Núi Ngự sông Hương
Sông Hương - núi Ngự
Nguồn: flickr.com
Từ xưa đến nay, núi Ngự và sông Hương là hai thắng
cảnh thuộc vào hàng số một của xứ Huế. Hễ nói đến sông Hương là người ta nghĩ
ngay đến núi Ngự, và khi nghe đến núi Ngự, người ta liên tưởng đến sông Hương.
Với vẻ đẹp “bẩm sinh” do tạo hóa ban tặng và do “ông tơ bà nguyệt” kết nghĩa xe
duyên, núi Ngự và sông Hương trở thành một cặp tình nhân chung thủy keo sơn,
luôn luôn hiện hữu bên nhau như hình với bóng. Hai thực thể địa lý tự nhiên này
đã đi vào đời sống văn hóa của cộng đồng cư dân địa phương và tồn tại mãi trong
tâm thức của họ từ bao đời nay. Sông Hương núi Ngự cũng đã được “nhân cách hóa”
để cùng chia sẻ vui buồn với người dân xứ Huế qua các giai đoạn thăng trầm của
lịch sử. Núi sông cũng “khô héo lá gan”, “đầy vơi giọt lệ” khi người Huế bị rơi
vào hoàn cảnh đau thương.
Núi Ngự Bình nằm cách bờ nam sông Hương khoảng 3km, ở
địa điểm trước kia thuộc ấp Tứ Tây, làng An Cựu; sau đó thuộc xã Thủy An, thành
phố Huế; nay lại thuộc phường An Cựu của thành phố. Tuy hòn núi này chỉ cao
104m, nhưng vì nó đột khởi giữa chỗ đất bằng, ở một vị thế đặc biệt, cho nên,
ngay từ thế kỷ XVII, nó đã nằm trong tầm ngắm và lọt vào mắt xanh của các nhà
quy hoạch và xây dựng đô thị Huế. Thật vậy, trong các bộ sách lịch sử và địa
chí của mình, Quốc sử quán triều Nguyễn đều ghi rõ rằng vào năm 1687, khi chúa
Nguyễn Phúc Thái cho dời Thủ phủ từ Kim Long về làng Phú Xuân, các nhà kiến
trúc bấy giờ đã dùng hòn núi đặc biệt này làm tiền án, một yếu tố phong thủy
trong kiến trúc cổ. Bấy giờ, nó đã được gọi là hòn Mô hoặc Bằng Sơn. Bằng là
loài chim rất to lớn, như chim đại bàng chẳng hạn. Sở dĩ đặt tên Bằng Sơn là vì
hòn núi mang dáng vẻ như một con chim đại bàng dang hai cánh để bay. Đây là một
hòn núi tự nhiên, nhưng, từ phía bắc nhìn lại, trông nó cân phân, hai cánh hai
bên đông tây đối xứng với nhau một cách đều đặn như do bàn tay con người đắp
nên và tạo dáng. Hơn nữa, hai triền núi ở hai bên lại hơi chìa ra phía trước
trông giống như hai cánh tay đang dang ra phía trước để chào đón một đối tượng
nào đó của mình. Từ trên không trung nhìn xuống, người ta thấy hòn núi có dạng
hình cánh cung với phần lưng uốn nhẹ về phía nam. Có lẽ vì thế nên ca dao cho
rằng “núi Ngự Bình trước tròn sau méo” đó chăng? “Trước” và “sau” ở đây là nói
theo hướng bắc nam của trục chính tổng thể kiến trúc đô thị Huế dựa vào thuật
phong thủy từ xưa.
Núi Ngự Bình
Ảnh: Hoàng Tuấn - vnweblogs.com
Cũng chính vì hòn núi này có sẵn một hình thế đặc thù
như vậy, cho nên, nó vẫn được tiếp tục sử dụng làm tiền án khi chúa Nguyễn Phúc
Khoát cho xây dựng Thủ phủ Phú Xuân lần thứ hai vào năm 1783, và nhất là khi
vua Gia Long cho xây dựng Kinh đô Huế vào đầu thế kỷ XIX. Đến thời điểm cuối
cùng này, vị vua đầu triều Nguyễn đã đặt tên chính thức cho núi ấy là “Ngự Bình
sơn”. “Ngự” là một từ dùng để chỉ những gì thuộc về vua. “Bình” là ngăn che,
nói tắt từ chữ “bình phong”, vật dùng để ngăn chặn những điều không tốt lành,
những ảnh hưởng tâm linh xấu xa gây ra tai họa. Nói một cách dễ hiểu, “Ngự Bình
sơn” là hòn núi dùng làm cái bình phong của vua (Do đó, nó được dịch ra tiếng
Pháp là Mont Écran Royal, và tiếng Anh là Mount Royal Screen). Nó thường được
gọi tắt là “núi Ngự” để đi cặp với “sông Hương” cũng là một địa danh xuất hiện
vào đầu thế kỷ XIX.
Bấy giờ, cây thông đã được trồng phủ khắp từ chân đến
đầu núi. Ở đây thường có gió, làm cho thông reo vi vu hầu như cả 4 mùa. Đặc
biệt là vào mùa thu, thời tiết êm dịu, khí hậu trong lành, người xưa thường lên
đây để được ngắm toàn cảnh của kinh đô và thưởng thức nhiều điều thú vị của
thiên nhiên ở chỗ trời cao đất rộng. Triều đình nhà Nguyễn đã cho xây một hệ
thống bậc cấp bằng đá từ chân lên đến đỉnh để cho vua quan và dân chúng đỡ hao
sức khi leo núi vãn cảnh.
Thành phố Huế nhìn từ đỉnh núi Ngự Bình
Nguồn: skyscrapercity.com
Một năm sau khi đăng quang (1821), chính vua Minh Mạng
đã lên đây để “xem khắp hình thế Kinh thành”. Trong dịp này, vua thấy ở hai bên
núi Ngự Bình có hai hòn núi thấp hơn, liền đặt tên cho hòn núi bên trái là “Tả
Phụ sơn” (dưới thời Tây Sơn từng được gọi là núi Bân, nơi tế trời) và hòn núi
bên phải là “Hữu bật sơn” (nay là 1 trong 3 hòn núi được gọi là Tam Thai). Năm
1836, khi đúc Cửu đỉnh, nhà vua đã cho đúc nổi “Ngự Bình sơn” vào Nhân đỉnh.
Sau đó hai năm, 1838, nhân dịp “Trùng dương giai tiết”, còn gọi là ngày Trùng
cửu (mồng 9 tháng 9 âm lịch), vua cùng các quan lên núi chơi và làm thơ tại chỗ
để kỷ niệm. Từ đó, hàng năm, các vua nhà Nguyễn lên đây để thưởng lãm thắng
cảnh này. Trong một lần lên đây nhân tiết Trùng dương như vậy, vua Thiệu Trị
cũng đã cảm nhận rằng: “Ngắm khói mây mà tấm lòng rộng mở; nhìn phong cảnh tận
hưởng thú thiên nhiên”, rồi ngự chế bài thơ “Bình lãnh đăng cao” để ca ngợi và
xếp núi Ngự Bình vào trong 20 thắng cảnh của đất Thần kinh. Bài thơ đã được
khắc vào bia đá và dựng tại chân núi vào năm 1843, nay vẫn còn tại chỗ, được
bảo vệ trong một bi đình xây bằng gạch vồ rất kiên cố.
Rừng thông trên núi Ngự Bình
Nguồn:
skyscrapercity.com
Trong 30 năm chiến tranh, hầu hết cây thông ở núi Ngự Bình
đã bị chặt phá để làm củi. Sau ngày hòa bình (1975), thông đã được trồng lại và
rừng thông ở đó lại trở nên xanh tươi.
Dù sao, từ thế kỷ XVIII đến nay, núi Ngự cũng đã gắn
bó mật thiết với kiến trúc đô thị Huế và với đời sống văn học nghệ thuật của con
người địa phương. Cùng với sông Hương, núi Ngự vẫn luôn luôn là một hình tượng
độc đáo, một nét đẹp đặc biệt, đã từng đi vào trong nhiều thơ, ca, nhạc, họa,
và cả trong một số chuyện tình.
Người tình của núi Ngự là sông Hương
Có người đã từng so sánh vẻ đẹp thơ mộng tự nhiên của
sông Hương ở Huế với sông Seine ở Pháp và sông Danube ở Châu Âu. Trong nước thì
sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long đã được xem là “3 chị em" đại diện
cho 3 miền Bắc, Trung, . Riêng ở Huế thì tất nhiên, sông Hương là sông chính,
sông cái, sông mẹ của một hệ thống sông ngòi tự nhiên và nhân tạo trên địa bàn.
Sông Hương - núi Ngự nhìn từ
đồi Vọng Cảnh Nguồn: vnphoto.net
đồi Vọng Cảnh Nguồn: vnphoto.net
Ở thượng lưu, sông Hương do hai nguồn nước Tả trạch và
Hữu trạch hợp lại mà thành. Ở trung lưu và hạ lưu, sông Hương còn được tiếp
thêm nước của sông Bồ và của khá nhiều sông nhánh ở hai bờ tả hữu ngạn.
Tả trạch phát nguyên từ vùng tiếp giáp giữa tỉnh Thừa
Thiên Huế và tỉnh Quảng , nằm ở cao độ khoảng 1.100m. sau khi đi qua 55 thác
ghềnh, đến vùng Dương Hòa thì cao độ chỉ còn 100m, và đến ngã ba Bằng Lãng thì
cao độ chỉ còn 33m. Từ đầu nguồn đến đây dài 61km.
Hữu trạch ngắn hơn, khoảng 56km, phát xuất từ biên
giới Việt - Lào. Cao độ ở đây cũng thấp hơn, khoảng 900m. sau khi chảy qua 14
thác ghềnh với lộ trình 30km, Hữu trạch giảm cao độ xuống còn 100m ở một địa
danh từng được gọi là Mang Cá. Nó chảy tiếp theo hướng đông bắc, vừa qua khỏi
lăng Minh Mạng thì kết nghĩa xe duyên với Tả trạch để tạo ra một mối tình rất
thơ mộng được gọi tên là Hương Giang.
Dòng Hương Giang.
Nguồn: wordpress.com
Sông Bồ phát xuất từ A Roàng gần biên giới Việt - Lào,
cũng ở cao độ khoảng 900m. Trên hành trình dài chừng 80km, nó chảy quanh co qua
các huyện A Lưới, Hương Trà, Quảng Điền, và đổ nước ra sông Hương ở ngã ba
Sình. Từ đây, sông Hương chảy thêm khoảng 5km về hướng đông bắc là gặp phá Tam
Giang, rồi cùng giao lưu với biển cả qua hai thủy khẩu Thuận An và Tư Hiền.
Nhìn chung, lưu vực của hệ thống sông Hương và các chi
lưu lớn nhỏ của nó có diện tích 2.713km2, chiếm hơn 1/2 tổng diện tích đất tự
nhiên của cả tỉnh Thừa Thiên Huế (5.053,99km2).
Tuy nhiên, giá trị thẩm mỹ quan trọng nhất của hệ
thống dòng chảy ấy là chính bản thân sông Hương dài chưa tới 35km từ ngã ba
Bằng Lãng trước mặt chợ Tuần đến cửa biển Thuận An. Đặc biệt là đoạn trung lưu
dài khoảng 15km từ chân đồi Vọng Cảnh về đến Vỹ Dạ - Bao Vinh. Từ đầu đến cuối
sông, cao độ đáy của nó chênh lệch rất nhỏ và lòng sông tương đối rộng (khoảng
300m), cho nên nước chảy không hối hả mà chỉ lờ lững trôi xuôi. Đây là nơi “Con
sông dùng dằng con sông không chảy. Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu” (Thu
Bồn). Cách xuất phát điểm chẳng bao xa, dòng sông uốn lượn mềm mại qua vùng gò
đồi và vùng đồng bằng nối tiếp. Các nhà qui hoạch và xây dựng đô thị Huế dưới
thời các vua chúa nhà Nguyễn đã bị vẻ đẹp tự nhiên của chính đoạn sông này cuốn
hút một cách mạnh mẽ.
Nguồn: wordpress.com
Có thể khẳng định sông Hương là nhân tố quyết định
trong việc hình thành và phát triển đô thị Huế từ xưa đến nay. Vào năm 1636,
chúa Nguyễn Phúc Lan đã chọn Kim Long, một địa bàn ở bờ bắc của nó để xây dựng
Thủ phủ Đàng trong. Thủ phủ Phú Xuân vào năm 1687 dưới thời chúa Nguyễn Phúc
Thái cũng được xây dựng ở bờ bắc của dòng sông. Rồi khi xây dựng và mở rộng
kinh đô Huế vào đầu thế kỷ XIX, vua Gia Long đã tái sử dụng vị trí cũ ấy và tận
dụng tất cả lợi thế của sông Hương về các phương diện phong thủy, phòng thủ,
môi trường cảnh quan, tài nguyên nước, vv...Trên đoạn sông Hương chảy qua trước
mặt Kinh thành, ở hai bên có sẵn hai hòn đảo nhỏ do phù sa bồi lắng mà thành:
cồn Hến và cồn Dã Viên. Về mặt phong thủy, nếu sông Hương trở thành yếu tố
“minh đường” của kiến trúc kinh đô thì cồn Hến và cồn Dã Viên đã được hình
tượng hóa và siêu nhiên hóa thành “tả thanh long” và “hữu bạch hổ” chầu vào
trọng địa. Mặc dù thuật phong thủy được đánh giá như thế nào, chúng ta cũng có
thể nhận ra được một hệ quả tốt đẹp của nó là các nhà kiến trúc đầu thế kỷ XIX
đã tạo dựng bên bờ sông Hương một đô thị có non xanh nước biếc vừa uy nghi cổ
kính, vừa thơ mộng trữ tình.
Khi đúc bộ Cửu đỉnh vào năm 1836, vua Minh Mạng đã cho
trang trí hình ảnh sông Hương trên Nhân đỉnh. Vua Thiệu Trị cũng đã liệt sông
Hương vào trong 20 thắng cảnh của đất Thần kinh và đã làm bài thơ “Hương
giang hiểu phiếm” (Thả thuyền sáng sớm trên sông Hương) để ca ngợi dòng
nước trong xanh êm đềm và vẻ đẹp thơ mộng huyền ảo của nó. Bài thơ đã được khắc
vào bia đá và dựng ở gần Phu Văn Lâu bên bờ sông ngay từ năm 1843, nay vẫn còn
tại chỗ.
Nguồn: wordpress.com
Năm 1918, từ đất Bắc vô thăm Huế lần đầu tiên, nhà báo
Phạm Quỳnh đã nhận định về giá trị thẩm mỹ và vai trò của sông Hương đối với
Huế như sau:
“Người khách mới đến thành Huế như bước chân vào bức
tranh cảnh: chung quanh núi, giữa con sông, nhà cửa tụ họp hai bên bờ, trên bến
dưới thuyền, trông xa một tòa thành cổ bao la, thâm nghiêm kín cổng. Cái phong
cảnh Huế sở dĩ đẹp là thứ nhất bởi con sông Hương Giang... Nước trong như vắt,
dòng phẳng như tờ, ít khi có sóng gợn trên mặt, đi thuyền trên sông như đi
trong hồ vậy. Huế không có con sông Hương thì tưởng như cái đẹp của xứ Huế giảm
mất nửa phần” (Tạp
chí Nam Phong).
Mặc dù bài báo “Mười ngày ở Huế” của học giả Phạm
Quỳnh đã được đăng tải cách đây gần 1 thế kỷ, nhưng những nhận định chính xác
về sông Hương như vừa nêu mãi đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.
Nguồn: wordpress.com
Gần đây, vào năm 2003, một Kiến trúc sư cảnh quan
người Pháp là ông Francois Xavier Mousquet đã đến Huế để khảo cứu tình hình quy
hoạch đô thị trong khuôn khổ chương trình hợp tác, trao đổi văn hóa do UNESCO
tổ chức giữa thành phố Lille (vùng Nord Pas de Calais) và Huế. Trong tập báo
cáo của ông, có một đoạn KTS F.X. Mousquet cho rằng yếu tố đặt trưng của đô thị
Huế là nước mà quan trọng nhất là sông Hương. Ông viết:
“Dòng sông Hương không hề cắt đôi thành phố Huế mà
ngược lại, nó như được ôm vào giữa lòng thành phố... Tính linh động của nước
tạo nên những không gian ở thật kỳ lạ... Nước len lỏi trong thành phố bảo đảm
cho sự tạo thành những không gian đóng-mở phong phú, đồng thời đây cũng còn là
lá phổi của thành phố” và ”thực sự là nền tảng cơ bản của việc tổ chức quy
hoạch thành phố”.
Khi xây dựng khu phố Tây bên bờ nam sông Hương vào
những thập niên cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, chính người Pháp cũng đã tỏ
ra rất tôn trọng và khiêm tốn đối với vẻ đẹp tuyệt vời của dòng sông. Nhưng,
trong nửa thế kỷ nay, vì nhiều nguyên nhân, tác động và tham vọng khác nhau,
thảm thực vật xanh tươi và phong cảnh tự nhiên vốn có của sông Hương, nhất là ở
bờ nam, đã bị phá vỡ và xuống cấp dần.
Cứu vãn sông Hương, một phần hồn của Huế, đang là lời
kêu gọi hết sức khẩn thiết cho thành phố này, cho Việt và cho di sản thế giới.
Núi Ngự sông Hương vẫn còn đó, nhưng, hiện nay, hai
thực thể địa lý tự nhiên này đang ngày càng phải xa nhau dần, không phải vì mối
tình đã đến hồi kết, mà vì những công trình cao tầng thiếu quy hoạch mọc lên
ngày càng nhiều ở giữa không gian sông và núi ấy, khiến cho đôi tình nhân ngày
càng trở nên cách trở. Nói cách khác, hai thắng cảnh này đang đứng trước những
thách thức do sự xâm phạm đất đai và sự khai thác kinh tế của con người.
Phan Thuận An
Nguồn: Tạp chí sông Hương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét