1. Tản văn có phải là “nồi lẩu thập cẩm”?
Từ góc độ thể loại, nhìn vào đời sống văn chương Việt Nam từ
đầu thế kỷ XX đến nay, chúng ta thấy xuất hiện thêm một khái niệm mới, đó là tản
văn. Ngoài cách gọi tản văn, thể loại mới này cũng được gọi với nhiều vài cái
tên khác nhau, như: Tạp văn, tạp bút, tản mạn, nhàn đàm... Bình luận về cái tên
này, có ý kiến cho rằng chỉ nguyên chữ “tạp” đã không mấy giá trị. Phàm những
gì là “tạp” thường là không ổn định, thiếu tính rõ ràng, khó mà nghiêm ngắn.
Thế nhưng tản văn lại vẫn xuất hiện với tần số dày đặc trên
báo chí văn học, nhất là trong những năm gần đây. Hầu như báo chí văn học đều
có mục tản văn, nhàn đàm, tản mạn... Lý giải thể loại mới này, bao câu hỏi của
bạn đọc đã từng đặt ra: Tản văn là gì? Nó là văn xuôi, hay thơ? Xếp tản văn ở
khoảng nào giữa văn xuôi và thơ? Tại sao tản văn lại có sức hấp dẫn người viết
lẫn người đọc đến thế? Vì sao nhiều nhà thơ, nhà văn thành danh lại chọn thể loại
này?
Theo Từ điển Tiếng Việt “tản văn là văn xuôi, loại
văn gồm thể ký và các thể văn khác, ngoài truyện, thơ và kịch”. Từ điển
thuật ngữ văn học cho rằng “tản văn là loại văn xuôi ngắn gọn, hàm súc, có
thể trữ tình, tự sự, nghị luận, miêu tả phong cảnh, khắc họa nhân vật. Lối thể
hiện đời sống của tản văn mang tính chất chấm phá không nhất thiết đòi hỏi có cốt
truyện phức tạp, nhân vật hoàn chỉnh nhưng có cấu tứ độc đáo, có giọng điệu, cốt
cách cá nhân. Điều cốt yếu là tản văn tái hiện được nét chính của các hiện tượng
giàu ý nghĩa xã hội, bộc lộ trực tiếp tình cảm, ý nghĩ mang đậm bản sắc cá tính
tác giả... Tản văn là loại văn tự do, dài ngắn tùy ý, cách thể hiện đa dạng, đặc
biệt là thể hiện nổi bật chính kiến và cá tính tác giả”1.
Còn nhà nghiên cứu Phạm Văn Ánh thì khẳng định “Tạp văn là những
bài luận văn ngắn, giàu tính luận chiến, thường xoay quanh một số vấn đề xã hội,
lịch sử, văn hóa, chính trị... Đặc điểm chung của tạp văn là ngắn gọn, linh hoạt,
đa dạng; phản ứng một cách kịp thời trước những vấn đề bức xúc của xã hội với
những ý kiến đánh giá rõ ràng và sắc sảo”2.
Trong cuốn Năm bài giảng và thể loại, tác giả Hoàng Ngọc
Hiến cho rằng tản văn là “một tiểu loại kí ngắn gọn, hàm súc theo tùy hứng của
tác giả, có thể bộc lộ trữ tình, tự sự hoặc nghị luận, thường là mấy thứ đan
quyện nhau. Lối thể hiện đời sống trong tản văn mang tính chất chấm phá, tuy vậy,
ngòi bút tản văn chạm vào những hiện tượng được tái hiện ở những khía cạnh cốt
yếu và bất ngờ. Có lẽ đặc trưng quan trọng nhất của thể loại tiểu kí này là ở
chỗ tất cả những gì được thể hiện biểu hiện trong bài tản văn đều mang đậm dấu ấn
cách cảm nhận và cảm nghĩ của riêng tác giả...”.
Như vậy, theo quan niệm của GS Hoàng Ngọc Hiến thì tản văn vẫn
chưa thể tách ra thành một thể loại riêng biệt, tồn tại độc lập mà vẫn “dưới
trướng” của thể ký. Tuy nhiên, một số đặc trưng nổi bật nhất của tản văn được
Hoàng Ngọc Hiến đề cập tới ở đây, đó là “sự tự do trong cách biểu hiện (có thể
là tự sự, trữ tình, nghị luận), sự luận giải mang tính cá nhân của người viết đối
với vấn đề đưa ra được đề cao. Tản văn là văn xuôi giàu chất trữ tình”3.
Song ranh giới của thể “tiểu ký” này đã gần như đã bị nhòa dần.
Tản văn sẽ không bị gò bó, thậm chí đã được nới rộng ranh giới thể loại, phong
phú, đa dạng về đề tài, chủ đề, tinh túy về nội dung, ngắn gọn hàm súc về câu
chữ. Tản văn rất gần với thơ. Có ý kiến cho rằng tản văn đứng giữa thơ và truyện
ngắn.
Cứ tư duy theo kiểu người Tày của chúng tôi, có thể còn thô
thiển và nông cạn, thì tản văn có đặc điểm khiến ta liên tưởng đến một “nồi lẩu”
– một bản “hòa tấu” tổng hợp, một món ẩm thực rất được ưa chuộng, có sức lan tỏa
từ Nam ra Bắc, từ miền núi đến đồng bằng, từ nông thôn về thành thị... Ngồi
quanh nồi lẩu, mọi người ăn uống tùy theo sở thích.
2. Tản văn có tự bao giờ?
Theo các nhà nghiên cứu, thể loại tản văn được khai sinh từ
những thập kỉ đầu thế kỉ XX. Nhà nghiên cứu Phạm Văn Ánh thì cho rằng “Tạp văn
với tư cách một thể văn chỉ chính thức ra đời vào khoảng thời cách mạng Ngũ Tứ
(1917 - 1924). Nhưng nó tồn tại mờ nhạt, không gây được sự chú ý của giới
nghiên cứu, phê bình, bởi trong ý thức của nhiều người thì tản văn là thể loại
đi ngoài lề đời sống văn học. Hơn nữa, nó lại là một thứ văn không có diện mạo,
không tiếng nói, không được định danh một cách nhất quán. Từ những thập niên 90
của thế kỉ XX, tản văn bắt đầu gây sự chú ý nhiều hơn bởi quá trình giới thiệu
tản văn Trung Quốc vào Việt Nam diễn ra mạnh mẽ hơn, cũng từ đây ý thức thể loại
được định hình rõ hơn”4.
Trong lý luận văn học Trung Quốc cổ, tản văn vốn được dùng để
chỉ một thể văn xuôi tương đối tự do, phân biệt với vận văn (văn vần) và biền
văn (câu văn sóng đôi, đăng đối). Xét theo tiêu chí hình thức ấy, tản văn đã xuất
hiện ngay từ thời Tiên Tần với những tác phẩm nổi tiếng như: Tả truyện,
Chiến quốc sách, Luận ngữ, Mạnh Tử, Nam Hoa kinh... Tuy nhiên, người Trung Quốc
thường dùng khái niệm “tạp văn”, ít dùng khái niệm “tản văn”.
Ở Việt Nam, ngay từ đầu thể kỉ XX trở đi đã có các bậc tiền bối
mở đường cho thể loại này như: Tản Đà, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Tất Tố, Nguyễn
Công Hoan, Phan Khôi... và sau này có Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên...
tiếp nối. Các nhà văn thường gọi thể loại từng viết này là tùy bút, bút ký...
Song, dạng “tiểu ký” này cứ thưa vắng dần.
Lý giải cho sự vắng bóng của tản văn, nhiều ý kiến đồng tình
cho rằng tản văn “nhập nhằng” về thể loại, chả “ra tấm ra món”, không “nét” như
văn xuôi (truyện ngắn, tiểu thuyết). Vì thể loại này được coi là tiêu chí đầu bảng
xếp tư cách nhà văn (tiểu thuyết mới được gọi là nhà văn đích thực). Tản văn
không xung đột như kịch. Có thể đẩy cảm xúc gần thơ, nhưng không gọi là thơ (trữ
tình). Không ít người cho rằng tản văn chỉ dành cho những nhà văn nghiệp dư,
hay những tác giả sau khi đã hoàn thành tác phẩm dài hơi, nay đã vắt kiệt nguồn
lực sáng tạo. Chả nói đâu xa, chính tôi khi viết tản văn đã được nhà phê bình
Lê Thị Bích Hồng nhận xét là “Chiếu nghỉ giữa khoảng thơ”...
3. Tản văn thời nay
Từ đầu thế kỷ XXI cho đến nay, thể loại tản văn xuất hiện
ngày càng nhiều với nhiều nhà văn tên tuổi “xông trận” thể loại mới này. Một đội
ngũ đông đảo nhà văn đã và đang “đầu quân” cho tản văn. Điểm danh đã thấy một đội
ngũ nhà văn hùng hậu viết tản văn: Nhà văn Đỗ Chu với Tản mạn trước đèn;
Hoàng Phủ Ngọc Tường với Nhàn đàm; Nguyễn Phan Hách với Cha tôi
không về, Đàn bướm bay, Mười hai tháng quê hương; Y Phương với Kungfu
người Co Xàu và Tháng Giêng - tháng Giêng một vòng dao quắm; Trần Đức
Tiến với Cà phê Trầm, Làng bên kia sông; Phan Thị Vàng Anh với Truyện
ngắn và tản văn; Đỗ Quang Hưng với Rì rào mùa hoa, Thương lắm, tết những
người xa xứ; Nguyễn Ngọc Tư với Gáy người thì lạnh; Phong Điệp với Bay
lên mái nhà thành phố; Đỗ Bích Thúy với Trên căn gác áp mái; Đỗ Phấn Hà
Nội thì không có tuyết; Nguyễn Việt Hà Con giai phố cổ; A Sáng với Giấc
mơ màu hạt dẻ...
Thậm chí ngay cả những nhà “ngoài luồng” văn chương, như nhà
sử học Cao Huy Thuần, nhà khảo cổ học Nguyễn Thị Hậu, họa sỹ Phan Cẩm Thượng,
nhạc sỹ Dương Thụ, đạo diễn điện ảnh Việt Linh... cũng đã từng “lấn sân” tản
văn.
Tản văn bộc lộ cái tôi trữ tình một cách rõ nét nhất, tâm huyết
nhất. Những gì được phản ánh trong tản văn là một phần trải nghiệm sâu sắc của
chính tác giả. Trong khi các nhà tiểu thuyết phải cất công dàn dựng, phải hư cấu,
phải phân thân... Trong khi đó tản văn như một thứ thuốc thử, phản ứng ngay tức
thì, cho biết kết quả một cách nóng hổi.
Tản văn không cần phải hư cấu, không cần đến cả thi pháp nghệ
thuật. Tản văn như trời mưa, như nước chảy, như gió thoảng, như tiếng ve kêu
ran ran mùa hè. Tản văn phóng khoáng như bầy ngựa hoang tung vó trên đồng cỏ. Tản
văn phá vỡ các quy phạm khuôn thước, luôn tạo ra những cảm xúc bất ngờ. Tản văn
không thể tìm ra tính logic thông thường như các thể loại văn chương khác.
Nhưng tản văn đòi hỏi người viết phải có tư duy trực giác cao độ và cảm xúc cực
mạnh như khi ngồi làm thơ.
Tản văn không kén đề tài. Có thể viết chân dung. Có thể nói về
lịch sử, về văn hóa, về tôn giáo tín ngưỡng, về nghệ thuật, về triết học, về
cây cỏ sông suối... Không có gì trên đời mà không thể đưa vào tản văn.
Tản văn có lối kết cấu tự do như người đánh bóng bàn không cần
lưới. Chính vì lẽ đó người đọc cảm thấy mất “trật tự”. Nhà văn Nguyễn Tuân từng
nói “Ý này nhằng vào ý kia” và “sự liếc nhau” giữa các ý tạo nên tính thống nhất.
Tất cả xâu chuỗi lại bởi mạch cảm xúc của nhà văn. Tản mạn là hiện tượng bên
ngoài vỏ ngôn ngữ. Còn cái thần sắc là tính thống nhất ở bên trong tác phẩm.
Ngôn ngữ trong tản văn trong sáng, chân mộc, nhưng đòi hỏi sự tinh tế, khiến
cho người đọc thích thú khi tiếp nhận. Nhiều nhà văn đã chú ý sử dụng từ thuần
Việt.
Tản văn (tạp văn, tạp bút) xuất hiện đậm đặc báo chí. Với những
ai vừa viết văn vừa viết báo, tản văn như một gạch nối giữa hai công việc nghệ
thuật và báo chí. Thực tế cho thấy tản văn không khó viết. Nó là một thể loại
phi hư cấu. Nó không đỏi hỏi phải mất công xây dựng cốt truyện, nhân vật sự kiện,
tình tiết... một cách chặt chẽ như ở truyện ngắn hoặc tiểu thuyết. Nó cũng
không đòi hỏi người viết sự “thâm nhập thực tế” một cách trường kỳ và cái nhìn
quan sát có tính chủ ý cao như ở tùy bút hay bút ký. Truyện có thể không cần có
cốt truyện gì cả, vẫn có thể dựng thành tác phẩm văn học. Nhưng tản văn nhất
thiết phải có tứ. Đọc xong người nhớ đây là dòng sông trong xanh như có trời lội
xuồng. Người đọc cảm thấy miếng bánh áp chao nóng giòn trong khoang miệng...
Sự xuất hiện trở lại của tản văn không thể xem là chuyện bình
thường. Tản văn đáp ứng được yêu cầu thực tế trong xã hội. Trong khi thơ và tiểu
thuyết cần có thời gian quan sát, chiêm nghiệm và đầu tư công phu cho tác phẩm.
Đây là thời buổi của thế giới phẳng, Trái đất như một ngôi làng khổng lồ. Đâu
đâu cũng bùng nổ thông tin. Các phương tiện truyền thông đại chúng đều có thể
chuyển tải tản văn một cách dễ dàng. Hơn nữa, tản văn là một thể loại văn học rất
gần với thông tấn báo chí. Bằng mọi con đường, tản văn đến với công chúng độc
giả một cách hữu hiệu nhất, kịp thời nhất, linh hoạt nhất.
Có thể nói tản văn ở thời kỳ này, làm đúng chức năng phản ánh
cuộc sống, phản ánh tâm hồn con người một cách nhanh chóng và được đông đảo bạn
đọc nhiệt tình hưởng ứng tìm đọc.
Lý giải điều này, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng dung lượng tản
văn nhỏ (thường chỉ trên dưới 1.000 chữ/bài), nên tản văn dễ “có chỗ đứng”
trong làng báo chí. Bởi thế, tản văn “vừa ra lò”, còn “hôi hổi nóng” đã có báo
“đón tay” ngay. Đơn cử, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều có chùm tản văn đăng trên tờ Cảnh
sát toàn cầu. Tản văn Nhân trường hợp chị thỏ bông của Thảo Hảo
(Phan Thị Vàng Anh) tập hợp những bài viết đặc sắc trong mục “Tôi nghe, đọc,
xem, thấy” đăng trên báo Thể thao văn hóa. Thảo Hảo thường đặt tên cho những
tản văn của mình như muốn trêu tức người đọc (Tôi cũng muốn ăn cắp, Ai cho mày
chê con tao xấu?, Để bóp (gần) chết lòng yêu nghề, Cụ Rùa thuộc biên chế bộ
nào?...). Đọc hai tản văn của tôi, nhà văn Lê Thị Bích Hồng nhận xét như lùa
vào gan ruột “Y Phương cũng cố tình muốn “gây sự” và gợi sự hiếu kỳ của người đọc
với một loạt tản văn mang đậm phong vị quê hương vùng Tày Nghe hạt dẻ rơi,
Trám mang thai, Bánh xì chen chạy lung tung, Tết Slip Sli thịt vịt, Băm sáu giờ
say, Phúng xàng lủng lẳng...
Riêng với trường hợp của mình, vốn đã đặt cược cả đời trong sự
nghiệp thi ca, nhưng tôi vẫn không ngừng tìm kiếm một cách viết mới, ngoài thơ.
Vượt qua cảm giác lống loáng, rỗng ruột, tôi đã vịn câu nói của cổ nhân người
Tày: “Chỗ nào còn nước thì làm ruộng, hết nước thì làm rẫy”. Tôi viết như gieo
một loài giống mới trên cánh đồng con gái trinh nguyên. Viết như nã “đạn mác
xá” (đạn súng kíp) hàng trăm viên vào một “con thú”... và tôi chờ kết quả. Tôi
trông chờ sản phẩm “ra lò” là một thể loại nào đó của văn xuôi. Thế là tôi đã
tìm được một cách thể hiện mới. Mọi người gọi là tản văn. Ừ thì tản văn. Nó
không giống tùy bút. Càng không như phóng sự. Nó là nó. Vậy thôi. Nhưng tôi
“lén” coi tản văn với thơ như hai anh em con dì con già. Viết tản văn phải có
chất thơ. Nghĩa là nó biêng biêng trên nền tảng hiện thực. Nó bám hiện thực,
nhưng rồi đến khi có đà, nó bay lên trên hiện thực. Tôi thích viết tản văn – loại
văn xuôi ngắn gọn, hàm súc, dài ngắn tùy ý, lối thể hiện đời sống mang tính chất
chấm phá, tái hiện nét chính của các hiện tượng giàu ý nghĩa xã hội, bộc lộ trực
tiếp tình cảm, ý nghĩ mang đậm bản sắc cá tính tác giả. Tôi chọn thể loại này
vì có nét gần thơ. Thơ gần tản văn vì không nhất thiết phải có cốt truyện phức
tạp, nhân vật hoàn chỉnh, nhưng lại đòi hỏi nghiêm ngặt là cấu tứ độc đáo, có
giọng điệu, có cách thể hiện đa dạng để có thể miêu tả phong cảnh, khắc họa
nhân vật, bộc lộ cảm xúc trữ tình, tính tự sự, đặc biệt là thể hiện nổi bật
chính kiến và cá tính tác giả...
Trong không khí dân chủ, đổi mới với cái nhìn cởi mở, cho
phép các nhà văn “nhìn thẳng vào sự thật” và nói lên sự thật. Chính điều đó đã
tạo cho tản văn có được mảnh đất màu mỡ giúp các nhà văn tung tẩy cây bút, đúng
như lời Khổng Tử “thuật nhi bất tác” phản ánh cuộc sống như vốn có. Cuộc sống
hiện đại, buộc con người đứng trước áp lực miếng cơm manh áo không kém phần khốc
liệt. Nếu như trước đây chỉ cần ăn no mặc ấm, thì nay đòi hỏi phải ăn ngon mặc
đẹp. Nếu như trước đây chỉ cần “một túp lều rơm với hai trái tim vàng” thì nay
người ta phấn đấu có biệt thự, có trang trại, có sân gôn... Nếu như trước đây
“phu xướng phụ tùy” thì nay vợ chồng bình đẳng, cùng nhau bàn bạc, xướng cùng
xướng, tùy cùng tùy. Nếu như trước đây “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, ngày nay,
con đặt đâu cha mẹ ngồi đấy. Con cái sinh sống và làm việc ở thủ đô, ở những
thành phố lớn, buộc các ông bố bà mẹ phải bỏ làng ra sống cùng con cái. Ngày
nay “cá không cần ăn muối”. Cá để trong tủ lạnh cả tháng vẫn không bị ươn.
Ngày xưa lo dựng vợ gả chồng cho các con. Ngày nay, các con “sống thử” rồi mới tính chuyện cưới xin. Ngày xưa “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”. Ngày nay thì chỉ cần “cái gì chưa biết thì tra google” (Dân Huyền). Mọi biến chuyển nhanh chóng với chiếc kích 180 độ xoay. Các quy chuẩn trước đây, nay buộc phải xem xét trước khi quyết định.
Ngày xưa lo dựng vợ gả chồng cho các con. Ngày nay, các con “sống thử” rồi mới tính chuyện cưới xin. Ngày xưa “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”. Ngày nay thì chỉ cần “cái gì chưa biết thì tra google” (Dân Huyền). Mọi biến chuyển nhanh chóng với chiếc kích 180 độ xoay. Các quy chuẩn trước đây, nay buộc phải xem xét trước khi quyết định.
Tản văn không bí hiểm nhiều tầng nhiều lớp như thơ, không phải bóc
tách luận giải như trong tiểu thuyết. Có ai đó nói tản văn dễ viết, nhưng sòng
phẳng mà nói, tản văn cực khó viết. Mặc dù ai cũng có thể viết tản văn, cũng
như ai cũng có thể luộc rau chín. Ai cũng có thể luộc cho trứng chín. Nhưng
chín như thế nào mới thực sự quan trọng.
Với tôi, sau hai tập tản văn Kungfu người Co Xàu (Giải
thưởng Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam năm 2011) và Tháng
Giêng – tháng Giêng một vòng dao quắm (Bằng khen của Hội Nhà văn Việt Nam,
năm 2010) được bạn đọc đón nhận. Tôi tiếp tục “dấn thân” thể loại mới này và đã
trình làng cuốn tản văn mới Fừn Nèn (Củi lửa) Nhà xuất bản Phụ nữ năm
2016.
Tản văn là một thể loại mới trong sự nghiệp văn chương của
tôi.
Chú thích:
1/ Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb GD, H, 2004, tr.293.
2/ Từ điển văn học (bộ mới) NXB Thế Giới, 2004.
Tr.1601.
3/ Dẫn theo Lê Thị Bích Hồng – Hoàng Thị Kiều Trang Bản
sắc văn hóa Tày trong tản văn Y Phương – NXB Đại học Thái Nguyên, 2015.
4/ Lê Trà My, (2008), Tản văn Việt Nam thế kỉ XX (từ
cái nhìn thể loại).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét