong Truyện Kiều
và của chính người phụ nữ là nàng Kiều khi dùng từ hoa đã là như vậy, còn
thái độ của Nguyễn Du ?Chúng tôi đã có nhiều dịp nhận xét, Nguyễn Du tuy là
nhà nho nhưng ông khá xa lạ với tư tưởng nam quyền cố hữu của nhiều nhà nho
Việt Nam. Ông để Kim Trọng sôi nổi “biện hộ” cho Thúy Kiều Như nàng lấy hiếu
làm trinh/Bụi nào cho đục được mình ấy vay/ Trời còn để có hôm nay/Tan sương
đầu ngõ vén mây giữa trời/Hoa tàn mà lại thêm tươi/ Trăng tàn mà lại hơn mười
rằm xưa.
Những lời biện hộ sôi nổi ấy sẽ là
căn cứ để đến đầu thế kỷ XX, Lưu Trọng Lư tranh luận với các nhà nho có tư tưởng
bảo thủ, những người một mực công kích nàng Kiều. Kim Trọng là người trong cuộc,
lẽ ra chàng phải ghen nhiều nhất, nhưng chàng đã tỏ ra rất độ lượng, chân
tình.
Chỉ qua cách ứng xử của Nguyễn Du với
một chữ hoa cũng đã thấy đặc điểm của toàn bộ thế giới nghệ thuật của ông.
Nhà thơ thiên tài ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp của đóa hoa Thúy Kiều, một thái
độ mới mẻ đối với nữ sắc vốn bị không ít nho gia khinh miệt; đồng thời thể hiện
sự bất bình và tinh thần bênh vực cho thân phận của những mỹ nhân đẹp như hoa
trong xã hội phong kiến nam quyền.
Trần Nho Thìn
Theo http://trieuxuan.info/
|
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét