Ði tu tâm niệm
Bùi Giáng
Ði tu em nhớ một lời
Ðừng bao giờ trở lại đời làm giai nhân
Ðừng đẹp đẽ đến vô ngần
Chỉ cần chút đỉnh đẹp tần ngần tu (đi)
BG.
Thử phác họa đôi nét về cõi thơ Bùi Giáng
Huỳnh Hữu Úy
Một ngôi văn tinh kỳ dị, lạ lùng, quái đản vừa rụng trên bầu
trời văn học. Chỉ cần nói như vậy thì có lẽ bất kỳ ai cũng biết ngay là thi sĩ
Bùi Giáng vừa qua đời.
Trong vòng nửa thế kỷ vừa qua, chưa có nhà thơ nào tạo được một
bóng dáng lồng lộng trên vòm trời thơ như Bùi Giáng. Ông làm được thơ, viết
văn, bàn luận về văn học, triết học, chuyển dịch nhiều tác phẩm văn chương của
thế giới sang Việt ngữ. Tất cả đều theo một thể điệu riêng biệt của ông. Văn
nghiệp của Bùi Giáng vô cùng đồ sộ. Nội chuyện làm một bảng thư mục Bùi Giáng
cũng đòi hỏi chúng ta mất nhiều thì giờ và công phu lắm, chứ chưa nói đến vấn đề
gì khác.
Bùi Giáng có một sức đọc và viết vô cùng kinh khủng. Viết
liên tu bất tận, ngưng viết thì đọc, ngưng đọc thì viết. Dịch sách Tây, sách Tàu,
Ðức ngữ, Pháp ngữ. Cái lạ lùng vô cùng quí báo mà Bùi Giáng mang lại cho chúng
ta chính là sự uyên bác, tài hoa, thâm trầm, bí ẩn của ông, tất cả đều nhào biến
một cách vô cùng tự nhiên rồi hiện ra trong một vẻ giản dị tài tình của một tâm
hồn và ngôn ngữ Việt. Trước bế tắc tư tưởng của Phương Tây cùng sự tràn lan của
chủ nghĩa hư vô, ông đã trở về ngọn nguồn phương Ðông nhất thể, trở lại với cái
hài hòa của đạo tự nhiên, đạo vũ trụ, mộc mạc, sơ nguyên, ẩn mật nơi tư tưởng
vô cùng trầm trọng. Ông gom hết mọi chuyện lại rồi đưa đẩy tuôn trào thành một
chuyển động tư tưởng bát ngát, một dòng thơ yêu kiều, thâm thúy.
Tư tưởng và chất thơ cổ kim đông tây tuôn chảy qua tâm hồn
Bùi Giáng, biểu hiện thành một dòng thơ độc đáo và tuyệt vời nhất mực. Tinh thể
thi ca di động qua một vài đỉnh núi chon von cô độc như Nguyễn Du, Holderlin,
Heidegger, Nietzsche, càng bát ngát hơn khi chuyển động qua hồn thơ mênh mông của
Bùi Giáng. Mỗi chữ, mỗi lời, từng câu từng tiếng đều là thơ. Lời nói thiệt với
tinh thể ngôn ngữ là thơ, mà lời nói giỡn dưới chiếc áo dùng dằng của ngôn ngữ
cũng là thơ. Ði, đứng, nằm, ngồi, cười khóc, vui đùa đều là thơ. Lúc không điên
là thơ, mà lúc điên vẫn cứ là thơ. Ði cho tới cùng cái sâu thẳm nhất của ngôn
ngữ, tới đỉnh cao chót vót của nó, sống với nó trong từng mỗi giây mỗi phút,
trong từng mỗi sát na, xưa nay có lẽ chỉ mới có Bùi Giáng là một.
Từ Nguyễn Du đến Bùi Giáng, đường bay của thơ thực là kỳ diệu,
mênh mông, vô lượng. Ông là chiếc bóng của Nguyễn Du, hay chính ông đã đẩy Nguyễn
Du đến cùng thể tính của thi ca, làm lồng lộng, chất ngất một hồn thơ nước Việt.
Sống với thơ, giỡn chơi với ngôn ngữ để tạo nên thơ. Chữ
nghĩa của Bùi Giáng lúc nào cũng có một điều gì đó rất dị thường. Ông chỉ cần sắp
đặt những đề tựa tư mục lục một tập thơ của một tác giả khác thì đã mang lại
cho chúng ta một bài thơ tuyệt đẹp. Nhưng sắp đặt và xô đẩy chữ nghĩa phải là
theo cách của ông, chớ không thể của người nào khác được. Hay ông ngắt câu, ngắt
đoạn từ bài thơ lục bát của một người làm thơ khác, biến đổi hình thức thành một
bài thơ tự do, tức thời bài thơ ấy sẽ trở nên kỳ dị và đẹp đẽ lạ lùng. Rất nhiều
người làm thơ đã biến đổi thể lục bát 6/8 thành 3/3/2/6, 4/2/6/2/ hay2/4/8, hay
6/4/4, hay còn biến đổi nhiều hơn nữa thành 1/2/3/2/2/2/2 thì có lẽ là đều bắt
nguồn từ cách giỡn chơi của Bùi Giáng
Cuộc đời của Bùi Giáng và thơ của ông, ngay từ khởi đầu dường
như đã có nhiều điều bất thường:
Lỡ từ lạc bước chân ra
Gần đây, thân nhân Bùi Giáng xuất bản tập thơ “Chớp Biển”, kỷ
niệm Bùi Giáng vừa đúng 70 tuổi, giúp cho chúng ta nhiều dữ kiện để hiểu biết
ông hơn. Hiểu một tác giả qua cuộc đời và hoàn toàn sống của tác giả ấy như
phương pháp phê bình của Saint Beuve vẫn còn là một trong những cách thẩm thấu
với văn chương rất thông tình đạt lý. Bà Bùi Giáng qua đời cách đây nửa thế kỷ,
cảnh ly tan đó đã xô đẩy Bùi Giáng đến những đổ vỡ cùng cực. Bóng dáng người nữ
ám ảnh ông suốt đời, để rồi từ đó ông sẽ nghiệm ra được một cách vô cùng sâu thẳm
về tính nữ, về nguyên lý mẹ. Nói như Nguyễn Xuân Hoàng ai cũng cần một bà mẹ.
Bà mẹ đó cũng có thể hiện ra trong một bóng dáng khác là người chị, cô em gái
nhỏ hay chính là đứa con gái của mình. Tất cả cái thiêng liêng và tục lụy của mẫu
người nữ đã biến hiện chập chùng qua hình ảnh người vợ, để rồi chuyển động nhiều
hơn mà trở thành bà mẹ uyên nguyên của đất trời.
Nhiều lúc ông kể lễ nghiêm trang, đạo mạo, có lúc lại đùa giỡn,
cười cợt với hình bóng các mẫu thân, tuy vẫn có pha đôi chút ngậm ngùi:
Mẹ về trong cõi người ta
Một hôm mẹ gọi con ra bảo rằng
Trần gian vui sướng lắm chăng
Hay là đau khổ hỡi thằng chiêm bao.
Giữa những vần thơ điên của ông, dôi lúc chúng ta sẽ tìm thấy
những câu thơ vô cùng kỳ diệu nói về bà mẹ thiêng liêng ấy, tất cả đều như rạo
rực, sinh sôi, triển nở.
Một hôm nào em mở cửa đầu khe
Và bữa đó đến bây giờ cỏ rạ
Thi nhau mọc mặt trời lên lả tả
Bông lúa chín trong rừng kêu tiếng lá
Chóc chim xanh đòi đẻ trứng bây giờ
Nhắc đến các hình ảnh mẫu thân của Bùi Giáng, tôi cũng muốn
nhân đây chép thêm mấy câu thơ rất đẹp của ông về cô em gái nhỏ, mà đọc lên hẳn
rằng chúng ta dễ liên tưởng ít nhiều đến người vợ cũ năm xưa đã chia lìa với
ông quá sớm, khi họ cùng mới nhau bước chân vào đời. Dĩ nhiên, cô em
gái nhỏ ấy cũng có thể là một trong những người nữ Bùi Giáng tiếp tục gặp về
sau:
Em là em anh đợi khắp nẻo đường
Em có nụ cười buồn mây mọng
Em có là mi khép lá cây rung
Em có đôi mắt như sầu xanh soi bóng
Hồ gương ơi! Sao sóng lục vô chừng!......
Em ở lại với đời ta em nhé
Em đừng đi cho ta nắm tay em
Ta muốn nói bằng thơ bay nhẹ nhẹ
Vào trong mơ em mộng rất êm đềm
Ta sẽ đặt mười ngón tay lên mắt
Ðể nhìn em qua khe hở du dương
Vòng theo máu hai vòng tay khép chặt
Cái tang bà Bùi Giáng đóng đinh suốt đời ông. Rồi cùng lúc,
ông gặp nhiều điều bất ưng ý giữa một thời đại mà bạo lực là phương tiện hàng đầu
của con người.
Thời kháng chiến, ông đi chăn bò giữa những đồi sim ở một
vùng đồi núi nào đó giữa miền Trung đất nước, để tự thấy mình là một thứ Tô Vũ
của thời đại. Ông kết những vòng hoa dại đeo vào cổ bò, cổ dê, và đùa giỡn suốt
ngày với đàn thú hiền từ. Cho mình là Tô Vũ, có lẽ đó cũng là một cách Bùi
Giáng nói cho chúng ta biết ông là người bị lưu đày ngay chính nơi quê nhà của
mình chứ không cần biệt xứ nơi đâu. Sau này, thỉnh thoảng ông cũng nhẹ nhàng vẽ
lại cho chúng ta thấy đôi chút cảnh quan rùng rợn, tang thương của những ngày ấy:
Hãi hùng bi kịch đồi tranh
Trùng quan vó ngựa tế nhanh trong mù
Thây người nát ở phía sau
Nhìn thu khép mắt khổ đau khôn hàn
Rồi hòa bình được lập lại, nhưng Bùi Giáng không còn thể nào
trở lại sống cuộc đời bình thường như chúng ta nữa, Những chấn động dữ dội của
thời tuổi trẻ đã góp phần dồn đẩy ông tới bờ vực chon von. Ðịnh mệnh đã chọn
ông là một thiên tài điên của dân tộc, đẩy ông bước theo Nguyễn Du, để ông kết
bạn với Gerard de Nerval, Saint Exupéry, Khuất Nguyên, Tô Ðông Pha,
Apollinaire, André Gide, Camus, René Char, để đôi khi nghiêm trang đàm đạo với
Khổng Tử, Heracleitus, Parmenides, để sống cuộc đời quỉ khốc thần sầu cũa một
cuồng sĩ ngoài chợ, và tuyệt vời nhất vẫn là để viết lại cho đất nước những
dòng thơ kỳ diệu độc nhất vô nhị.
Cuộc đời Bùi Giáng và thơ Bùi Giáng chỉ còn chập chùng lên
nhau giữa những giấc chiêm bao, phù du, mộng mị. Ông sống ở đời lúc tỉnh lúc
điên: lúc tỉnh đã là chiêm bao nhưng lúc điên thì càng là chiêm bao quá cỡ. Trước
năm 75, thỉnh thoảng ông mới lên cơn điên nhưng sau 75 cơn điên kéo dài lâu
quá. Bà Irina, một phụ nữ người Nga có nhiều liên hệ mật thiết với Việt Nam,
khi gặp Bùi Giáng, đã lặng lẽ tuôn chảy những dòng lệ nóng hổi cho một thiên
tài mà bà nhìn thấy như hình bóng một Diogenes thời đại, cầm cây đuốc đi giữa
ban ngày để tìm chân lý. Chân lý đã bị khuất lấp cả hai mươi thế kỷ rồi, chứ phải
đâu chỉ là những ngày trước mắt. Vậy nên, nơi chiếc bàn viết lữ thứ, khi cầm
bút viết lại để sống đời của một nhà văn lưu vong, Mai Thảo nhắc đến Bùi Giáng,
phác thảo đôi nét về Bùi Giáng rất hay, sống động và tài tình, nhưng tôi cho là
Mai Thảo rất nhầm lẫn khi qui tội điên của Bùi Giáng cho những nguyên nhân thời
đại:
Và ở Sài Gòn vẫn còn Bùi Giáng
Tối tối về chùa đêm làm thơ
Ngày ca múa khóc cười giữa chợ
Kẻ sĩ điên thế kỷ mù rồi
(Mai Thảo, Viết văn trở lại)
Hãy thử đọc lại vài câu thơ Của Bùi Giáng tự nói về mình. Ông
gần như sống giữa một lớp sương mù dày đặïc của những giấc mộng chồng chất. Ông
sống như một ông đạo, như một trích tiên, như ma quỉ, hay như một đứa trẻ hồn
nhiên, ngây thơ cùng cực:
Ði về với gió phù du
Mở trang mộng mị cho mù sa bay
Quê nhà chỉ còn là giấc mộng đã qua, thân thế cũng chỉ là một
nỗi đời hư huyễn:
Hỏi tên, rằng biển xanh đâu
Hỏi quê, rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên, rằng một hai ba
Ðếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm!
Ông đã tự hỏi tự đáp về tên tuổi và quê hương thực của mình:
Hỏi tên? – Cổ lục phong trần
Hỏi quê? – Mộng tưởng tiền trình bơ vơ
Ông luôn lập đi lập lại ý tưởng ấy khi có dịp:
Hỗn mang về giữa hiên nhà
Bây giờ cố quận tên là chiêm bao
Cái thế giới chiêm bao mộng mị ấy, có lúc ông chợp bắt được
thành những câu thơ rất đẹp:
Ta gọi chiêm bao về mộng mị
Chắp ân tình cho nghĩa rộng tinh sương
Về tuế nguyệt bước ngao du tận mỵ
Người có nghe tang hải réo vô thường?
Sống và mơ giữa thế giới đó, ông vác cần đi câu cá hư vô
ngoài biển đông:
Tôi làm Nam hải Ðiếu đồ
Ngồi câu con cá hư vô giữa trời
Ông yêu mến, quí trọng từng đốm nhỏ li ti của trời đất và sự
sống, từng cây cỏ dại, từng cánh bướm, cánh chuồn chuồn:
Xin yêu mãi và yêu nhau mãi mãi
Trần gian ôi! Cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại
Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn.
Khi tỉnh táo mà viết được Tôi nói điệu điên rồ / Ấy là vui vậy
thì quả là ông đã thoát ra khỏi mọi phiền trược của cuộc đời, chẳng còn câu chấp
chi cả, ông sống hoang hỉ như một đứa trẻ với một nguồn thơ tinh khôi, hồn
nhiên, đầy hoan lạc.
Ðọc thơ Bùi Giáng để cảm cái tình và ý của nó, để sống cái
thâm diệu của tư tưởng đã hé mở và như luôn hứa hẹn một cõi mênh mông bát ngát
dị thường sau đó. Ðọc thơ ông cũng là để thưởng thức chữ dùng cực kỳ tài tình của
ông. Có những chữ rất thông tục, tầm thường, nhiều khi chúng ta không muốn sử dụng
vì không được nhã, nghe hơi nặng tai. Vậy mà khi những chữ ấy rớt vào tai họ
Bùi, không cần tỉa gọt, trau chuốt gì cả, chỉ xô đẩy tự nhiên như hít vào thở
ra, thì nó sẽ trở thành thơ. Hãy đọc thử bốn câu thơ sau, chúng ta sẽ thấy ngay
cái tài hoa lạ lùng của Bùi giáng khi biến đổi một chữ tầm thường thành chữ của
thơ như thế nào. Ông phả vào những cái tài hoa ẩn mật của hồn thơ để mang lại
cho nó một sức mạnh vô cùng ký bí:
Người con gái lội qua khe
Bàn chân với nước lạnh đè lên nhau
Nỗi niềm tưởng lại xưa sâu
Bàn chân với nước cùng nhau lại đè
Chữ khe, rồi lại chữ đè thực là đắc địa. Dùng chữ đến như vậy
thì không còn là viết văn, làm thơ nữa, mà đã là thợ trời của chữ. Ngay khi ông
lên cơn điên, nhưng chưa điên quá độ, mà mới chỉ trôi nổi giữa những cơn điên
nhẹ, ông cũng mang lại cho chúng ta những câu vần vè quàng xiên rất vui vẻ. Nhớ
lại những ngày đi chăn bò chăn dê giữa núi rừng, thời trai trẻ, rồi liên kết với
việc làm thơ và một số hình ảnh khác, tức thời những hình ảnh và các con chữ sẽ
xô đẩy nhau. Ông viết mấy dòng sau, như một bức tranh của trẻ con vẽ, không đầu
không đuôi, không luật tắc, thấy và thích thì cứ quẹt bừa, cứ bôi bác bừa những
vệt màu và đường nét, vậy mà sẽ mang lại cho người xem nhiều điều lý thú.
Làm thơ như thể chăn trâu
Chăn bò, chăn ngựa, ngõ hầu chăn dê
Chăn hùm thiên mệt chán chê,
Chăn beo, chăn gấu, nghiệp nghề chăn voi.
Ði vào cõi thơ Bùi Giáng, bên những cơn điên dài của ông, giữa
những cơn chiêm bao mộng mị, đôi lúc thấy ông điên vậy mà nhìn kỷ lại thì ông
chẳng điên chút nào. Vậy nên, có nhiều người cho là Bùi Giáng không điên, như
Viên Linh cho rằng ông chỉ chọn một thái độ sống như vậy mà thôi. Trước thế giới
Bùi Giáng, chúng ta như đứng nơi một ngã ba đường, hay những lối mòn trong rừng
thẩm mà cần phải chọn một hướng đi, mỗi người phải tự định hướng cho riêng
mình.
Riêng tôi, lúc nào tôi cũng thấy Bùi Giáng là một thiên tài
điên. Ðiên nhưng rất hiền hòa, rất thơ mộng, điên như thánh. Giữa những cơn
điên kéo dài lâu quá, ông như không còn phân biệt cái thực và hư. Có một bữa,
ông đòi tôi chở về một căn nhà nào đó bên miệt Phú Nhuận để ông cho vịt ăn, vì
nhiều ngày quá rồi ông chưa trở về chắc là vịt đói lắm. Trên căn gác tôi đưa
ông về, ông rào một chuồn vịt khoảng mấy thước vuông, ông ném gạo cho vịt ăn,
nói nói cười cười, rất hoan hỉ, nhưng đàn vịt ấy chỉ toàn là một bày vịt bằng
nhựa. Trước năm 75, tôi gặp ông rất thường vì mỗi buổi chiều rảnh rỗi tôi thường
ghé Ðại học Vạn Hạnh viếng thăm thầy Tuệ Sĩ rồi cũng tạt qua thăm ông. Lúc nào
cũng thấy ông làm việc. Nằm ở một góc nhà, chung quanh đẩy sách vở, đọc đọc
chép chép không ngừng nghỉ. Ngoài những cơn cuồng, Bùi Giáng rất lặng lẽ, ghét
chuyện thị phi, tranh chấp ô trọc. Tôi còn nhớ khoảng năm 1971, tuần báo tìm hiểu
của cô Phan Lâm Hương (con gái út cụ Phan Huy Quát) có thực hiện một cuộc nói
chuyện với Bùi Giáng rất hay và nghiêm trang, có thể giúp cho người đọc chia sẽ
được nhiều điều với Bùi Giáng. Nhưng sau đó thì có vấn đề, vì bài báo ấy mà một
thi sỉ khác, cũng là loại cô phong đỉnh của vòm thơ Việt hiện đại gây hấn với
Bùi Giáng quá cỡ. Bùi Giáng sau đó rất sợ mấy nhà báo. Ông than phiền
hoài, cho rằng mấy ông làm báo đã kéo Bùi Giáng vào việc thi phi ở đời, từ đó
ông không còn muốn gặp mấy người ký giả, viết báo thường thích gây chuyện chộn
rộn ở đời.
Bùi Giáng tránh né việc thi phi, và ông rất ghét bạo lực, bạo
động, bạo quyền. Hơn 25 năm trước, tôi thấy ông nuôi một đàn chó nhỏ, đi đâu
cũng dẫn theo làm chúng sủa vang các hẻm đường, có lúc ông cho luôn hết vào bao
bố và vác trên vai làm chúng cũng muốn ngất ngư, ngộp thở, chỉ còn
kêu hục hục trong bao. Có lần ông để quên đàn chó ở nhà bà Bé Ký cả tuần lễ làm
Bé Ký phải nuôi ăn và chăm sóc rất mệt, hở tay ra là chúng sủa vang nhà không
ai chịu nổi. Ðàn chó này, mỗi con đều có tên, và tôi rất kinh hoàng thấy ông gọi
con chó xấu xí, nhếch nhát nhất trong đám bằng tên nhân vật số 1của lịch sử hiện
đại. Và sau năm 75, chẳng lạ gì khi mà cứ những chổ đông người, chợ búa xô bồ,
cuồng sĩ họ Bùi thường đứng diễn thuyết, hùng hồn kể tội cụ HCM mà dàn cầm quyền
chóp đỉnh hiện nay.
Tôi cũng còn nhớ, có lần nói chuyện với ông, tôi mới chỉ lỡ lời
nhắc đến các nhà nho cách mạng đất Quảng, hai cụ Phan Tây Hồ, Huỳnh Thúc Kháng,
thì ông rất tức giận, rồi lên cơn điên ngay, chộp lấy cổ áo tôi, gần như muốn
xô tôi xuống từ lầu ba trường Vạn Hạnh.
Qua mấy câu chuyện nhỏ này, tôi cảm thấy rằng, Bùi Giáng chỉ
muốn sống với mọi người trong một thế giới thái hòa, an lạc. Ðua tranh rồi bạo
động chỉ là mầm mống của phân ly, mất quân bình và rối loạn. Ông yêu thích cuộc
sống lặng lẽ tự nhiên, như một đôi lần tôi thấy ông len lén chào mấy người đệ tử
của ông Ðạo Dừa với một vẻ hỉ hoan bất tận bộc lộ ra trên khuôn mặt. Ông chào rất
kính cẩn mấy ông đạo này, những người đã tự phát nguyện tịnh khẩu vài ba năm,
có người quyết tịnh khẩu cho đến khi nào hỏa bình được lập lại mới sẽ mở miệng,
cất tiếng với đời.
Bên trên là vài giai thoại về Bùi Giáng bởi vì đề cập đến Bùi
Giáng mà không nhắc qua các giai thoại dính dáng đến ông thì quả là thiếu sót.
Mới đây, trên việc báo kinh tế số ngày 17 tháng 10 năm 1998, ông La Toàn Vinh,
cựu sinh viên trường Mỹ Thuật Gia Ðịnh nhắc lại vài hình ảnh Bùi Giáng mà ông bắt
gặp ở Sái Gòn trước đây, đọc rất vui. Ðọc đến chổ Xuân Diệu diễn thuyết trong
khuôn viên trường Mỹ Thuật, ông đi tới đi lui ngoài cổng trường và chửi đổng “Mẹ
mày Xuân Diệu...Mẹ mày Xuân Diệu”, tôi đã phải cười phì và nhớ ngay đến dáng đi
điệu nói, tiếng cười của ông.
Có thể không cần đọc Bùi Giáng, mà chỉ cần nghe những giai
thoại về ông thì cũng là đủ để sống được chất thơ và đời thơ của Bùi Giáng. Những
giai thoại như thế, nếu cất công đi ghi chép lại nơi bạn hữu, thân nhân của Bùi
Giáng và trên khắp đường phố Sài Gòn thì có lẽ chúng ta sẽ có cả một
quyển sách dày như tự điển, góp phần phong phú đời sống văn học đất nước trước
mắt và cho cả mai sau.
Chúng ta vừa đi qua một vài nơi giữa khu vườn bát ngát mênh
mông của cõi thơ Bùi Giáng. Khi viết bài này, chúng tôi rất tiếc là không có
trong tay tài liệu gì về Bùi Giáng, chỉ đành nhặt nhạnh mấy câu thơ nới các bài
báo gần đây, tuy nhiên cũng hy vọng là đã vẽ phác được đôi nét về ông, làm sống
lại đôi chút hình ảnh một thiên tài của dân tộc.
Bùi Giáng là thiên tài nhưng là một nhà thơ điên, vì vậy ông
viết quàng xiên nhiều quá. Nhưng cũng chẳng hề gì, mấy ngàn trang sách của ông
chỉ cần lọc lại thành một tập thơ nhỏ, rồi với tập thơ ấy chỉ cần
tinh lọc thêm một lần nữa để chỉ còn lại chừng mươi bài, thì với mươi bài thơ ấy
ông cũng đã là một nhà thơ lớn bậc nhất của thời hiện đại, một vì sao lấp lánh
rạng rỡ mãi hoài trên vòm trời thơ của dân tộc Việt
Viết xong ở gác nhỏ đường Hồ Tây,
Thành phố Vườn, ngày 19.10.1998
Tái bút: Bài viết trên đây đã gởi đi để kịp chuẩn bị sắp chữ
và lên khuôn trong số báo tới vì tình cờ tôi vừa tìm lại được tờ Tạp Chí thơ số
ra mắt vào mùa xuân 1994 có in một bài viết rất hay của Thanh Tâm Tuyền về Bùi
Giáng cùng với hai bài thơ của Bùi Giáng. Tôi chẳng thể nào không viết thêm mấy
giòng tái bút này, dù biết có làm phiền hà tòa soạn trong việc sắp xếp lại
trang báo trước khi đưa đi in, để trích lại ở đây một đoạn văn của Bùi Giáng mà
Thanh Tâm Tuyền đã trích dẫn cùng một bài thơ của Bùi Giáng mà Tạp Chí thơ đã
chọn để in lại.
Bao Giờ
Bùi Giáng
Bằng bút chì đen
Tôi chép bài thơ
Trên tường vôi trắng
Bằng bút chì trắng
Tôi chép bài thơ
Trên lá lục hồng
Bằng cục than hồng
Tôi đốt bài thơ
Từng giờ từng phút
Tôi cười tôi khóc bâng quơ
Người nghe cười khóc có ngờ chi không
Quả là một bài thơ tuyệt đẹp với những hình ảnh tự động xô đẩy
đuổi bắt nhau. Những hình ảnh chuyển động trên một đường biên của hữu thức và
vô thức. Ảnh tượng và sắc màu rất cụ thể mà rõ ràng là vô thực và đầy mộng mị.
Tất cả là để dẫn đến một dấu hỏi về cuộc đời và ý nghĩa nhân sinh, đầy khúc mắc
và nhẹ nhàng, tế nhị, và vô cùng bao dung. Có thể nói đó là một bài thơ siêu thực
hiện đại mà vẫn chứa chấp một cái hồn cổ kính thơ mộng.
Và đây là mấy ý kiến về thơ của Bùi Giáng mà Thanh Tâm Tuyền
đã dẫn:
“Thơ là một cái gì không thể bàn tới, không thể dịch, diễn
thì được. Người ta có thể diễn tả một trận mưa rào bằng thơ. Thì có lẽ muốn diễn
tả một bài thơ, người ta chỉ có thể phác động một trận mưa rào, một cơn gió
thu. Mà muốn thực hiện sự đó, thì ngoài việc làm thơ ra, con người không còn
phép gì khác. Thế có nghĩa là muốn bàn tới thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có
thể làm một bài thơ khác.
Người xưa am hiểu sự đó, nên họ chỉ vịnh thơ chứ không điên rồ
mà bàn luận về thơ. Người đời nay trái lại. Họ buộc phải luận thơ có mạch lạc
luận lý không được “bốc đồng”, vịnh lăng nhăng cái chỗ ngu si đó là điều bất khả
tư nghị vậy”.
Thơ tôi làm chỉ là một cách dìu ba đào về chân trời khác. Ði
vào giữa trung tâm bão dông một lúc thì lập thời xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng
vay áp bức. Tôi gạ gẫm với châu chấu, chuồn chuồn, đem phó thác thảm họa trần
gian cho chuồn chuồn mang trên cánh bay đi. Bay về Tử Trúc Lâm, bay về Sương Hy
Lạp, ghé Calvaire viếng một vong hồn bát ngát, rồi quay về đồng ruộng làm mục tử
chăn trâu.
... Trong chiêm bao thơ về lãng đãng thì từ đó vẫn bất tuyệt
cũng lãng đãng chiêm bao”
Có lẽ chưa từng có ai bàn về thơ với giọng điệu dị thường như
vậy. Ông mở ra một cõi mênh mông, thăm thẳm, mà mời gọi ngưòi ta bước vào. Và
tôi hết sức đồng ý cũng như thích thú với mấy lời của Thanh Tâm Tuyền:
“Ðừng có nghĩ, hãy buông mặc theo ông, như ông đã từng buông
mặc trong trận đồ kẻ trước. Ông luôn luôn nhắc nhở nơi ông là những bóng vang
ai khác. Và ta hãy là bóng vang của ông”.
Xin cảm ơn thi sĩ Thanh Tâm Tuyền, chỉ với bài viết “Bùi
Giáng, một hồn thơ bị vây khốn” rất ngắn của ông, đã soi sáng cho tôi nhiều điều
về cái sâu thẳm không cùng của nhà thơ Bùi Giáng. Vậy thì, hãy bước vào cõi thơ
Bùi Giáng bằng cách trút bỏ tất cả hệ lụy, vứt bỏ những phân tích phê bình, lý
luận để mà hít thở và mơ mộng cùng ông, để phiêu bồng cùng ông qua những chân
trời không cùng của thơ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét