Hội An là một thành phố trực thuộc
tỉnh, được thành lập ngày 29 tháng 1 năm 2008 theo Nghị định số
10/2008/NĐ-CP[1] của Chính phủ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hội An hiện
nay đã được công nhận là đô thị loại III, trực thuộc tỉnh Quảng Nam.
Tại Hội An có Phố cổ Hội An với những
di sản kiến trúc đã có từ hàng trăm năm trước, được công nhận là di sản văn
hóa của UNESCO từ năm 1999.
Phía đông giáp biển Đông; phía tây
giáp hai thị xã Điện Bàn và huyện Duy Xuyên; phía nam giáp huyện Duy Xuyên;
phía bắc giáp thị xã Điện Bàn, đều thuộc tỉnh Quảng Nam.
Biển lấn đất
Theo ông Nguyễn Văn Dũng, Phó chủ tịch
UBND TP.Hội An (tỉnh Quảng Nam), tính từ năm 2007 đến 2014 (7 năm) tại bờ biển
Hội An dọc Cửa Đại lên đến gần Thị xã Điện Bàn, biển đã lấn sâu vào bờ 150m.
Dọc bãi biển này, trước đây là cả một rừng dương, đã bị các doanh nghiệp cho
san bằng toàn bộ, khi họ xây dựng các resort, khách sạn dọc bờ biển, đã đưa đến
tình trạng này.
Lịch sử
Trước thế kỷ 2
Kết quả nhiều cuộc thăm dò, quan
sát các di tích mộ táng: Bãi Ông; Hậu Xá I, II; An Bàng; Xuân Lâm và các di
chỉ cư trú: Hậu Xá I; Đồng Nà; Cẩm Phô I; Trảng Sỏi; Lăng Bà; Thanh Chiêm đã
cung cấp nhiều thông tin quý về thời Tiền sử và thời văn hóa Sa Huỳnh muộn.
Ngoài di tích Bãi Ông có niên đại hơn 3.000 năm, thuộc thời Tiền sử (Tiền Sa
Huỳnh), các di tích còn lại đều trên dưới 2.000 năm, tức là vào giai đoạn hậu
kỳ Sa Huỳnh.
Những bộ sưu tập hiện vật quý được
thu thập từ các di tích khảo cổ là các loại thuộc về công cụ sinh hoạt, lao động
sản xuất, chiến đấu, trang sức, tín ngưỡng... bằng các chất liệu gốm, đồng, sắt,
đá, thuỷ tinh. Đặc biệt còn có cả những tiền đồng Trung Quốc: Ngũ Thù; Vương
Mãng cùng với các đồ trang sức mã não, thủy tinh có gốc gác từ Nam Ấn Độ, Sri
Lanka, Trung Đông, chứng tỏ cách đây 2.000 năm, dân cư ở đây đã có nghề trồng
lúa nước, khai thác thủy sản và làm các nghề thủ công. Đồng thời cũng thể hiện
rõ mối quan hệ giao lưu văn hóa trong nước cùng các hoạt động buôn bán với nước
ngoài, lập nên một cảng-thị sơ khai, là nền móng cho các cảng-thị sau này.
Kế tiếp dân cư Sa Huỳnh cổ là dân
cư Champa với nền văn hoá rực rỡ, mở đầu thời kỳ vàng son cho một Cảng-Thị
hưng thịnh. Những cái tên Chiêm Bất Lao (Cù Lao Chàm), Đại Chiêm Hải Khẩu (Cửa
Đại), Cachiam cùng với những tượng đá, giếng gạch và dấu vết nền tháp, đặc biệt
trong các di chỉ khảo cổ học với các hiện vật gốm sứ Champa, Ả Rập, Trung Quốc;
các đồ trang sức từ Trung Đông, Ấn Độ và nhiều tài liêu, thư tịch cổ Trung Quốc,
Ả Rập, Ấn Độ, Ba Tư xác nhận vùng Cửa Đại xưa kia là hải cảng chính của nước
Champa. Vùng Lâm Ấp phố là nơi các chiến thuyền ngoại quốc thường ghé lấy nước
ngọt từ những giếng Champa rất ngon và trong; trao đổi sản vật như trầm
hương, quế, ngọc ngà, thuỷ tinh, tơ lụa, đồi mồi, xà cừ.
Thế kỷ 15 - Thế kỷ 19
Tiếp nối thời Champa, khoảng cuối
thế kỷ 15, Hội An đã có dân cư Đại Việt tới sinh sống. Trong buổi đầu cùng với
việc khai hoang, lập làng, người Việt còn sáng tạo ra một số ngành nghề phù hợp
với điều kiện tự nhiên và xã hội nơi đây. Từ cuối thế kỷ 16 - thế kỷ 17, có
thêm nhiều người Hoa và người Nhật đến định cư, giúp thương nghiệp Hội An
phát triển. Kết hợp với vị trí địa lý phù hợp, Hội An nhanh chóng trở thành một
thương cảng phồn thịnh trong nhiều thế kỷ.
Đến giữa thế kỷ 19, nền kinh tế Hội
An nhanh chóng suy thoái do nhiều nguyên nhân bất lợi: sự bồi cạn, sông chuyển
dòng, chính sách kinh tế hạn chế của triều đình phong kiến. Ngay gần đó,
thương cảng Đà Nẵng hiện đại do người Pháp lập nên đã lấn át hết vai trò của
Hội An.
Họa phẩm Châu ấn thuyền Giao Chỉ độ
hàng đồ quyển (朱印船交趾渡航図巻 / しゅいんせんこうちとこうずかん) có kích thước 32,8 cm x 1.100,7
cm hiện đang được lưu trữ tại Bảo tàng Quốc gia Cửu Châu (九州国立博物館), thành phố Dazaifu, tỉnh Fukuoka - Nhật Bản. Được vẽ vào
giai đoạn cuối thế kỷ XVII, đồ quyển này mô tả chuyến hải hành của một châu ấn
thuyền (loại thương thuyền lớn của Nhật Bản, có vũ trang và chỉ thông hành
khi đã có giấy phép đóng dấu đỏ của Mạc phủ Tokugawa) từ hải cảng Nagasaki tới
thương cảng Hội An.
Dưới thời Pháp thuộc, Đà Nẵng là
nhượng địa, còn Quảng Nam được hưởng quy chế bảo hộ. Bên cạnh chính quyền Nam
triều còn có chính quyền bảo hộ của thực dân Pháp, mà đứng đầu là công sứ
Pháp kiêm nhiệm Chủ tịch Hội đồng tỉnh Quảng Nam, đóng tòa sứ tại Hội An cùng
các cơ quan đầu não của bộ máy chính quyền bảo hộ. Trong các thời kỳ tiếp
sau, Hội An được chọn làm tỉnh lị của Quảng Nam.
1975 đến nay
Hai con mắt trên trong chùa Cầu
(Lai Viễn Kiều). Rất nhiều nhà cổ ở Hội An có hai con mắt trên cửa như trong
hình
Sau ngày đất nước thống nhất, Hội
An là thị xã thuộc tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng, gồm 3 phường: Cẩm Phô, Minh An,
Sơn Phong và 6 xã: Cẩm An, Cẩm Châu, Cẩm Hà, Cẩm Kim, Cẩm Nam, Cẩm Thanh.
Ngày 25 tháng 7 năm 1978, thành lập xã Tân Hiệp trên cơ sở đảo Cù Lao Chàm.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
khóa IX, kỳ họp thứ 10, phê chuẩn việc tách Quảng Nam – Đà Nẵng thành 2 đơn vị
hành chính trực thuộc Trung ương là tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng. Quyết
định có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 1 năm 1997. Hội An là thị xã trực
thuộc tỉnh Quảng Nam.
Ngày 22 tháng 8 năm 1998, Hội An được
nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân
dân".
Ngày 16 tháng 8 năm 1999, chia xã Cẩm
Hà thành xã Cẩm Hà và phường Thanh Hà; thành lập phường Tân An trên cơ sở
73,5 ha diện tích tự nhiên và 4.233 nhân khẩu của phường Cẩm Phô; 74 ha diện
tích tự nhiên và 775 nhân khẩu của xã Cẩm Hà.
Ngày 12 tháng 1 năm 2004, chuyển xã
Cẩm Châu thành phường Cẩm Châu; chia xã Cẩm An thành 2 phường: Cẩm An và Cửa
Đại.
Ngày 8 tháng 3 năm 2007, chuyển xã
Cẩm Nam thành phường Cẩm Nam.
Ngày 3 tháng 4 năm 2006, Bộ trưởng
Bộ Xây dựng đã ký quyết định số 602/QĐ-BXD công nhận Hội An là đô thị loại 3.
Ngày 29 tháng 1 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 10/NĐ-CP chuyển thị
xã Hội An thành thành phố Hội An trực thuộc tỉnh Quảng Nam và là thành phố thứ
hai của tỉnh này (sau thành phố Tam Kỳ).
Hội An hiện tại phân chia thành 9
phường: Cẩm An, Cẩm Châu, Cẩm Nam, Cẩm Phô, Cửa Đại, Minh An, Sơn Phong, Tân
An, Thanh Hà và 4 xã: Cẩm Hà, Cẩm Kim, Cẩm Thanh, Tân Hiệp (xã đảo nằm trên
Cù lao Chàm).
Dân cư. Hội An trở thành thành phố
vào tháng 1 năm 2008 trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn
vị hành chính trực thuộc của thị xã Hội An, với 6.146,88 ha, 121.716 nhân khẩu
và một phần nhỏ huyện Điện Bàn (nay là thị xã Điện Bàn).
Kinh tế. Hiện nay chính quyền sở tại
đang tích cực khôi phục các di tích, đồng thời phát triển thành một thành phố
du lịch.
Nghề truyền thống
Đèn lồng Hội An, một sản phẩm thủ
công của Hội An đã được Cục Sở hữu Trí tuệ Việt Nam bảo hộ nhãn hiệu độc quyền
từ năm 2005
Với lịch sử phát triển lâu dài của
mình, các cư dân sinh sống ở Hội An đã dần dần phát triển những ngành nghề đa
dạng như nghề mộc, làm gốm mỹ nghệ, trồng rau, nghề thuốc, làm lồng đèn... để
phục vụ nhu cầu đời sống của mình, đồng thời cũng làm nên sự phồn thịnh, tấp
nập cho cảng thị Hội An từ thế kỷ VII - cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19.
Nhằm bảo tồn những ngành nghề này,
Trung tâm văn hóa thể thao Hội An đã cho xây dựng xưởng sản xuất thủ công mỹ
nghệ Hội An tại số 9 đường Nguyễn Thái Học, làm nơi trưng bày cũng như giới
thiệu quy trình sản xuất đơn giản các sản phẩm của 12 làng nghề truyền thống
trong vùng. Đây cũng là một trong những điểm tham quan thu hút rất nhiều
khách du lịch.
Làng mộc Kim Bồng
Làng mộc Kim Bồng thuộc xã Cẩm Kim
nằm bên kia sông Hội An. Làng Kim Bồng đã nổi tiếng rất lâu với nghề chạm trổ,
điêu khắc gỗ.
Nghề Mộc của Làng có nguồn gốc từ
miền Bắc. Qua quá trình giao lưu, các nghệ nhân mộc Kim Bồng đã tiếp thu một
số nét tinh hoa của các truyền thống điêu khắc chạm trổ Chiêm Thành, Trung
Hoa, Nhật Bản… kết hợp với tài hoa điệu nghệ của mình đã làm nên những sản phẩm
mang đầy tính mỹ thuật và triết học. Làng vốn rất nổi tiếng về nghề mộc của
mình vì hầu hết các kiến trúc cổ kính của Hội An đều do bàn tay tài hoa của
cha ông họ dựng nên từ những ngày vàng son của thương cảng mậu dịch quốc tế Hội
An.
Con vật thổi bằng đất nung - Làng gốm
Thanh Hà
Làng gốm Thanh Hà với quá trình
phát triển 500 năm, thế mà có lúc người ta đã quên mất rằng Thanh Hà có nghề
làm gốm rất độc đáo. Thế nhưng với tâm huyết của những người cao niên trong
làng, gốm Thanh Hà lại dần được phục hồi.
Nằm cách Hội An 3 Km về hướng Tây,
vào thế kỷ 16, 17, Thanh Hà là một ngôi làng rất thịnh đạt, nổi tiếng về các
mặt hàng gốm, đất nung được trao đổi, bán buôn khắp các tỉnh miền Trung Việt
Nam. Nghề gốm của làng có nguồn gốc xuất xứ từ Thanh Hóa, sau khi đã tiếp thu
được một số vốn luyến kỹ thuật thì làng đã hình thành một làng gốm như ngày
nay.
Làng rau Trà Quế
Nằm cách trung tâm Hội An khoảng 3
km về hướng Tây bắc và cách TP Đà Nẵng chưa đến 20 km về phía Nam, làng rau
Trà Quế hiện có 220 hộ gia đình làm nghề nông nghiệp, trong đó có 130 hộ
chuyên trồng rau luân canh, xen canh trên diện tích 40 héc ta. Từ xưa đến
nay, làng rau Trà Quế nổi tiếng vì có trên 20 chủng loại rau ăn lá và rau gia
vị, đặc biệt là có nhiều loại rau không nơi nào thơm ngon bằng như húng, é,
tía tô… Khi trộn lẫn các loại rau vào nhau sẽ hội đủ 5 vị cay, chua, ngọt, đắng,
chát.
Làng đúc đồng Phước Kiều. Vị trí của
làng nghề: Nằm dọc theo quốc lộ 1A, xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng
Nam. Từ phố cổ Hội An đi khoảng 30 phút ra quốc lộ 1A, đến xã Điện Phương, gần
cầu Câu Lâu cũ.
Làng đúc đồng Phước Kiều là một trong
số những làng nghề truyền thống nổi tiếng đất Quảng Nam.
Đi dọc theo quốc lộ 1A thuộc địa phận
xã Điện Phương, dọc hai bên đường du khách có thể nhìn thấy rất nhiều các cửa
hàng trưng bày rất nhiều sản phẩm của làng nghề rất tinh xảo và mang đầy tính
chất dân tộc.
Theo ghi chép lịch sử (Việt Nam gia
phả), làng nghề được hình thành từ thế kỷ thứ 16, khi ông Dương Không Lộ, quê
xã Đề Kiều, Tổng Bình Quân, châu Thất Truyền, phủ Tường Khánh, tỉnh Lạng Sơn;
Trên bước đường đi làm ăn đã đặt chân đến phủ Điện Bàn khai khẩn 10 mẫu đất
hoang để làm nghề đúc đồng, đổi tên là làng Phước Kiều. Và từ đó đến này cùng
với bao biến động, thăng trầm của đất nước làng nghề vẫn được duy trì và phát
triển cho đến ngày nay.
Bảo tàng lịch sử văn hóa
Được thành lập vào năm 1989, bảo
tàng trưng bày 212 hiên vật gốc và tư liệu có giá trị bằng gốm, sứ, đồng sắt,
giấy, gỗ... phản ánh các giai đoạn phát triển của đô thị - thương cảng Hội An
từ thời kỳ văn hòa Sa Huỳnh(từ thế kỷ thứ 2 công nguyên) đến thời kỳ văn hoá
Chăm (từ thế kỷ 2 đến thế kỷ 15) và văn hóa Đại Việt (từ thế kỷ 15 đến thế kỷ
19). Đến thăm bảo tàng lịch sử văn hóa hội an, du khách sẽ có được cái nhìn tổng
quát về tiến trình lịch sử cũng như bề dày văn hóa của đô thị cổ.
Bảo tàng gốm sứ mậu dịch. Địa chỉ:
80 Trần Phú, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
Được xây dựng vào năm 1995, bảo
tàng lưu giữ trên 430 hiện vật gốm sứ có niên đại từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 18.
Hầu hết các hiện vật là gốm sứ mậu dịch có nguồn gốc từ Cận Trung Đông, Ấn Độ,
Trung Hoa, Nhật Bản, Thái Lan, Việt Nam... minh chứng cho vai trò quan trọng
của thương cảng Hội An trong mạng lưới mậu dịch gốm sứ trên biển vào các thế
kỷ trước, đồng thời cũng cho thấy quan hệ giao lưu văn hoá- kinh tế quốc tế
đã từng diễn ra rất mạnh mẽ ở Hội An.
Bảo tàng văn hóa Sa Huỳnh
Bãi biển Cửa Đại, một trong những
thắng cảnh của Hội An. Địa chỉ: 149 Trần Phú, thành phố Hội An, tỉnh Quảng
Nam
Bảo tàng là nơi cung cấp những
thông tin phong phú về cư dân cổ thuộc hệ văn hoá Sa Huỳnh - chủ nhân cảng thị
Hội An sơ khai từng có quan hệ giao lưu Trung Hoa, Ấn Độ và các quốc gia Đông
Nam Á. Tại đây trưng bày 216 hiện vật văn hoá Sa Huỳnh có niên đại trên dưới
2000 năm được phát hiện qua các đợt khảo sát, khai quật khảo cổ học tại các địa
điểm: Hậu Xá, Thanh Chiêm, An Bàng, Xuân Lâm... từ năm 1989 đến năm 1994.
Các hiện vật tại bảo tàng được đánh
giá là bộ sưu tập độc đáo nhất của Việt Nam hiện nay về văn hoá Sa Huỳnh.
Ẩm thực
Năm 2011, trang du lịch trực tuyến
nổi tiếng thế giới Tripadvisor bình chọn và công bố danh sách 10 điểm đến có ẩm
thực hấp dẫn nhất châu Á, trong đó các món ăn truyền thống của Hội An được xếp
ở vị trí thứ 6.
Theo mô tả của Tripadvisor, các món
ăn truyền thống nổi tiếng của Hội An như: cao lầu, mì Quảng, bánh xèo chiên
giòn, bánh "hoa hồng trắng" rất sang trọng và quyến rũ cả trong
hương vị cũng như cách trình bày, làm mê hoặc du khách quốc tế. Những du
khách nào chưa thưởng thức hương vị đặc trưng của các món ăn này thì xem như
chưa từng đến Hội An.
Phố cổ Hội An
Là một đô thị cổ nằm ở hạ lưu sông
Thu Bồn, thuộc vùng đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam, Việt Nam, cách thành
phố Đà Nẵng khoảng 30 km về phía Nam. Nhờ những yếu tố địa lý và khí hậu thuận
lợi, Hội An từng là một thương cảng quốc tế sầm uất, nơi gặp gỡ của những
thuyền buôn Nhật Bản, Trung Quốc và phương Tây trong suốt thế kỷ 17 và 18.
Trước thời kỳ này, nơi đây cũng từng có những dấu tích của thương cảng Chăm
Pa hay được nhắc đến cùng con đường tơ lụa trên biển. Thế kỷ 19, do giao
thông đường thủy ở đây không còn thuận tiện, cảng thị Hội An dần suy thoái,
nhường chỗ cho Đà Nẵng khi đó đang được người Pháp xây dựng. Hội An may mắn
không bị tàn phá trong hai cuộc chiến tranh và tránh được quá trình đô thị
hóa ồ ạt cuối thế kỷ 20. Bắt đầu từ thập niên 1980, những giá trị kiến trúc
và văn hóa của phố cổ Hội An dần được giới học giả và cả du khách chú ý, khiến
nơi đây trở thành một trong những điểm du lịch hấp dẫn của Việt Nam.
Đô thị cổ Hội An ngày nay là một điển
hình đặc biệt về cảng thị truyền thống ở Đông Nam Á được bảo tồn nguyên vẹn
và chu đáo. Phần lớn những ngôi nhà ở đây là những kiến trúc truyền thống có
niên đại từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, phần bố dọc theo những trục phố nhỏ hẹp.
Nằm xen kẽ giữa các ngôi nhà phố, những công trình kiến trúc tôn giáo, tín
ngưỡng minh chứng cho quá trình hình thành, phát triển và cả suy tàn của đô
thị. Hội An cũng là vùng đất ghi nhiều dấu ấn của sự pha trộn, giao thoa văn
hóa. Các hội quán, đền miếu mang dấu tích của người Hoa nằm bên những ngôi
nhà phố truyền thống của người Việt và những ngôi nhà mang phong cách kiến
trúc Pháp. Bên cạnh những giá trị văn hóa qua các công trình kiến trúc, Hội
An còn lưu giữ một nền văn hóa phi vật thể đa dạng và phong phú. Cuộc sống
thường nhật của cư dân phố cổ với những phong tục tập quán, sinh hoạt tín ngưỡng,
nghệ thuật dân gian, lễ hội văn hóa vẫn đang được bảo tồn và phát triển. Hội
An được xem như một bảo tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị.
Với những giá trị nổi bật, tại kỳ họp
lần thứ 23 cuối năm 1999 (ngày 4 tháng 12), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã công nhận đô thị cổ Hội An là một di sản văn
hóa thế giới, dựa trên hai tiêu chí:
Hội An là biểu hiện vật thể nổi bật
của sự kết hợp các nền văn hóa qua các thời kỳ trong một thương cảng quốc tế.
Hội An là điển hình tiêu biểu về một
cảng thị châu Á truyền thống được bảo tồn một cách hoàn hảo.
Tên gọi Hội An ngày nay được hình
thành từ rất lâu trong lịch sử, nhưng thật khó có thể xác định chính xác thời
điểm ra đời của nó. Theo tác giả Dương Văn An trong cuốn sách Ô Châu cận
lục, vào năm 1553, huyện Điện Bàn có 66 xã, trong đó có các xã Hoài Phô, Cẩm
Phô, Lai Nghi, nhưng chưa thấy cái tên Hội An được ghi lại. Dưới thời Lê, tấm
bản đồ do đại thần Đỗ Bá vẽ in trong Thiên Nam tứ chí lộ đồ có ghi
lần đầu tiên các địa danh Hội An phố, Hội An đàm, Hội An kiều. Trên tấm bia
Phổ Đà Linh Sơn Trung Phật tại động Hoa Nghiêm, Ngũ Hành Sơn ghi tên những
người góp tiền xây dựng chùa, tên làng Hội An được nhắc tới ba lần. Thời chúa
Nguyễn Phúc Lan, làng Minh Hương được thành lập bên cạnh làng Hội An đã có
trước đó. Căn cứ vào văn bản của dinh trấn Quảng Nam thời Minh Mạng gửi trưởng
bang Hoa kiều, Hội An phố gồm 6 làng: Hội An, Minh Hương, Cổ Trai, Đông An,
Diêm Hộ, Hoa Phô. Nhà nghiên cứu người Pháp Albert Sallet cho rằng làng Hội
An là làng quan trọng nhất trong năm làng tạo nên quần cư Hội An cổ, gồm Hội
An, Cẩm Phô, Phong Niên, Minh Hương và An Thọ.
Người phương Tây xưa kia gọi Hội An
bằng cái tên Faifo. Xuất xứ của cái tên này ngày nay vẫn tồn tại nhiều giả
thuyết. Trong cuốn Từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes in tại Roma năm
1651, chữ Hoài phô được định nghĩa: một làng trong xứ Cochinchine mà người Nhật
ở và gọi là Faifo. Một giả thuyết phổ biến cho rằng Faifo xuất phát từ tên Hội
An phố, cái tên sử sách và địa chí Trung, Việt đều nhắc tới. Theo một thuyết
khác, sông Thu Bồn trước kia có tên là sông Hoài, nên Hội An còn được gọi là
Hoài Phố, sau Hoài Phố biến thành Phai Phố, từ đó xuất hiện cái tên Faifo.
Trong những thư từ, ghi chép của những giáo sĩ, học giả phương Tây, những cái
tên Faifo, Faifoo, Fayfoo, Faiso, Facfo... từng xuất hiện nhiều lần. Alexandre
de Rhodes trong bản đồ An Nam gồm Đàng Trong và Đàng Ngoài ấn hành năm 1651
có ghi rõ tên Haifo. Về sau, trên bản đồ chính thức của chính quyền Đông
Dương, người Pháp đều sử dụng tên Faifo để chỉ Hội An.
Lịch sử
Khu đô thị cổ Hội An nằm gần cửa
sông Thu Bồn, con sông lớn nhất của tỉnh Quảng Nam. Mặc dù vậy, ngày nay từ
trung tâm thành phố tới đến cửa sông cũng không còn gần lắm. Hạ lưu sông Thu
Bồn khi đổ ra biển Đông được chia thành nhiều nhánh. Nhánh tiếp xúc với khu
phố cổ mang tên sông Hội An, còn dòng chảy giữa hai cồn Cẩm Nam và Cẩm
Kim là dòng chính của sông Thu Bồn. Trên những bản đồ cổ thế kỷ 17, 18, Hội
An nằm trên bờ Bắc của sông Thu Bồn, thông với biển Đông bẳng cửa Đại Chiêm
và một dòng sông nối với cửa Đại của Đà Nẵng, phía ngoài là một doi cát rộng.
Dấu vết dòng sông nối liền Hội An với biển Cửa Hàn có thể xác định là con
sông Cổ Cò - Đế Võng ngày nay. Trên thủy trình cổ này đã từng tìm thấy nhiều
lô tàu, mỏ neo bị chôn vùi trong lòng đất.
Tuy địa danh "Hội An" được
cho rằng xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ 16, nhưng vùng đất xung quanh đô thị
này đã có một lịch sử rất lâu đời. Trong suốt thời kỳ "tiền Hội
An", nơi đây từng tồn tại hai nền văn hóa lớn, đó là văn hóa Sa Huỳnh và
văn hóa Chăm Pa. Di chỉ đầu tiên của văn hóa Sa Huỳnh là phố Sa huỳnh ở Quảng
Ngãi bị cát vùi lấp, được các nhà khảo cổ người Pháp phát hiện. Năm 1937, nữ
học giả Madeleine Colani chính thức xác nhận đây là một nền văn hóa. Chỉ
riêng trong khu vực thành phố Hội An đã phát hiện được hơn 50 địa điểm là di
tích của nền văn hóa này, phần lớn tập trung ở những cồn cát ven sông Thu Bồn
cũ. Đặc biệt, sự phát hiện hai loại tiền đồng Trung Quốc thời Hán, những hiện
vật sắt kiểu Tây Hán... đã minh chứng ngay từ đầu Công nguyên, nơi đây đã bắt
đầu có những giao dịch ngoại thương. Một đặc điểm khác có thể nhận thấy là
khu vực Hội An không có những dấu tích của thời kỳ đầu và giữa, nhưng mảnh đất
nơi đây đã từng tồn tại và có sự phát triển rực rỡ nền văn hóa Sa Huỳnh muộn.
Tiếp sau nền văn hóa Sa Huỳnh, suốt
từ thế kỷ 2 đến đến thế kỷ 15, một dải đất miền trung Việt Nam nằm dưới sự thống
trị của vương quốc Chăm Pa. Những di tích đặc trưng của nền văn hóa này là
các nhóm điện thờ đạo Hindu phân bổ dọc từ miền Trung tới miền Nam, và một
trong những trung tâm đó nằm ở lưu vực con sông Thu Bồn. Ở đây, có thể thấy một
thủ phủ mang tính chính trị tại Trà Kiệu và một trung trung tâm mang tính tôn
giáo nằm tại Mỹ Sơn. Những dấu tích đền tháp Chăm còn lại, những giếng nước
Chăm, những pho tượng Chăm, những di vật của người Đại Việt, Trung Hoa, Trung
Đông thế kỷ 2 - 14 làm sáng tỏ giả thuyết nơi đây từng có một Lâm Ấp Phố với
một cảng biển là Đại Chiêm phát triển hưng thịnh. Nhiều thư tịch cổ ghi nhận
trong một thời gian khá dài, Chiêm cảng - Lâm Ấp Phố đóng một vai trò quan trọng
trong việc tạo nên sự phồn vinh của kinh thành Trà Kiệu và khu di tích đền
tháp Mỹ Sơn. Trải qua nhiều cuộc chiến tranh, vương quốc Chăm Pa bị Đại Việt
đẩy dần về phía Nam. Năm 1471, thủ phủ cuối cùng của Chăm Pa ở Bầu Giá, Bình
Định ngày nay, bị nhà Lê chiếm. Vùng đất Hội An trở thành lãnh thổ của Đại Việt
từ đó, nhưng phải về sau nơi đây mới phát triển thành một khu vực thương mại.
Hội An được hình thành dựa trên sự kế thừa cảng biển của người Chăm và người
Việt bắt đầu tới đây từ thế kỷ 15. Đó là bước chuẩn bị trực tiếp cho sự ra đời
của đô thị Hội An.
Thời kỳ Hội An
Ra đời và phát triển phồn vinh
Hội An ra đời vào khoảng nửa cuối
thế kỷ 16, thời kỳ Việt Nam nằm dưới sự trị vì của nhà Lê. Vào năm 1527, Mạc
Đăng Dung giành ngôi nhà Lê, vùng Đông Kinh thuộc quyền cai quản của nhà Mạc.
Năm 1533, Nguyễn Kim nhân danh nhà Lê tập hợp binh sĩ chống lại nhà Mạc. Sau
khi Nguyễn Kim chết, người con rể Trịnh Kiểm nắm giữ quyền hành, dòng họ Nguyễn
Kim bị lấn át. Năm 1558, người con thứ của Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng cùng
gia quyến và một số binh lính lui về cố thủ ở vùng Thuận Hóa và từ sau năm
1570, Nguyễn Hoàng tiếp tục nắm quyền trấn thủ Quảng Nam. Cùng với con trai
là Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Hoàng xây dựng thành lũy, ra sức phát triển
kinh tế Đàng Trong, mở rộng giao thương buôn bán với nước ngoài và Hội An trở
thành thương cảng quốc tế sầm uất bậc nhất khu vực Đông Nam Á thời kỳ đó.
Hội An trong bức họa Giao Chỉ quốc
mậu dịch độ hải đồ
Thế kỷ 17, trong khi vẫn tiếp tục
cuộc chiến với chúa Trịnh ở miền Bắc, chúa Nguyễn không ngừng khai phá miền
Nam, lấn chiếm lãnh thổ của người Chăm. Trên những vùng đất do chúa Nguyễn
cai quản, có những khu phố nước ngoài hình thành dựa trên một số luật lệ nhằm
bảo hộ cho các hoạt động thương mại của người ngoại quốc. Vào năm 1567, triều
đình nhà Minh của Trung Quốc từ bỏ chủ trương bế quan tỏa cảng, cho thuyền
buôn vượt biển giao thương với các quốc gia vùng Đông Nam Á, nhưng vẫn cấm xuất
khẩu một số nguyên liệu quan trọng sang Nhật Bản. Điều này đã bắt buộc Mạc phủ
Toyotomi rồi Mạc phủ Tokugawa cấp phép cho các thuyền buôn Châu Ấn sang mở rộng
quan hệ thông thương với Đông Nam Á và mua lại hàng hóa Trung Quốc từ các quốc
gia đó. Những con tàu Châu Ấn bắt đầu xuất dương từ năm 1604 dưới thời Mặc phủ
Tokugawa, cho tới năm 1635, khi chính sách đóng cửa được ban bố, đã có ít nhất
356 con tàu Châu Ấn ra đời. Nơi thuyền Châu Ấn đi qua nhiều nhất chính là cảng
Hội An. Trong vòng 30 năm, 75 con tàu Châu Ấn đã cập cảng nơi đây, so với 37
con tàu cập bến Đông Kinh, khu vực do chúa Trịnh cai trị. Các thương nhân người
Nhật khi đó tới bán những đồ đồng, tiền đồng, sắt, đồ gia dụng... và mua lại
đường, tơ lụa, trầm hương... Khoảng năm 1617, phố Nhật Bản ở Hội An được hình
thành và phát triển cực thịnh trong đầu thế kỷ 17. Qua bức họa Giao Chỉ quốc
mậu dịch độ hải đồ của Chaya Shinroku, có thể thấy khu phố người Nhật với những
công trình kết cấu gỗ hai, ba tầng. Thuyền trưởng người Hà Lan Delft Haven
ghi lại năm 1651, Hội An khi đó có khoảng 60 căn nhà của người Nhật nơi dọc bờ
sông, nhà cửa xây bằng đá để tránh hỏa hoạn, nằm sát vách nhau. Nhưng khoảng
thời gian tiếp sau, do chính sách bế quan của Mạc phủ Tokugawa cũng những
chính sách đàn áp người Nhật Công giáo của chúa Nguyễn, khu phố Nhật ở Hội An
dần bị lu mờ. Mặc dù vẫn còn một số nhỏ người Nhật định cư lại đây nhưng người
Hoa dần thay thế vai trò của người Nhật trong việc buôn bán.
Khác với người Nhật, những người
Hoa biết đến Hội An từ rất sớm, ngày từ thời vùng đất này còn thuộc về vương
quốc Chăm Pa. Đến thời kỳ người Việt thay thế người Chăm, những thương nhân
Trung Hoa vẫn tiếp tục tới buôn bán vì các tỉnh miền Nam của Trung Quốc rất cần
các mặt hàng muối, vàng, quế... Mặc dù vậy, trong suốt thời kỳ tiền Hội An,
người Hoa chỉ tới buôn bán rồi trở về, không ở lại định cư, lập phố xá. Phải
sau loạn Minh Thanh xảy ra khoảng giữa thế kỷ 17, đặc biệt sau khi nhà Minh bị
thất thủ, rất nhiều người Hoa di cư tới Trung Bộ Việt Nam và xây dựng nên nhiều
cộng đồng Minh Hương Xã. Tại Hội An, người Hoa tới lưu trú ngày một nhiều và
thế chân người Nhật nắm quyền buôn bán. Cảng thị Hội An khi đó là nơi tập
trung nhiều nhất hàng hóa ngoại quốc. Khu phố dọc bờ sông, được gọi khu Đại
Đường, kéo dài 3, 4 dặm. Các cửa hàng hai bên phố không khi nào rảnh rỗi. Dân
cư ở đây phần lớn là người Phúc Kiến, mọi người ăn vận theo trang phục của
nhà Minh. Nhiều người Trung Quốc tới định cư để buôn bán đã kết hôn với những
phụ nữ bản địa. Bên cạnh những người Hoa nhập quốc tịch Việt Nam, nhiều người
Hoa khác vẫn giữ quốc tịch Trung Quốc mà người Việt thường gọi là Khách trú.
Năm 1695, sứ giả người Anh Thomas Bowyear của Công ty Đông Ấn Anh đến đàm
phán với chúa Nguyễn về việc xây dựng một khu cư trú tại Hội An. Việc thương
thảo tuy không thành, nhưng cũng đã để lại một ghi chép:
“Khu phố Faifo này có một con đường
nằm sát với sông. Hai bên đường có khoảng 100 ngôi nhà xây dựng san sát nhau.
Ngoại trừ khoảng bốn năm ngôi nhà là của người Nhật còn lại toàn bộ là của
người Hoa. Trước kia, người Nhật đã từng là cư dân chủ yếu của khu phố này và
là chủ nhân phần lớn của các hoạt động thông thương ở bến cảng Hội An. Bây giờ,
vai trò thương nghiệp chính đã chuyển sang cho người Hoa. So với thời kỳ trước
thì không được sầm uất, nhưng hàng năm ít nhất cũng có từ 10 đến 12 tàu của
các nước Nhật Bản, Quảng Đông, Xiêm, Campuchia, Manila, và có cả tàu của
Indonesia cũng đến cảng thị này”.
Thế kỷ 18, khi cuộc khởi nghĩa Tây
Sơn diễn ra ở miền Nam, chúa Trịnh đánh chiếm Quảng Nam dinh năm 1775, cảng
thị Hội An rơi vào cảnh chiến tranh loạn lạc. Sau khi chiếm được Hội An, quân
Trịnh đã triệt phá những nhà cửa thuộc khu vực thương mại, chỉ để lại các
công trình tín ngưỡng. Nhiều nhân vật quan trọng của dòng họ Nguyễn cùng những
thương gia người Hoa giàu có đã di cư vào miền Nam, mang theo của cải và lập
nghiệp tại Sài Gòn - Chợ Lớn, để lại một Hội An điêu tàn, đổ nát. Năm 1778, một
người Anh Charles Chapman đi qua đây sau thời Tây Sơn đã ghi lại: "Khi tới
Hội An, thành phố lớn này chẳng còn lại là bao những khu phố được quy hoạch
quy củ với những ngôi nhà xây bằng gạch, đường lát đá mà chỉ thấy một cảnh
hoang tàn làm cho ta cảm thấy xót xa. Trời ơi, những công trình ấy bây giờ chỉ
còn đọng lại trong ký ức mà thôi”. Khoảng 5 năm sau, cảng thị Hội An mới dần
dần hồi sinh, hoạt động thương mại được phục hồi nhưng không được như trước.
Người Việt cùng người Hoa cùng xây lại thành phố từ những đống đổ nát cũ, những
ngôi nhà mới mọc lên theo kiến trúc của họ và vô tình, dấu vết của khu phố Nhật
Bản đã bị xóa đi mãi mãi.
Thế kỷ 19, cửa sông Cửa Đại ngày
càng bị thu hẹp lại và con sông Cổ Cò cũng bị phù sa bồi lấp, khiến các thuyền
lớn không còn ghé được cảng Hội An. Bên cạnh đó, triều đình nhà Nguyễn cũng
thực hiện chính sách đóng cửa, hạn chế quan hệ với nước ngoài, đặc biệt các
quốc gia phương Tây. Từ đó, Hội An dần suy thoái, mất đi vị thế cảng thị quốc
tế quan trọng.[28] Mặc dù vậy, với vai trò một trung tâm thương nghiệp lớn,
thành phố vẫn được phát triển, những con đường mới về phía Nam dòng sông được
xây dựng và các khu phố được mở rộng thêm.[26] Năm Minh Mạng thứ 5, nhà vua
có qua Hội An, nhận thấy nơi đây không còn sầm uất như xưa, nhưng vẫn hưng thịnh
hơn các thị trấn khác của người Việt. Năm 1888, khi Đà Nẵng trở thành nhượng
địa của Pháp, nhiều người Hoa tới đó để bỏ vốn lập các cơ sở vận tải, thương
mại, một số khác tiếp tục duy trì hoạt động kinh doanh ở cả Hội An và Đà Nẵng.
Nhưng do giao thông đường thủy ngày càng trở nên khó khăn, cùng với chính
sách phát triển Đà Nẵng của người Pháp, hoạt động thương nghiệp ở Hội An dần
bị đình trệ. Mặc dù vậy, phần lớn các kiến trúc nhà ở trong khu phố cổ, các hội
quán còn lại đến ngày nay đều có hình dáng được tạo nên từ giai đoạn này.
Đầu thế kỷ 20, tuy mất đi vai trò cảng
thị quan trọng, hoạt động buôn bán ở Hội An chưa khi nào chấm dứt và nơi đây
vẫn là thị xã, thủ phủ của tỉnh Quảng Nam. Khi tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng được
thành lập vào năm 1976, thành phố Đà Nẵng trở thành tỉnh lỵ của tỉnh mới, Hội
An rơi vào một thời kỳ bị quên lãng.[29] Chính nhờ sự thay đổi vai trò trong
lịch sử, cộng với nhiều yếu tố khác nên Hội An đã may mắn tránh được sự biến
dạng của quá trình đô thị hóa mạnh mẽ ở Việt Nam trong thế kỷ 20.[31] Từ thập
niên 1980, Hội An bắt đầu nhận được sự chú ý của các học giả Việt Nam, Nhật Bản
và phương Tây. Tại kỳ họp lần thứ 23 từ 29 tháng 11 đến 4 tháng 12 năm 1999 ở
Marrakech, Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc đã ghi tên Hội
An vào danh sách các di sản thế giới. Đô thị cổ Hội An dần phồn vinh trở lại
nhờ những hoạt động du lịch.
Kiến trúc đô thị
Khu phố cổ
Khu phố cổ nằm trọn trong phường
Minh An, diện tích khoảng 2 km², với những con đường ngắn và hẹp, có đoạn uốn
lượn, chạy dọc ngang theo kiểu bàn cờ. Nằm sát với bờ sông là đường Bạch Đằng,
tiếp đó tới đường Nguyễn Thái Học rồi đường Trần Phú nối liền với Nguyễn Thị
Minh Khai bởi Chùa Cầu. Do địa hình khu phố nghiêng dần từ Bắc xuống Nam, các
con đường ngang Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Hoàng Văn Thụ và Trần Quý Cáp hơi dốc dần
lên nếu đi ngược vào phía sâu trong thành phố.[32] Đường Trần Phú xưa kia là
con đường chính của thị trấn, nối từ Chùa Cầu tới Hội quán Triều Châu. Vào thời
Pháp thuộc, đường này được mang tên Rue du Pont Japonnais, tức Phố cầu Nhật Bản.[33]
Ngày nay, đường Trần Phú rộng khoảng 5 mét với nhiều ngôi nhà không có phần
hiên, kết quả của lần mở rộng khoảng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.[34] Hai
con đường Nguyễn Thái Học và Bạch Đằng hình thành muộn hơn, đều do bùn đất bồi
lấp. Đường Nguyễn Thái Học xuất hiện năm 1840, sau đó được người Pháp đặt tên
là Rue Cantonnais, tức Phố người Quảng Đông. Đường Bạch Đằng ra đời năm 1878,
nằm sát bờ sông nên xưa kia từng có tên gọi là Đường Bờ Sông.[33] Nằm sâu về
phía thành phố, tiếp theo đường Trần Phú là đường Phan Chu Trinh, con đường mới
được xây dựng thêm vào khoảng thời gian sau này.[34] Trong khu phố cổ còn nhiều
đường hẻm khác nằm vuông góc với đường chính kéo dài ra đến tận bờ sông.[35]
Đường Trần Phú là con đường chính,
nơi tập trung nhiều nhất những công trình kiến trúc quan trọng, cũng như những
ngôi nhà cổ điển hình cho kiến trúc Hội An. Nổi bật nhất trong số này là các
hội quán do người Hoa xây dựng để tưởng nhớ đến quê hương của họ. Nếu bắt đầu
từ Chùa Cầu, sẽ thấy năm hội quán trên đường Trần Phú, tất cả đều bên số chẵn:
Hội quán Quảng Đông, Hội quán Trung Hoa, Hội quán Phúc Kiến, Hội quán Quỳnh
Phủ và Hội quán Triều Châu. Ở góc đường Trần Phú và Nguyễn Huệ là miếu Quan
Công, di tích đặc trưng cho kiến trúc đền miếu của người Minh Hương ở Việt
Nam. Ngay sát miếu về phía Bắc, có thể thấy Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa Hội
An, nguyên trước đây là ngôi chùa Quan Âm của dân làng Minh Hương. Bảo tàng
văn hóa Sa Huỳnh và Bảo tàng Gốm sứ Mậu dịch cũng nằm trên con đường này.[36]
Theo đường Trần Phú, đi qua Chùa Cầu sẽ dẫn tới đường Nguyễn Thị Minh Khai.
Những ngôi nhà truyền thống ở đây được tu bổ và bảo tồn rất tốt, phần lối đi
bộ hai bên được lát gạch đỏ, phía cuối đường là vị trí của đình Cẩm Phô.[37]
Phía Tây đường Nguyễn Thái Học có một dãy phố được hình thành bởi những ngôi
nhà có kiến trúc mặt tiền kiểu Pháp, còn phần phía Đông là khu phố mua bán nhộn
nhịp với những ngôi nhà kiểu hai tầng, diện tích lớn. Bảo tàng Văn hóa Dân
gian Hội An nằm ở số 33 của con đường này là ngôi nhà cổ lớn nhất khu phố cổ,
có chiều dài 57 mét, chiều ngang 9 mét. Trong mùa mưa bão, đường Nguyễn Thái
Học và khu vực xung quanh thường bị ngập lụt, dân cư phải sử dụng thuyền để
đi mua sắm và đến các quán ăn.[38] Khu phố phía Đông phố cổ từng là khu phố của
người Pháp. Trên đường Phan Bội Châu, dãy phố phía Tây được xây dựng san sát
những ngôi nhà với mặt đứng kiểu châu Âu, đa số một tầng. Nơi đây từng là nhà
ở của các công chức dưới thời Pháp thuộc.
Kiến trúc truyền thống
Một ngôi hai tầng vách gỗ có ban
công
Kiểu nhà ở phổ biến nhất ở Hội An
chính là những ngôi nhà phố một hoặc hai tầng với đặc trưng chiều ngang hẹp,
chiều sâu rất dài tạo nên kiểu nhà hình ống. Những vật liệu chính dùng để xây
dựng nhà ở đây đều có sức chịu lực và độ bền cao do đặc điểm khí hậu khắc
nghiệt và bão lụt hàng năm của vùng này. Thông thường, các ngôi nhà có kết cấu
kiểu nhà khung gỗ, hai bên có tường gạch ngăn cách. Khuôn viên trung bình của
các ngôi nhà có chiều ngang khoảng 4 đến 8 mét, chiều sâu khoảng 10 đến 40
mét, biến thiên theo từng tuyến phố. Bố cục mặt bằng phổ biến của những ngôi
nhà ở đây gồm: vỉa hè, hiên, nhà chính, nhà phụ, hiên, nhà cầu và sân trong,
hiên, nhà sau ba gian, vườn sau.[40] Thực chất, nhà phố ở Hội An bao gồm nhiều
nếp nhà bố trí theo chiều sâu và cấu thành không gian kiến trúc gồm 3 phần:
không gian buôn bán, không gian sinh hoạt và không gian thờ cúng.[41] Cách
phân chia này phù hợp với mặt bằng hẹp và kết hợp nhiều công năng của ngôi
nhà. Có thể nhận thấy đây là một sản phẩm kiến trúc mang tính văn hóa khu vực.
Ở không gian nhà chính, hệ thống 16
cây cột phân bố 4 x 4 tạo thành phân vị chiều ngang và chiều sâu theo cấu
trúc 3 x 3 gian, trong đó 4 cột trung tâm cao hơn hẳn các cột còn lại. Đây
chính là không gian dành cho buôn bán với gian đầu từ đường vào là chỗ bán
hàng, gian kế tiếp là kho hàng hóa được ngăn bằng vách, gian thứ ba bố trí
nhà thờ quay mặt vào bên trong.[40] Điểm đặc biệt này là một đặc trưng rất
quan trọng của nhà phố Hội An, dù đôi khi cũng có trường hợp bàn thờ quay ra
phía đường.[43] Bên cạnh các nhà chính phổ biến dạng 3 x 3 gian, một số ít
ngôi nhà khác có nhà chính rộng hoặc hẹp hơn, kiểu 3 x 2 gian hoặc 3 x 5
gian. Không gian tiếp theo nhà chính là nhà phụ, thường thấy ở những ngôi nhà
hai tầng có chiều cao thấp. Khoảng không gian mở này vừa được tiếp nối với mặt
đường, vừa tách biệt với những hoạt động buôn bán phía ngoài, lại có thể tiếp
nhận ánh sáng của sân trời, được dùng làm nơi gia chủ tiếp khách.[41] Nhà cầu
và sân trong là không gian được chia hai phần theo chiều dọc, có kết cấu độc
lập với nhà trước và nhà sau, mang chức năng chuyển tiếp. Phần sân trời được
lát đá, trang trí bể nước, non bộ, cây cảnh, giúp ngôi nhà thoáng và hòa hợp
với thiên nhiên hơn. Ngược lại, phần nhà cầu có mái nối liền nhà trước với
nhà sau thành một cơ cấu liên tục, rất phù hợp với điều kiện khí hậu nhiều
mưa và nắng nóng ở đây. Dù trong bất kỳ điều kiện thời tiết nào, mọi sinh hoạt
trong nhà vẫn có thể diễn ra bình thường. Nhà sau là không gian sinh hoạt của
cả gia đình, được ngăn buồng bằng các vách gỗ. Phía sau nhà sau còn một khoảng
không gian nữa, dành cho bếp, nhà vệ sinh và các chức năng phụ khác.[44] Đối
với một ngôi nhà thông thường, không gian thờ cúng chỉ chiếm một phần nhỏ,
nhưng luôn được dành riêng một vị trí quan trọng. Để các công năng buôn bán,
vận chuyển hàng hóa, sinh hoạt không bị cản trở, ban thờ thường được chuyển
lên gác lửng. Ở những ngôi nhà một tầng, ban thờ được đặt ở phần mái phụ của
nhà trước hoặc trung tâm nhà sau. Trong những ngôi nhà hai tầng, toàn bộ tầng
hai của nhà chính thường được dùng làm kho hàng và ban thờ cũng được bố trí ở
tầng này.
Những ngôi nhà ở Hội An hầu hết được
làm theo dạng hai mái, đa số nhà chính và nhà phụ không chung một mái mà là
hai nếp mái kế tiếp nhau. Rất ít trường hợp mái nhà chính phủ lên cả phần nhà
phụ. Ngược lại, đa số nhà cầu được lợp theo kiểu bốn mái. Trên mặt bằng tổng
thể thì nhà trước, nhà cầu và nhà sau được lợp bằng những mái riêng biệt.[43]
Ngói ở Hội An là loại ngói làm từ đất, mỏng, nung thô, mang hình vuông, mỗi cạnh
khoảng 22 cm và có dạng hơi cong. Khi lợp, đầu tiên người ta xếp một hàng
ngói ngửa lên và sau đó tiếp tới một hàng ngói úp xuống. Cách lợp này được gọi
là kiểu lợp ngói âm dương. Khi lợp xong mái, các viên ngói được cố định bằng
vữa, tạo thành những dải ngói nhô lên dọc xuôi theo mái, khiến toàn bộ mái
toát nên một vẻ cứng cáp, mạnh mẽ.[47] Ở trên đỉnh mái, phần nóc mái được xây
cao lên hình chữ nhật như một cái hộp, cũng có một số trường hợp hai bên tường
hồi cũng được xây cao hẳn làm cho toàn bộ tổng thể dường như bị mất cân đối.
Hình thức và cách trang trí của tường hồi luôn gây một ấn tượng mạnh và là yếu
tố tạo ra giá trị rất riêng của phố cổ Hội An.[48]
Phân loại
nhà phố theo mặt đứng Nhóm Phân bổ Niên đại
Nhà một tầng
vách gỗ Trần Phú, Lê Lợi
Thế kỷ 18 và thế kỷ 19
Nhà hai tầng
có mái hiên Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20
Nhà hai tầng
vách gỗ có
ban công Ng Thái Học, Ng T Minh Khai Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20
Nhà hai tầng
tường gạch Ng Thái Học, Trần
Phú Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20
Nhà hai tầng
kiến trúc Pháp
Nguyễn Thái Học Đầu thế kỷ 20
Các di tích kiến trúc
Mặc dù phần lớn các ngôi nhà phố của
Hội An ngày nay được hình thành vào thời kỳ thuộc địa, nhưng trong khu phố cổ
vẫn gìn giữ được nhiều di tích phản ánh các giai đoạn lịch sử hình thành,
hưng hịnh và suy tàn của đô thị. Các loại hình kiến trúc từ thế kỷ 16 đến đầu
thế kỷ 18 thường mang chức năng có bản, bị tác động bởi nền kinh tế, yếu tố cảng
thị của Hội An khi đó.[50] Tiêu biểu cho giai đoạn này là những bến thuyền,
giếng nước, chùa chiền, đền miếu, cầu, mộ, những nhà thờ tộc và các thương điếm.
Từ thế kỷ 18, Hội An không còn vị trí thương cảng bậc nhất nữa. Thời kỳ này
xuất hiện phổ biến những văn miếu, văn chỉ, đình, nhà thờ và đặc biệt là các
hội quán. Qua sự phân bố, quy mô, hình thức, chức năng của các công trình kiến
trúc, có thể thấy sự chuyển đổi của Hội An trong giai đoạn này.[51] Thời kỳ
Pháp thuộc, cũng như nhiều đô thị khác của Việt Nam, Hội An chịu ảnh hưởng
sâu đậm của kiến trúc Pháp. Những ngôi nhà mang phong cách thuộc địa xuất hiện
nhiều và tập trung trên một tuyến phố. Sự đan xen phong cách kiến trúc Pháp
giữa những ngôi nhà cổ truyến thống là hệ quả của một lối sống phương Tây đã
xuất hiện trong đời sống của cư dân Hội An.[52] Các công trình thời kỳ này giữ
được vẻ hài hòa trong ngôn ngữ kiến trúc, mềm dẻo trong trang trí, phù hợp với
không gian đô thị, mang lại cho Hội An một dáng vẻ mới. Theo thống kê tháng
12 năm 2000, Di sản thế giới Hội An có 1360 di tích gồm 1068 nhà cổ, 11 giếng
nước cổ, 38 nhà thờ tộc, 19 ngôi chùa, 43 miếu thờ thần, 23 đình, 44 mộ cổ loại
đặc biệt và 1 cây cầu. Khoảng hơn 1100 di tích trong số này nằm trong khu vực
đô thị cổ.
Chùa, đền miếu
Miếu Quan Công
Hội An từng là một trung tâm của Phật
giáo sớm của Đàng Trong với đa số các ngôi chùa theo dòng Tiểu thừa. Nhiều
ngôi chùa ở đây có niên đại khởi dựng khá sớm, nhưng hầu hết kiến trúc gốc đã
bị thay đổi, thậm chí mai một qua những biến thiên của lịch sử và những lần
trùng tu. Ngôi chùa sớm nhất được biết đến là chùa Chúc Thánh, tương truyền
có gốc gác từ năm 1454, nằm cách trung tâm khu phố cổ khoảng 2 km về phía Bắc.
Nơi đây vẫn lưu giữ nhiều di vật, tượng thờ, bia ký liên quan đến quá trình
du nhập và phát triển của Phật giáo ở Đàng Trong. Ngoại ô khu phố cổ còn nhiều
ngôi chùa khác như Phước Lâm, Vạn Đức, Kim Bửu, Viên Giác... mang niên đại muộn
hơn. Giai đoạn đầu thế kỷ 20 cũng là thời kỳ ra đời của nhiều ngôi chùa mới,
nổi bật trong số này là chùa Long Tuyền hoàn thành vào năm 1909. Bên cạnh những
ngôi chùa tách khỏi làng xóm, nằm ven những dòng chảy cổ, ở Hội An còn có các
ngôi chùa làng gắn với những quần cư như một thành phần hữu cơ của tổng thể
làng xóm. Điều này phản ánh giới tu hành gắn bó với thế tục và chứng tỏ Minh
Hương Xã ở đây đã có một thiết chế văn hóa sinh hoạt cộng đồng khá mạnh.[58]
Trong khu phố cổ, Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa Hội An nguyên trước đây là ngôi
chùa thờ Phật bà Quan Âm do người Việt và người Minh Hương khởi dựng vào khoảng
thế kỷ 17.
Các công trình đền miếu ở Hội An
mang chức năng chính là nơi thờ cúng các vị tiên hiền có công sáng lập phố, hội
và Minh Hương Xã. Loại hình kiến trúc này thường có hình thức đơn giản, nằm
ngay trong làng xóm, bố cục mặt bằng 1 x 3 gian tường gạch chịu lửa, mái ngói
âm dương với ban thờ được đặt ở gian chính giữa.[60] Tiêu biểu nhất cho loại
hình kiến trúc này chính là miếu Quan Công, còn được gọi là Chùa Ông, nằm
trong trung tâm khu phố cổ, số 24 đường Trần Phú. Công trình được người Minh
Hương và người Việt khởi dựng vào năm 1653, thờ Quan Công, vị tướng nổi tiếng
thời Tam Quốc, biểu tượng của trung hiếu, tiết nghĩa. Tuy đã qua nhiều lần
trùng tu, miếu Quan Công vẫn không mất đi dáng vẻ ban đầu.[61] Toàn bộ miếu
bao gồm nhiều nếp nhà với các mái lợp bằng ngói ống men màu xanh lục, kết cấu
gồm ba phần: tiền sảnh, sân trời và hậu sảnh. Ở phần tiền sảnh, công trình nổi
bật với màu sơn đỏ, những trang trí cầu kỳ, mái ngói vững trãi và hai cánh cửa
chính lớn chạm nổi đôi rồng màu xanh đang uốn mình trong mây. Hai bên, sát với
tường là chiếc chuông đồng nặng trên nửa tấn và chiếc trống lớn đặt trên giá
gỗ do vua Bảo Đại ban tặng.[62] Tiếp đó đến phần sân trời, khoảng trống lộ
thiên trang chí các hòn non bộ, tạo cho miếu vẻ sáng sủa, thoáng mát.
Hai bên
sân trời là hai nếp nhà dọc Đông, Tây. Một bia gắn vào tường nhà Đông ghi lại
lần trùng tu miếu đầu tiên vào năm 1753. Chính điện nằm ở hậu sảnh, nếp nhà
sau cùng, là nơi đặt hương án thờ Quan Công. Tượng Quan Công cao gần 3 mét, mặt
đỏ, mắt phượng, râu dài, mặc áo bào màu xanh lục, tọa trên mình con ngựa bạch
đang quỳ. Hai bên là tượng Quan Bình và Châu Thương, hai người con nuôi, cũng
là hai võ quan trung thành của Quan Công. Trước đây, miếu Quan Công là trung
tâm tín ngưỡng của các thương gia Hội An, nơi chứng giám, tạo niềm tin cho
các thương gia trong những cuộc giao kèo thương mại. Ngày nay, vào ngày 13
tháng 1 và 24 tháng 6 âm lịch hàng năm, lễ hội Chùa Ông được tổ chức thu hút
rất đông tín đồ và dân chúng tới dự.
