Trước hết, chúng ta cần phân biệt các khái niệm: chùa, đền, đình,
miếu, nhà Thánh, nhà thờ… Chùa là nơi thờ Phật. Đền là nơi thờ Thánh (gồm 2
dòng chính, đền thờ Thánh Mẫu và đền thờ Đức Thánh Trần). Miếu là nơi thờ Thành
Hoàng, Thổ Công. Nhà Thánh là nơi thờ Khổng Tử. Nhà thờ là nơi thờ Thánh tổ của
các đạo giáo, tổ phụ, gia tiên của các dòng họ. Đình là nơi để họp làng không
phải chỗ thờ cúng, nhưng do điều kiện kinh tế của các địa phương, có nơi cũng
đưa việc thờ cúng vào đình làng. Đó là trường hợp ngoại lệ.
Do mục đích khác nhau nên lễ nghi thờ cúng ở đền, chùa, miếu, nhà
Thánh, nhà thờ… cũng khác nhau. Ở chùa và ở nhà thờ các đạo giáo nghi thức chủ
yếu là đọc kinh, hành lễ, ban phước. Đền là nơi thờ cúng các vị có công với
dân, với nước, được nhân dân và các triều đại ban sắc, phong Thánh. Đó là những
vị Thánh của dân tộc Việt Nam, ngự trị trong tâm linh, tâm hồn của người Việt,
được người Việt từ thế hệ này qua thế hệ khác ngưỡng mộ, tôn thờ.
Nghi thức thờ cúng trong các đền thờ Thánh Mẫu được gọi là hầu.
Hầu có 2 dạng: hầu bóng(còn gọi là hầu mát) và hầu đồng.
Hầu bóng là nghi thức thờ cúng đơn thuần, người hầu thực hiện
các nghi lễ theo trình tự bài bản từ xưa để lại. Hầu đồng, cũng diễn
ra theo các trình tự như hầu mát, nhưng được quan niệm là người hầu
đã có phần hồn của các vị Thánh Linh giáng vào, nhập vào. (Bài viết này chỉ đề
cập đến các thủ tục, lễ nghi, nghi thức hầu mát ở các đền thờ Thánh Mẫu,
chưa đề cập đến hầu đồng vì đấy là một vấn đề phức tạp không dễ trình
bày trong một bài báo ngắn).
Như trên đã nói, đền thờ Thánh ở Việt Nam chia làm 2 hệ thống: Tứ
phủ và Tam phủ, tức là một hệ đền thờ Thánh Mẫu, và một hệ đền thờ Hưng Đạo Đại
vương và các tướng lĩnh, gia thân của nhà Trần. Hai hệ đền thờ ấy, người Việt
còn gọi một cách thân mật giản dị là đền thờ Cha và đền thờ Mẹ. Trong các đền
thờ Thánh Mẫu thì đứng đầu là Mẫu Đệ Nhất (công chúa Liễu Hạnh). Tiếp đến là Mẫu
Đệ Nhị, Mẫu Đệ Tam… tiếp đến các Chầu (tức là các Mẫu thuộc các dân tộc thiểu số
anh em), từ Chầu Bà đến Chầu Bé, 12 Chầu. Sau 12 Chầu là 12 Quan Lớn cũng gọi
theo thứ tự Quan Lớn Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam… Sau 12 Quan Lớn là 12 ông Hoàng,
gọi theo thứ tự Hoàng Nhất, Hoàng Đôi, Hoàng Bảy, Hoàng Mười… Các Quan Lớn, các
ông Hoàng đều có thần phả, một số vị còn có gốc tích nhân thần, quê quán, sắc
phong của các triều đại. Ví dụ: ông Hoàng Bảy có đền thờ riêng ở Lào Cai, ông
Hoàng Mười ở Nghệ An… Sau các ông Hoàng là các Cô, các Cậu. Các Cô, các Cậu
cũng là những nhân vật lịch sử, một số vị còn có đền thờ riêng ở các địa phương
trong nước. Ví dụ: Cô Bơ có đền thờ ở Thanh Hóa, Cậu Út có đền thờ ở Cửa Sót,
Hà Tĩnh…
Nghi thức thờ cúng trong các đền thờ Thánh Mẫu ở Việt Nam được gọi
là hầu. Chữ hầu này cũng có nghĩa như chữ hầu dùng trong
giao tiếp thường ngày, ví như khi ta nói, hầu ông, hầu bà, hầu cha, hầu mẹ, hầu
vợ, hầu chồng, hầu quan… chẳng hạn. Trong nghi thức thờ cúng ở các đền thờ
Thánh Mẫu, chữ hầu này có nghĩa là hầu Mẫu, hầu Thánh. Khi
nói đến chữ hầu là ta nói đến nghi thức thờ cúng ở trong các đền thờ
Thánh Mẫu. Trong đền thờ Thánh Mẫu, thay vì việc đọc văn thì người hầu
Thánh sẽ hát văn. Thay vì việc cúng bái, người hầu Thánh lại biểu thị
bằng các động tác múa. Những động tác múa được cách điệu từ đời sống lao động
thường ngày như múa chèo thuyền, múa đi ngựa, múa gươm, múa đao, múa chăn tằm dệt
vải, múa “lên rừng hái lộc tìm hoa”…
Như vậy, có thể nói nội dung của nghi thức hầu Thánh lại chính
là hát và múa. Đó là những làn hát, những điệu múa dân gian đã được thời gian
thử thách, chọn lọc và đã tồn tại lâu dài, bền vững nghìn năm trong lịch sử dân
tộc, tiếp nối từ đời này qua đời khác. Có thể khẳng định chắc chắn rằng, các
làn hát, các điệu múa ấy đã góp phần quan trọng để làm nên các giá trị trong tổng
thể tinh hoa văn hóa cổ truyền của dân tộc. Nghi thức thờ Mẫu là nghi thức thờ
cúng rất độc đáo, rất đặc sắc của văn hóa Việt và cũng chỉ người Việt mới có.
Chính vì lẽ đó mà năm nay, Ủy ban Văn hóa Unesco của Liên Hiệp Quốc đã công nhận
tín ngưỡng thờ Mẫu của Việt Nam là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Tuy nhiên, giá trị văn hóa của các nghi thức thờ cúng trong các đền
thờ Thánh Mẫu không chỉ có thế. Nghi thức thờ cúng trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở
Việt Nam là một tập hợp bao gồm nhiều giá trị văn hóa tổng hợp. Chẳng hạn, văn
hóa bài trí, văn hóa phục trang, văn hóa ẩm thực...
Mâm sơn trang là để cúng Mẫu Thượng Ngàn và 12 bà Mụ. Trong lễ
nghi thờ Mẫu, mâm sơn trang phải bày đủ sản vật tiêu biểu của rừng và
biển: cơm lam, chè và, măng giang, bánh đa, bánh đúc, bún lá, xôi cẩm, cá luộc,
trứng luộc, cua bể, cua đồng, ốc luộc, tôm luộc, thịt heo nướng, muối vừng, muối
lạc, tương ớt, nước chẻo… Người hầu Mẫu, dâng mâm sơn trang cúng Mẫu, nói chung
đều phải cố gắng sắm đủ lễ vật nói trên. Thoảng hoặc, một đôi người vì lý
do nào đó, có lúc làm thiếu đi một vài món trong các món kể trên thì cũng không
sao. Theo quy định từ xưa, khi cúng xong, người hầu Thánh phải đem mâm sơn
trang ra để mời khách thập phương đến dự lễ ăn uống. Người xưa quan niệm rằng,
mọi lễ vật thờ Thánh khi cúng xong phải phát hết cho khách thập phương (gọi là
tản lộc). Ai tham lam giữ lại cho mình là không được hưởng phúc lộc Thánh ban.
Về trang phục, nếu để ý, chúng ta sẽ thấy trang phục của người Việt từ thời thượng
cổ vẫn được bảo tồn, tái hiện gần như nguyên vẹn trong các giá hầu. Mỗi giá hầu
có một bộ trang phục riêng. Mỗi bộ trang phục riêng lại kéo theo một cách ăn mặc
riêng. Cái khăn mỏ quạ khác cái khăn piêu nên cách vấn khăn của các Chầu, các Mẫu
cũng rất khác nhau. Các Mẫu đi giày, đi hia. Các Chầu quấn chân bằng xà cạp. Cô
Bơ mặc áo trắng, tóc bỏ đuôi gà. Cô Cam Đường mặc áo tứ thân màu nâu tím, chít
khăn mỏ quạ, gánh vải đi bán. Nói tóm lại, cân đai, giày mũ, khuyên vàng, vòng
bạc, trâm cài, lược dắt, mỗi người mỗi khác. Trong đền thờ Thánh Mẫu, có những
người chuyên nghề phục trang cho các giá đồng. Họ rất thông hiểu về văn hóa lễ
nghi trong trang phục truyền thống. Có những “bản hội” đến đền hầu liệt giá.
Chúng ta có thể đếm được 43 giá đồng với 43 cách ăn mặc khác nhau. Thông thường
hiện nay, người hầu Thánh chỉ hầu 12 giá tùy vào “căn kiếp” của người hầu mà chọn
lọc các giá hầu.
Trong một cuộc hầu Thánh, người hát văn hát thỉnh, hát mời cả 43 giá đồng nhưng người hầu tùy ý lựa chọn. Nếu giá nào không hầu thì người hầu đưa tay lên đầu nắm lại, ra hiệu cho người hát văn biết để hát câu “xe loan Thánh giá hồi cung”. Ngoài ra, hai người chuyên hầu trà, rượu, thuốc, nước cũng phải học cách rót rượu, dâng trà, cầm hương, che quạt một cách chính tắc, có bài bản, tuân thủ lễ nghi phong tục cổ truyền biểu hiện trong từng động tác, từng cử chỉ mang tính văn hóa cao. Như đã nói, lễ nghi thờ cúng trong các đền thờ Thánh Mẫu có nội dung chủ yếu biểu hiện ở khâu hành lễ. Vào buổi lễ, trước hết, người chủ tế đọc “kinh thỉnh”, “kinh báo cáo”. “Kinh” này nêu rõ lý do thờ cúng, ai thờ cúng, thờ cúng những ai, với mục đích gì trong buổi hành lễ này? Nghi thức này được làm rất trang trọng. Có chiêng trống, có thông xướng, có chủ tế, phụ tế. Có hát thỉnh, hát mời. Lễ này thường kéo dài ba tiếng đồng hồ. Có nơi nghi thức đó được làm vào ban đêm, để đèn nến suốt sáng, rạng ngày hôm sau mới vào cuộc hầu. Vào cuộc hầu, người hầu xưng tên tuổi danh tính, xin Thánh cho hầu bằng cách “khất âm dương”. Thường thì người hầu cứ xin mãi cho đến khi được “Thánh chấp thuận”, không thấy ai bị bỏ dở cuộc hầu. Ở đền thờ Thánh Mẫu, người hầu Thánh không làm việc “cúng bái” như việc cúng đơm trong gia tiên hay nhà thờ họ. Người hầu hành lễ theo cách “lạy bước”. Đầu tiên, người hầu quỳ xuống, cầm 5 cây hương, vái 5 vái ở chính điện, 1 vái bên tả, 1 vái bên hữu. Sau đó tiếp tục 5 lễ. Cụ thể: Người hầu đứng lên, lùi chân trái về phía sau, lùi chân phải ngang chân trái để định vị. Sau đó đưa chân trái tiến lên, đưa chân phải định vị, vái 5 vái ở chính điện và 1 vái bên tả, 1 vái bên hữu. Tiếp tục tiến lên, lùi lại như vậy 5 lần, gọi là 5 lễ. Sau khi cử hành 5 lễ, người hầu quỳ xuống, người phục vụ trùm tấm khăn đỏ lên đầu. Ban nhạc và những người hát văn bắt đầu hát bài hát văn giá Mẫu. Người hầu lần lượt hầu các giá Mẫu, giá các Quan Lớn, các ông Hoàng, các Cô, các Cậu, các Chầu… Những người phục vụ quỳ hai bên tả hữu của người hầu để thay đổi trang phục, dâng trà nước, nhắc nhở người hầu thực hiện các động tác múa cho phù hợp với các giá hầu. Sau mỗi giá, người phục vụ (còn gọi là hầu dâng) nhắc nhở người hầu “phát lộc” cho cung văn và khách thập phương đến dự lễ. Người hầu Thánh thực hiện các động tác múa cổ truyền được quy định cho từng giá đồng. Tiếng nhạc ngựa, tiếng gươm khua, tiếng mái chèo quẫy nước vô cùng sôi động. Đặc biệt hơn cả là điệu múa “lên rừng hái lộc tìm hoa” của Chầu Bà và Chầu Bé được tất cả mọi người đến dự lễ cùng vỗ tay và hát tập thể. Ánh sáng từ các cây đăng trên tay của Chầu soi sáng tất cả mọi gương mặt để ban cho họ một sức khỏe mới, một tinh thần mới, từ uy linh của các Thánh. Hầu như ai đến dự lễ cũng cảm thấy như bản thân mình vừa được các Mẫu, các Thánh truyền cho ánh sáng của sự lạc quan, yêu đời, rất lạ lùng và mới mẻ. Có người nói với tôi rằng: “Lâu nay con cứ cảm thấy lì xì cả sức khỏe, cả tinh thần. Có lẽ vì suốt cả năm con chưa dự buổi hầu nào cả. Nay dự lễ hầu Mẫu, con cảm thấy tinh thần rất phấn chấn”! Tất nhiên, đó là tâm sự của những người thờ Thánh Mẫu, theo quan niệm tâm linh thì những người đó vốn có “căn kiếp” riêng của họ, những lời họ nói hẳn là rất chân thành.
Trong một cuộc hầu Thánh, người hát văn hát thỉnh, hát mời cả 43 giá đồng nhưng người hầu tùy ý lựa chọn. Nếu giá nào không hầu thì người hầu đưa tay lên đầu nắm lại, ra hiệu cho người hát văn biết để hát câu “xe loan Thánh giá hồi cung”. Ngoài ra, hai người chuyên hầu trà, rượu, thuốc, nước cũng phải học cách rót rượu, dâng trà, cầm hương, che quạt một cách chính tắc, có bài bản, tuân thủ lễ nghi phong tục cổ truyền biểu hiện trong từng động tác, từng cử chỉ mang tính văn hóa cao. Như đã nói, lễ nghi thờ cúng trong các đền thờ Thánh Mẫu có nội dung chủ yếu biểu hiện ở khâu hành lễ. Vào buổi lễ, trước hết, người chủ tế đọc “kinh thỉnh”, “kinh báo cáo”. “Kinh” này nêu rõ lý do thờ cúng, ai thờ cúng, thờ cúng những ai, với mục đích gì trong buổi hành lễ này? Nghi thức này được làm rất trang trọng. Có chiêng trống, có thông xướng, có chủ tế, phụ tế. Có hát thỉnh, hát mời. Lễ này thường kéo dài ba tiếng đồng hồ. Có nơi nghi thức đó được làm vào ban đêm, để đèn nến suốt sáng, rạng ngày hôm sau mới vào cuộc hầu. Vào cuộc hầu, người hầu xưng tên tuổi danh tính, xin Thánh cho hầu bằng cách “khất âm dương”. Thường thì người hầu cứ xin mãi cho đến khi được “Thánh chấp thuận”, không thấy ai bị bỏ dở cuộc hầu. Ở đền thờ Thánh Mẫu, người hầu Thánh không làm việc “cúng bái” như việc cúng đơm trong gia tiên hay nhà thờ họ. Người hầu hành lễ theo cách “lạy bước”. Đầu tiên, người hầu quỳ xuống, cầm 5 cây hương, vái 5 vái ở chính điện, 1 vái bên tả, 1 vái bên hữu. Sau đó tiếp tục 5 lễ. Cụ thể: Người hầu đứng lên, lùi chân trái về phía sau, lùi chân phải ngang chân trái để định vị. Sau đó đưa chân trái tiến lên, đưa chân phải định vị, vái 5 vái ở chính điện và 1 vái bên tả, 1 vái bên hữu. Tiếp tục tiến lên, lùi lại như vậy 5 lần, gọi là 5 lễ. Sau khi cử hành 5 lễ, người hầu quỳ xuống, người phục vụ trùm tấm khăn đỏ lên đầu. Ban nhạc và những người hát văn bắt đầu hát bài hát văn giá Mẫu. Người hầu lần lượt hầu các giá Mẫu, giá các Quan Lớn, các ông Hoàng, các Cô, các Cậu, các Chầu… Những người phục vụ quỳ hai bên tả hữu của người hầu để thay đổi trang phục, dâng trà nước, nhắc nhở người hầu thực hiện các động tác múa cho phù hợp với các giá hầu. Sau mỗi giá, người phục vụ (còn gọi là hầu dâng) nhắc nhở người hầu “phát lộc” cho cung văn và khách thập phương đến dự lễ. Người hầu Thánh thực hiện các động tác múa cổ truyền được quy định cho từng giá đồng. Tiếng nhạc ngựa, tiếng gươm khua, tiếng mái chèo quẫy nước vô cùng sôi động. Đặc biệt hơn cả là điệu múa “lên rừng hái lộc tìm hoa” của Chầu Bà và Chầu Bé được tất cả mọi người đến dự lễ cùng vỗ tay và hát tập thể. Ánh sáng từ các cây đăng trên tay của Chầu soi sáng tất cả mọi gương mặt để ban cho họ một sức khỏe mới, một tinh thần mới, từ uy linh của các Thánh. Hầu như ai đến dự lễ cũng cảm thấy như bản thân mình vừa được các Mẫu, các Thánh truyền cho ánh sáng của sự lạc quan, yêu đời, rất lạ lùng và mới mẻ. Có người nói với tôi rằng: “Lâu nay con cứ cảm thấy lì xì cả sức khỏe, cả tinh thần. Có lẽ vì suốt cả năm con chưa dự buổi hầu nào cả. Nay dự lễ hầu Mẫu, con cảm thấy tinh thần rất phấn chấn”! Tất nhiên, đó là tâm sự của những người thờ Thánh Mẫu, theo quan niệm tâm linh thì những người đó vốn có “căn kiếp” riêng của họ, những lời họ nói hẳn là rất chân thành.
Lễ nghi thờ Mẫu là lễ nghi của người Việt Nam thờ Thánh Việt Nam
theo tín ngưỡng Việt Nam. Lễ nghi và tín ngưỡng này có từ thời Mẫu hệ, được lưu
truyền, kế thừa và phát triển trong tiến trình lịch sử lâu dài của dân tộc.
Cũng theo tiến trình lịch sử, Thánh Việt Nam ngày một nhiều thêm, đền thờ Thánh
cũng tăng dần theo lòng tôn kính của nhân dân với các anh hùng dân tộc, người
có công với dân, với nước. Đền thờ Thánh Mẫu ở Việt Nam là bảo tàng văn hóa sống
động, đa chiều, đa dạng như trên đã nói. Nghi thức thờ cúng ở trong đền thờ
Thánh Mẫu là hầu. Hầu là nghi thức thờ cúng rất đặc sắc, rất có văn
hóa, rất đáng quan tâm, nghiên cứu, kế thừa, phát triển. Ngày nay, ngoài việc
gìn giữ phong tục cổ truyền tốt đẹp của dân tộc, đền chùa còn có những đóng góp
rất quan trọng trong việc hấp dẫn khách tham quan du lịch. Việt Nam muốn là “điểm
đến của thiên niên kỷ mới” càng cần phải nghiên cứu, kế thừa lễ nghi thờ cúng
trong các đền Thánh Mẫu nhất là khi tín ngưỡng thờ Thánh Mẫu của chúng ta đã được
cả thế giới công nhận là di sản văn hóa của nhân loại. Có một số người chỉ đại
khái nghe đến chữ hầu liền phán ngay là mê tín dị đoan, trong khi
chính bản thân mình chưa hề để tâm nghiên cứu.
Văn hóa lễ nghi, văn hóa tâm linh, là những khái niệm khó, đòi hỏi
mỗi người phải có “con mắt xanh” để nhìn nhận, để trân trọng và nâng niu gìn giữ
những di sản, những vốn văn hóa quý hiếm trong đời sống tâm linh, tâm hồn của
dân tộc. Hiện nay, theo ước tính, Việt Nam có gần 7.000 vị Thánh. Thánh phả Việt
Nam chưa được nghiên cứu, chưa có phả hệ rõ ràng. Việt Nam trên thực tế vẫn có hàng
ngàn đền thờ Thánh. Lễ nghi thờ cúng trong các đền thờ cũng còn nhiều tùy tiện.
Mong các nhà văn hóa, các nhà nghiên cứu lưu tâm hơn nữa đến các vấn đề này. Lễ
nghi thờ cúng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của chúng ta cần được tiếp tục nghiên cứu
để phát huy giá trị của nó, cao hơn, xứng tầm với một di sản văn hóa quý hiếm
được cả nhân loại công nhận.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét