Thứ Bảy, 22 tháng 4, 2017

Một nhân cách hội họa

Một nhân cách hội họa
Với nhiều học trò như nhà phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân, thầy Nguyễn Đỗ Cung không chỉ để lại khối di sản lớn các tác phẩm, các công trình nghiên cứu mà trên hết là một nhân cách hội họa.
Hai mặt đối lập
Nguyễn Đỗ Cung tốt nghiệp khóa 5 Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (1929-1934), cùng với Nguyễn Gia Trí, Trần Bình Lộc… Trong con mắt của giới phê bình mỹ thuật, ông là người họa sĩ không bao giờ chịu bó hẹp phong cách, mà luôn thích khám phá, thể nghiệm các trường phái hội họa mới của phương Tây như lập thể, trừu tượng. Ông vẽ không nhiều, nhưng mỗi tác phẩm lại là một công trình lớn, đánh dấu bước tiến dài với từng khuynh hướng hội họa. Những năm 1940, dù không có đủ tiền, nhưng với sự giúp đỡ của một người bạn, “người thanh niên có đôi mắt sáng trong” ấy đã quyết tâm sang Nhật để tìm hiểu về các trào lưu hội họa ở xứ sở này, trong đó có kỹ thuật sơn mài. Nguyễn Đỗ Cung luôn đi tìm những thứ mới mẻ trong hội họa, có tư tưởng cách tân mạnh mẽ nhưng bên cạnh đó, lại dành tình yêu lớn cho những vốn cổ của nền mỹ thuật truyền thống. Đó là hai mặt đối lập trong con người nghệ sĩ của ông.
Họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm, trong bộ tứ Nghiêm - Liên - Sáng - Phái, người được đề cao với dấu ấn mỹ thuật cổ trong các tác phẩm hội họa,  đã nói với nhà phê bình mỹ thuật Nguyễn Đỗ Bảo (con trai họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung) rằng: “Tô Ngọc Vân là người đã dạy cho tôi về mỹ thuật, thẩm mỹ hiện đại của phương Tây, còn người dạy cho tôi biết yêu mỹ thuật truyền thống chính là Nguyễn Đỗ Cung”. Khi còn là chàng sinh viên Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, Nguyễn Đỗ Cung vẫn thường lui tới các ngôi chùa, đền, miếu, ngồi say sưa hàng giờ vẽ lại tỉ mỉ từng chi tiết trang trí. Trong suốt thời gian dài, ông tự mày mò tìm hiểu về nền mỹ thuật của từng triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn, đưa ra những bản tổng hợp mang tính chất nghiên cứu có hệ thống. Dù luôn không nhận mình là nhà nghiên cứu nhưng không thể phủ nhận, Nguyễn Đỗ Cung là người có công đặt nền móng cho việc nghiên cứu mỹ thuật cổ trong thời kỳ mỹ thuật hiện đại.
Vào năm 1962 khi Viện Mỹ thuật được thành lập, người ta đã nghĩ ngay đến Nguyễn Đỗ Cung với vị trí người chèo lái vừa có tâm, vừa có tài. Ông đã khiêm tốn từ chối bởi con người nghệ sĩ như ông vốn chỉ quen với công việc sáng tác. Nhưng vì được thuyết phục đây là “nhiệm vụ của nhà nước giao cho” nên Nguyễn Đỗ Cung không thể không nhận lời. Một trong những công việc cũng là nhiệm vụ đầu tiên ông đặt ra là đào tạo thế hệ các nhà nghiên cứu trẻ về mỹ thuật truyền thống. Chính nhờ vậy, Viện Mỹ thuật đã có những tài liệu quý giá, khẳng định Việt Nam có nền mỹ thuật độc lập và phát triển lâu đời. Sau này Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam được sửa lại từ tòa nhà mang kiến trúc Pháp, nhưng được kết hợp với kiến trúc mỹ thuật cổ Việt Nam với những cột trụ, đấu đỡ, họa tiết chạm trổ thường thấy trong những ngôi chùa, ngôi đình Việt Nam truyền thống.
Phẩm cách người nghệ sĩ
Nguyễn Đỗ Cung là người có lòng yêu nước trong sáng, không phải do được giác ngộ, mà xuất phát từ lòng tự ái dân tộc của bản thân. Khi hiệu trưởng đầu tiên của Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương là Victor Tardieu qua đời, nghệ sĩ điêu khắc Jonchère được bổ nhiệm thay thế. Trước khi lên tàu sang Việt Nam, Jonchère đã tỏ rõ thái độ của kẻ thực dân, miệt thị các nghệ sĩ bản xứ. Ông ta đã tuyên bố đi chuyến này chỉ để đào tạo “những người thợ chứ không phải những người nghệ sĩ”. Cảm thấy như bị xúc phạm tới lòng tự trọng, danh dự, Nguyễn Đỗ Cung đã cùng với họa sĩ Trần Văn Cẩn, Hoàng Lập Ngôn, Lương Xuân Nhị (có tài liệu nói cả Lưu Văn Sìn) cùng thảo một bức thư phản đối và ký tên tại ngay nhà của Lương Xuân Nhị. Bức thư được đăng trên báo Ngày nay (1939) đưa ra những bằng chứng và lý lẽ chứng minh tài năng của người Việt Nam qua các công trình kiến trúc cổ, cũng như các tác phẩm sau này. Thấy Nguyễn Đỗ Cung có tư tưởng chống Pháp, Jonchère đã đuổi,  không cho ông được lui tới trường.
Cũng chính từ lòng tự hào, trân trọng trước tài năng của các họa sĩ Việt Nam, ông Viện trưởng Viện Mỹ thuật Nguyễn Đỗ Cung đã có chủ trương tìm mua lại các tác phẩm của các họa sĩ của Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đang còn lưu lạc ở nhiều nơi. “Chính ông viện trưởng đã “cứu” các tác phẩm hội họa Đông Dương” - nhà phê bình mỹ thuật Nguyễn Hải Yến, người nhận nhiệm vụ tìm lại các bức tranh, nhớ lại. Bởi nếu như ông không đưa ra chủ trương kịp thời, thì các tác phẩm quý giá này đã có thể bị bán hết ra nước ngoài.
Lòng yêu nước sớm thôi thúc Nguyễn Đỗ Cung tham gia cách mạng, sáng tác phục vụ các cuộc kháng chiến. Ông là người có vinh dự có hai lần được diện kiến, vẽ chân dung Bác Hồ. Lần đầu tiên vào năm 1946, họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung cùng họa sĩ Tô Ngọc Vân, nhà điêu khắc Nguyễn Thị Kim đã tới Bắc Bộ phủ trước ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau, lần thứ hai là vào năm 1954. Nhiều tác phẩm sau Cách mạng Tháng Tám của Nguyễn Đỗ Cung đang được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, nhưng đáng tiếc là hầu hết các tác phẩm trước đó của ông đã bị thất lạc hoặc hư hỏng hết. Để đánh giá về tài năng, con đường hội họa của Nguyễn Đỗ Cung, sẽ trọn vẹn hơn nếu nhìn nhận các tác phẩm thuộc cả hai thời kỳ sáng tác, khi ông luôn thích các khuynh hướng hội họa mới, và khi chỉ trung thành với khuynh hướng hiện thực để tập trung thể hiện nội dung tuyên truyền.
Với ông, sáng tác (trong thời kỳ sau Cách mạng Tháng Tám) hay giữ vị trí Viện trưởng Viện Mỹ thuật chỉ là cách ông cống hiến cho đất nước, nhân dân. Tuy chỉ làm nhiệm vụ trong thời gian ngắn (7 năm), nhưng ông luôn được nhắc đến như người có công đầu trong việc tạo dựng nên Viện Mỹ thuật hay Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, và hơn nữa là công việc giữ gìn nền mỹ thuật Việt Nam.
Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung (1912 - 1977) sinh ra trong gia đình có truyền thống Nho học ở Hà Nội, cha ông là danh sĩ Nguyễn Đỗ Mục. Ông đã để lại nhiều tác phẩm rất nổi tiếng trong nghệ thuật Việt Nam thế kỷ 20: Du kích La Hay tập bắn, Cổng làng, Cổng thành Huế, tranh bìa cho tập Xuân Thu nhã tập, Từ Hải... nhiều minh họa độc đáo trên Phong hóa, Ngày nay, nhất là Trung Bắc chủ nhật. Ông được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhất, Huân chương Kháng chiến hạng ba; năm 1996, ông được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Ngọc An
Nguồn: thanhnien.com.vn
Theo http://trieuxuan.info/






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tam Lu nghiêng trời

Tam Lu nghiêng trời Trương Thu Hiền đã xuất bản ba tập bút ký: “Đoản khúc cho quê”, “Độc bản”, “Hoa báo mùa sang”. Ngôn từ của chị đẹp, gi...