Nhà thờ tộc
Tại Hội An, cũng như nhiều địa
phương khác của Việt Nam, các dòng họ đều có nơi thờ cúng tổ tiên, được gọi
là miếu tộc hay nhà thờ họ. Đây là một dạng kiến trúc nhà ở đặc biệt, của những
dòng họ lớn có công lập làng dựng phố từ thời kỳ sơ khai của Hội An và truyền
lại cho con cháu làm nơi thờ tự tổ tiên. Những dòng họ nhỏ, nhà thờ họ kết hợp
với nhà ở của vị trưởng họ có nguồn gốc từ Trung Hoa. Hậu duệ về sau có trách
nhiệm hương khói và tu sửa kiến trúc tùy theo tình trạng ngôi nhà.[65] Phần lớn
các nhà thờ họ tập trung ở khoảng giữa hai đường Phan Chu Trinh và Lê Lợi, một
số ít rải rác trên đường Nguyễn Thị Minh Khai hay nằm ngay sau những ngôi nhà
phố trên đường Trần Phú. Các nhà thờ tộc có niên đại sớm nhất hầu hết của người
Hoa kiều, vào đầu thế kỷ 17, số có niên đại thế kỷ 18 chỉ chiếm một phần nhỏ.[65]
Khác với những nhà thờ tộc ở thôn quê, nhà thờ họ ở Hội An thường mang phong
cách đô thị. Vì là nơi thờ tự nên nhà thờ tộc được xây dựng theo dạng khuôn
viên, có bố cục và kết cấu chặt chẽ, bao gồm cả sân vườn, cổng, tường rào,
nhà phụ... Nhiều nhà thờ họ ở đây có quy mô và kiến trúc rất đẹp, như nhà thờ
tộc Trần, nhà thờ tộc Trương, nhà thờ tộc Nguyễn hay nhà thờ Tiền hiền Minh
Hương.
Nhà thờ tộc Trần nằm ở số 21 đường
Lê Lợi, được xây dựng vào đầu thế kỷ 19. Cũng giống như các nhà tộc khác ở Hội
An, nhà thờ tọa sâu trong một khuôn viên rộng khoảng 1500 m², tường cao bao
quanh, sân trước trồng cây cảnh, hoa, cây ăn quả. Ngôi nhà có kiến trúc chịu ảnh
hưởng từ Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam, dựng từ gỗ quý, 3 gian 2 nếp, mái
dốc lợp ngói âm dương. Không gian trong nhà được chia làm hai phần, phần
chính để thờ cúng, phần phụ là nơi ở của vị trưởng tộc và tiếp khách. Gian thờ
cúng có ba cửa ra vào, trong đó cửa bên phải dành cho nữ, bên trái dành cho
nam, cửa chính ở giữa dành cho những người cao tuổi có vai vế trong họ và chỉ
mở vào dịp lễ tết. Trên bàn thờ, các hộp nhỏ đựng di vật và tiểu sử những người
họ Trần xếp theo vai vế trong dòng tộc. Trong ngày lễ hay giỗ kỵ, vị trưởng tộc
sẽ mở những hộp gỗ này để tưởng nhớ đến người quá cố. Phía sau ngôi từ đường
có một vạt đất cao dùng để chôn những núm nhau của các thành viên trong tộc
khi sinh ra. Cũng trên vạt đất này, phía sau còn trồng một cây khế, tượng
trưng cho sự gắn bó với quê hương đất tổ của các thế hệ con cháu trong họ.
Hội quán
Hội quán Phúc Kiến
Một trong những đặc tính nổi trội của
người Hoa là bất cứ nơi cư trú nào của họ ở ngoại quốc đều có các hội quán, sản
phẩm sinh hoạt cộng đồng dựa trên cơ sở những người đồng hương. Tại Hội An
ngày nay vẫn tồn tại 5 hội quán tương ứng với 5 bộ phận dân cư Hoa kiều lớn ở
đây: Phúc Kiến, Trung Hoa, Triều Châu, Quỳnh Phủ và Quảng Đông. Các hội quán
này có quy mô khá lớn, đều nằm trên trục phố Trần Phú và thống nhất hướng
chính ra sông Thu Bồn.[71] Về hình thức, các hội quán ở Hội An được xây dựng
theo một nguyên mẫu các hội quán vẫn thường gặp ở những đô thị cổ khác. Đó là
một tổng thể bao gồm: cổng lớn phía trước, tiếp đến một khoảng sân rộng có
trang trí cây cảnh, non bộ và hai nhà phụ thờ Tả thần và Hữu thần, sau đó là
phương đình, nơi tiến hành các nghi lễ, kết thúc bởi nhà thờ, kiến trúc lớn
nhất của tổng thể. Các hội quán đều được trang trí cầu kỳ, tỷ mỷ với bộ khung
gỗ được chạm trổ, sơn son thếp vàng, phần mái tô điểm các con thú bằng sành
tráng men nhiều màu. Ngày nay, các hội quán tuy đã bị thay đổi sửa chữa nhiều,
nhưng bộ khung gỗ vẫn bảo lưu được nhiều yếu tố gốc. Ngoài chức năng duy trì
sinh hoạt cộng đồng, hội quán còn một chức năng quan trọng khác, đó là tín
ngưỡng. Tùy theo tục quán tín ngưỡng của từng cộng đồng mà hội quán lấy cơ sở
để thờ phụng.
Trong năm hội quán ở Hội An, Phúc
Kiến là hội quán lớn nhất, nằm ở số 46 đường Trần Phú. Buổi ban đầu, nơi đây
chỉ là một ngôi chùa lợp tranh do người Việt dựng vào năm 1697 để thờ Phật.
Qua thời gian, ngôi chùa bị hư hỏng và người Việt không đủ khả năng để sửa chữa.
Những thương nhân Phúc Kiến mua lại ngôi chùa vào năm 1759 và sau nhiều lần
trùng tu, năm 1792 đổi thành Hội quán Phúc Kiến.[36][73] Công trình có kiến
trúc theo kiểu chữ Tam, kéo dài từ đường Trần Phú đến đường Phan Chu Trinh,
theo thứ tự: cổng tam quan, sân, hai dãy nhà Đông Tây, chính điện, sân sau và
hậu điện. Cổng tam quan của hội quán mới được xây dựng trong lần trùng tu lớn
đầu thập niên 1970.[74] Chiếc cổng có một hệ mái ngoạn mục gồm 7 mái lợp ngói
ống men xanh uốn lượn, xếp nối nhau thấp dần xuống, cân xứng giữa hai bên.
Phía cao của cổng, dưới tầng mái trên, một tấm bảng trắng có ghi ba chữ Hán
màu đỏ "Kim Sơn Tự". Phía dưới tầng mái dưới cũng có một tấm biển
đá xanh đề bốn chữ Hán màu đỏ "Hội quán Phúc Kiến". Hai bức tường
hai bên cổng tam quan ngăn cách sân trong của hội quán với một sân bên ngoài.
Phần chính điện của hội quán được trang trí những cây cột màu đỏ son, treo những
đôi liễn gỗ ca tụng Thiên Hậu Thánh Mẫu. Chính điện thờ tượng Quan Thế Âm Bồ
Tát đang ngồi thiền, phía trước là một lư hương lớn. Hai bên hương án sẽ thấy
hai bức tượng Thiên Lý Nhãn và Thượng Phong Nhĩ, hai vị thần phụ tá cho Thiên
Hậu cứu giúp các thuyền buôn người Hoa gặp nạn.[75] Tiếp theo chính điện,
băng qua sân sau sẽ tới hậu điện. Ở đây phần chính giữa được dành để thờ sáu
vị tướng nhà Minh người Phúc Kiến, bên trái là ban thờ 3 bà chúa Sanh Thai và
12 bà mụ, bên phải là ban thờ Thần Tài. Ngoài ra, hậu điện còn thờ những người
đã có công đóng góp tiền của xây dựng hội quán và chùa Kim Sơn.[76] Hàng năm,
vào ngày 23 tháng 3 âm lịch, lễ vía Thiên Hậu Thánh Mẫu được người Hoa tổ chức
với nhiều hoạt động như múa lân, bán pháo hoa, xộ cỗ, xin lộc... thu hút nhiều
người dân Hội An và những vùng khác đến tham dự.
Các hội quán ở Hội An
Tên gọi người Hoa Tên
gọi người Việt Địa điểm Chủ
nhân Khởi dựng
Phúc Kiến Chùa Kim An 46 Trần Phú Phúc Kiến 1792
Trung Hoa Chùa Ngũ Bang 64 Trần Phú Ngũ
Bang 1741
hay Dương Thương
Triều Châu Chùa Ông Bổn 92 Ng Duy Hiệu Triều Châu 1845
Quỳnh Phủ Chùa Hải
Nam 10 Trần Phú Hải Nam 1875
Quảng Đông Chùa Quảng Triệu 176 Trần Phú Quảng Đông 1885
Chùa Cầu
Cầu Nhật Bản
Phố cổ với Chùa Cầu phía sau
Chiếc cầu cổ duy nhất còn lại ở Hội
An ngày nay là Chùa Cầu, còn có tên gọi khác là Cầu Nhật Bản. Cây cầu này dài
khoảng 18 mét, bắc qua một lạch nước nhỏ chảy ra sông Thu Bồn, nối liền đường
Trần Phú với đường Nguyễn Thị Minh Khai.[79] Theo sự tích kể lại thì Cầu Nhật
Bản được xây dựng vào năm 1593, nhưng không có một cơ sở chính xác nào để khẳng
định điều này. Trong Thiên Nam tứ chí lộ đồ năm 1630, cái tên "Hội An Kiều"
và hình ảnh một cây cầu có mái đã xuất hiện.[16] Nhà sư Thích Đại Sán cũng nhắc
tới cái tên "Nhật Bản Kiều" trong cuốn Hải ngoại ký sự năm
1695.[80] Trải qua rất nhiều lần trùng tu, hình dáng cây cầu đã bị thay đổi
nhiều, dáng vẻ ngày nay được hình thành trong những lần sửa chữa vào thế kỷ
18 và 19. Những trang trí bằng mảnh sứ tráng men hay đĩa sứ là biểu hiện đặc
trưng của kiến trúc thời Nguyễn.
Cầu Nhật Bản có một kiến trúc khá độc
đáo, kiểu thượng gia hạ kiều, tức trên là nhà dưới là cầu, một loại hình kiến
trúc khá phổ biến ở những quốc gia châu Á nhiệt đới.[79] Dù mang tên Cầu Nhật
Bản nhưng sau nhiều lần trùng tu, thật khó có thể tìm thấy một chút dấu tích
kiến trúc Nhật Bản trên cây cầu này.[82] Nhìn từ bên ngoài, cây cầu nổi bật
nhờ hệ mái cong mềm mại nâng đỡ bởi một hệ thống kết cấu gỗ, và phần móng được
làm bằng vòm trụ đá. Mặt cầu vồng lên kiểu cầu vồng, được lát ván làm lối qua
lại, hai bên có bệ gỗ nhỏ, trước kia làm nơi bày hàng buôn bán. Gắn liền với
cầu về phía thượng nguồn là một ngôi chùa rất nhỏ thờ Huyền Thiên đại đế, xây
dựng sau cầu khoảng nửa thế kỷ. Ngôi chùa nằm ngay cạnh cầu, ngăn cách bởi một
lớp vách gỗ và bộ cửa "thượng song hạ bản", tạo không gian riêng biệt.
Trên cửa chùa treo bức hoành màu đỏ với ba chữ "Lai Viễn Kiều" do
chúa Nguyễn Phúc Chu ban tặng vào năm 1719 với ý nghĩa cây cầu của những người
bạn từ phương xa đến. Ở mỗi đầu cầu, hai bên lối đi đều có hai bức tượng thú,
một bên tượng khỉ, bên kia tượng chó. Các tượng đều được chạm bằng gỗ mít
trong tư thế ngôi chầu, phía trước mỗi tượng có một bát nhang.[79] Theo truyền
thuyết, con thủy quái Mamazu có đầu nằm ở Nhật Bản, đuôi ở Ấn Độ Dương và
thân thì ở Việt Nam, mỗi khi cựa mình sẽ gây ra động đất, thiên tai, lũ lụt.
Vì vậy những người Nhật đã xây dựng cây cầu cùng tượng Thần Khỉ và Thần Chó để
trấn yểm con quái vật. Một thuyết khác cho rằng những bức tượng khỉ và chó xuất
hiện trên cầu vì công trình này được khởi dựng vào năm Thân, hoàn thành vào
năm Tuất. Cây cầu nhỏ này ngày nay đã trở thành biểu tượng của thành phố Hội
An.
So với các đô thị khác của Việt
Nam, Hội An có những đặc điểm lịch sử và địa lý nhân văn rất riêng biệt. Mảnh
đất nơi đây có một lịch sử lâu đời và là nơi gặp gỡ, giao thoa của nhiều nền
văn hóa. Đặc điểm đầu tiên có thể nhận thấy ở văn hóa Hội An chính là tính đa
dạng. Những người Việt vào cư trú ở Hội An từ cuối thế kỷ 15 chung sống hòa
bình với bộ phận dân cư người Chăm vẫn định cư rất lâu từ trước đó. Khi Hội
An trở thành thương cảng quốc tế sầm uất, nơi đây đã tiếp nhận nhiều cư dân mới
đến từ nhiều nền văn hóa khác nhau.[83] Điều này giúp cho Hội An có được một
nền văn hóa nhiều tầng, nhiều lớp và đa dạng, thể hiện ở tất cả các hình thái
văn hóa phi vật thể như phong tục tập quán, văn học dân gian, ẩm thực, lễ hội...
Một đặc điểm nổi bật khác của văn hóa Hội An là tính bình dân. Khác với Huế,
kinh thành cũ, nơi nhiều di sản văn hóa mang tính chất cung đình, hệ thống di
tích của Hội An là những thiết chế văn hóa cổ truyền của cuộc sống đời thường.
Ở Hội An, văn hóa phi vật thể vẫn đang sống và tương thích với hình thái văn
hóa vật thể.
Tín ngưỡng
Hội quán Trung Hoa
Tại Hội An, bên cạnh tục thờ cúng
gia tiên, những người dân còn có tục thờ Ngũ tự gia đường. Theo quan niệm ở
đây, nước có vua nhà có chủ, thần chủ nhà chính là Ngũ tự gia đường. Phần
đông ý kiến cho rằng Ngũ tự gia đường là năm vị thần trong coi cai quản và sắp
đặt vận mệnh cho một gia đình, gồm thần Bếp, thần Giếng, thần Cổng, Tiên sư bổn
mạng và Cửu thiên huyền. Với một số ít người Hoa, Ngũ tự gia đường gồm năm vị
thần Táo quân, Môn thần, Hộ thần, Tỉnh thần và Trung Lưu thần. Khám thờ Ngũ tự
gia đường được đặt trang trọng ngay giữa nhà, trên bàn thờ gia tiên.[86] Thực
tế, trong các ngôi nhà ở Hội An, ngoài khám thờ chung, mỗi vị thần trong Ngũ
tự gia đường lại có nơi thắp hương riêng, như thần Táo được thờ ở bếp, thần Cổng
được thắp nhang nơi cổng, thần Giếng có ban thờ gần giếng... Đặc biệt, trong
các gia đình người Hoa, thay vì thờ Táo Quân trong bếp, họ lại đặt khám thờ
Táo Quân ở không gian sân trời, bên cạnh khám thờ thần Thiên quan tứ phước.[86]
Về tôn giáo, có thể thấy ở Hội An tồn tại nhiều tôn giáo khác nhau như Phật
giáo, Công giáo Rôma, Tin Lành, Cao Đài... nhưng Phật giáo vẫn chiếm đa số nhất.
Nhiều gia đình ở Hội An không theo Phật giáo những vẫn thờ Phật và ăn chay.
Những vị phật được thờ chủ yếu là Phật Bà Quan Âm và Thích Ca Mâu Ni, một số
gia đình còn thờ Tam thế phật, gồm Thích Ca Mâu Ni và hai vị Quân Âm Bồ Tát,
Thế Chí Bồ Tát. Trong mỗi nhà, khám thờ Phật được đặt nơi trang nghiêm, thanh
tịnh, thường cao hơn ban thờ gia tiên một bậc. Thậm chí có những gia đình
dành riêng một gian rộng để thờ Phật và làm nơi tụng niệm.
Một điểm khác biệt nữa trong tín
ngưỡng ở Hội An là tục thờ Quan Công, tuy ít gặp ở nông thôn nhưng đặc biệt
phổ biến ở thành thị.[87] Tuy hệ thống thần thánh được tôn thờ ở Hội An rất
đa dạng và phong phú, nhưng Quan Công lại được xem như vị thánh linh thiêng
nhất. Miếu thờ Quan Công được xây dựng ngay trong trung tâm khu phố cổ, trở
thành một trung tâm tín ngưỡng thiêng liêng, quanh năm hương khói nghi ngút.
Trong các gia đình, từ xa xưa người Hội An đã có quan niệm thờ Quan Công như
thờ một vị thần hộ mạng, bảo hộ cho sự bình an của gia đình. Trên khám thờ
Quan Công thường được đặt bộ tượng hoặc tranh Quan Công, Quan Bình cùng Châu
Thương.[88] Trong các di tích của người Hoa, đặc biệt là các hội quán, những
vị thần thánh được thờ tùy thuộc vào tín ngưỡng riêng của cộng đồng. Tại Hội
quán Phước Kiến, những người Hoa thờ Thiên Hậu Thánh mẫu, vị thần có nguồn gốc
Phước Kiến, cùng Lục tánh vương gia, sáu vị trung thần của nhà Minh. Những
người Hải Nam lập Hội quán Quỳnh Phủ thờ 108 vị Chiêu Ứng. Họ là 108 người
dân Hải Nam đi buôn bán trên biển, không may bị nạn, sau được triều Nguyễn sắc
phong làm Chiêu Ứng Công và ban thờ cúng.[89] Người Triều Châu có Hội quán
Triều Châu thờ vị thần chém sóng cứu nạn thuyền buôn trên biển Phục Ba Tướng
quân. Ở Hội An còn có những hình thức tín ngưỡng khác như thờ bà cô, ông
mãnh, vô danh vô vị, thờ đá bùa, đá thạch cảm đương.
Lễ hội truyền thống
Buổi tối ngày 11 tháng 5 năm 2006 ở
Hội An, tức 14 tháng 7 âm lịch
Ở Hội An hiện nay vẫn gìn giữ được
nhiều loại hình lễ hội truyền thống, như lễ hội kính ngưỡng thành hoàng làng,
lễ hội tưởng niệm những vị tổ sư ngành nghề, lễ hội kỷ niệm các bậc thánh
nhân, lễ hội tín ngưỡng tôn giáo. Quan trọng nhất chính là những lễ hội đình ở
các làng ven đô thị. Thông thường, mỗi làng đều có một ngôi đình để thờ thành
hoàng và các vị tiền hiên. Mỗi năm, thường vào đầu mùa xuân, các làng lại mở
lễ hội để kính ngưỡng vị thánh của làng mình và tưởng nhớ công lao các vị
tiên hiền. Công việc này thường do những người cao niên phụ trách, cứ đến kỳ
hạn họ bầu ra một ban tế lễ và dân làng cùng đóng góp kinh phí, tham gia vệ
sinh, trang hoàng đình miếu. Lễ cúng thường diễn ra trong hai ngày, ngày thứ
nhất chỉ làm lễ cáo yết, ngày thứ hai mới là ngày tế chính thức.[91] Vào dịp
rằm tháng giêng và rằm tháng bảy hàng năm, những người dân vùng Hội An tổ chức
lễ hội Long Chu tại các đình làng. Dịp tổ chức lễ hội chính là hai thời điểm
chuyển từ mùa mưa sang mùa khô và ngược lại, khoảng thời gian dịch bệnh thường
xảy ra. Trong suy nghĩ của dân gian, các dịch bệnh cho những thế lực thiên
nhiên xấu xa mang tới, vì vậy tất cả mọi người trong làng, không trừ một ai,
đều tham gia vào lễ hội. Vào ngày lễ chính, toàn thể dân làng rước Long Chu,
một chiếc thuyền làm theo hình rồng, về đình và người chủ bái cùng thầy phù
thủy sẽ khai quan điểm nhãn cho Long Chu. Sau nhiều nghi lễ cúng tế, buổi tối
các tráng đinh đưa Long Chu đến những nơi cần yểm và sau đó mang đốt rồi thả
ra biển.
Tại các làng chài ven sông, biển của
Hội An, đua ghe là một sinh hoạt văn hóa không thể thiếu, thường diễn ra
trong dịp mừng xuân từ mùng 2 đến mùng 7 tháng giêng, cầu ngư vào rằm tháng
hai và cầu an vào khoảng trung tuần tháng ba âm lịch. Theo quan niệm dân
gian, đua ghe là dịp làm vui lòng các thánh thần thượng sơn hạ thủy và những
đấng khuất mặt đã phù hộ cho thôn xóm được bình yên. Trước mỗi cuộc đua ghe,
các làng xã náo nhiệt chuẩn bị, tập luyện. Chiến thắng trong các cuộc đua là
niềm tự hào của dân làng và mang ý nghĩa mang lại một vận may trong mùa màng
sắp tới. Trước đây, trong hội đua ghe, các yếu tố lễ, hội đều được xem trọng,
nhưng ngày nay, phần hội thường nổi trội hơn và đọng lại lâu trong tâm thức mọi
người.[93] Cũng vào dịp cầu ngư hàng năm, dân cư các làng chài Hội An còn tổ
chức lễ tế cá Ông, tri ân cá Ông đã cứu giúp những người hoạn nạn trên biển.
Trong những lễ tế này, thường có hoạt động hát bả trạo, một loại hình văn nghệ
dân gian độc đáo, miêu tả lại cảnh sinh hoạt, lao động trên sông nước. Và giống
như các địa phương khác ở ven biển miền Trung, mỗi dịp cá Ông chết trôi dạt
vào bờ, ngư dân thường tổ chức chôn cất, cúng tế rất linh đình.
Từ năm 1998, chính quyền Hội An bắt
đầu tổ chức Lễ hội đêm rằm phố cổ vào mỗi đêm 14 âm lịch hàng tháng. Ý tưởng
độc đáo này xuất phát từ mong ước của kiến trúc sư Ba Lan Kazimier
Kwiatkowski, người đã dành nhiều công sức trong việc bảo tồn hai di sản Hội
An và Mỹ Sơn. Trong dịp lễ hội, thời gian từ 17 đến 22 giờ, tất cả các ngôi
nhà, hàng quán, tiệm ăn đều tắt điện, toàn bộ khu phố chìm trong ánh sáng của
trăng rằm và những ngọn đèn lồng. Trên các con phố, những phương tiện giao
thông tạm thời bị cấm, chỉ dành cho người đi bộ. Tại các điểm di tích, nhiều
hoạt động ca nhạc, trò chơi dân gian, thi đấu cờ tướng, đành bài chòi, thả
hoa đăng... được tổ chức. Khi các ngày lễ lớn khác trùng vào đêm rằm, các hoạt
động văn hóa sẽ phong phú hơn với những vũ hội hóa trang, vịnh thơ Đường, múa
lân... Khách du lịch đến Hội An vào dịp đêm rằm sẽ được sống trong một không
gian đô thị từ những thế kỷ trước.[94]
Âm nhạc, diễn xướng và trò chơi dân
gian
Những hình thức diễn xướng, trò
chơi dân gian ở Hội An kết tinh từ quá trình lao động của cư dân địa phương,
ngày nay vẫn được gìn giữ và là một phần quan trọng trong đời sống tinh thần
nơi đây. Có thể kể đến những điệu hát hò khoan, các điệu hò giựt chì, hò kéo
neo, những điệu lý, vè, các hình thức hát tuồng, bả trạo, hô thai, hô bài
chòi... Hội An còn có truyền thống về diễn tấu cổ nhạc trong các dịp hội hè,
tang ma hiếu hỉ, và truyền thống ca nhạc tài tử với những nghệ nhân khá nổi
tiếng.[95] Những người dân ở đây cũng có rất nhiều thú chơi, tiêu biểu có thể
kể đến trò bài tới, trò đỗ xăm hường, trò thai đề xổ cử nhân, trò thả thơ,
trò chơi thư pháp.
Bài chòi, một thú giải trí đậm nét
văn hóa của người dân xứ Quảng và cả vùng duyên hải miền Trung, vẫn được diễn
đều đặn vào mỗi tối 14 âm lịch hàng tháng trên khuôn viên nhỏ ở góc đường
Nguyễn Thái Học và Bạch Đằng. Nếu theo đúng thể thức, trong trò chơi bài chòi
sẽ có khoảng 10 chiếc chòi được dựng, mỗi chòi sẽ được phát ba quân bài trên
đó ghi những chữ khác nhau. Bộ bài này được gọi là bộ bài tới, in theo lối mộc
bản trên giấy gió, phủ qua một lớp điệp rồi bồi thêm giấy cứng, mặt sau phết
màu đỏ, xanh lá cây hoặc xanh xám. Ở chòi trung tâm có một ống thẻ đựng bài
cái. Khi tiếng trống hội đã dứt, những người chơi đã vào chòi con, tay cầm
quân bài, anh hiệu sẽ bước đến ống thẻ, xóc đi xóc lại rồi rút ra một quân
bài. Mỗi lần rút, anh hiệu lại hô lên những tiếng, ví dụ như "ông ầm",
"tam quăn", "tứ cẳng"... chòi nào có đúng quân bài đó sẽ
gõ ba tiếng mõ và nhận được một lá cờ từ anh lính lệ. Khi chòi nào nhận được
đủ ba cờ thì sẽ hô "Tới". Một hồi mõ kép dài, ở chòi trung tâm tiếng
trống tum, trống cán sẽ vang lên.[96] Trong trò bài chòi, tiếng hô của anh hiệu
là cốt lõi của trò chơi. Anh hiệu phải là người thuộc những bài truyền khẩu
dân gian cộng với tài ứng tác, để nội dung cuộc chơi luôn bất ngờ. Thay vì chỉ
hô tên con bài, anh hiệu có thể hô một hay nhiều câu lục bát ứng tác bát có
liên quan đến con bài. Hô bài chòi là một hình thức diễn xướng mang đậm nét
dân dã, điểm hấp dẫn chính của trò chơi.
Một hình thức diễn xướng dân gian
có vai trò rất lớn trong đời sống tinh thần, tâm linh của cư dân vùng biển Hội
An là hát bả trạo.[98] Trình tự một buổi biểu diễn bả trạo có kết cấu như một
hoạt cảnh thể hiện những diễn biến từ khi con thuyền ra khơi cho đến khi cập
bến an toàn.[99] Bả trạo thuộc thể loại dân ca lễ nghi, có sự kết hợp với
hình thức diễn tuồng, một loại hình sân khấu rất được người dân Quảng Nam yêu
thích. Ngoài lối múa hát chèo thuyền đã được nghệ thuật hóa, lối hát trong bả
trạo còn có lối xướng, hô và trình diễn các điệu dân ca như hò, lý, ngâm,
hát... được thể hiện qua tài năng của các nghệ nhân tạo nên sự hấp dẫn với
người xem.[98] Trong lễ hội nghinh Ông, hát bả trạo thể hiện sự thành kính,
thương tiếc cá Ông "Ngọc Lân Nam Hải", vị thần cứu giúp ngư dân
trong cơn hoạn nạn trên biển, đồng thời cũng thể hiện mong ước bình yên trước
cảnh sóng nước mênh mông, bão tố rập rình. Những cư dân Hội An còn dùng diễn
xướng bả trạo làm nghi thức trong tang lễ những người dân ven biển, than khóc
số phận người xấu số, ca ngợi công đức người đã khuất.
Một nhà hàng trong phố cổ
Với vị trí vùng cửa sông ven biển,
nơi gặp nhau của các tuyến giao thông đường thủy và cũng là nơi hội tụ về
kinh tế, văn hóa liên tục trong nhiều thế kỷ, Hội An có được một nền ẩm thực
đa dạng và mang những sắc thái riêng biệt.[100] Vùng đất nơi đây không có được
những cách đồng rộng lớn như đồng bằng sông Cửu Long hay đồng bằng sông Hồng,
nhưng bù lại Hội An có các cồn bãi ven sông màu mỡ và những thửa ruộng hẹp
giàu phù sa. Môi trường sông biển này đã ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống
hàng ngày, phong tục tập quán, lối sống của cư dân địa phương, trong đó có
thói quen ẩm thực. Trong bữa ăn hàng ngày của người dân Hội An, thủy hải sản
luôn chiếm một phần lớn, còn ngoài chợ, số lượng tôm cua cá được tiêu thụ thường
gấp đôi số lượng thịt. Cá trở thành một món ăn không thể thiếu trong khẩu phần
hàng ngày của dân cư Hội An và người ta quen gọi khu vực bày bán thức ăn là
chợ cá. Ngày nay tại Hội An vẫn lưu truyền một số thói quen, tập quán ẩm thực
của một số gia đình người Hoa. Vào những dịp lễ tết, các dịp hôn hỉ, họ thường
nấu một số món ăn riêng như bún xào Phước Kiến, cơm Dương Châu, kim tiền kê,
phạch xồi... để cùng nhau thưởng thức, cũng là dịp nhớ lại nguồn gốc dân tộc.
Những người Hoa đã góp phần đáng kể làm nên sự phong phú của ẩm thực Hội An,
cũng là tác giả của nhiều món đặc sản chỉ có ở đây.
Một trong những món ăn tiêu biểu và
nổi tiếng nhất của ẩm thực Hội An là món cao lầu. Nguồn gốc món ăn, cùng như
cái tên Cao lầu, ngày nay rất khó xác định. Những Hoa kiều ở Hội An không
công nhận đây là món ăn của họ. Một số nhà nghiên cứu Nhật Bản cho rằng cao lầu
có nét giống món mỳ ở vùng Ise, nhưng trên thực tế hương vị và cách chế biến
của cao lâu khác món mỳ này.[104] Sợi cao lầu được chế biến rất công phu. Người
ta ngâm gạo và nước trong được lọc kỹ, sau đó xay thành nước bột. Bột được
dùng vải bòng nhiều lần để khô, dẻo rồi cán thành miếng vừa cỡ và cắt thành
con mỳ. Cao lầu không cần nước lèo, nước nhân, thay vào đó là thịt xíu, nước
xíu, tép mỡ và để bớt béo người ta dùng kèm với giá trụng, rau sống. Khi bán,
người ta trần mỳ, giá đổ ra bát và thêm mất lát thịt xíu hoặc thịt ba chỉ, đổ
tép mỡ, thêm một muỗng mỡ heo rán sẵn ở lò bên.[105] Trước đây ở Hội An có
các tiệm cao lầu ông Cảnh, Năm Cơ rất nổi tiếng, từng đi vào câu ca dao: Hội
An có Hạ Uy Di. Chùa Cầu, Âm Bổn, cao lầu Năm Cơ.
Cao lầu, một món ăn nổi tiếng của Hội
An
Bên cạnh những món đặc sản mang
tính phố thị như cao lầu, hoành thánh, bánh bao, bánh vạc... Hội An còn có
nhiều món ăn dân dã hấp dẫn như bánh bèo, hến trộn, bánh xèo, bánh tráng...
và đặc biệt là mì Quảng. Đúng như tên gọi, món mỳ này có nguồn gốc xuất phát
từ Quảng Nam. Mỳ Quảng cũng như phở, bún đều được chế biến từ gạo nhưng lại
có sắc thái và hương vị rất riêng biệt.[107] Để làm mỳ, người ta dùng gạo tốt
ngâm nước cho mềm, đem xay thành bột nước mịn rồi pha thêm phèn sa để sợi mỳ
giòn, cứng, đem tráng thành lá mỳ. Khi mỳ chín được vớt ra đặt lên vỉ cho nguội,
thoa sơ một lớp mỡ cho mỳ khỏi dính rồi cắt thành sợi. Nước nhân mỳ được làm
bằng tôm, thịt lợn hoặc thịt gà, có khi được làm bằng cá lóc, thịt bò. Nước
nhân mỳ không cần nhiều màu mè, không nhiều gia vị mà phải trong và có vị ngọt.[108]
Ở Hội An, mỳ Quảng được bán khắp nơi, từ các quán ăn thành thị đến những hàng
quán ở thôn quê, đặc biệt là những quán mỳ trên hè phố.
Bánh bao, bánh vạc là một trong những
món ăn sang trọng, nổi tiếng ngon và lạ của phố cổ Hội An. Bánh bao, bánh vạc
thường đi đôi với nhau, cả hai đều được làm bằng nguyên liệu chính là bột gạo.
Ngay từ khâu chọn gạo đã thấy bánh bao bánh vạc là loại bánh kén chọn nguyên
liệu. Bột gạo làm bánh phải lấy từ loại gạo thơm ngon, mua về sàng sảy kỹ rồi
cho vào nước và xay thành bột.[110] Nước dùng để xay phải trong, không nhiễm
mặn, nhiễm phèn, thường là nước từ giếng cổ Bá Lễ. Sau nhiều lần chắt lọc, bột
được vê lại và để trong một chiếc thau sạch. Cùng với việc chế biến bột, người
thợ tiến hành làm nhân bánh, gia chế hành, khử vàng hành dùng trải trên bánh
trước khi ăn. Nhân bánh được chia làm hai loại, nhân bánh bao và nhân bánh vạc.
Nhân bánh bao chủ yếu gồm tôm và gia vị được pha trộn và giã nhiều lần trong
cối. Nhân bánh vạc hơi khác và phong phú hơn, ngoài chả tôm còn có giá hột, nấm
mèo, măng tre, thịt heo thái hình hạt lựu, lá hành. Tất cả hỗn hợp nhân này
được cho vào xoong và xào với muối, mắm. Bắt đầu vào công đoạn chế biến bánh,
cả bánh bao và bánh vạc được làm song song, thường có từ 2 đến 4 thợ làm
bánh. Bánh bao được làm với lớp bột thật mỏng, cách điệu như những cánh hoa hồng.
Bánh vạc lớn hơn bánh bao, trông giống hình quai vạc. Khi làm xong, bánh được
chưng cách thủy trên bếp, khoảng chừng 10 đến 15 phút là chín. Lúc ăn, hai loại
bánh được dùng chung với nhau, nhưng thực khách có thể chọn bánh bao bánh vạc
tùy thích. Những chiếc bánh được bày cầu kỳ, bánh bao xếp ở giữa và bên trên,
bánh vạc xếp xung quanh và bên dưới. Bánh xếp xong được trải lớp hành phi
vàng, kế đó rưới thêm một muỗng dầu phụng khử chín. Bánh bao, bánh vạc được
dùng với nước chấm riêng, pha chế từ nước mắm, có vị ngọt của thịt tôm, có vị
chua của chanh và vị cay nồng của những lát ớt vàng được xắt khéo léo.
Không chỉ có những món ăn ngon,
phong phú, các hàng quán ở Hội An còn có cách bài trí, phục vụ mang những nét
riêng. Những nhà hàng trong khu phố cổ thường treo một vài bức tranh xưa,
xung quanh trang trí chậu hoa, cây cảnh hoặc đồ mỹ nghệ. Một số hàng quán còn
có thêm hồ cá, hòn non bộ... tạo sự thư giãn, thoải mái cho thực khách. Tên
những nhà hàng cũng mang tính truyền thống, được kế thừa từ đời này sang đời
khác. Bên cạnh ẩm thực truyền thống, một số món ăn, thói quen xuất phát từ
Pháp, Nhật và phương Tây vẫn được duy trì và phát triển, góp phần làm phong
phú nếp ẩm thực của Hội An, phục vụ nhu cầu đa dạng của những du khách.
Nguồn: wikipedia
Theo http://trieuxuan.info/
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét